Miền Tây chống mặn: Vựa trái cây ‘tung nhiều chiêu’ ứng phó hạn mặn
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
ĐBSCL Bên cạnh các giải pháp công trình, ngành chức năng đã hướng dẫn, tuyên truyền người dân nhiều giải pháp để đảm bảo nguồn nước, ứng phó xâm nhập mặn.
Đa dạng giải pháp giữ nước ngọt
Tiền Giang là địa phương có diện tích cây ăn trái lớn nhất ĐBSCL với diện tích trên 86.000ha. Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, năm nay địa phương còn khoảng 35.000ha cây ăn trái chịu ảnh hưởng trực tiếp của hạn, mặn, bao gồm sầu riêng, cây có múi, vú sữa…
Có nguy cơ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do mặn và cần được bảo vệ là khu vực thuộc các xã cặp sông Tiền từ xã Phước Thạnh (TP Mỹ Tho) đến xã Hòa Hưng (huyện Cái Bè), chủ yếu là cây sầu riêng với diện tích 22.000ha.
Bên cạnh các giải pháp công trình, ngành chức năng đã hướng dẫn, tuyên truyền người dân nhiều giải pháp để đảm bảo nguồn nước, ứng phó xâm nhập mặn cũng như thực hiện các giải pháp kỹ thuật đã đúc kết từ những năm qua.
Cù lao Ngũ Hiệp thuộc huyện Cai Lậy là địa phương trồng chuyên canh cây sầu riêng sớm nhất của tỉnh với diện tích gần 1.500ha, 100% diện tích này đang trong thời kỳ kinh doanh.
Những năm xâm nhập mặn diễn ra gay gắt, địa phương này thường xuyên bị nước mặn tấn công từ sông Tiền và cả sông Hàm Luông (tỉnh Bến Tre). Đáng quan tâm là hiện nay, xã Ngũ Hiệp chỉ mới xây dựng được 3/8 cống ngăn mặn, chống triều cường.
Thời điểm này, dù nước mặn chưa xâm nhập đến địa bàn nhưng chính quyền và nhân dân cù lao Ngũ Hiệp đang khẩn trương thực hiện các biện pháp phòng chống hạn mặn có thể xảy ra trong mùa khô đang cận kề.
Theo khuyến cáo của ngành chức năng, bên cạnh thực hiện các giải pháp công trình là đắp các đập tạm, nhiều giải pháp phi công trình cũng được nông dân cù lao đẩy mạnh ứng dụng như nạo vét kênh mương, đào ao, lót bạt tích trữ nước ngọt, không để cây mang trái vào mùa khô hạn, dùng cỏ khô che phủ gốc cây để giảm thất thoát hơi nước…, nhất là chú trọng tiết kiệm nước tưới tiêu.
Về giải pháp kỹ thuật, bà con nông dân cần chú trọng xử lý cây ra hoa, cho trái nghịch vụ với tỷ lệ thực hiện chiếm khoảng 70%. Theo kinh nghiệm, hàng năm bà con thường lựa chọn xử lý ra hoa một trong hai vụ sầu riêng. Vụ thuận thường có thời điểm thu hoạch vào khoảng tháng 3 – 5 âm lịch. Vụ nghịch thường kết thúc thu hoạch trước Tết Nguyên đán.
Năm nay, các nhà khoa học dự báo hạn mặn xâm nhập sâu nên đa số bà con chuyển hướng sang mùa nghịch, thu hoạch xong vào khoảng tháng Chạp. Khi nước mặn tới, cây đã ra được 1 – 2 cơi đọt nên đã khỏe mạnh hơn. Còn nếu để ra trái mùa thuận, bà con sẽ xử lý ra hoa vào khoảng tháng 11 – 12, ra giêng cây mang trái ngay mùa hạn mặn sẽ dễ suy kiệt dẫn đến chết cây. Nếu tình hình hạn mặn gay gắt, bà con sẽ cân nhắc bỏ vụ 1 năm.
Ông Nguyễn Văn Minh, nhà vườn có 8 công sầu riêng đang cho thu hoạch tại ấp Tân Sơn, xã Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy) chia sẻ, rút kinh nghiệm từ các năm trước đây nên công tác chủ động trữ nước chống hạn được ông rất quan tâm.
Sau khi thu hoạch xong lứa sầu riêng này, ông tiến hành các bước phục hồi cho cây nhằm tăng cường sức chống chịu nếu không may nước mặn xâm nhập sâu.
Đặc biệt, ông đã gia cố đê bao, kiểm tra kỹ cống bọng và theo dõi sát sao tình hình dự báo xâm nhập mặn để nhanh chóng tích đầy nước trong mương vườn khi độ mặn tăng cao.
