Màu sắc rau củ quả mang ý nghĩa gì
Những loại Rau và Trái cây Màu cam và màu vàng như: Cà rốt, khoai lang, xoài,bí ngô,… là ngân hàng chứa beta-carotene. Chúng kích thích hệ kháng thể hoạt động tích cực, duy trì làn da, giúp xương khỏe mạnh và thị lực tốt.
Lưu ý: Đối với những người ăn nhiều thường xuyên các loại củ quả có màu vàng, cam như đu đủ, xoài chín, hay bí đỏ, có thể xuất hiện triệu chứng niêm mạc mắt hoặc da lòng bàn tay, bàn chân có màu vàng nhạt. Đó là do chất beta coroten dư thừa. Đây cũng không phải bị ngộ độc, cũng không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe. Khi gặp tình trạng này, chỉ cần ngưng ăn các loại rau quả có màu vàng một thời gian. Khi màu vàng trên da đã giảm thì chỉ nên ăn củ quả màu vàng 2-3 lần mỗi tuần và nên ăn thay đổi các loại rau củ quả khác.
Những loại rau và trái cây có màu xanh lá như: Bắp cải xanh, xà-lách, cải xoăn, mướp đắng, ngải cứu… chứa rất nhiều lutein và zeaxanthin, giúp bảo vệ thị lực và làm giảm nguy cơ đục thủy tinh thể (một trong những nguyên nhân dẫn đến mù lòa), chúng còn có tác dụng chống lão hóa cực kỳ hiệu quả. Thường xuyên bổ sung các loại rau, củ, quả này vào trong chế độ ăn uống bạn sẽ loại trừ được nguy cơ mắc ung thư, tăng cường sức khỏe, và là chủ nhân của bộ xương và răng chắc khỏe.
Còn rau, củ, quả có màu xanh da trời và tím: Điển hình là các loại quả mọng (như nho tím, việt quất, cà tím, mận, …) Những rau củ quả có màu sắc này chứa các chất chống oxy hóa có tác dụng bảo vệ cơ thể khỏi rất nhiều bệnh mãn tính.
Những loại rau và trái cây màu đỏ: chứa hợp chất Lycopene giúp làm giảm triệt để nguy cơ mắc bệnh về tim mạch, chống oxy hóa và chống lão hóa cực kỳ hiệu quả. Nếu nhắc đến màu đỏ thì không thể không nhắc đến các loại Rau, Củ, Quả đặc trưng như: Cà chua, hành đỏ, củ dền, Dưa hấu, ớt chuông đỏ,…
Những loại rau, củ, quả màu trắng: từ hành tây, tỏi, củ cải trắng… chứa Allicin, giúp bạn chặn đứng sự sinh sôi, nảy nở của các tế bào ung thư, nó còn có tác dụng vô cùng hiệu quả trong việc điều trị đau đầu và thanh lọc cơ thể đặc biệt là phổi.
Theo nhiều nghiên cứu, các loại rau, củ nào có thể ăn sống được thì nên ăn sống. Vì rau, củ ăn sống sẽ giữ được thành phần dinh dưỡng nhiều hơn là đã qua chế biến. Rau ăn sống rất có ích cho việc phòng chống ung thư và còn tránh hấp thụ dầu và các gia vị trong quá trình nấu nướng. Tuy nhiên, cần phải rửa rau nhiều lần dưới vòi nước sạch, ngâm nước muối loãng, để an toàn hơn bạn hãy chọn mua các loại rau hữu cơ có nguồn gốc rõ ràng nhé!
Hi vọng đây sẽ là nguồn thông tin bổ ích giúp bạn cân bằng chất dinh dưỡng cho những bữa ăn của gia đình hợp lý hơn!
nguồn sarafood.net
Th1217
Kỹ thuật nuôi gà thả vườn
Nuôi gà thả vườn mang lại giá trị kinh tế cao, tuy nhiên bà con cần lưu ý và làm đúng theo kỹ thuật nuôi để có đàn gà chất lượng nhất
nuôi gà thả vườn
I. Xây dựng chuồng trại
+ Nền phải kiên cố, chắc để dễ vệ sinh, dễ sát trùng tiêu độc, nền có độ dốc thích hợp dễ thoát nước, không ẩm ướt, tránh bị chuột đào bới. Bởi vậy, nền chuồng thường láng xi-cát hoặc lát gạch.
+ Diện tích nền chuồng tùy thuộc vào quy mô, mức độ thâm canh nhưng phải đảm bảo đủ rộng. Chuồng nuôi gà con 10 – 12 con/m2, Chuồng nuôi gà dò 5 – 6 con/m2.
+ Mái chuồng làm bằng vật liệu khó hấp thu nhiệt để chống nóng. Mái có thể lợp bằng tole hoặc mái lá, lợp qua vách chuồng khoảng 1 m để tránh mưa, hắt làm ướt nền chuồng. Làm một mái hoặc 2 mái.
+ Tường vách chuồng: Xây cách hiên 1 – 1,5 m , vách chỉ nên xây cao 30 – 40 cm còn phía trên dùng lưới thép hoặc phên nứa. Trường hợp tường vách được coi là tường bao thì phải có thêm cửa sổ để chuồng thông thoáng
+ Rèm che: Dùng vải bạt, bao tải, … Che cách vách tường 20 cm phía ngoài chuồng nuôi, nhằm bảo vệ cho gia cầm tránh được mưa, gió rét nhất là ở giai đoạn gà nhỏ.
+ Chuồng được ngăn làm nhiều ô, tùy diện tích nhưng ít nhất nên ngăn thành 2 – 3 ô để dễ quản lý đàn gà nhất là gà sinh sản. Nên ngăn ô bằng lưới thép hoặc nan tre đảm bảo thông thoáng.
+ Hệ thống cống rãnh: Chuồng nuôi bắt buộc phải có hệ thống cống rãnh ngầm, đồng thời có đường thoát nước bên ngoài để tránh hiện tượng đọng nước xung quanh tường.
+ Chuồng làm cao 1,5 m, dài 2,5 m, rộng 2m. Chuồng có 1 hoặc 2 cửa cho gia cầm ra vào.
Chuồng phải được vệ sinh khử trùng tiêu độc trước khi nuôi. Có thể dùng Formol 2% với liều 1ml/m2, Paricolin 0,05% hoặc disinfecton 0,05% trước khi bắt gà về nuôi từ 7- 15 ngày.
II. Chuẩn bị vườn thả (bãi chăn)
– Bãi thả nên có cây bóng mát (trồng cây ăn quả hoặc cây lâm nghiệp), có trồng cỏ xanh là nguồn thức ăn có chứa nhiều vitamin, khoáng, là nguồn dinh dưỡng cho gà. Có thể làm lán tạm để treo thêm máng ăn (chú ý tránh mưa ướt) và máng uống cho gà trong thời gian chăn thả. Cây bóng mát trồng cách hiên chuồng nuôi 4 – 5 m, tán cây che nắng phải cao hơn chiều cao mái hiên chuồng nuôi để tăng cường thông thoáng.
– Có bãi thả gà tự do, vận động. Trên bãi thả gà có thể tìm được một số thức ăn, tắm nắng để tạo vitamin làm xương rắn chắc, sức khỏe tốt, ít bị bệnh.
– Vườn thả phải đủ diện tích cho gà vận động và kiếm thêm thức ăn. Yêu cầu diện tích bãi chăn thả tối thiểu là từ 0,5 đến 1m2/gà, bãi chăn bố trí cả hai phía (trước và sau) của chuồng nuôi và thực hiện chăn thả luân phiên, sẽ tốt hơn là sử dụng bãi chăn thả một phía. Bãi chăn bố trí chạy dọc theo chiều dài chuồng nuôi, sao cho khoảng cách từ cửa chuồng đến hàng rào không quá xa, gà dễ ra vào (đặc biệt khi gặp thời tiết bất thường xấu).
– Bãi chăn thả được san lấp bằng phẳng, dễ thoát nước, không có vũng nước tù đọng, không có rác bẩn, vật lạ ở trong bãi chăn, định kỳ thu dọn lông gà rơi vãi ở bãi chăn. Thường xuyên duy trì thảm thực vật ở bãi chăn để có môi sinh, môi trường tốt cho khu trang trại, hơn nữa còn bổ sung thêm nguồn thức ăn xanh, giàu vitamin cho gà.
