Vai trò mùn hữu cơ đối với cây trồng
Chất hữu cơ trong đất thường được phân ra làm hai dạng là chất mùn và không phải mùn, trong đó chất mùn chiếm nhiều hơn. Dựa vào tính chất hòa tan trong trong kiềm hoặc acid mà chất mùn lại được phân lập ra mùn fulvic acids, mùn humic acids và mùn humin. Trước đây, nhiều nhà khoa học cho rằng chất mùn được thành lập chỉ do tiến trình sinh học, nhưng trong vài thập niên trở lại đây, vai trò xúc tác của các chất vô cơ trong sự thành lập chất mùn đã được biết đến. Thí dụ như Fe và Al oxides vô định hình đã thúc đẩy sự hình thành mùn humic acids. Đất Mollisols giàu Fe và Al nên có nhiều chất hữu cơ hơn những đất khác là do Al kết hợp với mùn humic acids hình thành hợp chất Al-humates rất bền kháng lại sự phân hủy của vi sinh vật đất. Vai trò xúc tác của Mn oxides trong việc trùng hợp chất phenol để thành lập mùn humic acids đã được nghiên cứu nhiều. Những cation bases cũng làm ổn định mùn humic acids. Chính vì vậy, những đất giàu Ca thường có nhiều chất hữu cơ hơn đất nghèo Ca. Khoáng sét cũng thúc đẩy sự tích tụ chất mùn trong đất, nên đất có sa cấu mịn mhiều chất hữu cơ hơn đất thịt hoặc cát. Nguyên lý chung được nhiều nhà khoa học đất và sinh lý thực vật đồng ý là sự sinh trưởng và năng suất của cây trồng được quyết định bởi dưỡng chất khoáng, nước, không khí trong đất, và điều kiện khí hậu như ánh sáng và nhiệt độ. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy chất mùn hữu cơ cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng của cây trồng. Mối tương quan giữa hàm lượng, chất lượng của chất mùn trong đất và năng suất cây trồng đã được khẳng định. Chất mùn đã thúc đẩy sự sinh trưởng của cây trồng qua việc cải thiện đặc tính lý, hóa và sinh của đất như sau: – Chất mùn cung cấp dưỡng chất N, P và S và nguyên tố vi lượng từ từ cho cây trồng. Chất mùn có khả năng trao đổi cation (CEC) và có khả năng kết hợp với nhiều ion kim loại nên giúp đất kềm giữ cation tốt hơn. Thông thường đất nông nghiệp có hàm lượng mùn ít hơn nhiều so với thành phần khoáng, nhưng CEC của chất mùn lại cao hơn (trên một đơn vị) nên CEC của đất có nguồn gốc từ mùn bằng với CEC có nguồn gốc từ khoáng. Nhờ chất mùn mà các cation dinh dưỡng trong đất ít bị rửa trôi. Những cation dinh dưỡng nầy sau đó được cây hấp thụ khi cần thiết. – Chất mùn cải thiện cấu trúc của đất, vì thế cải thiện tỉ số không khí/nước ở vùng rễ, giúp sự di chuyển của nước trong đất dễ dàng hơn, và giữ nhiều nước hơn. – Chất mùn làm tăng mật số vi sinh vật đất, bao gồm cả vi sinh vật có lợi. Ngoài ra, mùn còn có vai trò của kích thích cho cây trồng phát triển: – Chất mùn kích thích hạt nẩy mầm và thúc đẩy sự tăng trưởng của cây con. – Chất mùn kích thích sự tượng rễ và sự phát triển của rễ khi được bón vào đất hay phun lên lá. – Phun chất mùn lên lá làm gia tăng sự phát triển của chồi, tăng trọng lượng thân, rể và lá, tăng năng suất cây trồng. Chất mùn trong đất là một chỉ thị tốt tình trạng dinh dưỡng đạm của đất đối với cây trồng. Trên 95% đạm trong lớp mặt của hầu hết các loại đất là ở dạng hữu cơ, vì vậy chất hữu cơ của đất có tương quan rất chặt với đạm tổng số của đất, nhưng đạm hữu dụng cho cây lại kém tương quan với chất hữu cơ hoặc đạm tổng số trong đất. Thành phần di động của chất mùn MHA và CaHA có liên quan đến khả năng phân hủy chất hữu cơ của vi sinh vật, nên có thể có vai trò quan trọng trong sự khoáng đạm của đất, và có thể được dùng để đánh giá tình trạng đạm hữu dụng của đất đối với cây trồng. PGS.TS NGUYỄN BẢO VỆ.
Th1112
Kinh nghiệm trồng tiêu
Quá trình đi thực tế nhiều vườn tiêu và lắng nghe nhiều chia sẻ của các anh chị em, tôi nhận thấy vấn đề sử dụng phân bón và thuốc bvtv hiện nay của người trồng tiêu có rất nhiều điều cần chia sẻ thêm.
