
Kỹ thuật bón lót là gì? Các loại phân dùng để bón lót
Trước khi cây gieo trồng, nếu môi trường đất ở khu vực gieo trồng không được tốt thì người nông dân cần phải tiến hành bón lót trước khi trồng. Bên cạnh bón thúc thì bón lót cũng là một kĩ thuật cơ bản mà mọi nông dân trong lĩnh vực trồng trọt phải biết và sử dụng các loại phân bón thích hợp sẽ đem lại một mùa vụ bội thu, có chất lượng nông sản tốt.
I. Bón lót có tác dụng gì? Tại sao phải bón phân lót?
Tại sao phải bón phân lót?
Bón lót là quá trình cung cấp nguồn thức ăn cho cây trước khi gieo trồng giúp cho những hợp chất khó phân hủy có đủ thời gian để tan rã, tạo điều kiện cho rễ cây trong quá trình sinh trưởng có thể hấp thu chất dinh dưỡng tốt nhất tạo nền móng vững chắc cho cây phát triển.
Với từng giống cây trồng sẽ có tần suất bón khác nhau, cụ thể:
- Cây hàng năm: Chỉ cần thực hiện một lần đầu tiên trước thời điểm gieo giống.
- Cây lâu năm: Chia ra thành nhiều thời điểm gồm giai đoạn trước khi gieo trồng, giai đoạn cây đã ngừng sinh trưởng trong năm và vào thời điểm sau khi thu hoạch.
II. Các loại phân bón lót và liều lượng bón phân lót
Các loại phân bón và liều lượng bón phân lót
1. Các loại phân bón lót được sử dụng
Phân có hàm lượng hữu cơ cao: Chủ yếu là phân gia súc (phân chuồng) đã ủ hoai mục và phân trùn quế, phân hữu cơ chế biến. Phân hữu cơ thường dùng để bón lót vì có thể cung cấp chất dinh dưỡng, làm cho đất tơi xốp, tăng cường hoạt động cho hệ vi sinh vật có ích trong đất. Cần bón sớm hoặc trước kkhi chuẩn bị gieo trồng để phát huy tác dụng.
Vôi hoặc chất cải tạo, điều hòa pH đất: Là loại tốt nhất là đối với các vùng đất bị chua phèn hoặc các loại rau ăn quả lâu năm.
Phân hóa học có chứa hàm lượng đạm thấp, lân cao:
– Với những loại cây màu ngắn ngày, cây ăn quả và rau công nghiệp lâu năm thường dùng cả phân kali và phân lân.
– Các loại phân hỗn hợp NPK có hàm lượng đạm cao, lân và kali thấp.
VD: Supe lân, lân nung chảy; DAP 18-46, NPK 5-10-3; NPK 16-16-8; NPK 12-15-5…
2. Liều lượng sử dụng phân bón
Tùy thuộc vào loại phân bón, tính chất đất đai, mùa vụ trong năm và loại cây trồng mà bổ sung lượng phân bón phù hợp. Có thể bón với lượng lớn hơn đối với đất có thành phần cơ giới nặng, giàu mùi. Còn đối với đất có thành phần cơ giới nhẹ nghèo mùn thì khi dùng phân đạm kali bón lót phải bón lượng nhỏ nếu bón lượng lớn thì sẽ xảy ra hiện tượng mất dinh dưỡng do quá trình rửa trôi,
Các loại phân bón khuyên dùng là phân trùn quế, phân chuồng, phân lân và cần sử dụng thêm một phần phân dễ tan như phân đạm, phân kali.
III. Các cách bón lót phổ biến hiện nay
Phương pháp 1:
- Rải đều phân bón trên khu vực đất chuẩn bị gieo giống
- Để tạo điều kiện cho phân bón vùi xuống đất bạn nên cày bừa đất đã được rải phân.
Phương pháp 2:
- Rải đều phân bón trên bề mặt đất cần gieo trồng
- Dùng một lớp đất mới phủ lên trên toàn bộ khu vực đã phân bón và cuối cùng là gieo giống cây.
Đặc biệt, với những loại cây lâu năm thì bạn nên đào hố sâu rồi cho phân bón vào hố trước khi gieo trồng.
Kỹ thuật bón lót không quá phức tạp nhưng vẫn cần phải nắm vững kiến thức cơ bản và hiểu biết về các loại phân bón để sử dụng phù hợp cho từng loại đất trồng, giống cây trồng khác nhau để đạt được hiệu quả tối đa giúp người nông dân có mùa vụ bội thu, chất lượng quả tốt.
Nguồn: phân bón Hà Lan
Th1015

Kỹ thuật trồng cây đinh lăng: Cây thuốc quý dân gian
Không chỉ để làm cảnh, tất cả bộ phận của cây đinh lăng đều được sử dụng làm thuốc. Dưới đây là kỹ thuật trồng cây đinh năng cho năng suất hiệu quả nhất
Ngoài trồng để làm cây cảnh, cây đinh lăng còn là một cây thuốc quý dân gian, có thể sử dụng được toàn bộ cây từ rễ, củ, cành và lá để làm thuốc trị bệnh, bồi bổ sức khỏe và làm gia vị cho một số món ăn.
