1.400ha lúa đông xuân muộn ngoài kế hoạch bị nhiễm mặn
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
Đến nay, Sóc Trăng đảm bảo nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt, tuy nhiên diện tích lúa đông xuân muộn nằm ngoài kế hoạch của địa phương có nguy cơ bị ảnh hưởng.
Ông Trần Văn Lâu, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng vừa có chuyến khảo sát, kiểm tra tình hình hạn mặn tại huyện Kế Sách, Long Phú, Trần Đề. Đây là những địa phương nằm trong vùng lõi đang chịu ảnh hưởng do xâm nhập mặn.
Thống kê của ngành chuyên môn, đến thời điểm này nguồn nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của các địa phương vẫn đảm bảo. Bà con đang tranh thủ nồng độ mặn giảm để lấy nước tích trữ vào đồng ruộng, mương vườn.
Nằm ven sông Hậu, huyện Kế Sách có điều kiện tự nhiên phù hợp sản xuất 3 vụ lúa/năm và trồng cây ăn trái. Bắt đầu từ cuối tháng 12/2023, nước mặn đã bắt đầu xâm nhập vào địa bàn. Đến nay, địa phương đã ghi nhận 4 đợt xâm nhập mặn với độ mặn cao nhất tại vàm Nhơn Mỹ là 6,7‰.
Nhờ đẩy nhanh tiến độ, xuống giống sớm vụ đông xuân muộn theo lịch khuyến cáo. Bên cạnh đó, địa phương tổ chức các nhóm đo mặn, hỗ trợ thiết bị đo mặn cho tất cả các xã, thị trấn. Lập nhóm zalo theo dõi diễn biến mặn, hướng dẫn các biện pháp canh tác trong điều kiện hạn mặn trên lúa và cây ăn trái.
Từ đó, theo nhận định của Phòng NN-PTNT huyện Kế Sách, trên địa bàn chưa có biểu hiện thiệt hại do hạn, mặn. Tuy nhiên khu vực ấp Cây Sộp, Bồ Đề thuộc vùng cuối nguồn, nước mặn không thoát ra được có nguy cơ sẽ bị ảnh hưởng khoảng 30ha lúa.
Riêng đối với trà lúa đông xuân muộn, diện tích xuống giống nằm ngoài kế hoạch trong toàn tỉnh trên 9.400 ha. Tập trung tại các huyện Long Phú, Mỹ Xuyên, Trần Đề và TP Sóc Trăng. Phần lớn lúa đang trong giai đoạn đòng và trổ chín. Dự kiến sẽ thu hoạch tập trung từ ngày 10 – 20/4 và kết thúc thu hoạch trong tháng 5.
Thống kê từ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Sóc Trăng, đến thời điểm này, diện tích lúa bị khô hạn, thiếu nước do mặn xâm nhập ghi nhận khoảng 1.400ha, chủ yếu tại các trà lúa giai đoạn đẻ nhánh của huyện Long Phú và Trần Đề. Trong đó, diện tích lúa bị ảnh hưởng thiệt hại dưới 30% chiếm trên 906ha; từ 30 – 70% là gần 459ha và diện tích ảnh hưởng trên 70% gần 39ha.
Trước thực trạng này, ông Trần Văn Lâu yêu cầu Sở NN-PTNT tỉnh trong giai đoạn mẫn cảm này và về lâu dài cần xác định tài nguyên nước rất quý giá.
“Tỉnh Sóc Trăng xác định nông nghiệp vẫn là trụ cột, kinh tế chính của tỉnh đến năm 2030. Do đó, ngành nông nghiệp phải tính đến những phương án lâu dài đảm bảo nguồn nước sinh hoạt và sản xuất. Tuyên truyền cho người dân nhận thức về giá trị của tài nguyên nước”, Chủ tịch Lâu nhấn mạnh.
Mặt khác, ông Lâu chỉ đạo ngành nông nghiệp tỉnh kiểm tra lại hệ thống thông tin liên lạc để tuyên truyền đến người dân tiết kiệm nước. Trong đó, khuyến khích nông dân thiết kế, ứng dụng hệ thống tưới tiêu tự động. Bởi đây là mô hình đã chứng minh được hiệu quả cao từ các đợt hạn mặn vừa qua.
Ngoài ra, rà soát lại hệ thống các cống, những cống nào cần duy tu, sửa chữa để trữ nước ngọt phải có phương án thực hiện ngay. Trước mắt, về phía các huyện, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng yêu cầu ngành chuyên môn khảo sát lại hệ thống kênh mương, đảm bảo nạo vét thông thoáng để trữ nước ngọt. Nhất là vận động người dân cùng tham gia chuẩn bị tích trữ nước ngọt trong ao hồ phục vụ cho tưới tiêu. Bên cạnh đó, quan trắc, đo độ mặn thường xuyên để kịp thời thông báo cho người dân lấy nước vào dự trữ ngay khi độ mặn giảm xuống mức phù hợp.
Trước đó, Sở NN-PTNT tỉnh Sóc Trăng đã chỉ đạo Chi cục Thủy lợi tỉnh phân công cán bộ trực 24/24 đo độ mặn, khi có nước ngọt, tiến hành mở cống để lấy nước phục vụ sản xuất.
Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật chủ động bố trí cán bộ huyện và nhân viên tại các xã nắm diễn biến xâm nhập mặn và hướng dẫn bà con nông dân các giải pháp kỹ thuật để hạn chế ảnh hưởng đến cây lúa.
Thời điểm này, khi phát hiện cây lúa có biểu hiện ngộ độc mặn như chóp lá bị cháy, khô đọt non, chết cây… bà con phải tiến hành bón vôi (CaO) với lượng thích hợp, giữ nước 2 – 3 ngày, sau đó rút cạn nước trong ruộng và tiến hành đưa nước ngọt vào.
Th327
Vùng đất thiếu mưa, thừa nắng ấm no nhờ ‘vua rau’
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
NINH THUẬN Với sản phẩm chủ lực là măng tây xanh, HTX Châu Rế đã giúp người Chăm ở địa phương từng bước thay đổi nếp nghĩ, cách, làm giàu trên vùng đất thiếu mưa, thừa nắng.
Tận dụng tiềm năng và lợi thế có sẵn là vùng đất cát, chủ động áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác, những năm gần đây, diện tích trồng măng tây – cây được mệnh danh “vua của các loại rau” tại xã Phước Hải (huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều gia đình đã mạnh dạn lựa chọn cây măng tây để canh tác, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội ở địa phương.
Hợp tác xã (HTX) Châu Rế (thôn Thành Tín, xã Phước Hải, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) do bà Châu Thị Xéo (dân tộc Chăm) thành lập năm 2018 gồm 37 thành viên, số vốn ban đầu 111 triệu đồng, tổng diện tích trồng măng tây trên 15ha. Đến nay, HTX đã phát triển lên 82 thành viên, tổng kinh phí hoạt động 219 triệu đồng, tổng diện tích đất trồng măng tây xanh ở cánh đồng lớn là 20ha.