Không bàn thêm về vấn đề phân bón và thuốc bvtv giả, nhái, kém chất lượng nữa, vì vấn đề này báo đài đã bàn nhiều và chúng ta cũng chia sẻ rất nhiều rồi. Tôi xin tổng hợp lại các vấn đề ở chính người làm vườn, người chịu trách nhiệm chính cho mảnh vườn của mình.
Vấn đề thứ nhất: tôi muốn đề cập là liều lượng và nồng độ khi sử dụng phân và thuốc.
Có trường hợp một người trồng tiêu chia sẻ thế này. “Chắc tôi mua phải thuốc giả, vì khi sử dụng xong thì tiêu bị cháy lá và rụng trái rất nhiều”. Sản phẩm nông dân ấy sử dụng có thành phần Phosphonate của một cty có thương hiệu, tôi đã kiểm tra bao bì và khẳng định là sản phẩm thật. Nhưng liều lượng họ sử dụng thì tôi không tin nổi, tiêu đang ra trái mà họ phun 1lit phân +80lit nước đem phun kỹ qua lá. Trong khi nhà sản xuất khuyến cáo dùn cho 400litnước.Hậu quả cháy lá, rụng trái là tất yếu.
Lại có trường hợp khi mua phân bón lá (pbl) về sử dụng, nông dân lại nghĩ 1lit mà pha cho 2-3phuy thế kia thì nhằm nhò gì, thế là đem pha cho 1phuy, kết quả tiêu bị rụng đọt, mo lá hết, lại đổ thừa phân dỏm.
Rất nhiều trường hợp như vậy đã xảy ra vì theo cách nghĩ của nông dân, đậm đặc cho nó tốt, kết quả tốt đâu không thấy, khi tiêu bị cháy, bị rụng lóng rụng đọt lại đi đổ thừa cho phân thuốc kém chất lượng.
Ngoài ra phải nói thêm đến người bán hàng. Tôi đi mua thuốc rất nhiều cửa hàng họ khuyên dùng nồng độ gấp đôi so với hướng dẫn của nhà sản xuất, chắc họ nghĩ dùng vậy sẽ hiệu quả và giữ uy tín, cũng như bán được nhiều sản phẩm hơn chăng? Tôi đã thử một sản phẩm thuốc trừ sâu mà họ khuyên pha gấp đôi nồng độ, tôi pha loãng hơn phân nữa xem sao, rệp sáp vẫn chết đấy thôi.
Vấn đề thứ hai là cách sử dụng:
Nhiều bạn chia sẻ với tôi là tại sao mua thuốc của cty S, công ty B, cty A…về sử dụng nhưng không thấy hiệu quả gì, hay tại…thuốc giả?
Các bạn biết họ dùng thuốc thế nào không? Đem thuốc nguyên chất đổ vô gốc tiêu rồi sau đó mới kéo ống đi tưới nước để ” pha loãng” nó ra! Tôi thực sự không hiểu nổi.
Có trường hợp lại hỏi là mới xài thuốc nấm xong, giờ đổ trichoderma được không vì cửa hàng họ nói là không sao. Hay trichoderma phun qua lá tốt hơn vì lá nhanh hấp thụ hơn rễ (!).
Đó là chưa kể đến các trường hợp trời đang nắng gắt hoặc chuẩn bị mưa lại đem thuốc đi phun vì “lỡ pha rồi”.
Nguyên tắc dùng thuốc là không nên kết hợp 3 loại trở lên với nhau, nhưng nhiều người vẫn cứ pha thuốc nấm, phân bón lá, thuốc trừ sâu với nhau để phun cho tiện, vì phun nhiều lần “mất công”.
Hoặc bón phân vi sinh rồi đi đổ thuốc diệt nấm. Mới đổ thuốc nấm lại pha bordeaux đi phun và đổ gốc khắp vườn…
Còn có trường hợp nữa là các nhân viên tư vấn bán hàng, cửa hàng hay kết hợp các loại thuốc cùng cty, hoặc các sản phẩm (sp) rẻ tiền kèm theo các sp chính hòng kiếmthêm lợi nhuận. Tôi hay gặp các chia sẻ là thuốc trị bệnh kết hợp pbl hoặc thuốc bvtv kết hợp pbl và thuốc trị bệnh. Có nên tìm hiểu trước hay khi cần sử dụng hay không? Xin nhường câu trả lời cho người sử dụng.
Vấn đề thứ ba là “nhắc lại”: sau khi sử dụng lần đầu tiên, các sp đều chỉ dẫn rõ ràng cần nhắc lại quy trình sau khoảng thời gian nào đó. Nhưng ít nông dân tuân thủ theo chỉ dẫn sử dụng này.
Nhiều người thắc mắc, sao tôi sử dụng rồi mà vẫn bị bệnh, vẫn bị thiếu dinh dưỡng…, vừa rồi mua cả mấy triệu tiền phân thuốc chứ đâu ít.
Hóa ra đem “mấy triệu” ấy đổ ra vườn xong là họ yên tâm luôn, coi như “mấy triệu” ấy sẽ bảo vệ vườn của họ suốt thời gian còn lại mà không còn phải bận tâm nữa.