Kỹ thuật trồng cây đinh lăng
Không chỉ làm cảnh đinh lăng còn là cây thuốc quý dân gian
Làm đất: Cày bừa làm đất tơi, đào hố kích thước 20 x 20 x 20cm. Nếu ở vùng đồi phải cuốc hốc sâu 20cm, đường kính hố 40cm, đào hốc thành hai hàng lệch nhau, cây cách cây 50cm.
Trồng cây:
Trồng đinh lăng bằng cây giống để có chất lượng tốt
Trồng bằng hom giống: Hom giống được chọn những cành khỏe, cành bánh tẻ, cành vừa hóa nâu, sau đó cắt từng khoảng dài 20cm để làm hom giống, đặt hom giống nghiêng 45o theo mặt hố đã chuẩn bị sẵn, sau đó lấp hom, để hở đầu hom trên mặt đất 5cm.
Trồng bằng cây giống: Sau khi xé túi bầu, cây giống đặt giữa hố trồng, lấp đất, dùng tay nén đất xung quanh túi bầu.
Trồng xong, phủ rơm rạ lên mặt luống để giữ độ ẩm và tạo mùn cho đất tơi xốp. Khi trồng xong, nếu đất khô phải tưới nước đảm bảo độ ẩm cho đất trong vòng 25 ngày nhưng không để ngập nước. Nếu trời mưa liên tục phải thoát nước ngay để tránh thối hom giống.
Bón phân:
Bón lót: Mỗi hecta bón lót 10 – 15 tấn phân hữu cơ 3-2-2, 400 – 500 kg phân NPK 16-16-16, bón toàn bộ lượng phân lót, sau khi trộn đều với lớp đất mặt cho vào hố. Chuẩn bị trước khi trồng 10 – 15 ngày.
Bón thúc: Năm đầu vào tháng 6 – 7 dương lịch sau khi làm cỏ, bón thúc 10kg urê/sào bằng cách rắc vào hố cách gốc 20cm rồi lấp kín. Cuối năm thứ 2 vào tháng 9 dương lịch sau đợt tỉa cành, bón thêm phân chuồng hoặc phân trùn quế 5 – 6 tấn/ha và 250 – 300kg NPK 16-16-16 + 100kg Clorua kali. Bón thúc vào hố cách gốc 20 – 30cm, vun đất phủ kín phân bón, để cây có điều kiện phát triển mạnh vào năm sau.
Bón phân đầy đủ để cây đinh lăng ra rễ to
Chăm sóc:
Từ năm thứ 2 trở đi cần tỉa bớt lá và cành, mỗi năm 2 đợt vào tháng 4 và tháng 9.
Mỗi gốc chỉ để 1 – 2 cành to, tập trung dinh dưỡng nuôi cành chính và củ đinh lăng.
Làm cỏ kịp thời. Bón thúc vào tháng 8 – 9 dương lịch, vun đất phủ kín phân bón, để cây có điều kiện phát triển mạnh vào năm sau. Trồng từ 3 năm trở lên mới thu hoạch.
Kiểm tra thường xuyên tình trạng đồng ruộng, dụng cụ phun thuốc và các bao gói, vệ sinh dụng cụ và xử lý nước thải khi vệ sinh dụng cụ phun thuốc, phòng ngừa khả năng gây ô nhiễm đất trồng và môi trường vùng sản xuất.
Tưới nước, tỉa lá… thường xuyên cho cây đinh lăng
Phòng trừ sâu bệnh:
Đối tượng sâu bệnh hại trên cây chủ yếu là sâu cuốn lá, sâu xanh,… Có thể dùng thuốc hoặc bắt bằng tay vào sáng sớm hoặc chiều mát. Sử dụng các thuốc sinh học như Biocin luân phiên với thuốc Sherpa, Sherzol, Secsaigon để phun cho cây.
Thu hoạch, chế biến, bảo quản:
Lá: Khi chăm sóc cần tỉa bớt lá chỗ quá dày, khi thu vỏ rễ, vỏ thân thì thu hoạch lá trước, sau đó mới chọn hom giống. Lá thu được đem hong gió cho khô là tốt nhất, sau cùng sấy cho thật khô.
Sau khi thu hoạch lá về cần phải sấy khô để khỏi thối
Vỏ rễ, vỏ thân: Có thể thu hoạch vào cuối tháng 8 – 9 dương lịch của năm thứ 2 (cây trồng 5 năm có năng suất vỏ rễ, vỏ thân cao nhất). Rễ và thân cây rửa sạch đất cát, cắt rời rễ lớn, hong gió một ngày cho ráo nước để riêng từng loại vỏ thân, vỏ rễ sau khi bóc. Rễ nhỏ có đường kính dưới 10mm không bóc vỏ. Loại đường kính dưới 5mm để riêng. Rễ cần được phơi, sấy liên tục đến khi khô giòn là được.