Hiện nay, HTX Châu Rế nhận thu mua toàn bộ sản lượng măng tây xanh mỗi ngày của xã viên ở làng Chăm thôn Thành Tín và bà con nông dân lân cận với giá bao tiêu sản phẩm ổn định từ 50.000 đồng/kg, tổng sản lượng măng tây xanh mà HTX xuất bán mỗi ngày từ 300 – 700kg. Cây măng tây đã mang lại thu nhập ổn định cho người trồng và duy trì hoạt động thường xuyên với 10 lao động người ở HTX.
Măng tây xanh được xem là cây trồng đặc thù của tỉnh Ninh Thuận, đã được phát triển theo chuỗi giá trị và đạt chuẩn OCOP từ 3 sao đến tiềm năng 5 sao, mở ra nhiều triển vọng mới giúp nông dân phát triển kinh tế gia đình. Những năm qua, HTX Châu Rế đã hỗ trợ tiền giống, vật tư nông nghiệp, hướng dẫn kỹ thuật trồng măng tây theo tiêu chuẩn VietGAP cho nông dân, đồng thời kiểm tra, giám sát và thu mua toàn bộ sản phẩm.
Gia đình chị Từ Thị Ngọc Tuyết, thành viên HTX cho hay, trước đây 2 sào đất rẫy của gia đình trồng nhiều loại cây khác nhau nhưng do đất cát pha, lại thiếu nước tưới nên năng suất thấp, thu nhập rất bấp bênh. Được HTX vận động, gia đình mạnh dạn đầu tư khoan giếng, đồng thời lắp đặt hệ thống tưới nước tiết kiệm và chuyển toàn bộ diện tích đất rẫy sang trồng măng tây xanh.
Chị tuyết chia sẻ: “Cây măng tây khá dễ trồng, chỉ cần bón phân theo định kỳ, hàng ngày cần tưới nước, nhổ cỏ, kiểm tra sâu bệnh, buổi sáng hái măng, thu hoạch liên tục trong vòng 3 tháng, nghỉ một tháng để dưỡng cây. Đến nay, vườn măng tây xanh cho thu hoạch ổn định, bình quân mỗi ngày trên 20kg măng, có thời điểm vườn cho thu hoạch 35kg măng/ngày, HTX thu mua với giá 50.000 đồng/kg, cho doanh thu hơn 1 triệu đồng/ngày. Gia đình hiện đang mở rộng diện tích trồng măng tây xanh lên thêm 3 sào trong năm nay”.
Thị trường tiêu thụ chủ yếu của măng tây xanh vẫn là xuất khẩu sang Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản… Các hộ trồng măng tây xanh đa phần được các HTX trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận thu mua với giá ổn định, các HTX tiếp cận thị trường xuất khẩu qua các công ty thu mua xuất khẩu. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ trong nước cũng rất rộng mở
Cùng với tiếng vang “vua của các loại rau”, lại an toàn, tốt cho sức khoẻ, sản phẩm măng tây xanh rất được các nhà hàng, quán ăn và người tiêu dùng ưa chuộng, tin dùng. Riêng từ đầu năm 2024 đến nay, sản lượng măng tây xanh tại HTX Châu Rế ước khoảng 40 tấn, giá trị khoảng trên 2 tỷ đồng. Để nâng cao hiệu quả, HTX đã quan tâm xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm rộng rãi trên thị trường.
Với sản phẩm chủ lực là măng tây xanh, HTX Châu Rế đã giúp các hộ đồng bào người Chăm ở địa phương từng bước thay đổi nếp nghĩ, cách làm, thêm đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, áp dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuât trong quá trình canh tác và làm giàu trên vùng đất thiếu mưa, thừa nắng Phước Hải.
Th326
World Bank đặt vấn đề mua thêm 1 triệu tín chỉ các bon
Nguồn tin : Báo nông nghiệp
Lượng tín chỉ mua thêm nằm trong 5,9 triệu tín chỉ vượt trội mà Việt Nam đã thực hiện tại khu vực Bắc Trung bộ, trong giai đoạn từ năm 2018 đến 2019.
Ngân hàng Thế giới (World Bank) xác nhận đã chi trả đầy đủ 51,5 triệu USD cho Việt Nam vì các kết quả giảm phát thải đã được xác minh (tín chỉ các bon) do hạn chế được mất rừng và suy thoái rừng (thường được gọi là REDD+) và tăng cường lưu trữ các bon thông qua trồng và tái tạo rừng.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở khu vực Đông Á Thái Bình Dương nhận được khoản thanh toán dựa trên kết quả giảm phát thải từ Quỹ Đối tác Các bon Lâm nghiệp (FCPF) của World Bank.
Khoản chi trả này đã được chuyển do Việt Nam giảm được 10,3 triệu tấn phát thải các bon trong giai đoạn từ ngày 1/2/2018 đến 31/12/2019. Theo World Bank, đây là khoản chi trả đơn lẻ lớn nhất từ Quỹ FCPF cho các tín chỉ các bon.
Dự kiến khoản tiền này sẽ mang lại lợi ích cho hơn 70.000 chủ rừng và gần 1.500 cộng đồng sống gần rừng, được chia theo kế hoạch chia sẻ lợi ích rộng rãi được xây dựng qua quá trình tham vấn minh bạch với nhiều bên tham gia.
Trên cơ sở những kết quả đạt được, World Bank đã thông báo cho Việt Nam việc thực hiện quyền mua thêm 1 triệu tín chỉ các bon, ngoài số lượng hợp đồng đã thanh toán.
Nguyên nhân là do chương trình thực hiện tại vùng dự án đã tạo ra 16,2 triệu tín chỉ các bon trong giai đoạn 2018 – 2019, cao hơn 5,9 triệu so với khối lượng 10,3 triệu trong thỏa thuận chi trả giảm phát thải mà Việt Nam đã ký với Quỹ FCPF.
Việt Nam có thể bán số lượng tín chỉ các bon vượt trội này cho bên thứ ba thông qua các hiệp định song phương hoặc thị trường các bon. Một phương án khác, là Việt Nam sử dụng các kết quả giảm phát thải vượt trội này cho Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), hoặc giữ lại cho các mục tiêu về khí hậu.
Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia World Bank tại Việt Nam cho biết: “Khoản chi trả mang tính bước ngoặt này đánh dấu một bước nữa để Việt Nam tham gia thị trường tín chỉ các bon toàn cầu và mở ra một cơ hội mới để tài trợ cho các cam kết và mục tiêu khí hậu đầy tham vọng của quốc gia”.