“Vườn của mình có ống bọng đậy kỹ càng, nếu có mặn mình canh lúc nước ròng, mặn bị đẩy về phía hạ nguồn, độ mặn giảm mới lấy nước bổ sung. Thứ hai nữa là sử dụng nước giếng pha để giảm độ mặn. Những năm trước sầu riêng chết là do gia đình chủ quan, còn bây giờ biết rồi thì không sợ đâu”, ông Nguyễn Văn Minh nói.
Còn ông Trình Văn Sỹ, nhà vườn trồng 1ha sầu riêng tại ấp Tân Đông cũng cho biết, từ đầu năm ông đã đào ao trữ nước và lắp đặt các mô tơ để bơm tưới tiết kiệm phục vụ trong mùa khô này.
Nếu mặn lên, ông chỉ cần đóng bọng lại, lượng nước tích trữ trong ao, mương sẽ cầm cự được trong 1 tháng. Khi sử dụng hết lượng nước trữ mà mặn chưa rút thì ông sẽ thuê ghe chở nước ngọt về cấp bổ sung vào các mương, không để khô đáy mương, tránh xì phèn.
Theo ghi nhận tại vườn ông Sỹ, hầu hết các hệ thống phục vụ việc trữ nước đã được áp dụng. Qua theo dõi các thông tin dự báo, ông Sỹ đã chuẩn bị khá kỹ lưỡng để bảo vệ vườn, bởi nếu sơ suất, nước mặn tràn vào vườn, thiệt hại không thể tránh khỏi.
Đầu tư các giải pháp công trình
Về giải pháp công trình ngăn mặn cho xã Ngũ Hiệp, trước mắt, chính quyền địa phương đã có văn bản đề nghị huyện, tỉnh cho xây dựng 5 cống ngăn mặn dã chiến với kinh phí khoảng 6 tỷ đồng và khoan thêm 2 giếng tầng sâu để giúp địa phương ứng phó với hạn mặn mùa khô sắp tới.
Ngoài ra, chính quyền, đoàn thể xã cũng tuyên truyền, vận động người dân áp dụng các biện pháp công trình, phi công trình để bảo vệ vườn cây đặc sản, cũng là kinh tế chính của gần 100% hộ dân nơi đây.
Bà Nguyễn Hồng Thương, Chủ tịch UBND xã Ngũ Hiệp cho biết, xã đã tuyên truyền người dân tích trữ nước, che phủ cỏ để giữ ẩm gốc cây, tưới tiết kiệm nước. Ngoài ra, tiến hành sửa chữa các tuyến đê, các nắp cống bị hư hỏng để khi có thông báo hạn mặn xảy ra thì đóng các cống, đê lại để khép kín. Hiện nay, người dân trong xã đã áp dụng giải pháp xử lý cây sầu riêng nghịch vụ nên sẽ né được các tháng hạn mặn sắp tới.
Theo bà Võ Thị Kim Phương, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Tiền Giang, qua thực tế sản xuất và kinh nghiệm phòng chống hạn mặn trong mùa khô 2019 – 2020, các kỹ thuật đặc biệt quan trọng, cần phải được tuân thủ áp dụng để bảo vệ cây ăn trái trong mùa khô gồm: Ngăn mặn, trữ ngọt; tăng cường khả năng chống chịu của cây; luôn giữ mực nước trong mương vườn khoảng 20 – 30cm; không để cây mang trái quá nhiều; giữ ẩm cho đất, giảm lượng nước tưới và các giải pháp khác như tỉa cành tạo tán, phòng trừ bệnh cho cây…
Ngành nông nghiệp địa phương cũng khuyến cáo bà con nông dân theo dõi, cập nhật các thông tin, dự báo về diễn biến hạn, xâm nhập mặn để có biện pháp ứng phó kịp thời. Bên cạnh đó, giữ vệ sinh nguồn nước, không xả rác và nước nhiễm bẩn vào nguồn cung cấp nước nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong mùa khô.
Ngoài ra, cần tập trung giải phóng các chướng ngại vật lòng kênh, khai thông dòng chảy trên các tuyến kênh trục, kênh cấp 1, cấp 2, cấp 3; thường xuyên tổ chức trục vớt, trục đẩy lục bình, duy trì thông thoáng lòng kênh, rạch.
“Theo dõi độ mặn để lấy nước ngọt phải kiểm tra độ mặn trước khi lấy nước để tưới cho cây phù hợp với khả năng chịu mặn của từng loại cây trồng. Đồng thời, chọn thời điểm thích hợp để lấy nước ngọt theo khuyến cáo, không để mương vườn bị khô kiệt, không cho phèn có điều kiện hoạt động ảnh hưởng đến cây trồng”, bà Phương khuyến cáo.