Củ và rễ tươi đã thu hoạch cần chế biến ngay, không nên để quá 5 ngày. Có thể thái lát mỏng 0,3 – 0,5cm rồi rửa sạch đem phơi hoặc sấy khô.
Nguồn: Phân bón Hiếu Giang
Th1014

Một số kinh nghiệm trong sản xuất và xử lý ra hoa trên xoài cát Hòa Lộc
Cái Bè là một huyện có diện tích trồng xoài lớn nhất tỉnh Tiền Giang, chủng loại đa dạng như: xoài Cát Hòa Lộc, xoài cát chu, xoài 3 mùa mưa, xoài Đài Loan, xoài Thái… tập trung ở các xã Hòa Hưng, Tân Thanh, Tân Hưng, An Hữu, An Thái Đông, Mỹ Lương, An Thái Trung, Mỹ Đức Tây… Nhưng việc xử lý ra hoa và chăm sóc xoài của bà con nông dân đôi lúc gặp rất nhiều khó khăn. Phổ biến nhất là xử lý xoài không ra hoa hoặc đổ trái non làm giảm năng suất khi thu hoạch
Sau đây là một số kinh nghiệm của tôi đúc kết từ thực tế nhiều năm trồng xoài cát Hòa Lộc trên diện tích 4.000 m2, và quá trình học tập, trao đổi kinh nghiệm qua tham dự tập huấn – hội thảo của cơ quan khuyến nông và sinh hoạt câu lạc bộ khuyến nông.
Đầu tiên, để cho cây xoài được thông thoáng nhằm giảm bớt sự đeo bám của sâu, rầy, hạn chế được độ ẩm ướt dưới gốc cây trong mùa mưa, khi thu hoạch xong tôi thường cắt tỉa những cành kém hiệu quả là cành không đủ sức để ra đọt, tạo tán nhằm để cho ánh nắng chiếu rọi vào thân cây. Sau đó tôi tiến hành xới gốc, bón phân vi sinh hoặc kén trùn quế kết hợp phân hóa học để cho cây phục hồi, tạo cành mới (liều lượng phân bón tùy thuộc vào tán lá và tuổi cây). Sau đó khoảng 8 – 10 ngày, khi kiểm tra nhận thấy nhú mầm đọt thì xử lý thuốc trừ sâu, thuốc trị nấm bệnh theo sự khuyến cáo của nhà sản xuất (nếu xịt bằng máy thì có thể giảm liều lượng thuốc còn lại 80%) để bảo vệ cho đọt phát triển tươi tốt và hạn chế sâu bệnh tấn công đọt non. Giai đoạn này có thể bổ sung thêm phân bón lá hoặc dịch trùn quếpha phun xịt qua lá nhằm giúp cho đọt phát triển nhanh, mạnh.
Quá trình xử lý ra hoa: khi đọt đạt được màu xanh lụa, có thể cắt bỏ bớt những đọt không thể ra hoa rồi sau đó xử lý Paclo với liều 40 – 50g/cây (theo kinh nghiệm thì nên tưới vòng vào thân chiều cao khoảng 1m từ gốc tính lên để không ảnh hưởng đến bộ rể của cây). Đến khoảng 60 – 70 ngày thì xử lý ra hoa. Lựa chọn thuốc xử lý ra hoa tùy mỗi người nhưng bản thân tôi dùng Dola, khoảng 500g cho thùng 100 lít nước với thuốc trừ sâu, thuốc trị nấm bệnh. Nếu thấy đọt quá già thì tôi cộng thêm khoảng 1,5kg Kali đỏ cho thùng 100 lít nước để hạn chế sự ra đọt.
Sau khi xử lí được khoảng từ 12 – 15 ngày thì cây nhú mầm hoa, lúc đó sẽ xử lý thuốc trừ nấm bệnh với thuốc trừ sâu. Vào mùa mưa cần phải sử dụngAntracol hoặc Amista liều lượng theo khuyến cáo nhà sản xuất (đối với thuốc hóa học thì nên thay đổi thuốc vì sử dụng một loại nhiều lần sẽ dễ bị sâu bệnh kháng thuốc). Theo kinh nghiệm bản thân đã áp dụng biện pháp này nhiều năm cho hiệu quả rất cao.
Đến khi trái được 25 ngày tuổi thì sử dụng thuốc phòng trị các bệnh thông thường.