Vấn đề thứ tư là thời điểm sử dụng: Với phân bón, vào đầu mùa mưa cứ thấy mưa là nhiều bà con đem phân npk ra bón vô gốc, gặp mưa thì tốt, không mưa thì hôm sau đi tưới cho nó tan ra. Theo tôi, cách làm này gây lãng phí và thêm cả nguy hại không nhỏ. cách bón phân này gáy thất thoát do phân bốc hơi, dẫn đến nguy cơ cháy lá hoặc thân nếu lượng mưa ít, nếu lượng mưa nhiều lại gây thất thoát do trôi đi hoặc thấm sâu xuống quá tầng rễ có chức năng kiếm thức ăn của cây.
Việc bón phân vào đầu mùa mưa nếu cây chưa ra rễ thì cây hấp thụ được ít, gây lãng phí, cây đã ra rễ thì npk có thể làm cháy đầu rễ, gây thối dẫn đến nấm bệnh xâm nhập qua vết thương này.
Hay việc sử dụng thuốc cũng vạy. Có bà chị xóm trên chia sẻ thế này. Chị mới đổ thuốc “chết nhanh chét chậm” xong, thấy nó vàng chị lại bón npk rồi, đã tưới nước, cả tuần rồi không thấy nó xanh, mai chị lại rắc vôi xong lại đổ thuốc tiếp nhé. Mấy hôm rồi không thấy chị ấy ghé nữa, nên k biết nó ra làm sao rồi.
Nguy hại là tiêu đang bệnh, đổ thuốc nấm xong lại phun đạm amino lên lá, thậm chí đổ gốc luôn cho cây mau ra rễ (?).
Vấn đề cuối tôi muốn chia sẻ là dụng cụ sử dụng: Lâu lâu tôi lại nghe chia sẻ việc phun xịt cho tiêu xong bị cháy lá hoặc bị rụng lóng, thậm chí tiêu chét luôn. Loại trừ các nguyên nhân khác, vấn đề ở chổ bình phun ấy vừa sử dụng thuốc diệt cỏ xong. Họ “cam đoan” đã súc rửa bình rất kỹ rồi cơ mà, sao mà bị được.( ! ).
Hoặc là xây bể chứa pha bordeaux xong giờ đem bỏ trichoderma vô để kích hoạt sao không thấy trichoderma phát triển như ngừơi khác…
Trên đây là tôi điều tôi muốn chia sẻ vời người trồng tiêu về sai lầm mà nhiều người khác mắc phải để các anh chị em chưa biết mà rút kinh nghiệm. Ngoài gánh nặng đầu tư ban đầu thì chi phí thường niên cho phân bón và thuốc bvtv rất lớn, việc sử dụng không đúng cách, lãng phí vừa gây thiệt hại kinh tế, lại gây nhiễm độc cho chính người sử dụng, cây trồng và cả nguồn đất.
Ngoài ra các anh chị em trong quá trình chăm sóc vườn nhà mình, có kinh nghiệm gì mong hãy chia sẻ thêm để mọi người cùng rút kinh nghiệm. Thân!
Nguồn: facebook Anh Hung Vo
Th1112
Tro trấu dùng trong nông nghiệp
1. Thành phần hóa học của vỏ trấu
Thành phần hóa học của vỏ trấu thay đổi theo loại thóc, mùa vụ canh tác, thổ nhưỡng của từng vùng miền. Nhưng hầu hết trong vỏ trấu chứa trên 75% chất hữu cơ dễ bay hơi sẽ cháy trong quá trình đốt và khoảng 25% còn lại chuyển thành tro.
Các chất hữu cơ của trấu là các mạch polycarbohydrat rất dài nên hầu hết các loài sinh vật không thể sử dụng trực tiếp được, nhưng các thành phần này lại rất dễ cháy nên có thể dùng làm chất đốt.
Sau khi đốt, tro trấu có chứa trên 80% là silic oxit, đây là thành phần được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực.
2. Thành phần hóa học trong tro
Vỏ trấu sau khi cháy các thành phần hữu cơ sẽ chuyển hóa thành tro chứa các thành phần oxit kim loại. Silic oxit là chất có tỷ lệ phần trăm về khối lượng cao nhất trong tro chiếm khoảng 80-90%.
Các thành phần oxit có trong tro được thể hiện qua bảng 1.3. Và chúng có thể thay đổi tùy thuộc vào giống cây lúa, điều kiện khí hậu, đất đai của từng vùng miền.
Hàm lượng SiO2 trong tro trấu rất cao. Oxit silic được sử dụng trong đời sống sản xuất rất phổ biến. Nếu tận thu được nguồn SiO2 có ý nghĩa rất lớn đối với nước ta. Làm được điều này ta sẽ không cần nhập khẩu SiO2 và vấn đề ô nhiễm môi trường do vỏ trấu cũng được cải thiện.
