Một số hiểu biết khi sử dụng nấm Trichoderma và nấm kí sinh
Về nấm Trichoderma và nấm ký sinh côn trùng
*Nấm Tricho tấn công nấm gây hại có trong tự nhiên bằng các con đường:
– Cạnh tranh nguồn thức ăn.
– Tiết chất kháng sinh gây chết nấm gây hại rồi tiếp tục tiết Enzym phân hủy và ăn xác nấm gây hại.
-Tricho cũng tấn công tuyến trùng bằng cách tiết chất kháng sinh gây chết tuyến trùng, sau đó bao vây với số đông rồi giết chết tuyến trùng, gọi là cơ chế thắt chặt cổ tuyến trùng.
*Nấm ký sinh côn trùng chủ yếu có 3 dòng : nấm trắng, nấm xanh và nấm hồng.
Đối với nấm ký sinh trên côn trùng ( NKSCT) Tricho không cạnh tranh với NKSCT vì hai loài này dùng hai nguồn thức ăn khác nhau.Tuy nhiên Tricho tiết kháng sinh làm ức chế hoạt động của NKSCT và có thể giết chết nó với quân số cao hơn.
Vì vậy, nhà sản xuất khuyến cáo không nên sử dụng 2 sản phẩm này chung một lần. Nên sử dụng NKSCT trước ít nhất 15 ngày sau đó mới sử dụng Tricho.
Trong trường hợp sâu bệnh hoành hành thành dịch, nhà nông sử dụng NKSCT sau khi đã sử dụng Tricho thì NKSCT vẫn có thể hoạt đông được (nhưng thời gian tối thiểu phải sau 15 ngày) hiệu lực tuy có giảm bởi NKSCT được rắc, tưới tập trung vào cổ rễ sau đó theo dòng nước phân tán theo hệ rễ (nơi côn trùng tập trung), hoặc phun lên cây để tiêu diệt nhiều loài côn tùng gây hại.Thực tế trong tự nhiên, tất cả các loài vi sinh vật có lợi cũng như có hại đều cùng tồn tại và sinh sôi ở thế cạnh tranh nhau.
Vi nấm sợ chất hóa học, vậy tại sao trộn vi nấm vào phân (có chứa các thành phần hóa học)?
Cần phân biệt như sau:
-Thuốc hóa học BVTV như thuốc trừ sâu bệnh, côn trùng… các loại thuốc này đều gây hại cho động vật và vi sinh vật.
– Thuốc trừ cỏ và thuốc hóa học BVTV có gốc canazon (ví dụ hecxaconazon) là hai loại hủy diệt vi nấm hữu ích.
Các loại phân bón như NPK, các muối kim loại trung vi lượng như canxi, ma nhê, clo, lưu huỳnh, đồng, sắt, kẽm, măng gan, bo không gây hại cho động vật vi sinh vật và cho cả thực vật nếu sử dụng đúng liều lượng.
Vì vậy, việc trộn các loài nấm hữu ích vào các sản phẩm phân bón thuần túy không gây hại cho vi nấm. Một số còn là nguồn thức ăn cho vi nấm hữu ích như các amino axít (cũng là những chất hóa học). Các loại phân bón này chỉ làm cho môi trường đất bị ngộ độc (làm cho pH xuống dưới 5,5) do những gốc hóa học khó phân hủy, tích lũy trong nhiều năm canh tác và chúng làm thay đổi độ pH của đất, làm cho các loại vi nấm hữu ích bị ức chế hoặc chết. Thế cho nên vì sao trong rừng cây cỏ chen nhau mọc mà cây cỏ, đất đai trong rừng vẫn tốt?
Ngưỡng pH lý tưởng cho: – Nấm Tricho : 6,5 – 6,8 ; – Vi nấm KSCT: 6,8 – 7,2.
Chúc bà con thành công!
Tiêuphong (Giatieu.com)
Th519
Hướng dẫn 4 công thức điều chế thuốc trừ sâu từ thảo mộc
Hướng dẫn 4 công thức điều chế thuốc trừ sâu từ thảo mộc
Sâu bệnh hại là một trong những nỗi lo luôn canh cánh trong lòng của người trồng rau, làm vườn. Mặc dù các loại thuốc BVTV cho hiệu quả nhanh nhưng gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người sử dụng. Thay vào đó, bà con có thể tự pha chế thuốc trừ sâu bằng các loại thảo mộc thân thiện với môi trường.
1.Điều chế thuốc sâu từ ớt, tỏi, gừng
– Tác dụng: Ớt, tỏi, hành, gừng là một trong những loại củ quả có chứa một hàm lượng axit cao gây tác động mạnh đến các bộ phận nhạy cảm đến mắt, da của những loại sâu bệnh hại. Do đó có thể diệt trừ và xua đuổi chúng
– Pha chế: Bạn cần chuẩn bị các nguyên liệu như sau: 1kg tỏi, 1 kg ớt, 1kg gừng trộn với 3 lít rượu.Đầu tiên,bạn giã nhỏ gừng,tỏi ớt tiếp theo ngâm vào các chum hay thùng kín,đổ khoảng 1lit rượu vào và bịt kín. Trong quá trình ngâm không nên để thùng ngâm ở những nơi quá nắng nóng, hoặc để hở, tránh làm bay mất hơi rượu.
– Ngâm từng loại nguyên liệu riêng hay ngâm chung cả 3 loại vào 1 thùng. Nếu ngâm riêng thì 1kg nguyên liệu ta ngâm chung với 1 lít rượu. Nếu ngâm chung thì ngâm cả 3 loại với 3 lit rượu…Đây là nước cốt tinh để pha chế khi phun
-Thời gian ngâm tốt nhất là 15 ngày,mục đích là để cho các chất gây cay có trong nguyên liệu trộn đều vào rượu. Như vậy, tỷ lệ các chất gây cay trong dung dịch ngâm sẽ có nồng độ đậm đặc nhất, tốt cho việc tiêu diệt sâu hại.
2. Thuốc trừ sâu sản xuất từ cây hành tăm
– Tác dụng: Chống nấm, trừ sâu, xua đuổi sâu bọ nhẹ. Tiêu diệt các loại côn trùng,sâu: Rệp vừng, bướm hại bắp cải, bét, ruồi hại cà chua, ve, bọ bay màu trắng, bệnh chết cây non do quá nhiều nước, bệnh tàn rụi muộn, bệnh đốm lá cà chua, chuột nhắt và chuột chũi…
– Hướng dẫn pha chế: Ta cần 10-100g củ hành tăm giã nhỏ với 1 lít nước, để trong thùng có nắp 4-7 ngày trước khi phun.
3. Thuốc trừ sâu sản xuất từ lá cà chua
– Tác dụng: Trong lá cà chua có chứa nhiều Alkaloids, một loại hóa chất có tác dụng diệt và đuổi côn trùng rất hiệu quả, nhất là rệp vừng, bướm đêm, sâu rầy, bù lạch vv…
– Cách pha chế: Dùng khoảng 2 bát lá cà chua nghiền nát ngâm với 2 cốc nước qua đêm, sáng ra gạn lấy nước trong, pha thêm hai cốc nước rồi đem phun vào cây trồng, nhất là loại rau thơm, gia vị.
– Chú ý: Lá cà chua rất độc, gia súc không ăn. Bạn nên trồng xen canh một vài cây cà chua trong vườn để xua đuổi vài loài sâu bọ.
4. Chế thuốc trừ sâu từ thuốc lá
– Tác dụng:Thuốc lá cũng là một loại thảo mộc giúp tăng khả năng diệt trừ sâu bọ.Điển hình như các loại bọ trĩ,sâu đục thân,bọ xít dài,sâu cuốn lá nhỏ…các loại rệp ngô,rệp đậu tương,sâu khoang, sâu ba ba trên rau muống, sâu khoang ở cây táo, nhện đỏ ở cam chanh…
– Cách pha chế: Để chế thuốc người ta lấy lá thuốc cho vào ngâm 1 ngày trong nước lã với tỷ lệ 1 kg lá/ 20 – 40 lít nước. Sau đó vớt ra nghiền nhỏ rồi lọc đem đi phun.
Gia đình chị Nguyễn Thị Thanh Tâm, thôn 9, xã Tào Sơn cũng đang sử dụng loại thuốc trừ sâu sinh học này cho toàn bộ 3 sào bí của gia đình. Nhờ việc sử dụng chế phẩm trừ sâu chiết xuất từ thảo mộc nên số lượng sâu hại giảm đáng kể, chi phí phun thuốc giảm 40% – 50%. Cách làm này cũng được gia đình chị Tâm tiến hành cho các loại cây trồng khác. Loại hỗn hợp này có thể tiêu diệt được 85 – 90% sâu hại. Thời gian bảo quản và sử dụng thuốc tự chế này lên tới 4- 5 tháng.