Lưu ý trong thời gian ra hoa nên thận trọng khi xử lý thuốc, vì hoa xoài cát rất mẩn cảm với thuốc hóa chất và thời tiết. Nếu khi hoa nở mà lạm dụng phân bón qua lá hay khi gặp trời mưa hoặc mù sương muối thì hoa sẽ bị đen (theo tôi thì không nên sử dụng phân bón qua lá giai đoạn này, vì hàm lượng phân lân rất cao, nếu sử dụng nhiều sẽ làm da trái có màu xanh, lượng xơ trong trái rất nhiều làm cho trái chậm lớn, trái không đạt theo yêu cầu, da trái sẽ bị đốm đen).
Hiệu quả kinh tế của mô hình qua theo dõi các năm vừa qua: Với 4.000 m2 chi phí sản xuất bình quân cho 1 vụ xoài, dao động từ 22 – 25 triệu đồng, sản lượng bình quân 3 tấn (năng suất 7,5 tấn/ha). Với giá bán bình quân 22.000đ/kg, tổng thu nhập 66 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí lợi nhuận khoảng 40 triệu đồng.
Võ Văn Hận – CTV khuyến nông xã Hòa Hưng, Cái Bè – Tiền Giang
nguồn: Phân bón Hiếu Giang
Th222
Hiệu quả từ mô hình nuôi trùn quế khép kín
Hiệu quả mô hình nuôi trùn quế khép kín
(AGO) – Lấy trùn quế làm trung tâm của quy trình nuôi, trùn quế làm thức ăn cho gà, heo, bò; sau đó lại tận dụng phân của bò, gà, heo để ủ và sinh ra trùn quế. Cách làm khép kín này giúp anh Nguyễn Thanh Sang (ngụ ấp Phú Quới, xã Phú An, Phú Tân) tiết kiệm chi phí chăn nuôi, đặc biệt chất lượng của đàn gia súc, gia cầm còn được cải thiện rõ rệt.
Dẫn chúng tôi tham quan lần lượt 3 trại nuôi gà, heo, bò kết hợp điểm nuôi trùn quế, anh Sang giải thích: “Vì chưa có điều kiện nên phải thuê đất để nuôi mỗi con một chỗ, nhưng không lâu nữa tôi sẽ cất trang trại để nuôi tập trung, vì hiệu quả kinh tế nhờ kết hợp trùn quế trong chăn nuôi rất êm. Tôi còn có ý tưởng lấy đất mùn sau khi nuôi trùn quế để trồng thêm rau an toàn trong nhà lưới, cung cấp rau sạch tại địa phương”. Trại gà ta của anh Sang hiện có 600 con được nuôi xoay vòng liên tục: Gà đẻ trứng, ấp cho nở rồi bổ sung vào tổng đàn khi gà thịt đã bán đi, đem lại lợi nhuận cho anh từ 5-6 triệu đồng/đợt bán. Trong khi đó, trại nuôi heo thịt luôn được duy trì hàng chục con heo thịt và heo giống, thu nhập ổn định sau mỗi lượt xuất chuồng. Theo anh Sang, trùn quế là nguồn thức ăn giàu đạm, rất thích hợp để nuôi bò và gà thả vườn. Trước đây làm nghề thu mua nông sản, vì thị trường chững lại nên anh Sang tìm hiểu nghề làm ăn khác, mong tìm được mô hình hợp với kinh tế gia đình và điều kiện tự nhiên ở địa phương. Nhờ sự giới thiệu của một người bạn tại TP. Hồ Chí Minh, anh biết đến hiệu quả của trùn quế trong sản xuất nông nghiệp, hơn nữa còn giúp ích trong việc giải quyết lượng phân thải chăn nuôi nên liền thử nghiệm.
Sử dụng trùn quế làm thức ăn cho heo, bò, gà giúp mô hình chăn nuôi của anh Nguyễn Thanh Sang tiết kiệm chi phí
Với chục con bò vỗ béo có sẵn ở gia đình, anh lấy nguồn phân để nuôi trùn. Trong ô nuôi, giống trùn được trải phía dưới, bên trên lót phân của gà, bò, heo làm thức ăn cho trùn. Đến nay, anh Sang có 25 ô nuôi trùn quế, với diện tích 1.000m2. Sau 60 ngày nuôi, trùn giống bắt đầu sinh sản và cho 3-4kg trùn khối. Khi lượng trùn phát triển ổn định, anh tiến hành nuôi gà con, vỗ béo gà thịt, nấu hoặc phơi khô để trộn trùn và cám thành thức ăn viên cho heo. Lúc đầu, anh cho vật nuôi ăn nhiều trùn quế để sớm đạt hiệu quả nhưng kết quả lại không như ý muốn. Làm tới đâu anh rút kinh nghiệm tới đó, điều tiết chế độ ăn để theo dõi sức khỏe và sự phát triển của đàn gà, heo. Nếu bán trùn quế ra thị trường, với giá hiện tại 40.000 đồng/kg sẽ có thêm khoản thu nhập khá lớn nhưng anh Sang quyết định giữ lại toàn bộ để chăn nuôi, vì so chi phí với cách nuôi thông thường, trùn quế giúp việc nuôi gà tiết kiệm được 50%, nuôi heo tiết kiệm được 40%. Lấy đơn cử việc nuôi gà, anh phân tích theo cách nuôi truyền thống thì thời gian thả nuôi đến xuất bán mất ít nhất 6 tháng. Tuy nhiên, nuôi với thức ăn trùn quế thì gà lớn nhanh hơn, giảm mắc bệnh, thời gian nuôi chỉ còn 4 tháng, gà bán cho khách hàng được khen thịt ngon, dai và đầu ra ổn định.