Thống kê của Quỹ FCPF cho thấy, chương trình giảm phát thải của Việt Nam đã bao phủ 3,1 triệu trong số 5,1 triệu ha đất trong khu vực thực hiện chương trình.
Những khu rừng này có tầm quan trọng về sinh thái, bao gồm 5 hành lang bảo tồn đã được quốc tế công nhận. Khu vực này cũng là nơi sinh sống của 12% dân số Việt Nam, bao gồm 13 nhóm dân tộc thiểu số và nhiều cộng đồng sinh sống phụ thuộc vào rừng và gần một phần ba dân số trong khu vực sống dưới mức nghèo của quốc gia.
Thông qua việc cải thiện quản lý rừng, đầu tư vào lĩnh vực lâm nghiệp và tăng cường các chính sách nông nghiệp, chương trình giúp tăng cả phạm vi và chất lượng che phủ rừng với sự hợp tác của cộng đồng địa phương.
Được thành lập năm 2008, Quỹ FCPF đã hỗ trợ cho nhiều chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức xã hội dân sự và các tổ chức của người bản địa tập trung vào việc giảm phát thải do mất rừng và suy thoái rừng, bảo tồn trữ lượng các bon rừng, quản lý rừng bền vững và tăng cường trữ lượng các-bon rừng ở các nước đang phát triển.
Nhóm hoạt động này, thường được gọi là REDD+, đã được Quỹ FCPF triển khai tại 47 quốc gia đang phát triển tại châu Phi, châu Á, Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, cùng 17 nhà tài trợ đã đóng góp và cam kết với tổng trị giá 1,3 tỷ USD.
Việt Nam có tiềm năng lớn về thị trường các bon cũng như khai thác các giá trị về đa dạng sinh học. Một trong số đó là rừng ngập mặn thuộc Vườn quốc gia Xuân Thủy, tỉnh Nam Định.
So với rừng trên cạn, rừng ngập mặn có khả năng hấp thụ các bon cao gấp 4 lần. Không những vậy, vùng đất ngập nước này còn nằm trên đường bay của chim di cư từ phương Bắc. Từ khoảng tháng 10 đến tháng 4 hàng năm, nhiều loài chim quý hiếm như cò mỏ thìa, rẽ mỏ thìa, cò trắng Trung Quốc… lại tìm đến vùng đất nằm trên huyện Giao Thủy.
Vườn quốc gia Xuân Thủy có hơn 10 kiểu sinh cảnh, nhưng có giá trị đa dạng sinh học cao nhất là các bãi bồi và rừng ngập mặn tự nhiên.
Th326
30 lô hàng sầu riêng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc nhiễm cadimi vượt ngưỡng
Nguồn tin: báo tuổi trẻ
Tổng cục Hải quan Trung Quốc cảnh báo và yêu cầu điều tra nguyên nhân 30 lô hàng sầu riêng Việt Nam xuất khẩu sang nước này nhiễm cadimi vượt ngưỡng quy định.
Trao đổi với Tuổi Trẻ Online, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) Huỳnh Tấn Đạt xác nhận đơn vị vừa có công văn gửi một số địa phương, các doanh nghiệp và các chi cục kiểm dịch thực vật về việc truy xuất các lô hàng sầu riêng xuất khẩu sang Trung Quốc.
Theo công văn ngày 18-3, Cục Bảo vệ thực vật đã nhận được thông tin cảnh báo từ Vụ Kiểm dịch động – thực vật, Tổng cục Hải quan Trung Quốc về việc 30 lô hàng sầu riêng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc bị nhiễm kim loại nặng cadimi vượt mức giới hạn quy định an toàn thực phẩm của Trung Quốc.
Theo yêu cầu của Tổng cục Hải quan Trung Quốc và quy định của Việt Nam về truy xuất an toàn thực phẩm đối với các lô hàng bị cảnh báo, Cục Bảo vệ thực vật đề nghị 30 doanh nghiệp vi phạm phải tuân thủ các nội dung quy định tại thông tư số 17-2021 về truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Tổ chức thực hiện các hành động khắc phục và áp dụng các biện pháp ngăn chặn tránh tái diễn vi phạm và gửi báo cáo kết quả thực hiện truy xuất và các biện pháp khắc phục về Cục Bảo vệ thực vật trước ngày 1-4.
Cục Bảo vệ thực vật cũng đề nghị Sở An toàn thực phẩm TP.HCM và sở nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh Tiền Giang, Lạng Sơn, Đồng Nai, Đắk Lắk, TP Hà Nội chỉ đạo cơ quan chuyên môn đôn đốc, giám sát các doanh nghiệp nêu trong danh sách thực hiện truy xuất các lô hàng bị cảnh báo.
Thẩm tra báo cáo về nguyên nhân lô hàng bị cảnh báo và biện pháp khắc phục của doanh nghiệp.
Rà soát điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có lô hàng bị cảnh báo theo quy định của pháp luật và gửi kết quả kèm theo hồ sơ liên quan về Cục Bảo vệ thực vật để có cơ sở phản hồi tới Tổng cục Hải quan Trung Quốc trước ngày 3-4, tránh việc nước nhập khẩu có các kết luận ảnh hưởng tới xuất khẩu nông sản.
Nhiều lô hàng sầu riêng không đáp ứng đúng theo yêu cầu
Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng Việt Nam sang Trung Quốc đạt hơn 2 tỉ USD nhưng nước này cũng cảnh báo nhiều lô hàng sầu riêng vẫn còn sinh vật gây hại, chưa được làm sạch sâu bệnh, không đáp ứng đúng theo yêu cầu của nghị định thư đã ký.
Sau đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải tổ chức hội nghị để chấn chỉnh vấn đề vi phạm quy định trong xuất khẩu trái cây nói chung và sầu riêng nói riêng.
Chí Tuệ
Th318
Trung Quốc sử dụng công nghệ cải tiến nhân giống sinh học, giống cây trồng
Nguồn tin: báo nông nghiệp
Trung Quốc đẩy mạnh ngành công nghiệp nhân giống sinh học thông qua các phương pháp khoa học công nghệ vào các sản phẩm nông nghiệp, mang lại ổn định cho nước này.
Trung Quốc đẩy mạnh ngành công nghiệp nhân giống sinh học thông qua các phương pháp khoa học và công nghệ, đóng góp to lớn vào nguồn cung ngũ cốc và các sản phẩm nông nghiệp quan trọng khác, mang lại ổn định cho đất nước.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc kiên quyết thúc đẩy quá trình hồi sinh ngành hạt giống và đạt được một số bước đột phá.
Theo số liệu thống kê mới nhất của Bộ Nông nghiệp và Nông thôn cùng Viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, quốc gia này đã độc lập nhân giống ba giống gà thịt lông trắng mới, qua đó chấm dứt sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Thị phần của những giống mới này đạt 25,1% vào năm 2023 và chúng được xuất khẩu ra nước ngoài lần đầu tiên vào năm ngoái.