– Bao xung quanh bãi chăn nên sử dụng lưới mắt cáo hoặc rào bằng phên tre,… Sao cho thông thoáng nhưng chắc chắn, chống người, thú hoang, hoặc thú nuôi xâm nhập và gà không thể vượt qua
– Bãi chăn phải thường xuyên vệ sinh và định kỳ phụ tiêu độc.
III. Chuẩn bị quây úm và phương pháp sưởi ấm gà con
– Quây gà làm bằng cót, tấm nhựa hoặc dùng lưới thép và bên ngoài bọc bằng bạt…
– Quây úm được bố trí trong phòng úm, không nên làm gần cửa ra vào tránh gió lùa. Có thể dùng các tấm mây bồ, tôn .. có chiều cao 0,5 m, quây vòng tròn có đường kính 2,8 – 3,0 m. Một quây gà đường kính như trên nuôi được 400 gà con vào mùa hè và 500 con vào mùa đông.
– Mùa hè ngày tuổi thứ 5 thì nới rộng quây và đến ngày thứ 10 thì có thề tháo bỏ quây. Mùa đông ngày tuổi thứ 7 thì nới rộng quây và cuối tuần thứ 2 – 3 thì có thể tháo bỏ quây.
– Bố trí trong quây úm: Khay, mẹt cho gà con ăn và máng uống nhỏ được bố trí xen kẽ nhau trong quây đảm bảo cho gà con ăn uống được thuận tiện. Chụp sưởi (làm bằng tôn dạng hình nón có đường kính rộng 60 đến 80cm, bên trong khoét 3 lỗ so le nhau để lắp bóng điện, ở nóc chụp có móc để buộc dây treo) dùng bóng điện, bóng hồng ngoại để cung cấp nhiệt sưởi, chụp sưởi có tác dụng hứng nhiệt và tập trung nhiệt để tăng khả năng cấp nhiệt cho gà, ngoài ra làm chụp sưởi sẽ không làm cho nhiệt thoát ra ngoài nên tiết kiệm được điện… chụp sưởi thường treo giữa quây gà, treo cao 40 – 50 cm so với mặt nền.
* Sưởi ấm cho gà :
Chụp sưởi đặt cách mặt nền 30 – 40 cm. Điều chỉnh dụng cụ sưởi ấm cho gà tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường và tuổi gà. Trong quây gà và chuồng nuôi, nhiệt kế nên đặt tầm ngang lưng gà. Gà con đủ nhiệt sẽ an uống tốt, khoẻ mạnh lớn nhanh và ít bệnh; nếu gà bị thiếu nhiệt khi úm thì sẽ an uống kém, hay mắc bệnh, nhiều gà còi cọc, tỷ lệ hao hụt cao,…
Bằng cách quan sát hoạt động của gà, ta cũng có thể đánh giá được nhiệt độ có phù hợp hay không để điều chỉnh chụp sưởi cho thích hợp.
+ Khi nhiệt độ cao quá yêu cầu : Đàn gà tỏa ra xung quanh sát vòng quây, tránh xa chụp sưởi, há mỏ để thở, uống nhiều, ăn ít.
+ Khi nhiệt độ thấp dưới yêu cầu : Đàn gà quây xung quanh chụp sưởi, tụ đông lên nhau ngay dưới chụp sưởi, kêu nhiều, ăn uống ít
+ Khi nhiệt độ thấp dưới yêu cầu : Đàn gà quây xung quanh chụp sưởi, tụ
đông lên nhau ngay dưới chụp sưởi, kêu nhiều, ăn uống ít
+ Khi nhiệt độ thích hợp : Đàn gà phân bố đều trong quây, ham ăn uống,
kêu ít (yên tĩnh).
+ Nếu gà tụm lại một phía trong quây : có thể bị gió lùa, cần phát hiện và
che hướng gió.
nuôi gà thả vườn
IV. Chọn gà con
Xác định tiêu chuẩn gà con 1 ngày tuổi
– Khối lượng sơ sinh lớn (35 – 36g/con)
– Khỏe mạnh, tinh nhanh, hoạt bát, thân hình cân đối.
– Mắt tròn sáng mở to
– Chân thẳng đứng vững, ngón chân không vẹo
– Lông khô, bông tơi xốp, sạch, mọc đều
– Đuôi cánh áp sát vào thân
– Bụng thon và mềm
– Rốn khô và kín
– Đầu to cân đối, cổ dài và chắc
– Mỏ to chắc chắn, không vẹo, 2 mỏ khép kín.
V. Cho gà ăn, uống
1. Cho gà con ăn, uống
– Cho gà ăn, uống giai đoạn úm từ 0 – 3 tuần tuổi:
+ Cho gà ăn: Dùng thức ăn gà con chủng loại 1 – 21 ngày (nếu là thức ăn hỗn hợp viên), nếu thức ăn tự chế biến phải căn cứ vào chế độ dinh dưỡng có trong 1kg thức ăn hỗn hợp để phối trộn các nguyên liệu đáp ứng đủ nhu cầu. Nguyên liệu thức ăn phải có chất lượng tốt. Rải mỏng, đều thức ăn lên khay ăn hoặc mẹt có độ dầy 1cm, sau đó từ 2 – 3 giờ dùng bay sắt cạo sạch thức ăn lẫn phân có trong khay đem sàng để gạt bỏ phân ra ngoài, tận thu thức ăn cũ và tiếp thêm lượt mỏng thức ăn mới để cho gà ăn. Cho gà ăn tự do cả ngày đêm, bổ sung thêm thức ăn cho gà trong một ngày đêm từ 8-10 lần. Khi gà được 3 tuần tuổi trở đi thay thế khay ăn bằng máng ăn cỡ trung bình P30.
+ Cho gà uống nước: Dùng máng uống gallon chứa nước cho gà uống, 2 tuần đầu dùng máng cỡ 1,5-2,0 lít, các tuần sau dùng máng cỡ 4,0 lít. Đế máng uống kê thật phẳng bằng gạch mỏng cao hơn độn lót chuồng từ 1cm đến 3cm tùy theo độ lớn của gà để gà không bới độn lót vào làm bẩn nước uống. Máng uống đặt xen kẽ với khay ăn. Máng uống được rửa sạch hàng ngày theo quy định, hàng ngày thay nước uống cho gà khoảng 4 lần(sáng, chiều, tối, và giữa đêm).
– Cho gà ăn, uống giai đoạn từ 4 – 9 tuần tuổi:
+ Cho gà ăn: Dùng thức ăn gà dò chủng loại 21 – 42 ngày (nếu là thức ăn hỗn hợp viên), nếu thức ăn tự chế biến phải căn cứ vào chế độ dinh dưỡng có trong 1kg thức ăn hỗn hợp để phối trộn các nguyên liệu đáp ứng đủ nhu cầu. Nguyên liệu thức ăn phải có chất lượng tốt.
Chuyển đổi thức ăn dần cho gà ăn theo cách phối hợp sau:
1. Ngày thứ nhất 75% thức ăn cũ và 25% thức ăn mới
2. Ngày thứ hai 50% thức ăn cũ và 50% thức ăn mới
3. Ngày thứ ba 25% thức ăn cũ và 75% thức ăn mới
4. Ngày thứ tư cho ăn 100% thức ăn mới
Cho gà ăn bằng máng trung P30, sau đó chuyển dần cho gà ăn bằng máng đại P50, đổ thức ăn vào máng có chiều cao bằng 1/2 của thân máng, định kỳ 2 giờ lắc máng cho thức ăn rơi xuống. Máng được treo bằng dây sao cho miệng máng cao ngang lưng gà. Mật độ máng ăn cho gà theo yêu cầu: 30 con – 40 con/máng. Cho gà ăn tự do cả ngày đêm, bổ sung thêm thức ăn cho gà trong một ngày đêm từ 2 lần (sáng, tối) hoặc 4 lần (sáng, chiều, tối, đêm).
+ Cho gà uống nước: Dùng máng uống gallon chứa nước cho gà uống, dùng máng cỡ 4,0 lít hoặc 8 lít. Để máng uống kê thật phẳng bằng gạch cao hơn độn lót chuồng từ 4 cm đến 5 cm để gà không bới độn lót vào làm bẩn nước uống. Máng uống đặt với số lượng 100 con cho 1 máng. Máng uống được rửa sạch hàng ngày theo quy định của thú y, hàng ngày thay nước uống cho gà khoảng 4 lần (sáng, chiều, tối, và giữa đêm).