Mô hình nuôi trùn quế khép kín của anh Nguyễn Thanh Sang là một trong 5 mô hình tiêu biểu được chọn tuyên dương tại Đại hội điểm nông dân thi đua sản xuất- kinh doanh giỏi xã Phú An. Mô hình được Hội Nông dân huyện Phú Tân và chính quyền xã đánh giá cao không chỉ bởi mang lại lợi ích kinh tế, mà còn có ích cho môi trường vì góp phần xử lý nguồn chất thải trong chăn nuôi hiệu quả. Nếu áp dụng rộng rãi thì nông dân sẽ có cơ hội tăng thu nhập cho gia đình và tạo ra nguồn thực phẩm sạch, an toàn.
Bài, ảnh: MỸ HẠNH, báo An Giang
Th220
phân trùn quế- loại phân hữu cơ vi sinh tốt nhất
Thức ăn chủ yếu của trùn quế là phân trâu bò, ngựa, dê, cừu, thỏ, lợn, gà; phế thải rau, củ quả, cây thân thảo và các loại rác thải hữu cơ hoai mục…; sau khi được trùn tiêu hoá sẽ trở thành phân trùn, có chứa một số Axit Amin hàm lượng tương đối cao. Nếu được bổ xung thêm khoáng chất P và một số loại Axit Amin như: Tyrosin, Arginin, Cystin, Methiomin, Histidin… thì phân trùn quế có thể làm thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm, thủy sản.
Phân trùn chứa một hỗn hợp vi sinh có hoạt tính cao, dễ hòa tan trong nước, chứa hơn 50 % chất mùn. Do đó nó không chỉ kích thích tăng trưởng cây trồng, mà còn tăng khả năng cải tạo đất. Phân trùn quế còn chứa các khoáng chất được cây trồng hấp thụ một cách trực tiếp, không như những loại phân hữu cơ khác phải được phân hủy trong đất trước khi cây hấp thụ. Hàm lượng N-P-K, Ca và các chất khoáng vi lượng trong phân trùn, cao gấp 2 – 3 lần phân trâu bò, phân ngựa; gấp 1,5 – 2 lần phân lợn và phân dê. Hơn nữa, phân trùn quế không có mùi hôi thối như các loại phân gia súc, gia cầm, lại có thể lưu giữ lâu ngày trong túi nilon mà không bị mốc, rất thuận lợi cho việc bảo quản và vận chuyển.
Phân trùn quế làm giảm hàm lượng Acid Carbon trong đất và gia tăng nồng độ Nitơ ở trạng thái cây trồng có thể hấp thu được. Chất Acid Humic ở trong phân trùn quế có thể giúp cây trồng dễ dàng hấp thụ nhiều hơn bất kỳ chất dinh dưỡng nào khác. Chất IAA (Indol Acetic Acid) có trong phân giun là một trong những chất kích thích hữu hiệu, giúp cây trồng tăng trưởng tốt.
Phân trùn có thể giúp chống sự xói mòn và tăng khả năng giữ nước trong đất. Cây trồng khi bón trùn quế sẽ không bị “cháy”, khống chế được các kim loại nặng xâm nhập cây gây đột biến làm phát sinh tế bào lạ có hại, gây hoại tử rễ…Chất mùn trong trùn quế loại trừ được những độc tố, nấm và vi khuẩn có hại trong đất, có thể ngăn ngừa các bệnh về rễ và đẩy lùi nhiều bệnh của cây trồng.
Phân trùn quế còn có tác dụng điều hòa môi trường đất rất tốt, giúp cây phát triển ngay cả khi nồng độ pH trong đất quá cao hoặc thấp. Việc nuôi trùn Quế lấy phân, chính là việc áp dụng công nghệ xử lý rác thải hữu cơ bằng con trùn Quế (công nghệ VERMICOMPOST ), một trong những công nghệ rẻ tiền nhất.