3. Dùng tro trấu làm phân bón
a.Vỏ trấu đốt than tồn tính và tro trấu bếp
Vỏ trấu đốt than tồn tính là loại than nhiệt phân gọi là biochar đốt từ vỏ trấu là phương tiện cải tạođất rất tốt, thuật ngữ biochar trở nên thông dụng trong ngành nông nghiệp, để chỉ loại than của các phế phẩm nông nghiệp như vỏ cây,vỏ hạt ( trấu, vỏ hạt cà phê), cỏ khô,… được đốt tồn tính, nghĩa là đốt cho thành thứ than đen chứ không thành tro để bón cho đất trồng cây.
Vỏ trấu đốt than tồn tính lâu bị phân hủy và tồn tại nhiều năm trong đất, nhờ đó đất tơi xốp được nhiều nước cho đất ẩm hơn, tạo môi trường phát triển thuận lợi cho các hệ sinh vật hoạt động giúp cải tạo đất bạc màu và có nhiều dưỡng chất cho cây trồng phát triển tốt hơn .
Người nông dân Việt nam hay có thói quen đốt rơm rạ trên ruộng sau khi thu hoạch xong mùa lúa, dùng trấu nấu bếp và lấy tro bón lại cho đất.Tuy nhiên do tro trấu có hàm lượng Si02 khá cao và có hoạt tính tương đối mạnh nên cũng gây hại cho đất tự nhiên.Còn vỏ trấu đốt than tồn tính có tính trung hòa nên việc sử dụng thường xuyên cần được phát huy.
Để có vỏ trấu đốt than tồn tính người ta cần đốt trong điều kiện thiếu khí để chúng cháy ngún chứ không cháy ngọn. Có rất nhiều cách để đốt, phổ thông nhất theo kiểu hầm than đắp ngoài bằng vỏ đất sét. Khi trấu đã bắt lửa thì lấp miệng lại chỉ chừa mấy ống cho khói thoát ra.
b.Cách sử dụng
• Chọn trấu
Chỉ nên dùng vỏ trấu đốt than tồn tính.
Chọn tro trấu để trồng cây nên lựa mua loại tro trấu hạt to, loại người ta chỉ đốt sơ qua, chuyên dụng để trồng cây, giả chỉ mắc hơn loại tro đốt nhuyễn từ 1 đến 2 ngàn/bao. Loại tro này dễ nhận biết, tro có màu đen sẫm , hạt to, nắm vào tay sẽ nghe tiếng sột soạt…
Còn loại tro mở ra mà thấy mịn như là tro bếp, có màu trắng thì ko nên mua. Loại tro này đã đốt nhiều lần, chất dinh dưỡng thường rất ít. Tro mịn lại càng bí khí, ko tốt cho rễ cây.
Môt số nơi dùng vỏ trấu để đốt hầm muối, xong lại lấy tro đó cung cấp cho việc trồng cây, mua đụng phải loại này về trồng cây coi như ra đi.
• Kinh nghiệm xử lý trước khi xử dụng
Tro trấu mua về đa số có lẫn tạp chất có hại cho cây trồng (ví dụ: sâu bệnh, muối ,…). Có nhiều người mua về trồng cây (thường là cây cảnh) sau 1 thời gian cảm thấy cây yếu đi nguyên nhân đa phần là do việc sử lý đất trồng và trấu không phù hợp.
Khi mua tro trấu về , nên tiến hành xịt nước vào tro trấu (rửa tro trấu).
Bước 1 : Để nguyên bao cắt sơ đít bao hay đục thủng lỗ trên bao
Bước 2 : Dội nước thật nhiều vào bao đợi cho nước rút hết, lần lượt làm tiếp như thế 2-3 lần.
Mục đích dội nước : rửa bớt các tạp chất bám theo tro trấu, ( nhất là trường hợp : mua nhầm tro trấu người ta hầm muối ).
Lần dội nước lần cuối cùng pha thêm một tròn cách chế phẩm tricoderma, EM, humic,… để tăng hiệu quả sử dụng
Bước 3: Rửa xong thì khoan dùng ngay nên để 7-10 ngày cho nước rút hết và các chế phẩm phát huy hiệu cao hơn.
nguồn: hotieuvietnam.vn
Th905
Phân Hữu Cơ Là Gì? Phân Vi Sinh Là Gì ?
Phân Hữu Cơ
Là làm tăng năng suất cây trồng và còn có tác dụng cải tạo đất. Kết quả một số công trình nghiên cứu cho thấy bón 1 tấn phân hữu cơ làm bội thu ở đất phù sa sông Hồng 80 – 120 kg thóc, ở đất bạc màu 40 – 60 kg thóc, ở đất phù sa đồng bằng sông Cửu Long 90 – 120 kg thóc. Một số thí nghiệm cho thấy bón 6 – 9 tấn phân xanh/ha hoặc vùi 9 – 10 tấn thân lá cây họ đậu trên 1 ha có thể thay thế được 60 – 90 N kg/ha. Vùi thân lá lạc, rơm rạ, thân lá ngô của cây vụ trước cho cây vụ sau làm tăng 0.3 tấn lạc xuân, 0.6 tấn thóc, 0.4 tấn ngô hạt/ha.