Hiện nay loại thuốc trừ sâu này được nhiều hộ dân dùng phun đại trà cho các loại rau màu, cây ăn quả, lúa để vừa đảm bảo sức khỏe cho bản thân vừa cung cấp sản phẩm tốt cho cộng đồng. Với nhiều ưu điểm hơn hẳn so với những sản phẩm thuốc trừ sâu khác như: có thể trừ được nhiều loại sâu, bọ gây hại như sâu tơ, sâu đục thân, sâu đục quả, nhện đỏ, bọ xít xanh… hiệu lực của thuốc kéo dài do thuốc có khả năng diệt trừ được cả trứng, sâu non và sâu trưởng thành; không gây ô nhiễm môi trường, nguồn nước.
Nguồn: Trung Tâm Chế Phẩm Sinh Học
Th513
Phân biệt phân trùn 3,4 tháng và trên 6 tháng
Phân biệt phân trùn quế 3,4 tháng và trên 6 tháng
Phân trùn quế là sản phẩm của quá trình con trùn tiêu thụ thức ăn và thải ra. Phân trùn quế hiện nay được sử dụng rộng rãi cho cây công nghiệp, ăn trái, rau màu, hoa, dược liệu…. Với hàm lượng chất hữu cơ cao cộng thêm hàm lượng các vi sinh vật có sẵn tự nhiên giúp tăng cường quá trình cải tạo đất cũng như phát triển bộ rễ, tăng khả năng đề kháng cho cây trồng. Tốt là vậy, nhưng nhiều bà con thắc mắc: có một số phân trùn quế bán giá rất rẻ và còn lẫn phân bò tươi. Tại sao như vậy???.
Làm sao để mua được phân trùn quế đúng chuẩn??? Chúng ta cùng phân biệt phân trùn quế 3,4 tháng và phân trùn trên 6 tháng nhé
– phân trùn quế nuôi 3,4 tháng thu hoạch: có mùi hôi của phân bò còn lẫn, màu nâu vàng. Khi bóp ra, chảy nước màu vàng, nhìn bằng mắt thấy lẫn phân bò tươi . Hiện tượng này là do thu hoạch quá sớm, phân chưa được hoai hoàn toàn. Phân trùn chưa đủ tháng này khi đem đi phơi sấy, giảm ẩm và sàng lọc, sản phẩm phân trùn cao cấp vẫn có màu nâu vàng, còn mùi nhẹ của phân bò. Đối với phân trùn 3,4 tháng, hàm lượng các chất : hữu cơ, vi sinh rất thấp.
– Phân trùn quế nuôi trên 6 tháng: màu nâu đen, k còn mùi hôi của phân bò tươi. Bóp nhẹ chảy nước màu nâu, mùi tanh nhẹ của con trùn. Phân tơi xốp, đem đi phơi sấy, giảm ẩm, sàng lọc ra phân trùn nâu đen, hoàn toàn không có chứa màu vàng của phân bò. Hàm lượng chất hữu cơ của phân trùn trên 6 tháng từ 25% trở lên. Các nhóm vi sinh trên 10^6.
Để thu hoạch được 1kg phân trùn tươi, phải mất 6kg phân bò tươi và hơn 6 tháng. Do vậy, phân trùn quế nuôi trên 6 tháng giá thường cao hơn loại 3,4 tháng nhiều. Điều này đồng nghĩa với việc chất lượng của hai loại hoàn toàn khác nhau.
Th406
Bệnh rệp bông hại cam sành và cách phòng trừ
Bệnh Rệp bông (Planococcus lilacinus) là một loài côn trùng đa thực, chúng gây hại hàng chục loại cây trồng khác nhau, trong đó có cây cam sành.
Trồng cam sành
Cả con trưởng thành và con ấu trùng đều bu bám và chích hút nhựa của những chồi non, lá non, nụ Hoa, hoa, trái non… của cây cam sành. Nếu mật số cao có thể làm cho chồi non, lá non bị xoắn vặn không phát triển được, nụ hoa, hoa và trái non có thể bị rụng. Để phòng trừ rệp bông có kết quả, xin giới thiệu kinh nghiệm những nhà vườn ở Cái Bè (Tiền Giang):
– Không nên trồng cam quá dày, thường xuyên tỉa bỏ những cành bị sâu bệnh, cành nằm khuất trong tán lá không có khả năng cho trái… để vườn thông thoáng.
– Kiến lửa, kiến cao cẳng, kiến hôi… thường sống cộng sinh với rệp, chúng ăn chất đường mật do rệp tiết ra và tha rệp đến những nơi có nhiều thức ăn mới. Để hạn chế rệp lây thì phải diệt kiến bằng cách thường xuyên dọn sạch Cỏ rác, lá cây mục tủ ở xung quanh gốc để phá vỡ nơi trú ngụ của kiến. Khi xịt thuốc trừ rệp nên xịt cả những nơi có nhiều kiến tập trung trên cây. Nếu dưới gốc cây có nhiều kiến thì dùng thuốc Padan, Basudin hoặc Regent hột rải xung quanh gốc để diệt kiến.
– Kiến vàng (Oecophylla smaragdina) là thiên địch tiêu diệt côn trùng gây hại cho cây cam quýt. Nên nuôi kiến vàng trong vườn cam để chúng diệt sâu hại, rầy rệp. Nếu vườn đã nuôi kiến vàng thì phải hạn chế phun thuốc hóa học, vì loài kiến này rất dễ chết bởi thuốc.
– Do rệp bông có khả năng gây hại nhiều loại cây, vì thế mỗi khi xịt thuốc diệt trừ rệp trên cây cam sành cũng phải phun xịt diệt trừ rệp trên cả những cây trồng khác đang có rệp trong vườn để chúng không lây lan trở lại cây cam sành.
–Kiểm tra vườn cam thường xuyên (nhất là giai đoạn cây đang có đọt non, lá non, bông, trái non…) để phát hiện sớm và phun thuốc diệt trừ rệp ngay từ khi mật độ còn thấp, không cho chúng tích lũy số lượng gây hại mạnh. Có thể sử dụng một trong các loại thuốc như: Dầu khoáng DC-Tron Plus 98,8EC, Applaud 10WP; Supracid 40EC/ND; Suprathion 40EC; Bitox 40EC/50EC; Butyl 10WP… phun trực tiếp vào chỗ có rệp đeo bám. Trước khi phun thuốc nhiều người đã phun bằng nước có pha xà bông để rửa trôi bớt lớp phấn sáp bên ngoài con rệp, khi xịt thuốc, thấy hiệu quả của thuốc cao hơn.
– Có bà con còn dùng máy bơm nước có áp suất cao (khi tưới vườn) xịt mạnh tia nước vào chỗ có nhiều rệp, rệp cũng bị rửa trôi rất nhiều.
Nguồn: kĩ thuật nuôi trồng
Th403
Cách phân biệt trùn quế thật và giả
Giá trị của phân trùn quế còn tùy thuộc vào mỗi người sử dụng như thế nào để có giá trị khác nhau, những vùng không thể phát triển được trùn quế thì giá trùn quế cao, phân trùn quế cũng vậy, còn những vùng phát triển mạnh được trùn quế thì giá thấp hơn vì sản lượng đầu ra quá lớn, và nguồn sản phẩm có nguồn gốc từ những vùng có thể phát triển mạnh được trùn quế khó mà có hàng giả được.
Tại sao lại có phân trùn quế giả, vì phân bò có giá trị thấp hơn, sản lượng cao hơn nhưng vẫn có người làm giả để tung ra thị trường nhằm kiếm lợi nhuận cao từ nông dân, ở những vùng có cây công nghiệp phát triển thường lại không phát triển mạnh về chăn nuôi nên ít có nguồn phân bón dồi dào và giá phân tại các nơi này thường có giá cao, và những hộ kinh doanh phân bón hữu cơ thường kinh doanh theo kiểu di động nên một số người không cần uy tín mà làm việc trái với lương tâm, phân trùn vốn có giá trị cao hơn nhưng sản lượng thì có giới hạn vì ít nhất mất đến 6 tháng mới có thể thu hoạch phân trùn quế để cung cấp đến người tiêu dùng nên càng dễ bị làm giả để bán lại cho người nông dân.
Không chỉ có người nông dân mới bị nạn phân trùn giả, mà những người trong thành thị vốn ít đất nhưng rất yêu cây trồng cũng bị tương tự, vì thành thị rất thiếu đất trồng nên giá trị của các loại đất sạch, phân hữu cơ đều khá cao, nhưng để làm phân thật thì lợi nhuận sản phẩm không đủ thỏa mãn cho những người bất chính, nên họ đã liều mình làm những loại phân mang tên “phân trùn quế” để đưa ra thị trường.
Nếu những người đã từng sử dụng nhiều phân trùn quế rồi thì rất dễ nhận ra đâu là phân giả, đâu là phân thật, nhưng phân đã qua chế biến lại khó phân biệt hơn là phân trùn còn thô, còn người mới sử dụng thì hầu như không biết đâu là giả hay thật, và đôi lúc phải trả tiền cho những sản phẩm làm hại đến cây trồng hoặc không đáng giá như giá trị của nó.