2. Cho gà thịt ăn, uống
Lượng nước uống đầy đủ cho gà hàng ngày. Không bao giờ để gà khát nước, máng hết nước. Nếu đàn gà nuôi mà không được uống nước trong 1 ngày thì 2 ngày tiếp theo gà sẽ không tăng trưởng được về khối lượng và sẽ chậm lớn trong 1,5 tháng sau đó. Lượng nước uống hàng ngày của gà có thể khác nhau tùy theo mùa, nhưng trung bình lượng nước mà đàn gà tiêu thụ hàng ngày gấp đôi lượng thức ăn. Do vậy, căn cứ vào tuổi của gà, lượng thức ăn ăn vào và nhiệt độ môi trường để tính lượng nước cho gà uống, đặc biệt khi pha thuốc tăng sức đề kháng, phòng bệnh, chữa bệnh cho đàn gà.
Thức ăn được cho ăn theo nhu cầu của gà. Cần chia làm nhiều đợt để theo dõi lượng thức ăn tiêu thụ, tránh để thức ăn dư thừa.
+ Theo dõi khả năng tiêu thụ thức ăn
– Theo dõi và ghi chép đầy đủ mức tiêu thụ thức ăn hàng ngày của gà theo giai đoạn.
+ Xác định nhu cầu dinh dưỡng
– Dựa trên giống gà nuôi, các lứa tuổi khác nhau để xác định nhu cầu dinh dưỡng cho gà theo các giai đoạn cho đúng tiêu chuẩn.
– Ngoài ra chúng ta cần căn cứ vào mùa vụ để xác định nhu cầu protein, năng lượng trao đổi, vitamin và khoáng cho từng loại gà khác nhau.
– Thực tế sản xuất người ta chia thức ăn cho gà thịt được chia làm 3 giai đoạn như sau:
+ Khẩu phần thức ăn khởi động cho gà 1 – 21 ngày tuổi
+ Khẩu phần thức ăn tăng trưởng cho gà 22 – 35 (hoặc 42) ngày tuổi
+ Khẩu phần thức ăn vỗ béo sau 36 ngày tuổi đến xuất chuồng.
VI. Chăm sóc gà
1. Theo dõi tình trạng sức khoẻ đàn gà
– Đối với gà nuôi thịt: Đầu tuần thứ 5 chỉ thả gà 2 giờ/ ngày cho gà tập làm quen. sau đó đuổi gà vào chuồng, nhũng buổi sau tăng dần thời gian thả từ 30 phút đến 1 giờ, như vậy sau khoảng 10 ngày là thả gà tự do. Trước khi mở cửa, gà đã được cho ăn, uống khá đầy đủ, đặc biệt, nước uống có pha kháng sinh, vitamin.
– Hàng ngày quan sát đàn gà, phát hiện những biểu hiện không bình thường để có biện pháp xử lý kịp thời.
2. Vệ sinh chuồng trại, dụng cụ nuôi gà
– Giai đoạn úm hàng ngày kiểm tra và dọn rìa xung quanh máng uống độn chuồng bị ướt, xới đảo độn lót chuồng từ 7 – 10 ngày/lần và bổ sung thêm lượt mỏng độn lót. Không thay độn lót chuồng thường xuyên.
– Để đảm bảo cho đàn gà khỏe mạnh, chuồng nuôi, vườn chăn thả phải thường xuyên vệ sinh sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng hoặc vôi bột 15 ngày/ lần. Phòng bệnh cho gà theo đúng lịch.
– Định kỳ xới đảo, bổ sung chất độn chuồng để đảm bảo độ dày cần thiết và làm cho chất độn chuồng luôn khô, tơi xốp
– Thường xuyên kiểm tra chất độn chuồng nếu bị ướt phải hốt ra ngoài và bổ sung chất độn chuồng mới.
– Máng ăn hàng ngày phải vệ sinh bằng cách dùng khăn lau sạch trước khi đổ thức ăn, tiêu độc máng ăn 1 lần/tuần.
– Máng uống hàng ngày phải cọ rửa và sát trùng.
– Phun thuốc sát trùng toàn bộ chuồng nuôi 1 lần/tuần trong trường hợp khu vực không có dịch bệnh và 3 ngày/lần khi khu vực xung quanh có dịch bệnh.
– Hàng ngày phải thay thuốc sát trùng trong khay để trước cửa ra vào chuồng nuôi.
– Thường xuyên dãy cỏ xung quanh chuồng nuôi, hàng tuần phải phun thuốc sát trùng tiêu độc
VI. Phòng bệnh:
Có nhiều bệnh trên gà, nhưng tập trung các bệnh sau:
Bệnh phải phòng nhiễm Vacxin phải dùng Loại vacxin Cách pha, sử dụng Vị trí, đường cho vacxin Tuổi dùng vacxin
Niucatxơn
Lasota hoặc V4 Nhược độc đông khô 100 liều/lọ +30ml nước cất Nhỏ vào mắt, nũi cho gà 3-7 ngày tuôi (lần 1)
Niucatxơn Lasota hoặc V4 Nhược độc đông khô 100 liều/lọ +1lít nước cất Cho gà uống trong ngày 18-20 ngày tuổi (lần 2)
Niucatxơn hệ 1 (H1) Nhược độc đông khô 100 liều/lọ +30ml nước cất Tiêm dưới da cánh: 0,2ml/gà 35-40 ngày tuổi (lần 3)
Bệnh Gumboro Gumboro (dùng 1 trong 3 loại: D78, Bur 706, Medivac GumboroB) Nhược độc đông khô 100 liều/lọ + 30ml nước cất Nhỏ mũi, miệng gà, 2-3 giọt/con 1-3 ngày tuổi (lần 1)
Bệnh Gumboro 1 trong 3 loại vacxin: D78, Bur 706, Medivac-Gumboro B Nhược độc đông khô 100 liều/lọ + 11 lít nước cất Cho gà uống trong ngày 14-15 ngày tuổi (lần 2)
Bệnh đậu gà Vacxin đậu gà Nhược độc đông khô 100 liều/lọ + 1ml nước cất Lấy ngòi bút sạch, luộc vô trùng, chấm vào vacxin rồi rạch nhẹ 2 lần dưới cánh gà 14-15 ngày tuổi (chỉ dùng 1 lần)
Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm (IB) Vacxin IB (chủng H120) Nhược độc đông khô 100 liều/lọ + 30ml nước cất Nhỏ mũi, miệng cho gà: 2-3 giọt/con 1-2 ngày tuổi (lần 1)
Vacxin IB (chủng H52) Nhược độc đông khô 100 liều/lọ +1 lít nước cất Cho gà uống trong ngày 28-30 ngày tuổi (lần 2)
Bệnh tụ huyết trùng Vacxin THT gia cầm Vacxin chết keo phèn 50ml/lọ Tiêm cho gà: 02ml/gà (đùi, lườn gà) 40 ngày tuổi (chỉ tiêm 1 lần)
Nguồn kythuatnuoitrong.edu.vn
Th1216
Kỹ thuật nuôi lươn không bùn
Mô hình nuôi lươn không bùn tiết kiệm nhiều chi phí, dễ quản lý, chăm sóc, nhu cầu tiêu thụ loại lươn này rất lớn, tận dụng được diện tích đất nhỏ trong gia đình để nuôi.
Với sự hướng dẫn của Hội Nông dân huyện Diên Khánh (Khánh Hòa), tổ liên kết nuôi lươn không bùn gồm 6 thành viên (đều là cán bộ hội) đã được thành lập. Anh Trần Như Hổ – Tổ trưởng tổ liên kết nuôi lươn không bùn cho biết: Sau khi vận động đóng góp vốn, chúng tôi đã vào huyện Hóc Môn (TP.HCM) mua giống lươn về nuôi. Tháng 9.2013, chúng tôi đã mua 300kg giống với gần 6.000 con giống về thả nuôi. Vừa nuôi, vừa tìm hiểu các thông tin kỹ thuật để áp dụng, mô hình “nuôi lươn không bùn” của tổ liên kết đạt năng suất rất cao.
Tổ liên kết vừa xuất bán vụ đầu tiên với trọng lượng 1,4 tấn, giá bán thịt giao động từ 120.000 – 140.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí lãi 58 triệu đồng. Ngoài bán thịt, tổ liên kết còn bán giống cho bà con nông dân với 3 loại giá và đem lại nguồn thu ổn định. Hiện tổ liên kết đã tiếp tục thả nuôi lươn được trên 1 tháng tuổi. Lươn đang trong giai đoạn phát triển rất tốt.