Phân chuồng – Phân rác – Phân xanh – Phân vi sinh vật – Các loại phân hữu cơ khác
Phân Vi Sinh Vật
Đó là những chế phẩm trong đó có chứa các loài vi sinh vật có ích. Có nhiều nhóm vi sinh vật có ích bao gồm vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn được sử dụng để làm phân bón. Trong số đó quan trọng là các nhóm vi sinh vật cố định đạm, hoà tan lân, phân giải chất hữu cơ, kích thích sinh trưởng cây trồng, v.v..
Để chế biến phân vi sinh vật, các loài vi sinh vật được nuôi cấy và nhân lên trong phòng thí nghiệm. Khi đạt đến nồng độ các tế bào vi sinh vật khá cao người ta trộn với các chất phụ gia rồi làm khô đóng vào bao.
Trong những năm gần đây, ở nhiều nước trên thế giới, người ta đã tổ chức sản xuất công nghiệp một số loại phân vi sinh vật và đem bán ở thị trường trong nước. Một số loại phân vi sinh vật được bán rộng rãi trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, các loại phân vi sinh vật còn rất ít và chỉ là bộ phận nhỏ so với phân hoá học trên thị trường phân bón.
Phân vi sinh vật cố định đạm.
Có nhiều loài vi sinh vật có khả năng cố định N từ không khí. Đáng chú ý có các loài: tảo lam (Cyanobacterium), vi khuẩn Azotobacter, Bradyrhizobium, Rhyzobium; xạ khuẩn Actinomyces, Klebsiella.
Phần lớn các loài vi khuẩn cố định đạm thường sống cộng sinh với các cây họ đậu. Chúng xâm nhập vào rễ cây và sống cộng sinh trong đó, tạo thành các nốt sần ở rễ cây. Chúng sử dụng chất hữu cơ của cây để sinh trưởng đồng thời hút đạm từ không khí để cung cấp cho cây, một phần tích luỹ lại trong cơ thể chúng.
Tảo lam cộng sinh với bèo hoa dâu và hút đạm tích luỹ lại làm cho bèo hoa dâu có hàm lượng đạm cao, trở thành cây phân xanh rất quý.
Thời gian gần đây, cùng với những tiến bộ của khoa học và công nghệ, các nhà khoa học đã sử dụng công nghệ gen để tạo ra các chủng vi sinh vật cố định đạm có nhiều đặc điểm tốt: khả năng cố định đạm cao, khả năng cộng sinh tốt. Công nghệ sinh học cũng giúp tạo ra những chủng vi sinh vật có đặc tính cạnh tranh cao với các loài vi sinh vật trong đất. Mặt khác, công nghệ sinh học đã cho phép các nhà khoa học tách được gen quy định đặc tính cố định đạm từ vi khuẩn và đem cấy vào nhân tế bào cây trồng, làm cho một số loài cây trồng cũng tạo được khả năng cố định đạm như vi khuẩn.
Hiện nay trên thị trường phân bón nước ta, phân vi sinh vật cố định đạm được bán dưới các tên thương phẩm sau đây:
Phân nitragin chứa vi khuẩn nốt sần cây đậu tương.
Phân rhidafo chứa vi khuẩn nốt sần cây lạc.
Azotobacterin chứa vi khuẩn hút đạm tự do.
Azozin chứa vi khuẩn hút đạm từ không khí sống trong ruộng lúa. Loại phân này có thể trộn với hạt giống lúa.
Vi sinh vật hoà tan lân
. Cây chỉ có thể hút được lân từ đất dưới dạng hoà tan trong dung dịch đất. Vì vậy, cây chỉ có thể hút được lân ở dạng dễ tiêu trong đất. Lân ở dạng khó tan trong đất cây không hút được. Vì vậy, có nhiều loại đất như đất đỏ bazan, đất đen, v.v.. hàm lượng lân trong đất khá cao, nhưng cây không hút được vì lân ở dưới dạng khó hoà tan.
Trong đất thường tồn tại một nhóm vi sinh vật có khả năng hoà tan lân. Nhóm vi sinh vật này được các nhà khoa học đặt tên cho là nhóm HTL (hoà tan lân, các nước nói tiếng Anh đặt tên cho nhóm này là PSM – phosphate solubilizing microorganisms).
Nhóm hoà tan lân bao gồm: Aspergillus niger, một số loài thuộc các chi vi khuẩn Pseudomonas, Bacillus, Micrococens. Nhóm vi sinh vật này dễ dàng nuôi cấy trên môi trường nhân tạo. Nhiều nơi người ta đã đưa trộn sinh khối hoặc bào tử các loại vi sinh vật hoà tan lân sau khi nuôi cấy và nhân lên trong phòng thí nghiệm, với bột phosphorit hoặc apatit rồi bón cho cây. Sử dụng các chế phẩm vi sinh vật HTL đem lại hiệu quả cao ở những vùng đất cây bị thiếu lân.