Thật ra phân trùn quế thật có một ít mùi tanh của trùn quế, rất tơi và mịn, có màu nâu sẫm hoặc màu đen tùy vào nguồn thức ăn của trùn quế, nhưng với những đặc tính đó thôi cũng rất khó nhận dạng, và có một cách tuyệt vời khác có thể nhận dạng nữa là ta thả phân vào trong nước và hòa tan vào, bóp ra thật mịn, nếu phân mịn ra và hòa tan trong nước thì đó chính là phân thật và nguyên chất một trăm %, còn phân khác sẽ còn những sợi hay những thứ chưa tiêu hóa hết được và còn xót lại.
Vì trùn quế không thể ăn được những thức ăn khô cứng mà chỉ ăn được những thức ăn mềm và mịn, nên khi nó ra phân cũng vô cùng mịn và mềm, có thể pha loãng ra hết trong nước vẫn được, như tôi đã đề cập thì phân trùn quế tươi có mùi hơi tanh chứ không hôi, đó là mùi của dịch trùn quế, và khi nó khô lại sẽ thành những lớp keo làm dính chặt phân trùn lại thành những khối rất cứng, nhưng khi bỏ vào nước và dùng lực bóp nhẹ thì nó vẫn mịn ra bình thường.
Phân trùn giả như thế nào thì chưa biết nhưng phân trùn quế thật là vô cùng an toàn cho cây, cho người sử dụng, cho môi trường và cho xã hội, nên khi không nhận dạng được phân thật hay giả thì hãy bón thử cho một vài cây nào đó, nếu có dấu hiệu xấu thì phân đó chắc chắn phải xem lại. Và là một người chăn nuôi trùn quế trong nhiều năm qua tôi luôn mong muốn các bạn được sử dụng phân trùn thật để có những trải nghiệm tuyệt vời với những lợi ích mà phân trùn mang lại.
Nguồn Nguyễn Văn Sang
Th402
Thông báo về việc xác nhận thông tin mạo danh
THÔNG BÁO GỬI QUÝ KHÁCH HÀNG, ĐỐI TÁC
v/v: Xác nhận thông tin mạo danh
Kính gửi : Quý Khách hàng, đối tác, đại lí trên toàn quốc
Hiện nay, có rất nhiều đơn vị THƯƠNG MẠI phân trùn quế đã mạo danh trực thuộc trại TRÙN QUẾ PHƯỚC HIỆP. Các đơn vị đó cho nhân viên đi chào hàng, cung cấp các sản phẩm phân trùn quế nuôi chưa đủ tháng ( còn lẫn phân bò) và dịch trùn quế ra thị trường dưới danh nghĩa là công ty thuộc TRÙN QUẾ PHƯỚC HIỆP. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến Quý khách hàng, đối tác cũng như ảnh hưởng đến uy tín của trại trùn chúng tôi.
Nay trại TRÙN QUẾ PHƯỚC HIỆP kính gửi thông báo này đến đại lí, đối tác, quý khách hàng trên toàn quốc xác nhận: trại TRÙN QUẾ PHƯỚC HIỆP là cơ sở nuôi trùn quế và cung cấp phân trùn quế, dịch trùn quế tại địa chỉ : Ấp Phước Hòa, Xã Phước Hiệp, Huyện Củ Chi, Tp HCM. Tất cả các NHÃN sản phẩm: phân trùn quế, dịch trùn quế đều để địa chỉ trên và chỉ có một CƠ SỞ DUY NHẤT, một website duy nhất là www.trunque.vn. Những sản phẩm của các công ty khác không trực thuộc đơn vị chúng tôi, và trại trùn Phước Hiệp không chịu trách nhiệm về chất lượng của các sản phẩm mạo danh trại trùn. Chúng tôi sẽ làm công văn gửi cơ quan có thẩm quyền “ tố cáo” các đơn vị đang mạo danh trực thuộc trại trùn để đảm bảo quyền lợi cho quý khách hàng, đối tác, đại lí.
Khi nhận được thông tin công ty nào đó trực thuộc trại TRÙN QUẾ PHƯỚC HIỆP, quý khách hàng, đối tác, đại lí vui lòng phản hồi qua hotline 0909.822.037-0898.135.970- 0908.822.037.
Chân thành cảm ơn quý khách hàng, đối tác, đại lí đã tin tưởng và ủng hộ trại trùn trong suốt 15 năm qua. Kính chúc quý khách hàng, đối tác, đại lí nhiều sức khỏe và kinh doanh thuận lợi.
Trân trọng./.
Củ Chi, 02/04/2017
Chủ Cơ Sở
Nguyễn Văn Dụm
Th313
Quy trình kĩ thuật bón phân cho cây sầu riêng – phần 1
1. Xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng
Các chất dinh dưỡng có vai trò hết sức quan trọng giúp ổn định và tăng năng suất cho cây. Cây sầu riêng cần được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, trung và vi lượng. Thiếu hoặc thừa một trong những yếu tố này đều ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển không bình thường của cây.
Nhu cầu dinh dưỡng của cây tăng theo tuổi cây và mức năng suất. Sầu riêng thu bói có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn cây kiến thiết cơ bản và cây trong vườn ươm. Sầu riêng kinh doanh có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn so với sầu riêng mới thu bói. Năng suất sầu riêng càng cao, càng cần phải bón nhiều phân hơn.
Sầu riêng rất cần kali nhưng không nên sử dụng kali clorua (KCl) mà phải sử dụng Kali Sulphate (K2SO4) và trung-vi lượng (TE) vì KCl làm sầu riêng giảm mùi thơm.
Khi cây sầu riêng cho năng suất quả 6.720 kg đã lấy đi 18,1 kg N, 6,6 kg P2O5, 33,5 kg K2O, 5,4 kg MgO và 2,6 kg CaO.
Đối với sầu riêng tất cả các chất đa lượng và các chất vi lượng như Kẽm, Bo… đều cần thiết cho giai đoạn đậu quả và phát triển quả, trong đó, N, P và là cần thiết nhất trong giai đoạn phát triển quả, K là chất dinh dưỡng cần thiết trong giai đoạn sau của sự phát triển quả cho đến khi thu họach.
Sau đây là một số vai trò của các nguyên tố N, P, K và S đối với sầu riêng:
+ Đạm (N): Đây là thành phần quan trọng cho tất cả bộ phận của cây và đặc biệt cần thiết cho sự sinh trưởng dinh dưỡng.
Đạm cần thiết cho sự phát triển của lá, thân cành, hoa, quả, hạt. Do vậy, cần bón đạm đầy đủ cho cây sầu riêng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc 5 đúng (đúng loại, đúng nhu cầu, đúng loại đất, đúng liều lượng và đúng phương pháp), ngoài ra còn phải đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Cây đủ đạm lá xanh tốt, cây phát triển khỏe, quả phát triển đều.
Sầu riêng được bón phân đầy đủ
Sầu riêng được bón phân đầy đủ
Thiếu đạm: Lá có màu xanh vàng hay xanh noãn chuối. Thiếu nặng lá rụng nhiều, năng suất giảm. Hiện tượng thiếu đạm thường xảy ra trên đất nghèo dinh dưỡng và bón không đủ lượng đạm cây cần.
Thừa đạm: Phát triển thân lá mạnh, lá có màu xanh đậm, dễ bị sâu bệnh tấn công, đậu quả ít, rụng quả nhiều, quả phát triển không bình thường như mất gai, nứt quả…
Quả phát triển không bình thường do dư đạm
Quả phát triển không bình thường do dư đạm
+ Lân (P): Sầu riêng cần lân tương đối ít. Dạng lân dễ tiêu trong đất thường bị giới hạn bởi việc cố định do các phản ứng hóa học, đặc biệt là ở đất chua. Nên thường xuyên bón phân lân với lượng nhỏ. Cần bón lót phân lân trong hố trước khi trồng để giúp cây tăng trưởng trong giai đoạn ban đầu.
Thiếu lân: Lá chuyển màu xỉn, mép lá non ửng đỏ, thiếu nặng lá rụng và cành chết.
+ Kali (K): Kali rất quan trọng khi cây ra quả, lượng kali trong quả rất lớn. Bón thường xuyên phân kali rất cần thiết để duy trì năng suất cao và phẩm chất ngon cho sầu riêng. Với đất nhiều K sẽ cản trở sự hấp thu Ca và Mg. Trong trường hợp này cần bón Ca và Mg nhưng không bón K. Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với các tác động không lợi từ bên ngoài và chống chịu đối với một số loại bệnh. Kali tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét.
Thiếu K: Mép lá chuyển màu vàng cam sau tới màu xám nâu và khô, lá rụng nhiều.
+ Lưu huỳnh (S): Thiếu S, hầu hết lá trên cây chuyển sang màu vàng, xuất hiện những vết như vết bệnh trên lá già. Ở lá non, lúc đầu có màu vàng sáng sau đó chuyển sang màu vàng nhạt, tương tự triệu chứng ở lá già. Lưu huỳnh được bón thông qua phân SA (chứa khoảng 24 % S); phân Super lân (Super lân chứa khoảng 14 % S). …
Ngoài ra, thiếu magiê: phần thịt lá bị vàng và lan dần từ gân chính ra mép lá; thiếu canxi: lá héo vàng từ rìa lá sau lan vào gân chính; thiếu kẽm: các lá và chồi đầu cành không phát triển tốt (rụt đọt), lá không thể nở lớn.