Trung Quốc năm ngoái cũng đã trồng thành công giống cải dầu mới với thời gian sinh trưởng chỉ 169 ngày. Chu kỳ tăng trưởng ngắn này cho phép nông dân tận dụng triệt để các cánh đồng bỏ hoang mùa đông ở miền Nam Trung Quốc bằng cách trồng cải dầu mà không làm trì hoãn việc trồng lúa đầu vụ vào năm sau.
Ngoài ra, Trung Quốc đã thiết lập một hệ thống nghiên cứu và phát triển nhân giống sinh học độc lập, hoàn chỉnh, đồng thời bảo đảm quyền sở hữu công nghệ độc lập và các công nghệ cốt lõi liên quan đến các gen và đặc tính di truyền quan trọng, như khả năng kháng côn trùng, khả năng chịu thuốc diệt cỏ, khả năng chịu hạn, chịu mặn và chất lượng hấp thụ dinh dưỡng được cải thiện.
Theo Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc, gần đây, 37 giống ngô biến đổi gen và 14 giống đậu nành biến đổi gen của nước này đã vượt qua kiểm tra sơ bộ. Đây là bước đi tiên phong trong công nghiệp hóa chăn nuôi sinh học.
Những cây trồng biến đổi gen này cho thấy cả đặc tính kháng thuốc diệt cỏ và kháng côn trùng vượt trội. Ngoài ra, sản lượng của chúng cũng tăng 10%, chứng tỏ tiềm năng phát triển lớn.
Là “con chip” của nông nghiệp, hạt giống có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển của ngành. Đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ chuyển gen là lựa chọn tất yếu để tăng khả năng cạnh tranh quốc tế trong tương lai và tối ưu hóa phân công công nghiệp, đồng thời cũng là giải pháp then chốt để đảm bảo an ninh lương thực đất nước và thúc đẩy sự phát triển bền vững của khoa học và công nghệ trong nông nghiệp.
Ông Li Jiayang, một học giả của Viện Khoa học Trung Quốc cho biết: “Mục tiêu cốt lõi trong tương lai là tăng sản lượng và cải thiện chất lượng hạt giống, giảm sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu cũng như giảm tổn thất do thiên tai gây ra”.
Theo số liệu thống kê chính thức, tỷ lệ đóng góp của các giống cải tiến vào việc tăng năng suất ngũ cốc hiện vượt quá 45%. Đây được coi là lĩnh vực trọng tâm cốt lõi để phát triển ngành hạt giống, đổi mới khoa học công nghệ, giúp nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong nông nghiệp Trung Quốc, qua đó thu hẹp khoảng cách về năng lực sản xuất giữa Trung Quốc và một số nước hàng đầu thế giới.
Th318
Sầu riêng và những tín hiệu ‘tăng’ từ thị trường
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
Sầu riêng Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội khi nhu cầu đối với loại quả này lớn, không chỉ thị trường Trung Quốc mà nhiều nơi khác.
Vẫn còn tình trạng tranh mua, tranh bán
Trong những năm gần đây, sầu riêng tiêu thụ thuận lợi, giá luôn ở mức cao, người trồng có lãi lớn, quy mô sản xuất sầu riêng tăng nhanh, nhất là tại các vùng tập trung Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và đặc biệt là vùng Tây Nguyên với phương thức trồng xen sầu riêng trong vườn cà phê.
Theo Bộ NN-PTNT, từ năm 2016 đến 2022, tổng diện tích sầu riêng cả nước tăng từ 32.000ha lên hơn 112.200ha; năng suất bình quân sầu riêng có xu hướng tăng nhẹ trong khoảng 14,7 – 15,7 tấn/ha; đặc biệt sản lượng sầu riêng tăng cao, từ 366.000 tấn lên hơn 863.000 tấn (tăng 11,7%/năm).
Năm 2023, diện tích sầu riêng cả nước đạt khoảng 131.000ha, tăng 20% so với năm 2022, sản lượng đạt khoảng gần 1,2 triệu tấn, tăng 3,5% so với năm 2022.
Hiện cả nước có 34 tỉnh thành trồng sầu riêng. Trong đó, tập trung tại 4 vùng: Tây Nguyên (chiếm 47% diện tích cả nước), ĐBSCL (30%), Đông Nam bộ (19%), duyên hải Nam Trung bộ (4,2%). 4 tỉnh có diện tích trên 10.000ha và sản lượng trên 50.000tấn/năm gồm Đắk Lắk, Lâm Đồng, Tiền Giang, Đồng Nai.
Hai giống chủ lực gồm Ri6 và Dona. Trong đó, giống Ri6 phổ biến tại các tỉnh vùng ĐBSCL, giống Dona sử dụng nhiều hơn tại vùng Tây Nguyên (chiếm 60 – 70% trong cơ cấu diện tích).
Việt Nam có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi trồng sầu riêng. Thời vụ thu hoạch sầu riêng quanh năm, giúp sầu riêng Việt Nam cạnh tranh hơn so với Thái Lan (thu hoạch từ tháng 5 đến tháng 8). Sầu riêng chính vụ tại vùng ĐBSCL thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 8; vùng Tây Nguyên thu hoạch từ tháng 7 đến tháng 10; vùng Đông Nam bộ từ tháng 4 đến tháng 7 và vụ nghịch vụ tại ĐBSCL từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
Theo số liệu Bộ Công thương, giá sầu riêng có sự biến động lớn theo nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu thuận lợi. Đối với sầu riêng chính vụ từ tháng 4 – 9, giá cả có sự biến động không lớn. Tuy nhiên, vào các tháng nghịch vụ từ tháng 1 – 3 thì giá sầu riêng có sự biến động mạnh.
Từ tháng 11/2023 đến tháng 2/2024, giá sầu riêng tăng cao vì chỉ có sầu riêng các tỉnh ĐBSCL. Sầu riêng Ri6 từ 120.000 – 150.000 đồng/kg; sầu riêng Dona từ 140.000 – 190.000 đồng/kg. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Ông Vũ Đức Côn, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đắk Lắk, Chủ tịch Hiệp hội Sầu riêng Đắk Lắk cho rằng, thời gian qua, Bộ NN-PTNT, các cơ quan Trung ương, địa phương đã tập trung chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển ngành hàng sầu riêng. Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp, bà con nông dân có trách nhiệm trong việc xây dựng quy trình kỹ thuật, nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, uy tín sầu riêng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Qua đó, giá sầu riêng trên thị trường năm qua tăng cao, giúp nông dân, doanh nghiệp tăng thu nhập, ổn định sản xuất.