Sầu riêng là cây trồng chủ lực của nhà vườn xã Ngũ Hiệp nói riêng và tỉnh Tiền Giang nói chung. Do đó, cùng với sự nỗ lực của chính quyền và người dân địa phương, các ngành chức năng tỉnh Tiền Giang cần quan tâm, hỗ trợ trong công tác phòng chống hạn mặn để bảo vệ an toàn vườn cây đặc sản nơi đây.
Ngày 15/1, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Công điện số 04/CĐ-TTg về việc chủ động ứng phó với nguy cơ hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Công điện nêu rõ, trong thời kỳ cao điểm (khoảng tháng 2 – 4) có thể xảy ra thiếu nước ngọt cục bộ, xâm nhập mặn vào sâu các cửa sông. Để chủ động ứng phó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ NN-PTNT tổ chức theo dõi sát diễn biến và có dự báo chuyên ngành về nguồn nước, chất lượng nước và nguy cơ thiếu nước, xâm nhập mặn để cung cấp thông tin cho các địa phương và người dân.
Đồng thời, hướng dẫn các địa phương tổ chức sản xuất, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương và UBND cấp tỉnh có liên quan chỉ đạo vận hành linh hoạt, hiệu quả các hệ thống thủy lợi nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả, tối ưu tài nguyên nước, bảo đảm nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp…
Th1012
Nông dân Tiền Giang rục rịch xuống giống vụ hoa Tết
Nguồn tin: báo nông nghiệp
TIỀN GIANG Hiện nay, dù thời tiết không mấy thuận lợi nhưng nhiều bà con ở tỉnh Tiền Giang đã tranh thủ xuống giống các loại hoa cho dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024.
Năm nay, nông dân chọn trồng các loại hoa giá bình dân, dễ bán như hoa cúc, vạn thọ, mã đình hồng, mào gà, hoa giấy…, tùy mỗi loại hoa mà thời điểm xuống giống khác nhau.
Từ tháng 6 âm lịch, gia đình ông Nguyễn Văn Sáu ở xã Mỹ Phong (TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) đã tranh thủ xuống giống 1.500 chậu hoa cúc mâm xôi. Những ngày này, mưa to liên tục đã gây thiệt hại đáng kể cho vườn của gia đình ông Sáu. Nhẩm tính, đã có hơn 200 chậu bị thối rễ do nước mưa ứ đọng trong chậu, hiện gia đình ông đang xử lý các chậu có hoa đã hỏng để trồng mới.
Tỉnh Tiền Giang là một trong những địa phương có nghề trồng hoa tươi phục vụ thị trường Tết cổ truyền phát triển. Riêng nông dân ở các xã ven TP Mỹ Tho như Mỹ Phong, Tân Mỹ Chánh, Trung An và phường 9 xuống giống gần 1 triệu chậu hoa Tết. Năm ngoái, dù chi phí tăng cao nhưng vụ hoa Tết cổ truyền Quý Mão nông dân tỉnh Tiền Giang vẫn thu lãi khá.
Ông Trương Văn Nhung, Tổ trưởng Tổ hợp tác hoa kiểng Mỹ Phong (TP Mỹ Tho) chia sẻ: Tổ có trên 130 thành viên sản xuất hoa kiểng phục vụ Tết. Thời điểm này, bà con đã xuống giống được khoảng 20.000 chậu. Riêng hoa cúc Hà Lan dự kiến tháng 10 này xuống giống khoảng 300.000 chậu, đây là các loại hoa được thị trường rất ưa chuộng.
“Giá cây giống năm nay cũng như năm rồi, chỉ tương đối chứ không cao. Bình quân cả Tổ hợp tác làm số lượng khoảng hơn 800.000 chậu hoa. Năm rồi, bà con trong Tổ hợp tác tiêu thụ hoa Tết ngon lành, trừ các chi phí thực lãi khoảng 30%”, ông Trương Văn Nhung chia sẻ.
Th1006
Nơi Nghị định 98 của Chính phủ ‘đi vào lòng dân’
Nguồn tin: Báo Tiền Giang
Chuỗi liên kết sản xuất ở Tiền Giang bước đầu hiệu quả, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc về nguồn lực tài chính lẫn kinh nghiệm xử lý các thủ tục dự án cần được khắc phục sớm.
Trên 1.300 nông hộ tham gia 29 chuỗi giá trị liên kết
Trong 5 năm (2018 – 2023), thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 của Chính phủ (gọi tắt là Nghị định 98) về chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nông nghiệp tỉnh Tiền Giang có 109 danh mục dự án hoặc kế hoạch liên kết (gọi chung là dự án) được phê duyệt.
Tính đến tháng 7/2023, có 29 dự án được triển khai, chủ yếu trên cây lúa (15 dự án), còn lại trên rau màu và chăn nuôi. Các chuỗi giá trị huy động 29 HTX nông nghiệp, 55 doanh nghiệp và 1.320 hộ nông dân tham gia liên kết. Đáng quan tâm, có đến 28 HTX làm chủ trì chuỗi liên kết.