Nguồn: giáo trình nghề trồng câu sầu riêng- BNN &PTNN
Th310
Chất hữu cơ ( HC)- organic matter(OM)
1.Sơ lược về chất hữu cơ, mùn hữu cơ và thang đánh giá độ phì nhiêu của đất.
* Chất hữu cơ của đất:
Toàn bộ các hợp chất hữu cơ có trong đất được gọi là chất hữu cơ của đất.
Có thể chia chất hữu cơ của đất làm 2 phần:
(1) Những tàn tích hữu cơ chưa bị phân giải (rễ, thân, lá cây, xác động vật) vẫn giữ nguyên hình thể.
(2) Những chất hữu cơ đã được phân giải. Phần hữu cơ sau có thể chia thành 2 nhóm:
Phân loại chất hữu cơ, mùn hữu cơ
+ Nhóm những hợp chất hữu cơ ngoài mùn: Nhóm hữu cơ ngoài mùn gồm những hợp chất có cấu tạo đơn giản hơn như: protit, gluxit, lipit, lignin, tanin, sáp, nhựa, este, rượu, axit hữu cơ, anđehit… Nhóm này chỉ chiếm 10% – 15% chất hữu cơ phân giải nhưng có vai trò rất quan trọng với đất và cây trồng.
+ Nhóm các hợp chất mùn: Nhóm các hợp chất mùn bao gồm các hợp chất hữu cơ cao phân tử, có cấu tạo phức tạp, nhóm này chiếm 85% – 90% chất hữu cơ được phân giải, bao gồm 3 thành phần chính: axit humic, axit fulvic và hợp chất humin.
* Thang đánh giá chất lượng hữu cơ và mùn trong đất:
Chất mùn hữu cơ trong đất được coi là một tiêu chí để đánh giá độ phì nhiêu của đất.
Số lượng: Mùn = C% x 100 / 58 = C% X 1,724
– Đất đồng bằng :
+ Mùn nghèo: < 1% + Mùn trung bình : 1 - 2 % + Mùn giàu: > 2%
– Đất đồi núi
+ Mùn rất nghèo: < 1% + Mùn nghèo: 1 - 2% + Mùn trung bình: 2 - 4% + Mùn giàu: 4 - 8 % + Mùn rất giàu: > 8%
Hàm lượng hữu cơ và mùn biến động rất lớn giữa các loại đất, nhìn chung các loại đất nông nghiệp có hàm lượng hữu cơ và mùn không cao. Đa số đất đồi núi của nước ta có hàm lượng chất hữu cơ từ nghèo, có khoảng 20% diện tích đất có hàm lượng chất hữu cơ rất nghèo. Ðất có hàm lượng chất hữu cơ và mùn cao nhất là các đất trên núi cao, quanh năm mây mù che phủ, hoặc đất lầy thụt quanh năm ngập nước, các đất này có hàm lượng OM >= 6%. Ðất nghèo chất hữu cơ nhất là các đất cát hoặc đất bạc màu.
* Tỷ lệ phân giải chất hữu cơ (C:N):
Tỷ lệ C:N được sử dụng một cách rộng rãi như là một chỉ số đánh giá tốc độ phân hủy chất hữu cơ sau khi chúng được bón xuống đất. Những chất hữu cơ có tỉ lệ C:N cao chẳng hạn 40% Carbon và 0.5% Nitơ, sẽ phân hủy chậm hơn so với những chất hữu cơ có tỉ lệ C:N thấp, chẳng hạn 40% Carbon và 4% nitơ. Hàm lượng hữu cơ trong đất sẽ tăng lên nếu chất hữu cơ bổ sung có tỉ lệ C:N cao, vì không có đủ nitơ để sự phân hủy được hữu hiệu. Hơn thế nữa, hàm lượng nitơ thay vì được khoáng hóa bổ sung, lại bị giảm đi do quá trình bất động hóa nitơ của vi khuẩn, do chất hữu cơ bổ sung không có đủ nitơ để chúng phát triển. Chất hữu cơ bổ sung có tỉ lệ C:N thấp sẽ được phân hủy tọn vẹn và nhanh chóng với nitơ được khoáng hóa. Một số nitơ sau khi được khoáng hóa có thể được sử dụng trở lại để phân hủy những chất hữu cơ có tỉ lệ C:N cao trước đó chưa phân hủy được. Bởi vậy, hàm lượng chất hữu cơ trong môi trường nhiều khi sẽ bị giảm đi do quá trình phân hủy vật chất hữu cơ có tỉ lệ C:N thấp mới được thêm vào.
C/N = mức độ phân giải chất hữu cơ
< 8: kiệt > 12: yếu
8 – 12: trung bình
10: cân đối
Mùn/N: 12 -16
H/F : acid humic/acid fluvic > 1
2. Tác dụng của mùn hữu cơ đối với cây trồng:
Chất hữu cơ là phần quý nhất của đất, nó không chỉ là kho dinh dưỡng cho cây trồng mà còn có thể điều tiết nhiều tính chất đất theo hướng tốt, ảnh hưởng lớn đến việc làm đất và sức sản xuất của đất.
Vai trò của chất hữu cơ lớn đến mức vấn đề chất hữu cơ của đất luôn luôn chiếm một trong những vị trí trung tâm của thổ nhưỡng học và đã dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Tác dụng của mùn hữu cơ đối với cây trồng
Chất mùn hữu cơ trong đất ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và năng suất của cây trồng thông qua các đặc tính lý, hóa và sinh của đất như:
– Bản thân chất mùn hữu cơ cung cấp chất đạm, lân, lưu huỳnh và các chất vi lượng một cách từ từ cho cây trồng.
– Chất mùn hữu cơ được xem như là một kho tích trữ dưỡng chất từ phân hóa học Vai trò nầy rất quan trọng, giúp hạn chế việc mất phân sau khi bón vì nếu không chúng bị bốc hơi hoặc rửa trôi đi. Những chất dinh dưỡng được mùn hữu cơ giữ lại nầy sau đó được phóng thích cho cây hấp thụ khi cần thiết.
– Chất mùn hữu cơ cải thiện cấu trúc của đất, làm đất có nhiều lổ rỗng hơn vì thế đất trở nên thông thoáng, giúp sự di chuyển của nước trong đất được dễ dàng, và giử được nhiều nước hơn.
– Chất mùn hữu cơ làm tăng mật số vi sinh vật trong đất, bao gồm cả vi sinh vật có lợi.
Tác dụng của chất hữu cơ đối với cây trồng
Ảnh hưởng của chất mùn đến sự sinh sinh trưởng của cây trồng không phải chỉ đơn thuần bằng những cách trên mà còn có vai trò kích thích cho cây trồng phát triển. Tính kích thích nầy là do sự hiện diện của những chất có chức năng như là những chất điều hòa sinh trưởng thực vật có trong mùn hữu cơ, có hoạt tính tương tự như IAA, Gibberillin, cytokinin. Hoặc là những chất ngăn cản sự phân hủy auxin. như:
– Chất mùn hữu cơ kích thích sự nẩy mầm của hạt và sự tăng trưởng của cây con. Vai trò của chất mùn hữu trong trong việc thúc đẩy sự nẩy mầm của hạt và sự phát triển của cây con đã được nghiên cứu nhiều.
– Chất mùn hữu cơ kích thích sự tượng rễ và sự phát triển của rễ. Tùy thuộc vào chất lượng và số lượng của chất mùn mà mức độ kích thích có khác nhau.
– Chất mùn hữu cơ còn kích thích sự phát triển của chồi.
3. Một số nguồn cung cấp chất hữu cơ dùng làm phân bón hoặc bón trực tiếp cho cây trồng:
a/ Đất mùn hữu cơ từ các ao hồ lâu năm (than bùn): được hình thành do sự tích tụ và phân huỷ không hoàn toàn tàn dư thực vật trong điều kiện yếm khí xảy ra liên tục. Bao gồm cỏ, lau, lách, cây bụi, cây thân gỗ, kết hợp với quá trình kiến tạo địa chất, quá trình bồi tụ, lắng đọng phù sa đã chôn vùi kể cả cây thân gỗ, làm cho hữu cơ tích tụ thành các lớp và tạo thành than bùn.
Hàm lượng hữu cơ tùy theo đặc điểm địa chất, thảm thực vật, thời gian phân hủy yếm khí, sau khi xử lý (phơi khô, nghiền sàng…) được tạm phân loại theo các tiêu chuẩn sau:
Than bùn hữu cơ
+ Than bùn loại 1: Hữu cơ: 30-35% – Màu sắc: đen than – Độ mịn: qua sàng 3,5mm – Độ ẩm: 20-30%
+ Than bùn loại 2: Hữu cơ: 17-25% – Màu sắc: đen nhạt lẫn nâu – Độ mịn: qua sàng 3,5mm – Độ ẩm: 20-30%
+ Than bùn loại 3: Hữu cơ: nhỏ hơn 16% – Màu sắc: nâu đen – Độ mịn: qua sàng 5mm – Độ ẩm 20-35%.