Tuy nhiên, ông Côn nhìn nhận, ngành hàng sầu riêng vẫn đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Đơn cử như, vùng sản xuất sầu riêng còn nhỏ lẻ, chưa có vùng nguyên liệu rộng lớn, trình độ kỹ thuật của nông dân còn thiếu và yếu cả về tư duy sản xuất hàng hóa chuyên nghiệp theo quy định của nước nhập khẩu. Việc liên kết giữa đại diện vùng trồng, các đơn vị xuất khẩu với người dân chưa thực sự công khai, minh bạch, rõ ràng, chưa bền vững.
“Nhiều cơ sở sau khi được cấp mã số vùng trồng, đóng gói thiếu sự duy trì chất lượng, chưa tuân thủ đầy đủ các quy định kiểm dịch thực vật của nước nhập khẩu, chưa thực hiện đầy đủ các biện pháp kỹ thuật làm sạch sinh vật gây hại trên hàng hóa trước khi xuất khẩu…
“Tình trạng gian dối, đánh cắp mã số vùng trồng; tranh mua, tranh bán; tình trạng chốt giá sớm, nông dân sẵn sàng bẻ cọc hợp đồng… dẫn đến khó phát triển ngành hàng bền vững”, ông Côn nêu.
Ngoài ra, hiện nay, chưa có Nghị định hoặc Thông tư hướng dẫn cụ thể về công tác cấp và quản lý mã số vùng trồng; chưa có chế tài xử lý các hành vi vi phạm… Công tác ứng dụng thông tin chưa được thông suốt quá trình từ sản xuất, đến thu hoạch, sơ chế, đóng gói và xuất khẩu.
Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đắk Lắk cho biết, trong thời gian tới, địa phương sẽ hoàn thiện Đề án phát triển ngành hàng sầu riêng, bơ giai đoạn 2025 tầm nhìn 2030 trình UBND tỉnh phê duyệt và tổ chức triển khai. Trong đó, ưu tiên phát triển thành vùng chuyên canh để thuận lợi cho áp dụng cơ giới hóa và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, phổ biến các thông tin về quy hoạch trồng sầu riêng thông qua các kênh truyền thông cho nông dân cập nhật.
Sản lượng tăng ít nhất 20%
Dù mới tham gia vào thị trường xuất khẩu chính ngạch, nhưng sầu riêng Việt Nam đã lập kỷ lục tăng trưởng đột phá, trở thành “vua trái cây” của Việt Nam, với giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,2 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu chính là Trung Quốc, Nhật, Úc… chủ yếu là quả tươi và cấp đông.
Đặc biệt, lợi thế gần thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới – Trung Quốc giúp chi phí logistic giảm. Bên cạnh đó, tác động của khủng hoảng Biển Đỏ làm cho hàng hóa các nước đi vào thị trường Trung Quốc gặp nhiều khó khăn về thời gian, vận chuyển, chi phí. Việt Nam đã ký kết 17 Hiệp định thương mại tự do, với nhiều ưu đãi về thuế suất. Đây là lợi thế cạnh tranh cho sầu riêng nói riêng và rau quả Việt Nam nói chung khi xuất sang thị trường Trung Quốc.
Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan, năm 2023, Trung Quốc chi trên 6,7 tỷ USD (trên 1,4 tấn) để nhập sầu riêng. Trong đó, sầu riêng Thái Lan khoảng 928.000 tấn (trên 4,5 tỷ USD); Việt Nam gần 494.000 tấn (trên 2,1 tỷ USD); Philippines trên 3.700 tấn (13,2 triệu USD).
“Phía Trung Quốc đã cấp hơn 700 mã số vùng trồng sầu riêng của Việt Nam (năm 2023 hơn 400 mã). Và hiện Bộ NN-PTNT cũng đang tiếp tục đàm phán với phía bạn về cấp mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói sầu riêng, cũng như việc cho phép xuất khẩu chính ngạch sầu riêng cấp đông. Dự báo, năm nay sản lượng sầu riêng tăng hơn năm ngoái ít nhất khoảng 20%. Sầu riêng Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng cao, nhất là tại thị trường Trung Quốc và ASEAN”, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp Hội Rau quả Việt Nam nhận định.
Theo dự báo của nhiều chuyên gia, sẽ có thêm nhiều cơ hội cho nông sản Việt Nam nói chung, sầu riêng nói riêng. Năm 2024 và những năm tiếp, dự báo xuất khẩu sầu riêng tiếp tục có những thuận lợi. Thị trường truyền thống Trung Quốc tiếp tục có xu hướng tăng về nhu cầu nhập khẩu sầu riêng. Ngoài ra, nhiều thị trường khác đã và đang quan tâm nhập khẩu sầu riêng Việt Nam, trong đó có Thái Lan..
Hiện Bộ NN-PTNT đang đàm phán với Ấn Độ để xuất khẩu sầu riêng chính ngạch và đang đàm phán xuất sầu riêng cấp đông vào Trung Quốc, như vậy, dư địa xuất khẩu sầu riêng là rất lớn. Tuy nhiên, để chiếm lĩnh thị trường thì chất lượng vẫn là yếu tố quyết định.
Đồng Nai là tỉnh đứng thứ 4 trong cả nước về diện tích trồng sầu riêng với gần 11.350ha. Cây sầu riêng đã giúp nhiều nông dân ở Đồng Nai thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Năm 2024, tỉnh Đồng Nai tiếp tục mở rộng mã số vùng trồng, nâng cao chất lượng của các mã số vùng trồng được cấp, áp dụng công nghệ canh tác, đảm bảo truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Để chuỗi ngành hàng sầu riêng phát triển bền vững trong thời gian tới, tỉnh đẩy mạnh khuyến khích nông dân, HTX, doanh nghiệp thực hiện theo đúng, đủ theo các quy chuẩn của thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cũng như thu hút đầu tư vào chế biến sâu, nhằm nâng cao chất lượng sầu riêng của Đồng Nai nói riêng và Việt Nam nói chung.
Th307
Chủ động thích ứng với mùa khô Tây Nguyên
Nguồn tin: báo Đăk Lăk
Cà phê là cây trồng có nhu cầu nước rất lớn vào mùa khô. Để thích ứng với biến đổi khí hậu, ngoài việc cung cấp đủ nước thì cần nhiều giải pháp phát triển xanh cho các vùng nguyên liệu cà phê của tỉnh.
Chủ động nguồn nước tưới
Ông Y Phông (buôn Ea Ktur, xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin) cho hay, gia đình ông có khoảng 7 sào đất trồng xen canh cà phê và hồ tiêu. Gắn bó với cây cà phê hơn 10 năm nay, ông Y Phông nhận định, việc chăm sóc cây cà phê quan trọng nhất là thời điểm tưới nước.