Về kỹ thuật nuôi cũng như cách chăm sóc và cho lươn ăn, anh Trần Như Hổ chia sẻ thêm: Mỗi ngày cho lươn ăn 1 lần vào thời gian 5 giờ chiều, thức ăn chủ yếu các loại cá tươi về xay nhuyễn cho lươn ăn, sau khi cho ăn khoảng 2- 3 giờ sau thay nước. Với lươn có trọng lượng 20 con/kg nuôi vào thời tiết không lạnh, khoảng 4 tháng cho thu hoạch và thời tiết lạnh khoảng 4,5 tháng cho thu hoạch, mật độ nuôi 400 con/m2, mức nước đảm bảo 40cm, nhiệt độ để lươn phát triển từ 22 – 27 độ C, phía trên được che độ mát bởi lưới Thái Lan hoặc che bạt và phải ngăn cản được nước mưa, không làm ảnh hưởng đến lươn. Phía dưới hồ nuôi được lát gạch men.
Anh nói : “Lươn nuôi rất đơn giản, nuôi theo mô hình lươn không bùn tiết kiệm nhiều chi phí, dễ quản lý, chăm sóc, nhu cầu tiêu thụ loại lươn này rất lớn, tận dụng được diện tích đất nhỏ trong gia đình để nuôi”. Bí quyết thành công, để đem lại thành công trong mô hình này phải thường xuyên theo giỏi lươn phát triển để có biện pháp cho ăn, chăm sóc. Mô hình này vừa được tập huấn cho nông dân huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa), điểm nghiên cứu cho nhiều sinh viên Trường Đại học Nha Trang và là điểm cung cấp giống cho nhiều địa phương trên địa bàn toàn tỉnh.
Tổ liên kết nuôi lươn bùn vừa mở rộng thêm 10m2 diện tích nuôi lươn. Bên cạnh hệ thống nuôi lươn, tổ liên kết cũng thiết kế ao nuôi cá để tận dụng các thức ăn thừa từ nuôi lươn. Mô hình nuôi lươn không bùn đã góp phần bảo vệ môi trường, tăng thu nhập cho các cán bộ hội viên Hội Nông dân và đặc biệt cung cấp nguồn giống, thịt tin cậy cho các hộ nông dân và các nhà hàng, khách sạn.
Theo Công Tâm (Trang Trại Việt)
Th1205
Nuôi giun quế làm thức ăn cho cá
Không riêng gì cá lăng mà rất nhiều loài cá thích ăn giun (vì vậy, xưa nay mồi câu cá tốt nhất vẫn là giun). Do đó, kết hợp với nuôi cá, ta nên tiến hành nuôi giun.
Chúng tôi vào thăm mô hình nuôi cá lăng của anh Nguyễn Minh Tuấn ở Ea Kao, TP. Buôn Ma Thuột. Ta ngạc nhiên với hiệu quả của việc nuôi cá lăng bao nhiêu thì cũng ngỡ ngàng với việc nuôi giun quế của anh bấy nhiêu. Anh nuôi giun để làm thức ăn cho cá. Anh nuôi tới cả nghìn mét vuông. Giun dày đặc trong luống nuôi. Ta chỉ xới đất lên là đã thấy nhung nhúc giun…
nuôi giun quế
Con giun quế (mà bà con phía Nam gọi là trùn quế) đã được chúng tôi giới thiệu cách nuôi từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Nó là loài giun ăn phân và có những đặc tính rất hấp dẫn. Hàm lượng đạm của nó có thể đạt từ 69-71%. Cầm một nắm giun khác gì cầm một miếng thịt. Vứt nắm giun đó cho vật nuôi thì khác gì cho nó ăn lươn!
Có thể nói, việc nuôi giun là một cách hỗ trợ đắc lực cho việc nuôi gà, nuôi Vịt, nuôi cá và nuôi nhiều loài khác. Một số gia đình nuôi ếch đã lấy giun làm thức ăn vỗ béo hiệu quả nhất cho nó trước khi bán 1 tháng. Anh Tuấn thì nuôi giun để làm thức ăn cho cá lăng đuôi đỏ của anh. Cá được ăn giun lớn rất nhanh. Thức ăn chủ yếu của giun quế là phân. Tốt nhất là phân của động vật ăn cỏ (như trâu, bò, ngựa, dê, thỏ, hươu, nai… và cả voi nữa).
Phân lợn cũng nuôi được giun. Ta xây hoặc dùng gạch quây thành những luống (rộng 1,2-1,5m, cao 20-30cm và dài tùy ý). Chỗ nuôi phải có mái che, ta cho phân vào trong đó rồi thả giun giống lên trên. Khu nuôi nên che tối. Nếu không che được thì ta phải phủ lên luống các tấm bao tải hoặc chiếu rách. Giun ưa hoạt động vào tối. Hàng ngày nhớ tưới ẩm cho luống nuôi.
Giun sinh sản rất khỏe. Nó lại là loài lưỡng tính, con nào cũng đẻ được. Mỗi tuần nó đẻ 1 lần. Mỗi lần ra một cái nang có từ 2-20 trứng. Một tháng sau, trứng nở ra giun con. Ba tháng sau, giun con trưởng thành và lại tiếp tục đẻ như mẹ. Trong lúc, con mẹ sống tới hơn 10 năm mà vẫn đẻ. Vì vậy, cụ, kỵ, ông, cha, cháu, chắt, chút, chít… của nó đều đẻ! Do đó, lượng giun trong luống nuôi tăng lên rất nhanh.
Việc của ta là thường xuyên cung cấp đủ thức ăn cho nó, chỉ cần hòa phân loãng ra rồi tưới đều lên luống. Đừng pha loãng quá mà ở dạng sền sệt là tốt. Phải theo dõi hàng ngày không để giun bị đói. Ta cho ăn lần lượt và cũng thu hoạch theo kiểu cuốn chiếu. Khi khai thác giun thì việc lọc ra toàn giun không khó. Ta xúc cả phân và giun ra 1 tấm nylon ở ngoài sáng, vun lên thành đống. Giun sẽ chui đầu xuống dưới, ta gạt dần phân phía trên ra. Cuối cùng, ở dưới tụ lại toàn giun.
Không riêng gì cá lăng mà rất nhiều loài cá thích ăn giun (vì vậy, xưa nay mồi câu cá tốt nhất vẫn là giun). Do đó, kết hợp với nuôi cá, ta nên tiến hành nuôi giun.
Nguồn kĩ thuật nuôi trồng
Th1202
Lợn giun quế: Bí mật của độc ăn một lần là mê
Lợn giun quế: Bí mật của độc ăn một lần là mê
– Giun quế được nuôi và cho ăn phân bò, sau một tháng đem nghiền nát trộng với cám ngô, bã bia, rau,… đun lên làm thức ăn cho lợn. Đây chính là bí quyết của người nuôi để lợn giun quế có vị thơm ngon, ngọt, được nhiều người ưa thích.
Đặc sản thơm ngon nhờ ăn giun quế
Dẫn chúng tôi ra thăm trang trại lợn giun quế, chủ trại là bà Nguyễn Thị Liên ở thôn Tân Phú, xã Phú Cường (Sóc Sơn, Hà Nội) cho biết, khu nuôi lợn của bà chỉ làm sơ sài, tạm bợ với những chuồng nuôi nửa kín nửa hở để lợn có thể tắm nắng. Mọi người vào thăm chuồng trại thoải mái, không phải sát trùng, khử trùng giống trại nuôi lợn công nghiệp khác mà đàn lợn hơn 200 con của bà lúc nào cũng khỏe mạnh, tràn trề sức sống.
Bà Liên tiết lộ, tất cả đều nhờ vào giun quế. Ngày nào bà cũng cùng công nhân bắt hàng vạn con giun cho lợn ăn. Để chứng minh, bà dẫn chúng tôi ra khu vực chuồng nuôi giun quế rộng khoảng 1.000 m2, được chia tách thành những ô vuông chằn chặn.