Với các loại than mùn trên chúng ta có thể bón trực tiếp cho cây trồng, trộn cùng đất trồng, dùng làm nguyên liệu để sản xuất phân trộn, phân hữu cơ khoáng, phân hữu cơ vi sinh…
b/ Mùn bã mía từ các nhà máy chế biến mía đường: Các thành phần còn lại sau đường (bã mía, bùn lọc, váng bọt và mật rỉ) đều là phụ phế liệu của nhà máy đường chiếm 29 ÷ 38% khối lượng cây mía, trong đó thành phần bã mía chiếm tỉ khối nhiều nhất (25 ÷ 30% khối lượng cây mía).
+ Với tổng hàm lượng các chất hữu cơ chưa phân hủy từ 35 – 45%, mùn bã mía cần phải được ủ hoai mục trước khi bón cho cây trồng.
+ Hoặc dùng nguyên liệu để chế biến phân hữu cơ vi sinh: Bổ sung vi sinh vật phân giải xenlulo, vi sinh vật khử mùi hôi, ủ lên men, bổ sung vi sinh vật cố định đạm, phân giải lân, bổ sung khoáng đa lượng, trung vi lượng, axit humic… Hàm lượng chất hữu cơ trong thành phẩm thu được từ 10 – 30%.
c/ Vỏ cà phê thô: Hàm lượng hữu cơ > 30%
+ Cần được ủ hoai mục, không nên bón trực tiếp cho cây trồng, hiệu quả thấp và dễ lây nguồn gây bệnh cho cây trồng.
+ Dùng làm nguyên liệu để sản xuất phân bón hữu cơ sinh sinh: Diệt mầm bệnh, tăng quá trình phân hủy xác bã thực vật, gia tăng hàm lượng hữu cơ, tăng sức sống của các vi sinh vật có ích trong phân hữu cơ, bổ sung nấm đối kháng, bổ sung khoáng đa lượng.
4/ Các hợp chất sau khi đã được tách chiết từ mùn hữu cơ hàm lượng cao: Axit humic, Axit Fulvic, Axit Amin (Amino Axit)…: Hàm lượng axit humic đậm đặc từ 20 – 80%.
Axit Humic
5/ Một số nguồn hữu cơ, phân hữu cơ truyền thống:
* Phân chuồng: ưu điểm là chứa đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng đa, trung và vi lượng.
* Phân rác: loại phân này làm từ rơm, rạ; thân lá các cây ngô, đậu, đỗ, vỏ lạc, trấu…
* Phân xanh: tên gọi chung các cây hoặc lá cây tươi được ủ hay vùi thẳng xuống đất để bón ruộng.
* Khô dầu: là bã còn lại sau khi hạt đã ép lấy dầu.
* Tro: Tro là chất còn lại của một số vật sau khi cháy hết và thường có màu xám. Trong nông nghiệp một số nguyên liệu thực vật như cây: sắn, bông, ngô, lá dừa, mạt cưa, v.v… sau khi bị đốt có tỷ lệ tro và chất dinh dưỡng khá cao.
nguồn: camnangcaytrong.com
Th306
sâu bệnh hại trên cây sầu riêng
1) Rầy phấn: Allocaridara malayensis
Đây là côn trùng gây hại rất quan trọng và phổ biến trên sầu riêng. Ở giai đoạn ấu trùng và trưởng thành, rầy gây hại bằng cách chích hút lá non và đọt non, làm cho lá không phát triển, bị biến dạng, cháy mép lá dần dần khô và rụng. Đọt non có thể bị khô và chết, trơ cành mà có thể nhầm với triệu chứng do bệnh. Vết chích do rầy gây ra có thể tạo điều kiện cho nấm bệnh xâm nhập gây hại.
Con trưởng thành dài khoảng 2,5-3,0 mm, cánh trong suốt, toàn thân màu vàng nhạt. Trứng được đẻ thành từng đám trên lá non trong mô lá. Khi mới đẻ trứng có màu vàng, dần chuyển sang màu nâu. Ấu trùng bên ngoài phủ lớp sáp mỏng và các tua sáp kéo dài ở cuối thân. Trưởng thành và ấu trùng tuổi lớn thường di chuyển nhanh khi thấy động.
Rầy phấn phát triển mạnh trong mùa khô. Lây lan nhanh từ vườn này sang vườn khác. Mật độ trong mùa mưa giảm nhanh, tuy nhiên sẽ tăng mật số nhanh khi mùa khô đến. Cây bị hại nặng có lá thưa thớt, quăn queo, lá non rụng nhiều và khô ngọn. Cây không phát triển được tán dẫn đến ra hoa ít, đậu trái kém, trái bị sượng, phẩm chất kém. Rầy tiết nhiều chất mật được tạo điều kiện cho nấm bò hóng phát triển làm đen lá, trái.
Phòng trừ:
– Ngoài tự nhiên có nhiều loài thiên địch của rầy phấn như nhện, bọ rùa Coccinella, Chrysopa sp., và ong ký sinh, do đó cần tạo điều kiện thuận lợi cho các loài thiên địch phát triển để khống chế rầy.
-Tưới đủ nước và bón phân thích hợp cho cây khỏe mạnh. Tăng cường bón phân hữu cơ. Ở miền Đông Nam bộ nên duy trì một lớp cỏ giữ ẩm trong mùa khô.
-Phun nước mạnh trên tán lá để hạn chế sự hoạt động của rầy.
-Phun thuốc khi thấy mật số rầy cao, có thể dùng các loại thuốc trừ sâu kết hợp với thuốc nấm để phòng trừ, thường mỗi cơi đọt nên phun 2 lần cách nhau 15 ngày.
2) Sâu đục trái (Conogethes punctiferalis)
Gây hại khá phổ biến trên các vùng trồng sầu riêng ở nước ta. Ngoài gây hại trên sầu riêng, còn gây hại trên một số cây khác như nhãn, ổi, mãng cầu, chôm chôm… nên việc phòng trừ khó khăn.
Trứng được đẻ trên trái non, nở ra sâu non đục vỏ trái vào bên trong trái và tiếp tục đục cho đến thịt trái. Hóa nhộng ngay trên đường đục hoặc chui ra bên ngoài trái nhả tơ kết kén hóa nhộng trên mặt vỏ trái giữa các gai trái. Giai đoạn này kéo dài khoảng 7-8 ngày.
Trái mọc thành chùm thường bị gây hại ở phần tiếp giáp. Trái non bị hại dễ bị biến dạng và rụng sớm. Vết đục còn tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập gây thối trái. Do sâu có thể gây hại sớm nên phải bao trái sớm mới có hiệu quả.
Nhận diện sâu hại qua vết vết đục trên trái, quan sát phân sâu thải ra bên ngoài vết đục.
Phòng trừ:
Do sâu có nhiều ký chủ khác nhau mà thường được trồng cùng với nhau trong một khu vực nên phải chú trọng phòng trừ cho các vườn xung quanh.
-Trong tự nhiên có các thiên địch của sâu đục trái cần được bảo vệ và phát huy như bọ xít ăn mồi, nhện ăn thịt và kiến vàng….
-Tỉa trái để loại bỏ trái sâu và tiêu huỷ. Tỉa trái còn giúp hạn chế các trái mọc thành chùm dễ bị sâu tấn công.
– Phun trái định kỳ 15 ngày một lần, thuốc trừ sâu cộng với thuốc trừ nấm. Luôn phiên thay đổi gốc thuốc trừ sâu cũng như thuốc nấm.
3) Sâu đục thân.
Sâu đục thân gây hại quanh năm, thường tấn công vào thân, ăn tiện vòng quanh vỏ cây, làm chết phần thân trên, tạo vết thương hở để nấm bệnh xâm nhập.
Phòng trừ : Thường xuyên đi từng gốc để kiểm tra ( 15 ngày / lần ). Khi phát hiện thấy sâu, dùng thuốc trừ sâu nguyên chất bơm vào lỗ sâu hại, hoặc dùng dao bén để moi bắt sâu ra. ngoài ra khi phun thuốc sâu trên lá cũng lưu ý phun vào thân cây để diết bớt ấu trùng .
4) Sâu ăn bông
Bướm đẻ trứng trên chùm bông nở ra sâu non tấn công trên chùm bông. Sâu non ăn phá các phần non của bông làm hư hại hay rụng sớm. Do mật số sâu cao (mỗi bướm cái có thể đẻ từ 50-60 trứng) nên việc phá hại dễ gây thiệt hại đến năng suất mặc dù hoa rất nhiều. Bướm có màu vành nhạt dài 28-32 mm, sâu non có nhiều lông (dạng sâu róm), hoạt động mạnh. Ở Thái lan, sâu ăn bông được xếp là loại gây hại quan trọng.