Một số loài vi sinh vật sống cộng sinh trên rễ cây có khả năng hút lân để cung cấp cho cây. Trong số này, đáng kể là loài VA mycorrhiza. Loài này có thể hoà tan phosphat sắt trong đất để cung cấp lân cho cây. Ngoài ra loài này còn có khả năng huy động các nguyên tố Cu, Zn, Fe… cho cây trồng. Nhiều nơi người ta sử dụng VA mycorrhiza đã làm tăng năng suất cam, chanh, táo, cà phê… Nuôi cấy VA mycorrhiza trên môi trường nhân tạo rất khó. Vì vậy hiện nay các chế phẩm có chưa VA mycorrhiza chỉ có bán rất hạn chế trên thị trường phân bón Mỹ.
Những năm gần đây, trên thị trường phân bón ở một số nước có bán chế phẩm Phospho – bacterin trong có chứa vi khuẩn giải phóng lân dễ tiêu từ các chất hữu cơ.
Vi sinh vật kích thích tăng trưởng cây
. Gồm một nhóm nhiều loài vi sinh vật khác nhau, trong đó có vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn, v.v.. Nhóm này được các nhà khoa học phân lập ra từ tập đoàn vi sinh vật đất.
Người ta sử dụng những chế phẩm gồm tập đoàn vi sinh vật được chọn lọc để phun lên cây hoặc bón vào đất làm cho cây sinh trưởng và phát triển tốt, ít sâu bệnh, tăng năng suất. Chế phẩm này còn làm tăng khả năng nảy mầm của hạt, tăng trọng lượng hạt, thúc đẩy bộ rễ cây phát triển mạnh. Như vậy, chế phẩm này có tác động tương đối tổng hợp lên cây trồng.
Để sản xuất chế phẩm vi sinh vật kích thích tăng trưởng của cây, người ta sử dụng công nghệ lên men vi sinh vật. Ở các nước phát triển người ta sử dụng các thiết bị lên men tự động, công suất lớn. Ở nước ta, đã dùng kỹ thuật lên men trên môi trường bán rắn để sản xuất chế phẩm này, bước đầu cho kết quả khá tốt.
Những năm gần đây ở nước ta đang tiến hành khảo nghiệm chế phẩm EM của giáo sư người Nhật Teruo Higa. Chế phẩm này được đặt tên là vi sinh vật hữu hiệu (Effective microorganisms – EM). Đây là chế phẩm trộn lẫn một nhóm các loài vi sinh vật có ích trong đó có vi khuẩn axitlactic, một số nấm men, một số xạ khuẩn, vi khuẩn quang hợp, v.v.. Tại hội nghị đánh giá kết quả sử dụng EM tại Thái Lan tháng 11/1989, các nhà khoa học đã đánh giá tác dụng tốt của EM như sau:
– Cải tạo lý hoá tính và đặc tính sinh học của đất.
– Làm giảm mầm mống sâu bệnh trong đất.
– Tăng hiệu quả của phân bón hữu cơ.
– Cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao, phẩm chất nông sản tốt.
– Hạn chế sâu bệnh hại cây trồng.
– Góp phần làm sạch môi trường.
Chế phẩm EM còn được sử dụng trong chăn nuôi. Cho gia súc ăn, EM làm tăng hệ vi sinh vật trong đường ruột, làm tăng sức khoẻ, giảm mùi hôi của phân.
EM còn được dùng để làm sạch môi trường nước nuôi thuỷ sản.
Một số điểm cần chú ý khi sử dụng phân vi sinh vật :
Phân vi sinh vật sản xuất ở nước ta thường có dạng bột màu nâu, đen, vì phần lớn các nơi sản xuất đã dùng than bùn làm chất độn, chất mang vi khuẩn.
Phân vi sinh vật sản xuất trong nước thường được sử dụng bằng cách trộn với các hạt giống đã được vảy nước để ẩm hạt trước khi gieo 10 – 20 phút. Nồng độ sử dụng là 100 kg hạt giống trộn với 1 kg phân vi sinh vật.
Các chế phẩm vi sinh vật sản xuất trong nước thường không cất giữ được lâu. Thường sau từ 1 đến 6 tháng hoạt tính của các vi sinh vật trong chế phẩm giảm mạnh. Vì vậy, khi sử dụng cần xem kỹ ngày sản xuất và thời gian sử dụng được ghi trên bao bì.
Chế phẩm vi sinh vật là một vật liệu sống, vì vậy nếu cất giữ trong điều kiện nhiệt độ cao hơn 30oC hoặc ở nơi có ánh nắng trực tiếp chiếu vào, thì một số vi sinh vật bị chết. Do đó hiệu quả của chế phẩm bị giảm sút. Cần cất giữ phân vi sinh vật ở nơi mát và không bị ánh nắng chiếu vào.
Phân vi sinh vật thường chỉ phát huy tác dụng trong những điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp. Thường chúng phát huy tốt ở các chân đất cao, đối với các loại cây trồng cạn.