Hiện tại phân trùn Quế thường được sử dụng cho mục đích như: Kích thích sự nẩy mầm và phát triển của cây trồng; Điều hòa dinh dưỡng và cải tạo đất, làm cho đất luôn màu mỡ và tơi xốp; Dùng làm phân bón lót cho cây và rau quả, tạo ra sản phẩm có chất lượng và năng suất cao; Dùng làm phân bón lá hảo hạng và có khả năng kiểm soát sâu bọ hại cây trồng. Vì vậy, phân trùn là loại phân sạch thiên nhiên quí giá để bón cho hoa, cây cảnh, rau quả trong nông nghiệp sạch, được thị trường rất ưa chuộng.
Nguồn: sưu tầm
Th112
Phân trùn quế không dùng để bón
Trước đây tôi cũng như mọi người, vẫn lầm tưởng phân trùn quế cũng chỉ là phân bón để bón cho cây trồng giống như bao nhiêu loại phân bón hữu cơ vi sinh khác, mỗi cây phải bón từ 5-10 kg cho mỗi lần bón, và sau 3 tháng sẽ bón mới lại để cung cấp cho cây trồng. Chúng ta cũng có thể làm được điều này, cây vẫn rất tươi tốt, nhưng khi tính toán lại hiệu quả kinh tế thì bà con lại thấy rằng: có tốn tiền quá không khi sử dụng phân trùn quế thay thế những loại phân bón khác?
Thật sự đúng như vậy. Vì để sản xuất ra một kg phân trùn quế không hề đơn giản, qua biết bao nhiêu công đoạn và thời gian dài mới cho ra những kg phân trùn quế chất lượng để sử dụng. Nên chỉ có thể nói rằng phân trùn quế là không thể rẻ như những loại phân hữu cơ khác khi chỉ thu gom từ trong chuồng rồi đem đi ủ hay phơi khô rồi bán. Phân trùn quế không như thế, phân trùn quế phải được trùn quế tiêu thụ từ phân động vật khác và tiêu thụ một cách thường xuyên và đều đặn trong vòng 4-6 tháng mới có thể thu hoạch, mặt khác để tạo ra phân trùn quế thì phải mất ít nhất là số lượng phân động vật khác gấp đôi như thế.
Nên phân trùn quế với giá rẻ là phân kém chất lượng, hoặc phân trùn quế chưa được sử dụng đúng với giá trị thật sự vốn có của nó. Chúng ta không thể sử dụng và đánh đồng phân trùn quế như những loại phân bón khác, vì như thế là lãng phí thật sự nguồn tài nguyên hạn hẹp và có giá trị cao này. Vậy câu hỏi là chúng ta phải sử dụng như thế nào?
Phân trùn quế có rất nhiều loại dinh dưỡng khác nhau trong nó, nhưng hàm lượng mỗi thành phần thì rất ít. Nên khi bón phân trùn quế để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng hiệu quả không cao khi giá của chúng cao hơn những loại phân bón khác. Nhưng mà khi biết được rằng phân trùn quế là một môi trường sinh khối để vi sinh vật phát triển tốt thì lại khác, chúng ta sẻ sử dụng phân trùn quế như một môi trường sống cho vi sinh vật, và liều lượng sử dụng khi đó không còn nhiều như lúc bón nữa, mà mỗi cây chỉ cần 1-2 kg phân trùn quế để rãi xung quanh vùng rễ để tạo môi trường tốt cho vi sinh vật.
Khi vi sinh vật có môi trường phát triển, chúng mới sinh sôi nảy nở và hoạt động tốt, khi đó những loại vi khuẩn cố định đạm sẻ làm cho đất tăng thêm hàm lượng đạm rất nhiều, những con vi sinh phân giải lân sẽ làm nhiệm vụ phân giải lân khó tiêu mà trước đó chúng ta đã bón nhưng cây chưa kịp sử dụng, những con vi sinh phân giải kali khó tan sẽ giúp cây có thêm kali mới để sử dụng và đặc biệt nhất là những vi khuẩn đối kháng sẽ phát triển mạnh và cạnh tranh dinh dưỡng mạnh mẽ với những con gây hại. Kết quả cuối cùng là vùng rễ xung quanh cây được tơi xốp với đầy dinh dưỡng dễ tiêu, không còn những tuyến trùng và vi khuẩn gây hại. Cây khỏe mạnh, lớn nhanh chắc hẳn sẽ cho năng suất cao.
Tuy nhiên để phát huy tốt nhất phân trùn quế ta cần phải thực hiện thêm 2 việc nữa là bổ sung thêm nấm đối kháng tricodecma để tăng khả năng đối kháng mầm bệnh cho cây trồng lên gấp bội, Phân trùn quế không có được chủng này nên chúng ta cần phải bổ sung thêm vào ngay khi bón. Và thứ 2 là sau mỗi 10-15 ngày cần bổ sung thêm chế phẩm sinh học hoặc dịch trùn quế, vì bản thân dịch trùn quế sẽ có những vi sinh vật có lợi mà phân trùn quế sở hữu. Vì sao phải bổ sung thêm như vậy? Bên ngoài môi trường vi sinh vật và vi khuẩn có lợi chịu nhiều ảnh hưởng bởi thời tiết và khí hậu, và những vi sinh vật cũng có vòng đời ngắn, nếu chúng không thể phát triển tốt trong môi trường xung quanh rễ trong thời gian dài chúng ta phải bổ sung thêm vào một cách thường xuyên và thời gian 10-15 ngày/lần là hợp lý.