Phòng trừ:
-Theo dõi định kỳ 2-3 ngày/lần giai đoạn trổ hoa. Phát hiện bướm, tìm diệt ổ trứng và sâu non. Khi sâu mới nở mẫn cảm cao với thuốc nên rất dễ phòng trừ. Thường sâu gây hại trên diện rộng nên cần quan sát tất cả các chùm hoa trên các cây.
-Phát huy vai trò của kiến vàng ngăn chặn và hạn chế sâu.
— Phun trái định kỳ 15 ngày một lần, thuốc trừ sâu cộng với thuốc trừ nấm. Luôn phiên thay đổi gốc thuốc trừ sâu cũng như thuốc nấm.
5) Rầy nhảy: Lawana conpersa
Thuộc loài gây hại ít quan trọng tuy nhiên rầy nhảy có thể gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau như sầu riêng, cam quýt, ca cao, trà, cà phê, cây rừng và cây kiểng … Rầy trưởng thành và ấu trùng đều gây hại bằng cách chích hút trên đọt non, lá non, hoa làm cho cây chậm phát triển hoặc tạo điều kiện cho nấm bồ hóng gây hại.
Trưởng thành trông gần giống như bướm do khi đậu cánh rầy xếp dọc cơ thể như dạng mái nhà, trưởng thành có kích thước 14 mm toàn thân màu trắng, cánh màu trắng có nhiều chấm nâu đen. Trứng được đẻ trên đọt non, lá non, trứng đẻ cắm sâu vào gân lá. Ấu trùng được bao phủ 1 lớp như bông trắng.
Phòng trừ:
– Trong tự nhiên có một số loài nấm có thể gây hại đối với rầy được ghi nhận ở Malaysia là Metarhizium anisopliae var anisophiae đã làm giảm đáng kể mật số của rầy.
-Phun thuốc trừ các côn trùng chích hút cũng hạn chế được rầy nhảy.
6) Rệp sáp (Pseudococcidae)
Rệp sáp gây hại trên cây sầu riêng có nhiều loài, Planococcus sp. thường thấy gây hại trên lá và Pseudococcus sp. thường thấy hại trên trái. Rệp sáp gây hại trên trái phổ biến hon trên cành lá.
Rệp bám trên bề mặt và chích hút chất dinh dưỡng làm cho bộ phận bị hại phát triển kém. Gây hại nghiêm trọng làm cho trái dễ bị sượng. Rệp sáp bài tiết chất mật đường tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển. Trái có rệp sáp và bồ hóng đều không hấp dẫn, khó tiêu thụ và giá bán giảm.
Rệp sáp phát triển mạnh trong mùa khô. Mùa khô cũng là mùa ra hoa kết trái sầu riêng nên trái dễ bị tấn công hơn.
Phòng trừ:
-Bao trái là biện pháp giúp hạn chế một số dịch hại trong đó có rệp sáp.
-Duy trì ẩm độ không quá thấp trong mùa khô bằng lớp phủ xanh trên mặt đất (cỏ phủ đất), bón nhiều phân hữu cơ, tủ đất bằng chất hữu cơ và tưới đủ nước cũng góp phần làm giảm rệp sáp trong mùa khô.
-Tưới phun trên tán tạo ẩm cũng hạn chế được rệp sáp.
-Nhiều thiên địch có sẳn trong thiên nhiên có thể hạn chế rệp sáp như Bọ rùa và Ong ký sinh cần duy trì và phát huy vai trò của chúng.
-Chỉ phun thuốc trong trường hợp cần thiết. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng với thiên địch
-Tỉa bỏ những bộ phận bị hại nặng và tiêu huỷ. Tỉa bỏ trái mọc từng chùm hoặc mọc gần nhau tạo chổ ẩn trú của rệp sáp.
7) Bọ trĩ
Bọ trĩ gây hại khá phổ biến trên một số vườn sầu riêng ở miền Đông Nam bộ trong mùa khô. Ở ĐBSCL bọ trĩ ít phổ biến hơn có thể do ẩm độ trong vườn cao hơn trong mùa khô so với miền Đông Nam bộ.
Bọ trĩ có kích thước rất nhỏ, nhưng có thể quan sát dễ dàng dưới kính lúp. Bọ trĩ tấn công lá non cho đến khi lá gần trưởng thành. Chích hút chất dinh dưỡng trong lá làm cho phát triển kém. Lá bị tấn công có màu sáng bạc, ít thấy màu xanh. Kích thước lá có thể giảm, lá có thể bị biến dạng trong trường hợp nghiêm trọng. Bọ trĩ cũng tạo điều kiện cho nấm bò hóng phát triển làm đen lá, trái. Mặc dù không gây chết cây nhưng cây sinh trưởng phát triển kém làm cho ra hoa đậu quả kém, trái nhỏ, chất lượng giảm.
Phòng trừ
-Duy trì ẩm độ không quá thấp trong mùa khô bằng lớp phủ xanh trên mặt đất (cỏ phủ đất), bón nhiều phân hữu cơ và tủ đất bằng chất hữu cơ trong mùa khô, tưới đủ nước cho cây cũng là biện pháp giảm được rệp sáp trong mùa khô ở miền Đông Nam bộ.
-Dùng vòi nước mạnh tưới lên cây hoặc áp dụng kỹ thuật tưới phun trên tán trong mùa khô kết hợp tưới nước cũng giúp hạn chế dịch hại.
-Chỉ phun thuốc trong trường hợp cần thiết. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng với thiên địch
-Tỉa bỏ những bộ phận bị hại nặng và tiêu huỷ. Tỉa cành tạo tán thông thoáng hạn chế chổ trú ẩn của bọ trĩ.
8) Nhện đỏ
Nhện đẻ từng trứng rải rác trên mặt lá, trứng nhện hình tròn màu đỏ. Nhện đỏ phát triển mạnh trong thời tiết nắng nóng đỗ ẩm thấp, như mùa nắng năm 2015, khả năng sinh sản khá cao, vòng đời rất ngắn, gây hại bằng cách ăn biểu bì mặt lá, tạo thành những chấm trắng li ti và tiết độc tố. Khi bị nhiễm nặng lá chuyển màu vàng và rụng, ảnh hưởng đến khả năng ra hoa đậu trái của cây.
-Phòng trị:
Trong tự nhiên nhện hại bị nhiều loại thiên địch tấn công, như nhện nhỏ ăn mồi…..Cần tạo điều kiện cho thiên địch phát triển cũng hạn chế được tác hại của nhện.
Phun nước lên tán lá trong mùa nắng giúp rửa trôi bớt nhện và tạo độ ẩm cho thiên địch phát triển sẽ làm giảm mật độ nhện đỏ.
Khi mật độ nhện cao ta mới phải dùng đến hóa học. Dùng thuốc có hoạt chất Abamectin, phun ướt đều tán mặt trên và mặt dưới lá. 5 ngày sau phun nhắc lại, nếu nặng cứ 20 ngày phun nhắc lại, 2 lần cách nhau 5 ngày như trên, nhưng lần 2 thay thuốc bằng thuốc có hoạt chất khác.
9) Bệnh thối vỏ chảy nhựa (bệnh Phytophthora) do nấm Phytophthora palmivora
Đây là bệnh quan trọng nhất trên cây sầu riêng không chỉ ở nước ta mà còn trên khắp vùng trồng sầu riêng trên thế giới. Nấm Phytophthora palmivora ngoài tấn công trên vỏ thân gây triệu chứng thối vỏ chảy nhựa còn gây hại trên lá gây triệu chứng cháy lá, trên quả gây thối quả, trên rễ gây thối rễ, trên ngọn non gây hiện tượng chết ngọn. Trong đó, triệu chứng thối vỏ chảy nhựa là quan trọng nhất.
Trên vỏ thân bệnh khó phát hiện sớm mãi đến khi thấy hiện tượng chảy nhựa (mủ) từ vết loét do nấm gây ra. Nếu phát hiện sớm vết loét còn nhỏ, việc phòng trừ nhanh và hiệu quả. Nếu phát hiện muộn, vết loét lan rộng, nhiều vết loét liên kết với nhau làm cho vỏ cây bị huỷ hoại việc phòng trừ sẽ tốn kém, vết bệnh lâu lành, cây suy yếu. Nếu không phòng trừ, cây có thể chết khi nước và chất dinh dưỡng không được chuyển lên cây.
Trên thân cành, quan sát khi thân cây khô ráo, tìm các vết nứt hoặc chảy nhựa, dùng dao bén cạo bỏ phần mô mặt bị chết. Khi thấy bên trong mạch dẫn hoá nâu, thâm đen và hư hại dần là triệu chứng đặc trưng của bệnh.
Trên lá, vết bệnh khởi đầu là những chấm đỏ màu nâu, sũng nước và lan rộng nhanh. Vết bệnh sau cùng thường có dạng gần tròn màu nâu đen sũng nước với rìa màu vàng nhạt nhỏ. Vết bệnh lan rộng nhanh trong điều kiện ẩm độ không khí cao. Vết bệnh cũng có thể bắt đầu từ cuống lá, cành non làm phần phía trên héo nhanh, rũ và chết dần.