@copy by cuctrongtrot.gov.vn
Th904
Ý Kiến Của Các Nhà Khoa Học Về Phân Hữu Cơ Vi Sinh
Tiến sĩ MICHAEL TRAN (CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ TẬP ĐOÀN FUSA):
Nếu như đây là lần đầu tiên tìm hiểu về phân bón hữu cơ vi sinh , cứ thử tưởng tượng như thế này: Hãy quan sát con giun đất, tại sao con giun đất nó chỉ ăn đất mà sao nó lại “béo mân mẫn” như vậy? Rõ ràng con giun đất ăn đất và đưa vào bụng nó một bụng đất nhưng nó lại có cấu trúc sinh vật là gồm đạm, máu, vitamin và khoáng chất. Phải chăng trong đất có đạm sinh học, máu và vitamin? Điều gì đã xảy ra trong bụng con giun?
Xin thưa rằng con giun không hề “ăn đất” như chúng ta thấy. Mà giun chỉ có cạp đất đưa vào bụng nó. Tại bụng giun, có chứa sẵn hàng ngàn, hàng triệu các sinh vật bé nhỏ có chức năng lên men số đất mà giun đưa vào bụng. Rồi sau khi được lên men, các chất dinh dưỡng sẽ được tổng hợp và tách ra thành các chất dinh dưỡng mà cơ thể con giun có thể hấp thụ được như đạm sinh học, chất béo, vitamin và khoáng chất. Như vậy giun không hề ăn đất nhé các bạn! Thậm trí giun hấp thụ những loại đạm và vitamin rất bổ dưỡng cho cơ thế sống không kém gì con người.
Th904
Thị trường phân bón đa dạng. Chúng ta nên lựa chọn loại phân bón hữu cơ nào ?
Thắc mắc này cũng là nổi quan tâm của nhiều bà con nông dân hiện nay.
Trước tiên tôi nói về những loại phân hữu cơ truyền thống: Đó là những loại phân chuồng(Phân gà, heo, trâu, bò…), phân bắc, phân xanh (cây đậu, lục bình, rơm rạ…)…Những loại phân này bạn nên xử lí trước khi xử dụng vì trong phân luôn có 1 số độc tố, vi sinh vật gây hại, nấm bệnh, hạt cỏ dại…gây hại cho cây trồng. Bạn nên trộn thêm vôi, lân…ủ nhằm tiêu diệt các loại nấm bệnh cũng như các yếu tố gây hại. Tùy theo số lượng và loại phân mà thời gian xử lí lâu hay mau. Khi gần xử dụng Bạn nên mua thêm vi sinh (hiện nay có bán phổ biến trên thị trường với 3 chủng chính là phân giải cenluloze, cố định đạm, phân giải lân) về trộn đều sau đó xử dụng sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
Còn với phân hữu cơ vi sinh nếu nói cách đây khoảng 15 năm thì đó là 1 loại phân hoàn toàn mới mẽ và là 1 cái gì đó cao siêu nhưng hiện nay để sản xuất phân hữu cơ vi sinh thật sự đơn giản:
Với nguyên liệu chính là than bùn (bùn trấp), thêm 1 số trung vi lượng, vôi… cho vào bồn chuyên dụng trộn bê tông trộn đều rồi phun vi sinh vào là có thể đóng bao bán ra thị trường. Lưu ý đây là cách làm ăn chụp giựt của đa số những công ty , doanh nghiệp nhỏ lẻ hiện nay, họ sản xuất nhưng chưa bao giờ dám bán 1 bao nào tại địa bàn nhà máy hay công ty đóng (trong khi lợi thế cạnh tranh của họ là rất lớn về chi phí vận chuyển…) Có người nói Bụt nhà không thiêng? Sự thật như thế nào?
Trong than bùn có axít Humix là 1 loại axít kích thích sinh trưởng cây trồng, một số Công ty lớn đã li trích axít này làm phân bón lá, xác bã còn lại đem sản xuất phân vi sinh làm giảm hiệu quả phân bón.
Việc xử dụng phân hữu cơ vi sinh trong nông nghiệp hiện nay là điều đương nhiên nhưng xử dụng như thế nào và loại nào là hiệu quả?
– Nếu có nhu cầu lớn Bạn nên chủ động đến thăm nhà máy. Nếu không Bạn nên chọn lựa các loại có bao bì, nhãn mác, giấy tờ đầy đủ.
– Phân không quá khô (khô như vậy vi sinh sẽ khó tồn tại), không quá ướt (vì loại than bùn k1m chất lượng hay thêm cá phụ gia như đất vào), Phân phải có sinh khối lớn (độ tơi xốp)…Không có mùi khai nếu có do nhà sản xuất thêm amoniac để tăng lượng Đạm giúp cây mau phát triển.
– Có thể tham khảo kinh nghiệm của những người đã xử dụng hay có thể mua thử mỗi loại 1 bao về dùng thử để xem hiệu quả.
– Khi xử dụng để tăng hiệu quả không nên bón phân để phơi trên mặt đất, cần lấp đất hay rơm rác và tạo ẩm độ để vi sinh vật phát triển.
Th904
Những hiểu biết cơ bản về phân hữu cơ
Chất hữu cơ trong đất được coi là một tiêu chí để đánh giá độ phì nhiêu của đất. Cho nên đất nào có hàm lượng chất hữu cơ cao hơn thì đất đó sẽ được đánh giá tốt hơn.