Lật tấm bạt được cắt ra từ những chiếc tải đã cũ, bà Liên chỉ tay và nói: “Đây là phân bò được công nhân thu mua, bỏ vào đây làm thức ăn cho giun ăn. Giun nuôi khoảng 1 tháng thì lớn và có thể thu hoạch được”, bà Liên nói.
lợn giun quế, giun quế, thức ăn chăn nuôi, lợn sạch, thực phẩm sạch, đặc sản, thịt lợn, lợn-giun-quế, giun-quế, thức-ăn-chăn-nuôi, lợn-sạch, thực-phẩm-sạch, đặc-sản, thịt-lợn
Giun quế cho lợn ăn được nuôi bằng phân bò, rau xanh hoai mục
lợn giun quế, giun quế, thức ăn chăn nuôi, lợn sạch, thực phẩm sạch, đặc sản, thịt lợn, lợn-giun-quế, giun-quế, thức-ăn-chăn-nuôi, lợn-sạch, thực-phẩm-sạch, đặc-sản, thịt-lợn
Nuôi khoảng 1 tháng thì có thể bắt giun cho lợn ăn
Bà Liên cho hay, khi thu hoạch giun, chỉ cần bốc phân bò vào một tấm bạt bỏ ra ngoài trời nơi có nhiều ánh sáng, giun sẽ chui hết xuống dưới vì ưa bóng tối. Lúc này có thể bốc lớp phân bò ở trên đem đi bón rau, còn lại là những con giun to gần bằng đầu đũa, dài khoảng 20cm. Giun này lại đem đi nghiền nát, nấu chín rồi trộn cùng với bã bia, cám ngô, rau dại, cây thảo dược,… theo tỷ lệ 10-15% giun quế còn lại là cám làm thức ăn cho lợn.
Theo bà Liên, giun quế rất giàu đạm, có hàm lượng protein cao. Thịt giun ăn cực kỳ ngọt, thơm nên khi ăn thịt lợn, người ăn cũng có thể cảm nhận được vị thơm, ngọt đặc biệt này.
Bà Liên kể, trước kia, khi về hưu bà có thử nuôi lợn sạch bằng đầu cá đi xin ngoài chợ. Nhiều người khuyên bà nên bỏ cá đi, bà làm thử thấy thịt lợn ăn ngon hơn hẳn. Một lần vô tình xem được chương trình của nước ngoài trên mạng nói về quá trình nuôi giun quế làm thức ăn cho người hoặc động vật, bà thấy khá hay và có thể áp dụng được ở Việt Nam.
lợn giun quế, giun quế, thức ăn chăn nuôi, lợn sạch, thực phẩm sạch, đặc sản, thịt lợn, lợn-giun-quế, giun-quế, thức-ăn-chăn-nuôi, lợn-sạch, thực-phẩm-sạch, đặc-sản, thịt-lợn
Mỗi một con lợn từ lúc tách mẹ đến khi xuất chuồng bán ăn khoảng 20 kg giun quế
Hôm sau, bà Liên bắt tay làm thử ngay. Bà tìm mua giống giun quế về nuôi để làm thức ăn cho lợn, gà. Đến khi giết mổ, thịt nấu lên rất thơm ngon, ngọt. Nếu luộc thì nước luộc trong, không có bọt đen, thịt không bị ngót nên khách hàng rất thích.
“Lợn nuôi bằng nuôi bằng giun quế có sức đề kháng rất tốt, ít bị bệnh tật nhưng cũng không thể lớn nhanh được như lợn nuôi bằng cám công nghiệp”. Bà Liên cho biết, lợn nuôi cám công nghiệp mỗi tháng có thể tăng vài chục ký, 4 tháng thì xuất bán được, còn lợn nuôi bằng giun quế mỗi tháng chỉ tăng 10-12 kg, 7 tháng mới được xuất chuồng”.
Tuy nhiên, bà Liên cũng thừa nhận, mới đầu làm quen với con giun quế bà khá sợ, đặc biệt là những người được bà thuê làm. Có người nhìn thấy giun đã ghê, từ chối không làm nữa. Về sau khi tiếp xúc, thấy con giun này lành nên cũng quen dần.
Cung không đủ cầu, từ chối khách mua
“Sau 10 năm mày mò nuôi giun quế để chế làm thức ăn cho lợn, gà, bây giờ trại lợn của bà lúc nào cũng có khoảng trên 200 đầu lợn, 500 con gà, mỗi tuần xuất chuồng khoảng 4-5 con lợn, gà thì chỉ phục vụ cho nhà ăn và bán cho những khách hàng thân thiết”, bà Liên khoe.
lợn giun quế, giun quế, thức ăn chăn nuôi, lợn sạch, thực phẩm sạch, đặc sản, thịt lợn, lợn-giun-quế, giun-quế, thức-ăn-chăn-nuôi, lợn-sạch, thực-phẩm-sạch, đặc-sản, thịt-lợn
Lợn nuôi bằng giun quế thịt ăn cực kỳ thơm ngon khiến loại thịt này luôn được người dân lùng mua
Theo lời bà Liên, lợn giun quế vẫn chưa có nhiều người nuôi được nên nguồn cung trên thị trường còn bạn chế. Các đại lý muốn mua lợn loại này đều phải ký hợp đồng trước, song, hàng vẫn không đủ. “Gần đây tôi đã phải từ chối đại lý nhỏ, chỉ tập trung cung cấp lợn cho 4 đại lý lớn. Các đại lý này cũng chỉ bán được từ 1-2 con lợn/tuần”, bà Liên nói.
Ngoài ra, bà cũng chia sẻ, nhiều người đến thăm trại thấy bà cho ăn giun sợ thịt lợn không đảm bảo nên bà đã đem mẫu đến viện kiểm nghiệm test thử. Kết quả mỹ mãn, thịt lợn đảm bảo sạch, các chỉ tiêu đều an toàn.
Bà Liên cũng cho hay, hiện bà đang bán lợn hơi giun quế với giá 80.000 đồng/kg, lợn móc hàm giá 97.000 đồng/kg. Một con lợn nuôi 7 tháng có trọng lượng từ 110-120 kg.
Nói về việc mở rộng quy mô chuồng trại, bà Liên chia sẻ, vì đất trang trại hiện khá chật hẹp nên thời gian tới bà sẽ tìm thêm vài địa điểm để thuê người nuôi hộ. Bà cung cấp giống, cám, giun, thuốc, kể cả kỹ sư,… cho họ, người được thuê chỉ việc bỏ công ra nuôi.
“Tôi giờ đang nuôi ở nhà thông gia một ít, nuôi ở một số hộ gia đình xung quanh một ít để có thể tăng đàn. Trong quá trình nuôi, mình cũng phải giám sát thật chặt chẽ, tránh để họ cho ăn cám công nghiệp. Đến lúc lợn đạt số cân mong muốn, tôi bắt về trại nuôi tiếp thêm 2-3 tuần nữa để đảm bảo lợn thật sạch”, bà Liên cho hay.
Bảo Hân- báo vietnamnet
Th1201
Hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cây cam sau thu hoạch
1. Đốn tỉa, tạo hình
Sau mỗi mùa thu hái quả, công việc đốn tỉa, tạo hình cho cây cam phải được tiến hành thường xuyên như: cắt bỏ những cành khô, cành bị sâu bệnh, cành tăm, cành vượt, cành xiên vào tán, cành mọc quá dày, cành quá yếu nhằm tạo cho cây thông thoáng, ít sâu bệnh.
2. Chăm sóc, bón phân
* Chăm sóc
– Làm cỏ, xới đất: Thường xuyên làm sạch cỏ quanh gốc theo hình chiếu của tán cây, để hạn chế việc cạnh tranh nước và dinh dưỡng của cỏ dại; ngăn chặn sự trú ngụ, xâm nhập của sâu bệnh. Việc xới đất cần thực hiện hàng năm để giúp đất thông thoáng, cung cấp thêm ôxy cho đất. Gần gốc thì xới nông, giữa các hàng thì xới sâu hơn do rễ của cam quýt mọc yếu và nông gần lớp đất mặt.
– Tưới nước: Cây cam là loại cây ưa ẩm và ít chịu hạn, việc tưới nước cho cây là rất cần thiết ở các thời kỳ nẩy mầm, phân hoá mầm hoa, thời kỳ ra hoa, kết quả và quả phát triển. Đối với mùa khô hạn cần tưới nước cho cây từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Cây cam cũng rất sợ úng, do đó phải thoát nước kịp thời trong mùa mưa lũ. Không để vườn cam bị úng, nhất là giai đoạn khi cây đang có quả.