Trên trái vết bệnh đầu tiên là một đốm đen nhỏ sũng nước lan rộng nhanh. Vết thối có thể lan sâu làm hỏng phần trong của trái. Trên vết bệnh có thể thấy nấm tạo thành một lớp trên bề mặt màu trắng xám với rất nhiều bào tử sẳn sàng lây lan qua gió mưa.
Ngoài gây hại trên sầu riêng, nấm có nhiều ký chủ khác như cây cao su, mít… …
Phòng trừ:
-Nguồn bệnh có thể có trong bầu đất và cây con. Do đó phải sử dụng cây giống sạch bệnh.
-Cần chăm sóc cây tốt, khoẻ mạnh để tăng sức đề kháng cho cây như cung cấp nước phân bón hợp lý, phủ đất trong mùa khô ..…
-Trồng cây trên mô, líp để thoát nước thuận lợi.
-Mật độ cây trong vườn ươm vừa phải, tránh trồng xen quá dày.
-Tỉa cành tạo tán để vườn cây thông thoáng.
-Tỉa và tiêu huỷ các nguồn bệnh, ngăn ngừa lây lan. Bệnh có thể lây lan qua dụng cụ chăm sóc, thu hái, giày dép, phương tiện vận chuyển….
-Hạn chế gây thương tích cho cây khi chăm sóc, vận chuyển. Phòng trừ các côn trùng gây vết thương cho cây. Vết cắt cần quét thuốc trừ nấm.
-Diệt mối và kiến làm tổ lên cây.
-Bón nhiều phân hữu cơ ( 5-60 kg phân hữu cơ hoai/cây/năm). Nên sử dụng phân gà, phân rác vi sinh, phân bò… được ủ hoai.
-Vết bệnh còn nhỏ có thể cạo bỏ phần mô chết, bôi thuốc, Aliette 80 WP, Ridomil, Metalaxyl pha 10 %.
-Phun tán cây , Aliette 80 WP, Ridomil, Metalaxyl…Theo hướng dẫn trên bao bì.
-Dùng các chế phẩm sinh học là hướng đang được nghiên cứu áp dụng như bón phân hữu cơ bổ sung vi sinh vật có ích như nấm Trichoderma.
-Tiêm cây với thuốc Phosphonate là một kỹ thuật mới được Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam phát triển. Phương pháp này có hiệu quả và giảm được chi phí khoảng 40% so với biện pháp phun thuốc.
Biện pháp tiêm cây với Phosphonate
Phosphonate là muối Potassium của acid phosphorous được trung hòa đến pH 6.5-7.0 được sử dụng tiêm vào thân hoặc nhánh lớn. Phosphonate thường được bán với các hiệu như
Agri fos 400. với nồng độ hoạt chất là 400 g ./L, được pha loãng với nước sạch theo tỷ lệ 1:1 trước khi tiêm. Để tiêm, trên thân khoan một lỗ đường kính 5 mm, sâu 30-50 mm với một mũi khoan bén, lỗ khoan cao 50-120 cm từ mặt đất. Có thể sử dụng ống tiêm chuyên dụng hiệu ChemjetÒ 20mL. Cần khoảng 2-6 lỗ khoan quanh thân cho mỗi cây. Lỗ khoan nên dưới các nhánh lớn. Hút đầy ống tiêm, kéo cần tiêm về phía sau và xoay nhẹ tay mãi đến khi nghe tiếng “click”, tay cần được khoá. Vặn vòi ống tiêm vào lỗ khoan cho đến khi thật sát. Phóng thích cần tiêm bằng cách xoay ngược lại trong khi vẫn cố định ống tiêm trong lỗ khoan, cần tiêm được phóng thích nhờ lò xo sẽ ép dung dịch thuốc qua lỗ khoan vào bên trong. Nếu không mua được loại nói trên thì có thể mua ống tiêm bằng nhựa, rồi dung ruột xe máy cắt ra tạo lực bơm thuốc, tôi làm cách này khá hiệu quả.
Mất khoảng 20-30 phút để thuốc đi hết vào bên trong. Sau đó xoay ngược lấy ống tiêm ra, hút đầy thuốc và tiêm cho lỗ mới. Nên tiêm vào buổi sáng sớm vì thuốc sẽ được hấp thu nhanh đáng kể so với buổi chiều. Liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.
10) Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum gloeosporioides (Penz.) Penz. & Sacc.
Bệnh thường gây hại trên cây bắt đầu đầu mùa khô, lúc trời mát, nhiều sương mù trong buổi sáng. Bệnh gây hại nặng trên những vườn chăm sóc kém, thiếu phân và tưới nước không đầy đủ. Bệnh cũng phổ biến trên sầu riêng trồng trên đất xấu, ít chất hữu cơ, gió mạnh và không được che mát giữ ẩm thích hợp.
Bệnh thường gây hại trên lá, vết bệnh có thể thấy khi lá trưởng thành trở đi. Vết bệnh thường bắt đầu từ mép lá, chót lá lan vào bên trong. Vết bệnh cũng có thể bắt đầu từ vết thương trên lá do côn trùng, rách do gió hay do chăm sóc. Vết bệnh lan rộng thành những sọc song song có màu nâu đậm trên nền mô chết có màu nâu xám. Bệnh nặng làm lá khô cháy dần và rụng sớm, trơ cành. Bệnh làm cho cây suy yếu dần. Triệu chứng bệnh thán thư thường đi kèm với triệu chứng thiếu dinh dưỡng nhất là thiếu Kali.
Phòng trừ:
– Chăm sóc cho cây khoẻ mạnh, bón phân tưới nước đầy đủ.
-Bón nhiều phân hữu cơ hoai mục.
-Giữ ẩm cho đất trong mùa khô bằng cỏ phủ đất. Phủ gốc với phân hữu cơ, rơm rạ, cỏ khô trong mùa khô.
-Che mát cho cây con.
-Tỉa bỏ lá bị bệnh nặng và tiêu huỹ. Vệ sinh vườn cây.
-Chú ý phòng trừ một số loại côn trùng gây hại trên lá như câu cấu, bọ cánh cứng hoặc một số côn trùng chích hút vì chúng có thể gây ra những vết thương và mở đường cho nấm bệnh tấn công.
-Phun thuốc phòng trừ: Sử dụng các loại thuốc như Benomyl, Appencarb, Carbendazim, Mancozeb, Antracol hoặc thuốc gốc đồng. Luân phiên các loại thuốc để tránh gây ra hiện tượng kháng thuốc của nấm bệnh.
11) Bệnh cháy lá (do nấm Rhizoctonia solani)
Bệnh thường gây hại cây sầu riêng con trong vườm ươm và cây mới trồng những năm đầu. Bệnh cũng gây hại trên cây trưởng thành nơi có bộ tán lá rậm rạp hay mọc gần mặt đất ẩm. Bệnh thuờng xuất hiện một nơi sau đó lan rộng dần ra xung quanh. Vết bệnh thường có màu xanh xám hay xám nâu. Lá non bị nhiễm bệnh giống như bị luộc trong nước sôi, màu xanh nhợt nhạt sũng nước. Các lá được kết dính với nhau do sự mọc lan của các sợi nấm. Do đó khi khô chúng dính với nhau nhưng không rụng. Hiện tượng này nông dân gọi là “tổ kiến”. Bệnh có thể tấn công lên các thân non làm khô chết phần ngọn phía trên và sau đó sẽ chuyển màu trắng xám.
– Nấm gây bệnh thường phát triển trong điều kiện ẩm độ cao, thiếu ánh nắng. Sự lây lan có thể trực tiếp do sợi nấm mọc lan hoặc do hạch nấm di chuyển nhờ dòng nước. Ngoài cây sầu riêng nấm này cũng còn tấn công các loại cây non khác.
– Mầm bệnh này thường phổ biến trong rơm rạ, cây cỏ…do vậy sử dụng các rơm rạ, cây cỏ khô phủ đất cần lưu ý sự lây lan nguồn bệnh.
Phòng trừ
– Ngăn chặn nguồn bệnh lây lan từ bên ngoài vào trong vườn (từ rơm rạ, cỏ khô, nguồn nước chảy..)
– Mật độ trồng nên vừa phải để tạo độ thông thoáng và hạn chế lây lan.
– Nên kiểm soát bệnh bằng chế đọ phun thuốc hoá học với các loại thuốc trừ nấm như EFIGO, Anvil, Moncerene, Bonanza, … Champion 57.6 DP, Dupont TM Kocide 53.8 WG, Funguran – OH 50 WP, Map – jaho 77 WP, COC 85 WP, PN – Coppercide 50 WP, Newkasuran 16.6 WP, Cuproxat 345 SC.
12) Bệnh đốm rong đỏ: do rong (algae) Cephaleuros virescens gây bệnh
Đốm bệnh thường xuất hiện ở phiến lá, đôi khi cũng xuất hiện trên cành non. Đốm bệnh có màu đỏ rỉ sắt bề mặt như lớp nhung mịn, hơi nhô lên mặt lá. Bệnh làm giảm khả năng quang hợp, cây sinh trưởng kém. Ngoài sầu riêng, còn gây hại trên nhiều cây trồng khác.