Nếu tưới muộn, cây sẽ bị rụng lá, khô cành, còn tưới sớm khi cây chưa phân hóa mầm hoa sẽ làm cho cà phê nở hoa không đều, khó khăn trong thu hoạch và ảnh hưởng đến năng suất. Do đó, nguyên tắc tưới cho cây cà phê là phải đúng lúc, đủ nước.
Chính vì vậy, trước Tết Nguyên đán Giáp Thìn khoảng một tuần, gia đình ông đã tiến hành cắt tỉa cành và tranh thủ tưới nước đợt một cho cây cà phê. Đến ngày mùng 10 Tết, gia đình lại tiếp tục tưới đợt hai nhằm bảo đảm cung cấp đủ nước cho cây trong thời kỳ ra hoa, đậu trái.
Bà Lê Thị Thảo (thôn 9, xã Ea Ning, huyện Cư Kuin) tưới đợt hai cho vườn cà phê của gia đình. |
Giống như nhiều hộ trồng cà phê, những ngày này, bà Lê Thị Thảo (thôn 9, xã Ea Ning, huyện Cư Kuin) cũng đang tập trung tưới nước đợt hai cho vườn cà phê của gia đình.
Theo bà Thảo, sau khi thu hoạch, cây cà phê đã suy kiệt, nên người trồng phải cung cấp chất dinh dưỡng kịp thời cho cây bằng cách bón phân, tưới nước. Bình quân mỗi năm người trồng cà phê phải tưới 3 đợt cho cây, còn năm nào thời tiết nắng nóng kéo dài phải tưới 4 – 5 đợt mới đảm bảo cây đủ nước. Hiện gia đình đang sử dụng phương pháp tưới dí từ nguồn nước giếng khoan để tưới cho cây cà phê.
Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cư Kuin Y Tong Bkrông cho biết, trên địa bàn huyện có 39 hồ, đập và một số suối cạn, giếng khoan… phục vụ tưới cho 12.072 ha cà phê. Tình hình nguồn nước cơ bản đáp ứng được nhu cầu tưới cho cây trồng trong mùa khô.
Tuy nhiên, trước diễn biến thất thường của khí hậu trong năm 2024, đơn vị đã chủ động tham mưu cho UBND huyện về phương án phòng, chống hạn trên địa bàn nhằm đảm bảo vụ sản xuất hiệu quả, hạn chế thấp nhất thiệt hại do hạn hán gây ra.
Tại xã Ea Kao (TP. Buôn Ma Thuột), hiện các hộ dân trồng cà phê cũng đang tập trung tưới đợt hai. Theo cán bộ phụ trách nông nghiệp của địa phương, toàn xã có 1.600 ha cà phê, trong đó có 80% diện tích đang thời kỳ kinh doanh.
Hiện nay đang bắt đầu bước vào cao điểm mùa khô của Tây Nguyên, theo dự báo thì khả năng mùa khô năm nay sẽ diễn ra gay gắt hơn mọi năm nên nguy cơ diện tích cà phê bị thiếu nước rơi vào khoảng 10% (160 ha).
Do đó, xã đã phối hợp với Công ty TNHH MTV Quản lý công trình thủy lợi (Chi nhánh Buôn Ma Thuột) thực hiện tích nước ở hồ Ea Kao, điều tiết nước hợp lý ở các cánh đồng lúa để bảo đảm nước tưới cho cây cà phê trong mùa khô cạn.
Thích ứng trong dài hạn
Theo số liệu năm 2023, Đắk Lắk hiện có trên 200.000 ha cà phê, trong đó diện tích tưới từ công trình thủy lợi là 58.806 ha; diện tích còn lại được tưới từ các sông, suối, ao, hồ, giếng…
Để bảo đảm nguồn nước tưới cũng như việc phát triển bền vững cho cây cà phê trong mùa khô, ngoài đầu tư xây dựng hệ thống các công trình thủy lợi thì việc phát triển sản xuất xanh được nhiều hộ nông dân chú trọng ứng dụng.
Ông Lê Văn Tâm (thôn Cao Thắng, xã Ea Kao, TP. Buôn Ma Thuột) cho biết, gia đình ông có 4,5 ha cà phê, trong đó có 2 ha đang tái canh. Những năm trước, cứ vào mùa khô là gia đình rất lo lắng về nước tưới vì vườn không có cây che bóng, cỏ được làm sạch, nên khi trời nắng kéo dài khoảng chục ngày là vườn cây khô héo rất nhanh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất nếu không kịp tưới.
Sau này, các hộ dân liên kết sản xuất với doanh nghiệp, được hướng dẫn các phương pháp canh tác bền vững bằng cách trồng cây che bóng, trồng xen canh các loại cây (hồ tiêu, cây ăn trái…), trồng thảm cỏ phủ dưới đất nhằm xây dựng đa tầng tán trên vườn cà phê. Nhờ đó, khi vào mùa khô, vườn cây vẫn tươi tốt, lượng nước, phân bón, thuốc bảo vệ cũng được nông dân dùng ít lại.
Hơn thế, sản phẩm được nâng cao giá trị vì đáp ứng được xu hướng tiêu dùng xanh của thị trường thế giới. Bên cạnh đó, để tiết kiệm nước tưới, hộ ông Tâm còn đầu tư hệ thống tưới phun mưa cho 3 ha.
“Mặc dù chi phí ban đầu hơi nhiều, nhưng về lâu dài thì nông dân rất khỏe. Chỉ cần mở van tưới và căn thời gian tưới phù hợp, sau đó nông dân sẽ tranh thủ làm việc khác, không phải tốn lao động cho công việc tưới như trước đây”, ông Tâm chia sẻ.
Nông dân xã Ea Drông, TX. Buôn Hồ tưới đợt hai cho vườn cà phê. |
Theo Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI), trên thực tế, cây cà phê chỉ cần lượng nước từ 340 – 400 lít/cây/lần. Nếu tưới mức như vậy, nông dân có thể tiết kiệm được hơn 50% lượng nước so với cách tưới dí như hiện nay. Đặc biệt, tưới nước vừa đủ sẽ giúp người dân giảm đáng kể lượng phân bón cho cây do không bị nước dư thừa cuốn trôi.
Ngoài ra, trong cơ cấu giống, hiện WASI đã nghiên cứu và sản suất thành công 4 dòng cà phê vối chín muộn (TR9, TR11, TR12, TR13) nhằm chuyển dần thời gian thu hoạch cà phê vào đúng mùa khô và giảm được lượng nước tưới cho cây khi không phải trải qua mùa khô kéo dài như những giống khác.
Hiện toàn tỉnh có trên 45.670 ha áp dụng quy trình sản xuất bền vững, chiếm khoảng 22,12% diện tích cà phê toàn tỉnh. Ngành nông nghiệp đã chủ động, tích cực tham gia vào việc thúc đẩy liên kết sản xuất theo chuỗi, phát triển kinh tế xanh và tiếp tục thực hiện công tác tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới cho người dân trồng cà phê để thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu và xu hướng tiêu dùng của thị trường thế giới.