Khi môi trường xung quanh vùng rễ tốt sẽ giúp cây dễ hấp thụ phân bón chúng ta cung cấp vào, thế nên chúng ta không cần phải bón nhiều như trước. Và việc giảm lượng phân bón xuống phải có thời gian, có thể giảm dần mỗi lần bón cho cây 10% và quan sát xem cây phát triển như thế nào, chúng ta không sợ cây thiếu phân, chỉ sợ cây thừa phân và chuyển hóa thành dạng khó tiêu tạo chất độc trong đất.
Với thông tin trên, phân trùn quế sẽ là môi trường tốt xung quanh vùng rễ để vi sinh vật phát triển để tạo môi trường tốt cho cây dễ hấp thụ, nên chúng ta phải kết hợp sử dụng phân trùn quế cùng các loại phân bón hiện đang sử dụng cho cây trồng, phân trùn quế chỉ giúp bà con giảm sử dụng những loại phân bón khác bằng cách giúp cây hấp thụ tốt hơn, phân trùn quế không thay thế phân bón khác bằng cách cung cấp dinh dưỡng cho cây, bà con cần hiểu rõ vấn đề để sử dụng tốt hơn nguồn tài nguyên quý giá mà chúng ta đang sở hữu.
Hãy nhớ phân trùn quế không dùng để bón mà dùng để tạo môi trường cho vi sinh vật phát triển, vi sinh vật phát triển tạo môi trường xung quanh vùng rễ tốt, môi trường xung quanh vùng rễ tốt sẽ giúp cho cây dễ hấp thụ dinh dưỡng, cây dễ hấp thụ dinh dưỡng sẽ cần ít phân bón hơn và khỏe mạnh hơn, cây khỏe mạnh sẽ kháng bệnh tốt và lớn nhanh, kết quả cuối cùng là năng suất mà bà con luôn mong đợi con số ưng ý nhất. Thông tin này có thể rất ít người có thể biết được, nếu ai đọc được thông tin này và ứng dụng thành công, tôi mong bà con hãy chia sẻ đến những bà con khác để ứng dụng tốt trong mô hình cánh tác của mình hiệu quả hơn nữa. Chúc bà con sử dụng tốt hơn sản phẩm phân trùn quế
Nguồn: trùn quế củ chi
Th110
Phân bón lá sinh học thế hệ mới từ trùn quế
Phân bón lá sinh học thế hệ mới là phân bón có chứa các acid amin cung cấp cho cây trồng. Phân bón lá từ trùn quế có chứa Amino Acids & Peptids (A xít amin tự do & chuỗi A xít amin) là phân bón sinh học cao cấp nhất được biết tới vì hiệu lực cao đối với cây trồng và những ưu việt của nó đối với nền nông nghiệp hiện đại trên thế giới.
Trong bối cảnh các nước trên thế giới yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nông sản thì phân bón lá từ trùn quế có thành phần Amino Acids & Peptids là sự lựa chọn khôn ngoan của các nhà vườn để vừa có năng suất cao, chất lượng tốt, nông sản dễ xuất khẩu, an toàn cho môi trường, là sản phẩm tất yếu để sử dụng trong sản xuất nông nghiệp theo quy trình GAP và đạt lợi nhuận cao. Hiệu quả cao của phân bón lá từ trùn quế có thành phần Amino Acids & Peptids thể hiện ở các tác dụng sau:
1/ Thúc đẩy quá trình sinh tổng hợp trao đổi chất
Các Amino Acid là hợp phần cấu tạo nên protein và enzim (men sinh học). Chúng là yếu tố cơ bản của tất cả các cơ thể sống và có vai trò quan trọng trong hoạt động trao đổi chất của tế bào. Cây trồng có khả năng tổng hợp Amino Acid từ sự đồng hóa đạm, nhưng quá trình này bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố môi trường và sức khỏe của cây. Đạm hữu cơ từ glutamate và glutamin thường được dùng để sinh tổng hợp nên các Amino Acid.