* Bón phân
– Lượng bón:
Loại phân 4 – 5 năm
(kg/cây) 6 – 7 năm
(kg/cây) Trên 7 năm bón theo năng suất
trên 80 tạ/ha (kg/tấn quả)
Phân hữu cơ 35 – 40 45 – 50 2.000 – 2.500
Phân đạm urê 0,35 – 0,45 0,5 – 0,55 24 – 26
Phân lân 0,9 – 1,2 1,4 – 1,5 70 – 75
Phân kali 0,45 – 0,5 0,55 – 0,65 25 – 30
Vôi bột 0,7 – 0,8 0,8 – 1,0 150 – 250
– Cách bón: Dùng cuốc đào rãnh hoặc cuốc hố theo mép ngoài hình chiếu tán cây, sâu 25 – 30 cm, rộng 20 – 25 cm (tuỳ lượng phân bón) trộn đều các loại phân bón, bón vào rãnh rồi lấp đất ngay.
– Thời gian bón:
+ Lần 1: sau khi thu hoạch quả, bón toàn bộ phân hữu cơ, phân lân, vôi bột và 1/3 phân đạm.
+ Lần 2: trước khi cây ra hoa, bón 1/3 lượng đạm.
+ Lần 3: sau khi cây đậu quả 6 – 8 tuần, bón 1/3 lượng đạm và 1/2 lượng kali.
+ Lần 4: trước khi thu quả 1 – 2 tháng, bón nốt 1/2 lượng phân kali còn lại.
3. Phòng trừ sâu bệnh
Cây cam thường bị một số đối tượng sâu bệnh gây hại như: sâu đục thân, sâu vẽ bùa, nhện, rệp; bệnh ghẻ, bệnh thối quả, bệnh thối gốc, chảy mủ, bệnh loét cam…
Biện pháp phòng trừ hiệu quả nhất là áp dụng quy trình phòng trừ tổng hợp để có vườn cây khỏe, sạch sâu bệnh.
– Cắt tỉa thường xuyên để cành thông thoáng, cắt bỏ những cành mới héo do sâu đục thân tuổi nhỏ gây ra; vệ sinh vườn cây để giảm nguồn lây lan của sâu bệnh.
– Tăng cường chăm sóc bón phân, tưới nước để vườn cây khỏe mạnh. Tỉa cành, bón phân hợp lý, điều khiển cây ra lộc tập trung để dễ theo dõi và phòng trừ sâu bệnh hại.
– Đối với sâu đục thân, đục cành: bắt diệt sâu trưởng thành (xén tóc), dùng dây thép luồn vào lỗ đục diệt sâu non; bơm thuốc Bi58, Monitơ 0,2% vào lỗ đục của sâu.
– Tiêu diệt các loài côn trùng môi giới truyền bệnh như rầy chổng cánh truyền bệnh vàng lá Greening…
– Sử dụng các biện pháp sinh học trong phòng trừ sâu bệnh hại như: sử dụng bẫy bả sinh học, thả nuôi các loài thiên địch có ích (kiến vàng), kết hợp trồng xen với các loài cây không cùng đối tượng sâu hại…
– Khi cây xuất hiện sâu bệnh cần phun các loại thuốc chuyên dùng cho cây ăn quả theo hướng dẫn ghi trên bao bì.
Nguồn nhà nông Việt nam
Th1130
Nuôi gà quế an toàn sinh học được giá, lãi cao
Nuôi gà quế an toàn sinh học được giá, lãi cao
Nuôi giun quế làm thức ăn cho gà làm chất lượng thịt gà săn chắc, thơm và ngọt hơn hẳn nuôi bằng thức ăn thông thường. Nuôi gà bằng giun quế còn được gọi là “gà quế” hiện là phong trào đang phát triển mạnh trên địa bàn huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Mô hình đã mang lại hiệu quả thiết thực cho nhiều hộ dân nơi đây.
Nhằm khuyến khích người nông dân phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa an toàn, ổn định và bền vững; năm 2016 Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thái Nguyên phối hợp với Trạm Khuyến nông huyện Phú Lương, UBND xã Yên Lạc xây dựng mô hình chăn nuôi gà thịt an toàn sinh học cho các hộ nuôi giun quế làm thức ăn cho gà.
Mô hình chăn nuôi gà thịt an toàn sinh học được thực hiện từ tháng 7/2016 tại 9 hộ dân xóm Ó, xã Yên Lạc (huyện Phú Lương). Quy mô thực hiện 2.500 con gà J – DABACO. Các hộ tham gia mô hình được hỗ chợ 60% giá giống và 40% vật tư (thức ăn, thuốc thú y…); được chuyển giao kiến thức khoa học – kỹ thuật về chăn nuôi gà an toàn sinh học từ khâu chọn mua con giống có chất lượng đến việc áp dụng quy trình vệ sinh, tiêu độc sát trùng chuồng trại, chăm sóc, nuôi dưỡng… Đặc biệt, gà trong mô hình được phòng các bệnh như Marek, Newcastle, Gumboro, đậu và cúm bằng tiêm vắc-xin.
Trong thời gian úm, gà được chăn bằng cám công nghiệp, cám viên dùng cho gà con. Sau 01 tháng tuổi thả gà ra vườn có hàng rào, lưới, tường bao quanh, tách biệt với nơi ở của con người. Gà nuôi thịt được sử dụng thức ăn bằng giun quế kết hợp với nguyên liệu sẵn có tại địa phương như cám gạo, bột ngô, bột đỗ tương… để nâng cao chất lượng sản phẩm, an toàn và hạ giá thành sản xuất.
Qua 4 tháng triển khai thực hiện, mô hình đã đạt được kết quả cao, tỷ lệ gà hao hụt ít, trọng lượng xuất chuồng bình quân đạt 2 kg/con, tiêu tốn và chi phí thức ăn thấp… Hiện nay giá gà thịt ổn định ở mức tương đối cao; gà quế được người dân địa phương bán với giá 90 nghìn đồng/kg hơi. Sau khi trừ các khoản chi phí về con giống, thức ăn và thuốc thú y, trung bình 100 con gà J – DABACO nuôi theo phương thức an toàn sinh học, nuôi bằng giun quế, người dân thu về 10 triệu đồng; hiệu quả cao hơn nhiều so với gà nuôi hoàn toàn bằng cám công nghiệp và nuôi thả theo truyền thống.
Ngày 16/11/2016, Trung tâm Khuyến nông Thái Nguyên tổ chức hội nghị tổng kết mô hình chăn nuôi gà thịt an toàn sinh học năm 2016. Tại hội nghị, các đại biểu và bà con nông dân đánh giá, sử dụng giun quế làm thức ăn cho vật nuôi là cách tốt nhất cung cấp protein chất lượng cao, giá rẻ cho vật nuôi, đặc biệt hiệu quả trong chăn nuôi gà.
Việc nuôi giun quế đã giải quyết được vấn đề thức ăn chất lượng cho chăn nuôi gà; trong khi nguồn thức ăn chính cho giun quế lại là các chất thải trong chăn nuôi như phân trâu, bò… và rác thải nông nghiệp. Ngoài ra phân giun quế còn là nguồn phân hữu cơ rất tốt để bón cho rau, màu… qua đó đã góp phần quan trọng làm sạch môi trường sống.
Chăn nuôi gà an toàn sinh học hạn chế dịch bệnh, đảm bảo an toàn cho đàn gà cũng như đảm bảo an toàn, sức khỏe cho người dân; tạo ra thực phẩm sạch cho người tiêu dùng, nâng cao thu nhập cho người chăn nuôi.
Từ hiệu quả mô hình mang lại, Trung tâm Khuyến nông Thái Nguyên khuyến khích người dân địa phương phát triển chăn nuôi gà an toàn theo quy mô gia trại, trang trại thành vùng chăn nuôi tập trung; tiến tới xây dựng thương hiệu cho gà quế Phú Lương. Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền, khuyến cáo nhân rộng mô hình nuôi giun quế chăn gà an toàn sinh học trên địa bàn tỉnh; nhằm mở ra hướng phát triển kinh tế mới cho người dân./.
Dương Trung Kiên
Trung tâm Khuyến nông Thái Nguyên
Th1128
Công nghệ gia tăng giá trị cho trùn quế
Công nghệ tăng giá trị cho giun quế
Hỏi: Trùn quế được nhiều nơi nuôi để làm thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm hoặc lấy phân bón cho cây trồng. Xin cho biết trùn quế còn có ứng dụng nào khác có giá trị cao hay không?