Minh Thuận – Thúy Nga
Th226
Giá sầu riêng tiếp tục tăng cao
Nguồn tin: Báo Long An
Những ngày qua, giá sầu riêng liên tục tăng cao, nhiều nhà vườn không có sầu riêng để bán cho thương lái. Nguyên nhân khiến sầu riêng tăng giá là do thiếu hụt nguồn cung.
Ngành Nông nghiệp tỉnh thường xuyên tuyên truyền, vận động người trồng sầu riêng xây dựng mã số vùng trồng để phục vụ nhu cầu xuất khẩu
Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sầu riêng là một trong những loại cây trồng mang lại giá trị kinh tế cao. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh, diện tích sầu riêng tăng khá nhanh với hơn 500ha, tập trung nhiều ở các huyện: Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng,…
Ngay từ đầu năm 2024, nhà vườn trồng sầu riêng trái vụ trên địa bàn tỉnh đã phấn khởi khi giá bán tại vườn ở mức cao. Với mức giá sầu riêng như hiện tại, theo tính toán của các nhà vườn, dù phải đầu tư lớn để xử lý ra quả trái vụ nhưng lợi nhuận mang về lên đến 1 tỉ đồng/ha.
Hiện tại, sầu riêng Monthong loại 1 có giá từ 190.000-202.000 đồng/kg, loại 2 khoảng 175.000 đồng/kg. Sầu riêng Ri6 loại 1 có giá 120.000-126.000 đồng/kg, loại 2 có giá 100.000 đồng/kg.
Ông Nguyễn Văn Chính (xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh) cho biết: “Hiện sầu riêng Ri6 được thương lái thu mua tại vườn với giá khoảng 100.000-120.000 đồng/kg. Sầu riêng tăng giá do đang vào mùa nghịch nên nguồn cung giảm. Hiện tại, vườn nhà tôi cũng không còn nhiều do đã thu hoạch 2 đợt trước tết”.
Hiện nay, ngành Nông nghiệp tỉnh tích cực tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt các khâu an toàn trong sản xuất, đóng gói sầu riêng; đồng thời, tăng cường tập huấn, truyền thông các quy định về mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, trong đó, chú trọng hướng dẫn các tổ chức, cá nhân áp dụng đúng quy trình canh tác, ghi chép hồ sơ, nhật ký trong quá trình sản xuất để phục vụ truy xuất nguồn gốc theo yêu cầu của nước nhập khẩu.
Cùng với đó, ngành Nông nghiệp tỉnh cũng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp trong tổ chức sản xuất, hình thành các vùng trồng sầu riêng tập trung, quy mô lớn, bảo đảm tiêu chuẩn để cấp mã số vùng trồng, cấp mã số cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu./.
Minh Tuệ
Th226
Cà phê Sơn La được mùa, giá cao chưa từng thấy
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
Tới cuối mùa thu hoạch, giá cà phê chè ở Mai Sơn (Sơn La) đạt đỉnh 15.000 đồng/kg tươi, tăng gần gấp 2 lần so với niên vụ năm 2022 – 2023.
Ông Lò Văn Khánh ở bản Lam, xã Chiềng Chung, huyện Mai Sơn (Sơn La) kể, trồng cà phê từ năm 2008 nhưng chưa thấy khi nào thấy cà phê được mùa, được giá như niên vụ 2023 – 2024 mới đây. Đầu vụ bán được 10.000 – 11.000 đồng/kg cà phê tại vườn, ông Khánh đã rất vui vì giá cao hơn mùa vụ trước 2.000 – 3.000 đồng/kg. Không ngờ, giá cà phê tiếp tục tăng đều đặn, tới cuối mùa thu hoạch (30/1/2024) đạt đỉnh 15.000 đồng/kg tươi, tăng gần gấp 2 lần so với niên vụ năm 2022 – 2023.
Vụ vừa rồi, ông Khánh cũng có 1ha cà phê cho thu hoạch gần 20 tấn quả, bán được 230 triệu đồng, cao hơn vụ cà phê năm trước 7 tấn quả về năng suất và 70.000 triệu đồng về trị giá sản lượng. Nhờ đó, ông có dư tiền sang tận xã Chiềng Nơi cách nhà 50km để thuê đồi trồng thêm 2ha cà phê. Theo ông Khánh, so với cây sắn và cây lúa, trồng cà phê luôn cho thu nhập cao gấp nhiều lần.
Ông Khánh cho biết, để trồng cà phê cho năng suất quả cao, ông phải chọn những khu đồi không quá dốc, tầng canh tác dày, đất có màu vàng đỏ, thuận tiện cho thiết kế đường đồng mức để đi lại trồng, chăm sóc và thu hái cà phê. Đặc biệt, vùng trồng cà phê phải có điều kiện thời tiết tương tự như xã Chiềng Chung và chọn trồng giống cà phê chè TN2 đầu dòng, chăm bón bằng các loại phân tổng hợp giàu canxi (vôi) và magie (MgO) như NPK Văn Điển, vì đất đồi ở đây thường có độ chua khá cao.
Cùng xã Chiềng Chung, ông Lò Văn Khải trồng 1,5ha cà phê, thu hoạch được 36 tấn quả, doanh thu 450 triệu đồng, lãi 230 triệu đồng. Ông Khải cho biết, trồng cà phê cơ bản chỉ tốn công chăm sóc và thu hái, bao tiêu đã có thương lái đến mua tận vườn. Ông Khải cũng rất muốn mở rộng diện tích trồng cà phê, nhưng quỹ đất của gia đình và tại địa phương không còn, đi thuê nơi khác thì chưa sắm được xe ô tô nên phải đẩy mạnh thâm canh vườn cà phê đang có và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm để tăng thu nhập.
Ông Hà Văn Phấn, Trưởng bản Lam (xã Chiềng Chung) cho biết, cây cà phê được trồng ở đây từ hơn nửa thế kỷ trước nên hầu như hộ nào tại địa phương nào cũng có đồi cà phê, tổng diện tích cà phê toàn xã ước đạt trên 700ha. Ngoài ra, các hộ vẫn có ruộng gieo cấy lúa và trồng kinh doanh rau xanh các loại. Nhờ vậy, không ít gia đình trong xã đã mua được ô tô làm dịch vụ vận tải hoặc chở khách du lịch, kết hợp thuê, nhượng thêm đất cho trồng cà phê ở những xã vùng sâu, xa hơn.