Bệnh thường thấy trên lá đã trưởng thành. Bệnh phát triển trên cây già cỗi, sinh trưởng kém. Vườn trồng trên đất xấu, vườn chăm sóc kém bệnh nhiều. Cây con không che mát, chăm sóc kém, bệnh có thể gây hại trên thân cành non.
Phòng ngừa:
-Bón phân tưới nước đầy đủ cho cây, phòng trừ các loại sâu bệnh khác giúp cây sinh trưởng tốt giúp hạn chế được bệnh.
-Che mát cho cây con trong mùa khô
-Bón nhiều phân hữu cơ giúp giữ ẩm tốt trong mùa khô.
-Trường hợp bệnh nặng có thể sử dụng Bordeaux để phun trừ.
13) Bệnh nấm hồng do nấm Erythricium salmonicolor (Corticium salmonicolor)
Bệnh thường xuất hiện trên các cành nhỏ mọc ngang ở nơi phân cành. Thời tiết mưa ẩm kéo dài là điều kiện thuận lợi cho nấm bệnh phát sinh phát triển và lây lan. Đầu tiên những sợi nấm màu trắng phát triển bên trên vỏ cây. Sau đó hình thành lớp nấm dạng phấn hồng bao phủ bên ngoài vỏ cây. Bên dưới lớp phấn phủ mô vỏ cây bị thâm và thối làm cho phần trên vết bệnh không được cung cấp nước và chất dinh dưỡng, sau đó lá vàng khô dần và chết. Vỏ cây có thể bị nứt ở vị trí vết bệnh. Bệnh thường làm chết cành nếu không phòng trừ kịp thời. Ở miền Đông Nam bộ bệnh phổ biến và nguy hại hơn so với miền Tây Nam bộ.
Nấm bệnh lây lan qua bào tử bay trong không khí do gió mưa, gặp điều kiện thích hợp sẽ phát triển thành vết bệnh ở nơi mới.
Phòng trừ:
-Không trồng quá dày, tránh trồng xen rậm rạp.
-Tỉa cành tạo tán nhằm tăng độ thông thoáng trong tán cây và trong vườn cây.
-Những cành bệnh nặng, cành chết do bệnh cần được cắt và tiêu huỹ ngăn ngừa lây lan.
-Phun thuốc phòng trừ. Có thể sử dụng các loại thuốc như EFIGO, Validacin, Bonaza, thuốc gốc đồng…. để phun.
-Quét thuốc lên vết bệnh mới xuất hiện và ở các vị trí bệnh có thể xuất hiện. Sử dụng các loại thuốc nói trên.
Nguồn: Facebook Đỗ Trường Sơn
Th227
Bệnh héo xanh, héo tươi trên cây ớt
Đây là bệnh hại đặc trưng của các cây họ cà như ớt, cà chua, khoai tây. Ở Đồng Tháp , bệnh gây hại nặng có thể khiến cây trong vườn chết đến 80%.
Đài truyền hình ĐỒNG THÁP đã phát ra tín hiệu dịch bệnh trong tuần vừa rồi.
Nguyên nhân: Do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum.
Triệu chứng: Đặc điểm nhận diện là cây héo, đôi khi chỉ 1 – 2 nhánh, nhất là khi trời nắng, nhưng lá vẫn còn xanh, sau đó khi trời chiều mát hay ban đêm cây lại phục hồi.
Tuy nhiên triệu chứng héo – tươi chỉ kéo dài vài ngày rồi cây chết hẳn. Ở cây già triệu chứng thể hiện chậm hơn, nếu nhổ cây lên thấy phần thân và rễ cây bị thối đen, mềm nhũn, dùng dao cắt ngang phần thân, rễ bị thối thấy nơi vết bệnh mềm, ngửi có mùi hôi, lõi có màu đen. Cho vào một cốc nước trong sẽ thấy, nếu là cây bị bệnh héo xanh thì dịch sữa trong chứa nhiều vi khuẩn chảy ra chầm chậm từ vết cắt, lấy dịch này pha nước tưới vào vườn cây thì sau 3 – 5 ngày triệu chứng bệnh sẽ xuất hiện.
Thông thường dễ lầm lẫn bệnh héo do nấm và do vi khuẩn, để phân biệt ta chú ý:
Bệnh do vi khuẩn vết bệnh thường mềm nhũn, có mùi hôi, mạch dẫn có màu đen, cây chết nhanh, còn bệnh do nấm đất như Fusarium, Rhizoctonia, Sclerotium…
Bệnh phát triển tương đối chậm, lá chuyển dần sang vàng rồi rụng, diễn biến chậm, nếu cắt ngang thân không thấy dịch chảy ra, không có mùi hôi…
Bệnh héo xanh phát triển nhanh trên nền đất ẩm ướt, thoát thủy kém, vi khuẩn tồn tại trong đất rất lâu. Vi khuẩn còn có thể sống trên nhiều ký chủ phụ, lan truyền qua giống, dụng cụ tỉa cành, vết thương cơ giới do dụng cụ làm vườn, các lỗ hổng tự nhiên (khí khổng ở rễ), tuyến trùng chích hút. Khi bộ phận của cây dưới đất bị thối rữa, vi khuẩn phát tán trong đất, nước và lây lan sang cây bên cạnh, triệu chứng quan sát được khoảng 3 – 7 ngày.
Phòng trị:
– Luân canh, không nên trồng 2 vụ ớt trên cùng chân đất.
– Xử lý hạt giống 54 độ C trong vòng 25 – 30 phút. Dùng hạt giống sạch bệnh, ngâm hạt vào Dung dịch Nano CHITOSAN khi ngâm giống
– Vệ sinh đồng ruộng, ruộng trồng phải sạch cỏ, thu gom tiêu hủy tàn dư thực vật. Bón Tricoderma trước khi xuống giống.
– Bón phân hữu cơ hoai mục. Không được dùng phân bò chưa qua xử lý.
– Khi chăm sóc tránh gây vết thương cho cây, dụng cụ chăm sóc, tỉa cành, thu hái cần sát trùng liên tục bằng formol.
– Ruộng trồng cần bằng phẳng, tránh ruộng úng nước, thoát thủy kém, không trồng ớt trên ruộng các vụ trước đã trồng cây cùng họ cà.
– Nếu trên ruộng có cây bệnh phải lập tức nhổ bỏ và tiêu hủy ngay.
– Lưu ý nguồn nước tưới hay chảy khi mưa từ các ruộng có trồng cây họ cà ở bên trên nguồn vì có thể mang mang bệnh lây lan xuống phía cuối nguồn nước bên dưới.
– Cuối cùng bệnh do vi khuẩn tương đối khó trị, cần thăm đồng thường xuyên, phát hiện sớm và phòng trị kịp thời bằng thuốc đặc trị như NANO ELICTOR + AT PAVADE phun 7 ngày 3 lần, kết hợp tưới AT CẢI TẠO ĐẤT + Tricoderma 15 ngày 1 lần. Phương pháp này tuy có chặm nhưng rất bền vững hơn phương pháp hóa học.
2. Bệnh khảm do virus
Triệu chứng: Có nhiều triệu chứng do virus gây ra trên ớt, có thể là lá ớt biến dạng, xoăn lại, mép cong lên trên, hay lá có màu sắc thay đổi hoặc từng lá có từng mảng xanh đậm hay vàng, hoặc vàng xen lẫn xanh, loang lổ, trường hợp bị nặng chồi không phát triển, cành vặn vẹo, hoa rụng, trái nhỏ, méo mó, cứng… Bệnh do virus gây ra mà tác nhân truyền bệnh là các loài rầy, rệp, tuyến trùng chích hút.
Phòng trị: Do là bệnh do virus gây ra nên không có thuốc phòng trị, chỉ phòng trừ gián tiếp bằng cách tiêu diệt các môi giới truyền bệnh như các loài rầy, rệp mà thôi. Có thể dùng nấm xanh, nấm trắng kết hợp Nano Chitosan phòng thường xuyên sẽ giảm áp lực bệnh.
3. Bệnh sinh lý
Ngoài ra, trên ớt thường thấy phía đáy trái, nhất là ớt ngọt có hiện tượng bị thối đen (thối đáy trái) nguyên nhân là cây thiếu Ca. Để hạn chế bệnh nên tăng cường bón vôi cho đất (bón ít nhất 1 tháng trước khi trồng cây con ra ruộng), khi phát hiện có hiện tượng thiếu Ca có thể tăng cường bón phân Cancium cho cây. Tuy nhiên hiện nay trên thị trường rất khó có caxi ko chứa thành phần đạm, bà con nên dùng Caxi Chelat Ấn độ của cty Agramate Bình Dương sẽ an toàn hơn.
Trên là kinh nghiệm đồng ruộng cùng bà con thời gian qua, ai thấy hay thì áp dụng, không thấy hay mà có kinh nghiệm thì chia sẽ cho bà con mình biết thêm nhé.
Chào bà con !
Nguồn: Facebook Trần Thanh Phương
Th608