Đáp: Trùn quế, hay còn gọi là giun quế, có tên khoa học là Perionyx escavatus, họ Megascolecidae. Giun quế thường sống trong môi trường có nhiều chất hữu cơ đang phân hủy. Chúng được sử dụng rộng rãi trong việc chuyển hóa chất thảm ở Philippines, Australia và một số nước khác (Gurrero, 1983; Edwards, 1995). Năm 1986, Đại học Sư phạm 1 Hà Nội đã nghiên cứu thành công việc thuần hóa giun quế có trong tự nhiên ở Việt Nam. Hiện nay giun quế được nuôi công nghiệp theo trang trại với các quy mô vừa và nhỏ tại nhiều địa phương trong cả nước.
Kích thước giun quế khi trưởng thành từ 10 – 15 cm, tỉ trọng nước chiếm khoảng 80 – 85%, chất khô khoảng 15 – 20% trọng lượng cơ thể. Hàm lượng các chất (tính trên trọng lượng chất khô) cao nhất là protein (68 –70%), kế tiếp là đường (12 –14 %), lipid (7 – 8%) và tro (11 – 12%). Do có hàm lượng protein cao nên giun quế được xem là nguồn dinh dưỡng bổ sung quý giá cho các loại gia súc, gia cầm, thủy hải sản… Phân giun quế là loại phân hữu cơ sinh học, có hàm lượng dinh dưỡng cao, thích hợp cho nhiều loại cây trồng, không gây ra tình trạng “sốc” phân, yêu cầu trữ dễ dàng, đặc biệt thích hợp cho các loại hoa kiểng, làm giá thể vườn ươm và là nguồn phân thích hợp cho việc sản xuất rau sạch.
Ngoài các ứng dụng đã nêu, giun quế còn được dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp, y dược để sản xuất ra các loại thuốc hoặc sản xuất thực phẩm chức năng, phục vụ cho đời sống con người. Đây chính là các ứng dụng đem lại giá trị vượt trội cho giun quế.
Do có chứa Lumbrokinase (enzyme thủy phân fibrin, tác nhân gây ra chứng nghẽn mạch máu do đóng cục), giun quế đã được các nhà khoa học Việt Nam quan tâm nghiên cứu theo hướng ứng dụng trong điều trị bệnh tim mạch. Sáng chế của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Dao, Viện Công nghệ sinh học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, được cấp bằng số 1-0007434 ngày 26/01/2009 đưa ra quy trình và công thức sản xuất bột giun quế dùng để điều trị các bệnh do huyết khối gây ra như tắc mạch chi, nhồi máu cơ tim, nhồi máu não, nhồi máu phổi.
Quy trình sản xuất theo sáng chế như sau:
1. Chuẩn bị nguyên liệu
– Bột giun quế thu được bằng cách rửa sạch giun quế còn sống trong nước sạch và ngâm trong nước cất 2 giờ, ngâm liên tục từ hai đến ba lần. Sau đó, tiến hành nghiền loài giun quế này trong cối sứ chứa cát thủy tinh, hòa tan trong dung dịch nước muối sinh lý 0,9% NaCl, ly tâm ở tốc độ 3.000 vòng/phút trong thời gian 15 phút để loại bỏ phần cặn. Phần dịch nổi thu được được làm đông khô, sau đó bảo quản trong tủ đá. Sản phẩm khi dùng được trộn với tá dược là tinh bột theo tỷ lệ 1:1, sau đó xát cốm, và sấy khô trong tủ sấy có gió nóng ở nhiệt độ nằm trong khoảng từ 45°C đến 60°C. Sản phẩm thu được được nghiền thành bột, khử trùng và đóng gói trong túi nylon hai lớp.
– Bột gừng khô (Can khuông) có tên khoa học là Zingiber officinale Rose, có tính ấm, vị cay, thơm, chữa đau bụng lạnh, đầy hơi, chân tay lạnh, tê buốt. Khi kết hợp với bột giun quế sẽ tăng cường tác dụng thông máu, chống lạnh và tê bì tay chân. Bột gừng khô thu được bằng cách thái lát củ gừng tươi, phơi trong bóng râm mát rồi sấy khô, nghiền nhỏ thành bột mịn.
– Pluriamin là hỗn hợp gồm 18 loại axit amin tự nhiên thu được từ nhộng tằm khô theo phương pháp mô tả trong giải pháp hữu ích số HI-0014, mà tác giả đồng thời cũng là tác giả của sáng chế này.
– Tinh bột là tá dược vẫn thường được sử dụng trong ngành bào chế dược.
Trong bột giun có sẵn các axit amin bao gồm đủ 18 loại axit amin với hơn 40% là các axit amin không thay thế. Các axit amin này trong bột giun khô nằm trong khoảng 43-45% tính theo trọng lượng khô. Ngoài ra, vitamin (A, E, BI, C) và các nguyên tố đa vi lượng như canxi, natri, kali, phospho, sắt, kẽm, là các thành phần có sẵn trong bột giun và bột gừng khô nhưng với lượng rất nhỏ.
2. Phối trộn nguyên liệu, tạo công thức điều trị bệnh
Chế phẩm bột giun quế chứa các thành phần như sau:
Ví dụ 1: Sản xuất 1.000 g chế phẩm bột giun quế Perionyx escavatus I (chế phẩm I) có tác dụng làm tan nhanh cục máu đông:
• Bột giun quế: 350 g (tương đương 14.000 UI – đơn vị hoạt lực enzyme).
• Bột gừng khô: 10 g.
• Pluriamin: 250 g.
• Vitamin (A;B1;C;E): vi lượng.
• Các nguyên tố đa vi lượng Ca, p, Fe, Zn, Na, K, v.v..: dạng vết.
• Tinh bột: vừa đủ.
Ví dụ 2: Sản xuất 1.000 g chế phẩm bột giun quế Perionyx escavatus II (chế phẩm II) có tác dụng nâng cao thể lực cho những bệnh nhân đã bị bệnh lâu ngày, ăn uống hấp thu kém đồng thời ngăn ngừa chứng khó tiêu, đầy bụng ở những người nằm lâu ngày, ít vận động:
• Bột giun quế: 300 g (tương đương 12.000 UI – đơn vị hoạt lực enzyme).
• Bột gừng khô: 20 g.
• Pluriamin: 300 g.
• Vitamin (A;B1;C;E): vi lượng.
• Các nguyên tô đa vi lượng Ca, p, Fe, Zn, Na, K, v.v..: dạng vết.
• Tinh bột: vừa đủ.
Các nguyên liệu được phối trộn theo công thức được xác định tùy theo chế phẩm. Sau đó, toàn bộ hỗn hợp được đưa vào máy khuấy đảo đều trong thời gian 15-20 phút, sau đó sử dụng rây số 355 để thu được bột mịn (các thao tác được thực hiện trong buồng vô trùng, có điều hòa ở nhiệt độ trong khoảng 18-25°C.
Chế phẩm thu được có độ ẩm không lớn hơn 10%; tổng lượng nitơ amin không nhỏ hơn 1%; lượng tro sulfat không lớn hơn 15%; lượng nitrit, nitrat nằm trong mức độ cho phép; hoạt tính phân hủy fibrin không dưới 35UI/g, ở dạng bột mịn, tơi xốp, có mùi thơm như mùi quế và vị ngọt của đạm, màu trắng ngà, có thể dập thành viên, mỗi viên 0,3 g (tương đương 4,2UI/viên).
Một hướng đi khác của các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Phát triển sản phẩm thuộc Công ty TNHH Nam Dược khi phối hợp giun quế cùng các vị thuốc hạ áp khác như câu đằng, hạ khô thảo, huyền sâm,… vừa hạ huyết áp vừa dự phòng được tai biến, mang lại kết quả hỗ trợ điều trị tốt cho người bệnh, mở ra triển vọng phát triển các bài thuốc cho người tăng huyết áp. Chế phẩm này đã được sản xuất và phân phối rộng rãi dưới dạng viên uống thảo dược.