Ví dụ, 2 loại đất có nguồn gốc phát sinh gần giống nhau nhưng kết quả phân tích cho thấy 1 loại đất có hàm lượng chất hữu cơ là 1,05% và 1 loại đất có hàm lượng chất hữu cơ là 5,3%, thì chưa cần xem các tiêu chí nông hóa hay vật lý khác, có thể nghĩ ngay là loại đất có hàm lượng chất hữu cơ 5,3% sẽ có độ phì nhiêu tốt hơn.
Tại sao lại nói như vậy? Vì đất có hàm lượng chất hữu cơ cao trước hết sẽ có tính chất vật lý tốt hơn, đất được trở nên tơi, xốp, hạt đất không bị rời rạc hay quá kết chặt.
Nếu là loại đất trồng màu, thì đất chứa nhiều không khí, vi sinh vật hoạt động mạnh, các loại giun đất cũng hoạt động mạnh làm đất càng thêm tơi xốp hơn.
Đất có khả năng giữ ẩm tốt hơn nên tránh được hạn tốt hơn. Chất hữu cơ lại có khả năng đệm tốt nên giữ cho độ pH của đất ít thay đổi, có khả năng giữ các chất khoáng do ta bón vào tốt hơn để rồi cung cấp dần dần lại cho rễ cây tốt hơn.
Chính vì vậy các nhà khoa học khuyên cần phải bón phân hữu cơ cho đất hay ít ra là bón trả lại một phần chất hữu cơ do cây đã lấy đi mỗi vụ.
Trong sản xuất, có nhiều loại phân hữu cơ, tạm thời phân ra các nhóm sau:
–Nhóm phân hữu cơ truyền thống, bao gồm các loại phân gia súc, gia cầm như chất thải của trâu, bò, lợn, gà, vịt, dê, cừu. Các loại chất thải này nếu sử dụng nguyên chất thì có hàm lượng dinh dưỡng khá cao. Ví dụ, trong phân bò tươi có chứa chất đạm khoảng 0,341%, phân trâu có chứa 0,306% còn trong phân lợn có 0,669% chất N.
Nhưng trong phân chuồng, do cần có lượng phân nhiều nên thường cho thêm chất độn như rơm, rác, lá cây, cỏ… Hàm lượng dinh dưỡng trong phân chuồng có nhiều hay ít tùy theo lượng chất độn được cho thêm vào, nhưng chắc chắn là ít hơn phân nguyên chất rất nhiều.
Ngoài các chủng loại phân nói trên ta còn có phân bùn ao, phân bùn của nhà máy đường, phân xanh, phân rác các loại khác.
–Nhóm phân hữu cơ chế biến công nghiệp, bao gồm:
Phân hữu cơ: Có hàm lượng hữu cơ khoảng 20%, chứa chất đạm từ 2% trở lên, tỷ lệ C/N khoảng 12 (chất hữu cơ so với chất đạm).
Phân hữu cơ khoáng: Có hàm lượng hữu cơ phải chiếm từ 15% trở lên và tổng số N+P+K phải được 8% trở lên (8 – 18%).
Phân hữu cơ sinh học: Hàm lượng các axit Humic, Fulvic hay Humin hoặc tổng các axit amin, vitamin hay hợp chất sinh học khác phải đạt từ 5% trở lên.
Phân hữu cơ vi sinh: Chất hữu cơ trên 15%, có ít nhất 1 vi sinh vật hữu ích có mật số bào từ ít nhất là 1,5 x 106/gr hoặc ml.
Phân bón khoáng hữu cơ: Có chất hữu cơ chiếm từ 5 – 15%, chất khoáng khoảng 18% trở lên.
Phân vi sinh vật: Trong phân chứa ít nhất 1 chủng vi sinh hữu ích, có số bào tử sống tối thiểu 1,5 x 108.
Bón phân hữu cơ các loại cho cây trồng nói chung là rất tốt. Nhưng muốn biết phân hữu cơ có đảm bảo đủ dinh dưỡng cho cây trồng không trước hết ta cần biết rằng, cây nào cũng cần có ít nhất là 16 chất dinh dưỡng thiết yếu, đó là N,P,K Ca, Mg, S, Si và các chất vi lượng.
Các chất này đều có mặt trong các loại phân hữu cơ. Nhưng hàm lượng rất khác nhau.
Trong lúc đó, để có 3 tấn tiêu đen khô, cây lấy đi từ đất và từ các loại phân bón vào khoảng 400 kg N, 220 kg P và 350 kg K. Như vậy ta cần phải biết các loại phân đó có chứa bao nhiêu chất khoáng và hàm lượng bao nhiêu mới tính đủ, tính đúng cho cây.
Vì vậy nếu chỉ bón cho cây bằng phân hữu cơ các loại thì ta cần cung cấp đủ số lượng để có đủ các chất khoáng thiết yếu thì sẽ vẫn có năng suất cao. Và càng bón phân hữu cơ lâu dài thì làm cho tính chất của đất sẽ tốt hơn, chứ không phải nghèo đi.
@copy by www.giatieu.com
Th1112