Các Amino Acid đơn kết hợp lại với nhau sẽ tạo thành các liên kết Peptide nhờ các phản ứng ngưng tụ. Protein là các chuỗi polypeptide được tạo thành từ trên 100 Amino Acid đơn và trọng lượng phân tử của chúng thường lớn hơn 10.000 Dalton. Quá trình tổng hợp Amino Acid và Peptide rồi hình thành nên Protein và enzim trong cây thể hiện qua sơ đồ sau:
NO3– Amino acids Proteins, Enzymes Photo-
NH4+ —–> Peptides —–> —–> synthesis
Bón trực tiếp Amino Acid và Peptide cho cây sẽ giúp giảm được công đoạn tổng hợp Amino Acid từ đạm cây hút và giúp cây trồng tăng trưởng một cách mạnh mẽ, tạo năng suất cao và chất lượng tốt. Hiệu quả và lợi ích của Amino Acids & Peptids là khắc phục sự khủng hoảng sinh lý của cây trồng hoặc ảnh hưởng bất lợi của môi trường (hạn, nhiệt độ cao, quá nắng, sốc khi cây chuyển giai đoạn sinh trưởng…) đã được chứng minh qua nhiều kết quả nghiên cứu.
Từ các kết quả nghiên cứu này, Amino Acid & Peptids đã trở thành các sản phẩm dùng phổ biến như là phân bón sinh học ở nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới. Cùng với vai trò là hợp phần của protein và quá trình sinh tổng hợp trong cây, các Amino Acid & Peptide còn thực thi nhiều vai trò khác và đem lại rất nhiều ích lợi cho cây trồng.
2/ Đối với sức khỏe của cây trồng
Nhiều năm nay các Amino Acid & Peptide đã được biết đến có thể làm giảm rõ ràng tác hại của sâu bệnh hại trên cây trồng. Bao quanh các mạch tạo thành của một số Amino Acid có chứa lưu huỳnh. Đây là yếu tố góp phần làm tăng sức đề kháng sâu bệnh ở cây trồng. Nhiều báo cáo chỉ rõ hiệu quả của các Amino Acid & Peptide đối với bệnh sưng vàng rễ khoai tây do tuyến trùng gây ra (Kovacs). Bón phân Amino Acid & Peptide qua lá có tác dụng giảm có ý nghĩa ấu trùng và trứng tuyến trùng so với đối chứng. Jacob cũng đã ghi nhận sự giảm có nghĩa tình trạng sần hư trái do vi rút (plum pox virus) gây ra sau khi phun vài lần Amino Acid & Peptide. Các Amino Acid & Peptide cũng làm giảm rụng trái ở các cây ăn trái dạng quả hạch nhờ ảnh hưởng của chúng như là các hormon dinh dưỡng trong cây.
3/ Đối với sự ra hoa và đậu trái
Các kết quả nghiên cứu ở Ý trên cây oliu cho thấy Amino Acid & Peptide nâng cao khả năng thụ phấn và kéo dài thời gian sống của hạt phấn. Các công thức sử dụng chế phẩm kết hợp Amino Acid & Peptide với vi lượng Bo đã tăng cao hiệu quả của sự thụ phấn. Sự thụ phấn là cơ sở quan trọng của tiến trình đậu trái, vì thế sử dụng phân bón lá từ trùn quế giúp làm tăng tỷ lệ đậu trái, đặc biệt đối với các cây tự thụ phấn như cà phê, tiêu ……
4/ Tăng tính hữu hiệu sinh học của nguyên tố vi lượng
Các Amino Acid & Peptide có khả năng liên kết với các kim loại như mangan, sắt và kẽm tốt giống như với canxi và magiê. Các nguyên tố trung vi lượng này hiện diện tự nhiên trong nước dùng để phun hoặc được bổ sung ngay trong phân bón. Các dạng phức Amino Acid – Kim loại được hấp thụ bởi cây trồng một cách nhanh chóng và hiệu quả cao. Nó cũng gia tăng hiệu quả trong việc vận chuyển qua một “Chặng đường” dài từ rễ, lá đến các bộ phận khác trong cây.
5/ Làm tăng hiệu quả của thuốc bảo vệ thực vật
Sự kết hợp Amino Acid & Peptide với thuốc bảo vệ thực vật sẽ làm gia tăng hiệu quả của sản phẩm so với dùng riêng rẽ. Theo Leandri và đồng sự 1986, Amino Acid & Peptide làm tăng hiệu quả của thuốc trị nấm Viclozonlin (Ronilan) trị bệnh Botrytis(thối trái) trên cây nho và dây tây. Amino acids & Peptides làm tăng hiệu lực thuốc bảo vệ thực vật như thế nào? Khả năng bám dính đặc biệt của Amino acids & Peptides giúp giữ được thuốc trên bề mặt lá tốt hơn ngay cả trong điều kiện gặp mưa. Hoàn thiện tính chất thấm và cân bằng pH của dịch phun là những bổ sung giúp gia tăng hiệu quả của thuốc so với không có Amino acids & Peptides.
Với việc sở hữu các acid amin, phân bón lá sinh học từ trùn quế là một trong những phân bón sinh học thế hệ mới giúp cho nền nông nghiệp nước ta theo kịp các nền nông nghiệp hiện đại của thế giới để bắt đầu canh tác sạch, canh tác bền vững.
nguồn: trùn quế củ chi
Th1019