STINFO Số 12/2014
Th1122
Phân hữu cơ đối với cây trồng
Chất hữu cơ có vai trò rất lớn trong việc cải tạo độ phì của đất d
o thành phần chủ yếu của chất hữu cơ là C, H, O. Dưới tác dụng phân huỷ của vi sinh vật đất, các nguyên tố này dần dần chuyển thành chất mùn để cây trồng có thể sử dụng được. Chất hữu cơ liên kết với các hạt khoáng hình thành nên cấu trúc viên của đất, tạo tính tơi xốp cho đất, tăng khả năng giữ nước và dinh dưỡng trong đất. Ưu điểm của chất hữu cơ là ngoài cung cấp Đạm, còn cung cấp Lân, Kali và các nguyên tố vi lượng cho cây trồng. Đây là những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất cây trồng
Nguồn nguyên vật liệu hữu cơ có rất nhiều trong tự nhiên như các loại thực vật thân thảo, thực vật thủy sinh, tàn dư trong sản xuất nông nghiệp, …. tất cả đều có thể được sử dụng để bổ sung chất hữu cơ cho đất. Chất hữu cơ đóng một vai trò quan trọng, là dạng dưỡng chất nền rất quý cho các loại cây trồng, có vai trò duy trì các hoạt động trong đất và cây trồng một cách bền vững và lâu dài, cải thiện hiệu quả của phân bón sử dụng, kéo dài tác dụng của phân đạm như phân urea có thể tồn tại 60-80 ngày hoặc lâu hơn, cải thiện sự hút dinh dưỡng đặc biệt là lân và canxi, kích thích thành phần sống của đất, cung cấp tổng lượng dinh dưỡng cho việc giảm bệnh, côn trùng và tác động của sương giá, chất mùn hữu cơ là chất xúc tác làm tăng mức độ carbon trong đất. (Fred Magdoff and Ray R.Weil, 2004).
Theo Kueppe (2000), canh tác theo phương pháp hữu cơ cho hiệu quả cao là do các thành phần vi khuẩn, vi sinh vật. Hoạt động của chúng là có thể chuyển carbon thành dạng dễ hấp thu. Trong đó có nấm Mycorrhizae có khả năng giúp rễ cây hấp thu dinh dưỡng tốt hơn, loại nấm này phát triển mạnh ở những vùng đất hữu cơ, giúp cho đất ổn định hơn. Ngoài ra, canh tác theo phương pháp hữu cơ còn tạo môi trường sống tốt cho các thiên địch của sâu bệnh, các loại giun ….
Theo Fred và Ray (2004), khi canh tác liên tục cây trồng trên một chân đất, hàm lượng chất hữu cơ bị mất đi nhanh chóng. Tốc độ mất chất hữu cơ trong đất xảy ra rất nhanh khi đất mới được khai thác đưa vào sản xuất nông nghiệp, cần phải có biện pháp duy trì lượng hữu cơ trong đất.
Với các mục tiêu phát triển mở rộng diện tích gieo trồng rau an toàn, phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, ổn định, bền vững, … bà con nông dân thành phố đã được trang bị các kiến thức về thực hành sản xuất nông nghiệp tốttrên cây rau (VietGAP), kiến thức pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất, … Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất, một số nông dân vì muốn có hiệu quả nhanh nhất nên sử dụng phân bón vô cơ dạng đơn, hỗn hợp, chưa sử dụng phân hữu cơ hoặc sử dụng một lượng ít cho một số cây. Điều này, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường, và cân bằng sinh thái bị phá vỡ. Để khai thác tối ưu các chất dinh dưỡng, các quá trình sinh học diễn ra trong tự nhiên, … Sử dụng phân hữu cơ thường xuyên trong sản xuất nông nghiệp góp phần cân đối dinh dưỡng cho cây, giúp cây sinh trưởng khỏe, tăng sức đề kháng sâu bệnh, đảm bảo chất lượng sản phẩm, thời gian bảo quản sản phẩm thu hoạch được kéo dài hơn, hạ giá thành sản xuất, … đặc biệt là duy trì và nâng cao độ phì trong đất. Đây là một trong những biện pháp kéo dài chu kỳ sinh trưởng của cây, tạo ra sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời đảm bảo bền vững cho hệ thống môi trường, xã hội và kinh tế.
Nguồn trích dẫn: khuyến nông tphcm
Th1121
3 nguyên tắc bón phân cho cây mai ghép trồng chậu
Cây mai ghép trồng chậu thuộc loại cây kiểng vừa khó chăm sóc vừa phải bón phân phù hợp với điều kiện thời tiết cũng như tình trạng sinh trưởng của cây. Hay nói cách khác tùy vào cây khỏe sung túc hay đang suy yếu mà có chế độ bón phân thích hợp.
Cây mai ghép trồng trong chậu nếu được quan tâm và xử lý đúng kỹ thuật thì cây có thể sống ra hoa với thời gian kéo dài khoảng 8-10 năm, ngược lại thì cây mai ghép dễ bị nhiễm nấm bệnh sâu hại tấn công làm cây suy dần chết khô nhánh và chừng 4-5 năm là cây không còn cành nhánh nào cả.
1.Bón phân cây mai ghép thời kỳ sau tết
Sau khi cây ra hoa chơi tết thì cây đang trong giai đoạn mất dinh dưỡng, cần phải cắt bỏ hết trái hay hoa trên cây, sau đó thu gọn bớt những cành nhánh vươn dài.
Việc bón phân cho thời kỳ này là bón lót cùng với đất trồng mới khi thay chậu thay đất với mục đích giúp cây mai ghép phục hồi và phát triển cành mới lá mới.Vì vậy bón phân trong giai đoạn này lúc ban đầu cần sử dụng thêm thuốc kích thích ra rễ như Vitamin B1, surper roots kết hợp phân hữu cơ cao cấp như phân trùn quế, phân bò xử lý hoai mục, bánh dầu thủy phân, phân lân hữu cơ vi sinh Sông gianh…bón lót cho cây mai.
Sau thời gian khoảng 1,5- 2 tháng khi cây ra 2-3 đợt lá thì bón thêm phân DAP, super lân với liều lượng cây lớn là 1 muỗng canh, cây nhỏ dùng muỗng cà phê rải xung quanh gốc và tưới nước đầy đủ.Phân này giúp cây mai phát triển bộ rễ khỏe.
Khi cây đã phát triển tốt nhiều lá thì bón phân thêm 2-3 đợt Dynamic Lifter và phân hạt NPK 16.16.8 để tăng hàm lượng đạm cho cây, ( mỗi tháng một đợt với liều như phân DAP)
2. Bón phân cho cây mai ghép trong lúc chuẩn bị ra nụ từ tháng 5-8 âm lịch
Từ sau tháng 5 âm lịch là cây mai đã có bộ tán lá dầy và xanh, lúc này cây chuẩn bị sang giai đoạn ra nụ dưới mỗi nách lá. Do thời tiết đang vào mùa mưa nên thường xuyên phun thuốc BVTV phòng sâu bệnh khi thấy thời tiết bất thường như nấm hồng, nấm rễ, vàng lá, bọ trĩ, rầy rệp tấn công, thuốc BVTV dùng luân phiên như Validamicin, Carbenzim, topsinM, Cóc 85, secsàigòn, regant, Polytrin, …kết hợp phân bón lá như Trichoderma, B1, rong biển…
Bón phân cho cây mai ghép trồng chậu lúc này ưu tiên dùng phân luân phiên có hàm lượng kali hay phốt pho cao như KN03, KCL, super lân, phân dơi để cây mai tăng sức đề kháng và chuyển sang giai đoạn ra nụ.Lưu ý dùng liều lượng nhỏ vừa chia làm nhiều đợt cho cây mai hấp thu từ từ, không bón một lần với nhiều phân sẽ gây sốc phân cho cây.
3. Bón phân cho cây mai ghép chuẩn bị cho tết từ tháng 9 âm lịch đến trước khi lảy lá
Lúc này lá cây mai đã bắt đầu già đi, lá cây chuyển màu bớt xanh đi và dầy lên dần, không còn cho lá mới mà bắt đầu tập trung sức cho ra nụ ra hoa.
Thời kỳ này không bón phân đạm hay hữu cơ mà chỉ bón phân super lân theo liều lượng như trên nhằm làm dầy lá giữ cây mai không rụng lá.Thời gian bón phân lân hai đợt đến khi tháng 10 là ngưng hẳn và chỉ tưới nước vừa đủ.
Cây mai ghép trồng chậu đòi hỏi sự quan tâm chăm sóc và kinh nghiệm bón phân mới có được cây mai ghép ra hoa đúng tết như ý, với thời tiết bất thường như này nay thì người nghệ nhân chơi mai cũng phải mất ăn mất ngủ.
Nguồn :Trongraulamvuon.com
Th1220