Sở dĩ cây cà phê chè (Arabica) trồng ở huyện Mai Sơn có thể cho thu hoạch muộn đến hết tháng 1/2024 ở xã Chiềng Chung và một số địa phương khác có độ cao trung bình khoảng 1.200m so mặt nước biển, địa hình có nhiều núi và khe suối, tạo cho nhiệt độ không khí trung bình ở đây thấp hơn chừng 5 độ C so với những xã nằm trên cao nguyên Nà Sản (ven Quốc lộ 6), do vậy cà phê trồng trong khu vực này thường ra hoa, đậu quả và kết thúc mùa vụ thu hoạch muộn hơn cà phê trồng ở các địa phương khác. Qua đó đã giúp rải vụ, kéo dài thời gian thu hoạch cà phê trên địa bàn, giảm áp lực thị trường, tăng giá trị sản phẩm và hiệu quả sản xuất.
Mặt khác, mặc dù có đặc điểm khí hậu nhiệt đới và thời tiết 4 mùa, nhưng lượng mưa ở Chiềng Chung và một số xã trong khu vực lại chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 đến 9, mùa khô tháng 10 đến tháng 3 năm sau, chênh lệch nhiệt độ không khí ngày đêm cũng khá cao (khoảng 12 – 15 độ C) nên cây cà phê thường tăng trọng quả vào mùa mưa, không cần tưới nước trái vẫn to, hạt mẩy đều, tỷ lệ hạt khô/quả tươi đạt 30%, tỷ lệ này ở các xã trồng cà phê ở khu vực cao nguyên Nà Sản chỉ đạt 23%.
Cùng với đó, việc thu hoạch cà phê vào mùa khô rất thuận lợi cho thu hái và phơi sấy. Đây là những lợi thế riêng cho cây cà phê chè trồng ở những khu vùng đồi cao như xã Chiềng Chung nói riêng, tỉnh Sơn La nói chung. Đó cũng là lý do ông Khánh phải kén chọn những khu vực có đặc điểm thời tiết như Chiềng Chung để thuê đất mở rộng diện tích trồng thâm canh cây cà phê.
Theo Sở NN-PTNT Sơn La, toàn tỉnh hiện có gần 21.000ha cà phê chè trồng tại huyện Mai Sơn (hơn 8.500ha), Thuận Châu (gần 6.000ha), còn lại ở các huyện Yên Châu, Sốp Cộp và TP Sơn La. Trong đó có khoảng 19.000ha cà phê đang thời kỳ khai thác kinh doanh, sản lượng cà phê nhân đạt 34.345 tấn.
Từ nhiều năm nay, Sơn La đã hình thành được các mô hình liên kết sản xuất và chế biến cà phê tinh chất. Có 4 sản phẩm cà phê đã được UBND tỉnh Sơn La cấp chứng nhận OCOP (1 sản phẩm cà phê bột nguyên chất 5 sao, 3 sản phẩm 4 sao là Aratay Coffee, Coffee Arabica Minh Trí và Trà quả cà phê.
Tỉnh Sơn La đã được Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ KH-CN) bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cà phê từ năm 2017. Cà phê chè Sơn La có vị chua nhẹ, không hợp thị hiếu người tiêu dùng trong nước, nhưng có giá trị xuất khẩu rất cao sang các quốc gia châu Âu vì phù hợp khẩu vị.
Tới đây, cà phê Sơn La sẽ cho năng suất, chất lượng cao hơn nữa nhờ các ngành chuyên môn tỉnh này đang cùng các nhà nông trên địa bàn đẩy nhanh tốc độ cải tạo, tái canh bằng các giống mới thay thế giống cà phê chè Catimor đã già cỗi, chất lượng thành phẩm không cao sang trồng cây cà phê chè đầu dòng Arabica L, kết hợp với tăng cường thâm canh theo hướng bền vững,
Th219
Nhiều diện tích lúa đông xuân bị nhiễm sâu bệnh
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
ĐBSCL Sở NN-PTNT Vĩnh Long cho biết, từ đầu tháng 2 trên địa bàn tỉnh có 4.994ha lúa đông xuân bị nhiễm sâu bệnh, chủ yếu gây hại trên trà lúa làm đòng đến chắc xanh.
Theo nông dân tại các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Hậu Giang, Sóc Trăng…, thời điểm này, do thời tiết nắng nóng, ẩm độ không khí khá cao, kết hợp các trà lúa đang bước vào giai đoạn đòng đến trổ nên tạo điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh gây hại trên lúa đông xuân.
Sở NN-PTNT tỉnh Vĩnh Long cho biết, từ đầu tháng 2, trên địa bàn tỉnh có 4.994ha lúa đông xuân bị nhiễm sâu bệnh, chủ yếu gây hại trên trà lúa làm đòng đến chắc xanh.
Diện tích lúa bị đối tượng gây hại nhiều nhất là rầy nâu (1.453ha, mật số rầy từ 500 – 650 con/m2), tập trung nhiều ở huyện Tam Bình (1.147ha); kế đến là bệnh đạo ôn 989ha (tỷ lệ nhiễm 5 – 10%) và sâu cuốn lá 738ha (mật số 5 – 10 con/m2).
Tại Trà Vinh trong tuần qua, hệ thống giám sát côn trùng thông minh trong tỉnh cũng đã phát hiện rầy nâu, rầy lưng trắng và sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục thân hai chấm, rầy xanh đuôi đen, muỗi hành… xuất hiện với mật độ cao nhất 216 con/bẫy đèn.
Theo Sở NN-PTNT tỉnh Trà Vinh, dự báo thời gian tới, sâu cuốn lá nhỏ xuất hiện gây hại trên trà lúa giai đoạn đẻ nhánh đến làm đòng; bệnh đạo ôn lá, chuột sẽ xuất hiện rải rác trên trà lúa đẻ nhánh và bệnh bạc lá, vàng lá sinh lý do thời tiết sẽ xuất hiện, gây hại trên trà lúa đòng đến trổ.
Ông Lê Trường Sơn, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Trà Vinh khuyến cáo bà con nông dân thăm đồng thường xuyên để phát hiện sâu, bệnh và phòng trừ kịp thời, đặc biệt chú ý sâu cuốn lá nhỏ nở và gây hại.
Đối với vụ đông xuân, cây lúa rất dễ mẫn cảm với điều kiện thay đổi của thời tiết, thường có hiện tượng vàng lá sinh lý và ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây lúa, nhất là trong điều kiện thời tiết ngày nắng nóng, đêm lạnh và gió mạnh như hiện nay.
Ông Sơn đề nghị bà con nông dân bón phân cân đối, không bón thừa phân đạm, tăng cường phun phân bón lá chứa hàm lượng canxi, silic… giúp lá lúa dày và cứng, hạn chế tối thiểu tổn thương do gió. Đặc biệt lưu ý trên những chân ruộng thiếu nước, sạ dày, bón thừa phân và ruộng canh tác giống nhiễm có thể bị thiệt hại nặng hơn.
Th327