Về quy mô, cây lúa có lợi thế lớn với diện tích bình quân gần 40ha với khoảng 50 nông hộ. Kế đến là cây ăn trái với diện tích bình quân 26ha cũng khoảng 50 nông hộ. Tiếp theo, cây rau màu với khoảng 17ha của 40 hộ. Cuối cùng là chăn nuôi với quy mô chỉ khoảng 10 hộ.
Các chủ thể liên kết tổ chức sản xuất, thu hoạch, sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hay có thêm cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào.
Mô hình liên kết điển hình có thể kể đến là liên kết sản xuất giống lúa ST24, Nàng hoa 9 theo hướng an toàn hữu cơ ở HTX Mỹ Quới (Cái Bè), quy mô 200 – 300 ha/năm. Ngoài ra còn có liên kết tiêu thụ lúa ở HTX Hòa Hưng (Gò Công Tây) với quy mô khoảng 35ha, liên kết tiêu thụ gà của HTX Chăn nuôi thủy sản Gò Công xây dựng thương hiệu gà ta Gò Công sản lượng 100.000 – 120.000 con/năm…
Mô hình liên kết sản xuất cho hiệu quả ở Tiền Giang. Ảnh: Minh Đảm.
Ông Mai Văn Mai, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Hòa Hưng cho hay, trong liên kết, nông dân tham gia được hỗ trợ 4.750.000 đồng/ha lúa hàng hóa và 4.850.000 đồng/ha lúa giống. Bà con được hướng dẫn quy trình kỹ thuật canh tác và bao tiêu 100% sản phẩm lúa cho Công ty Vinh Hiển và Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp tỉnh Tiền Giang với giá cao hơn thị trường từ 200 – 300 đồng/kg. Trong quá trình sản xuất, công ty đặt cọc trước cho nông dân 2 triệu đồng/ha, sau khi thu hoạch thanh toán hoàn lại tiền cọc.
“Nông dân sản xuất lúa theo yêu cầu thị trường, biết trước giá bán, tính toán được lãi của vụ sản xuất, không lo sợ về đầu ra tiêu thụ, không sợ chèn ép giá. Đây được xem là một chuỗi sản xuất theo kế hoạch tối ưu, là bước đầu cho việc thay đổi tư duy nhận thức của người dân, từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, cơ chế trên cần được phát huy”, ông Mai Văn Mai, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Hòa Hưng đánh giá và khẳng định đây là Nghị quyết đi vào lòng dân.
Những khó khăn cần được tháo gỡ
Tổng nguồn vốn thực hiện hỗ trợ cho 29 dự án trên 107 tỷ đồng. Trong đó ngân sách nhà nước hỗ trợ trên 19 tỷ đồng cho các hoạt động tư vấn xây dựng liên kết; xây dựng hạ tầng; khuyến nông, đào tạo, tập huấn và giống, vật tư, bao bì, nhãn mác sản phẩm. Tuy nhiên, vì vướng nhiều khó khăn nên đến cuối năm 2022 mới giải ngân được gần 7 tỷ đồng.
Doanh nghiệp, HTX cho biết có nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện dự án. Theo đó, chính sách hỗ trợ hạ tầng phục vụ liên kết có tỷ lệ đối ứng cao (70%) nên nhiều chủ thể không có khả năng đối ứng. Các hỗ trợ theo Nghị định số 98 như hạ tầng, giống, vật tư, bao bì… được thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư và Luật Đấu thầu nên các chủ thể chưa nắm bắt hoặc không đủ năng lực để thực hiện được các thủ tục hồ sơ về đấu thầu, đầu tư xây dựng cũng như các thủ tục quyết toán. Tình hình dịch tả lợn Châu Phi diễn biến phức tạp nên một số nơi xin dừng dự án.
Ông Châu Minh Hải, Giám đốc Công ty TNHH thương mại HK Green (TP Mỹ Tho) cho biết: “Dự án liên kết tiêu thụ lúa gạo của Công ty HK Green không thực hiện nội dung hỗ trợ đầu tư nhà xưởng do vướng trong thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Một số liên kết sản xuất lúa không thực hiện được do các địa phương chưa hỗ trợ”.
Ngoài ra, các chủ thể chưa nắm rõ nội dung, chính sách hỗ trợ của HĐND tỉnh Tiền Giang. Chủ thể là HTX nông nghiệp hoạt động trung bình, yếu, hoạt động liên kết trong sản xuất, tiêu thụ chưa ổn định… nên gặp khó khăn, ngán ngại trong triển khai lập dự án.
Về phía địa phương, công tác phối hợp giữa Phòng NN-PTNT và Phòng Tài chính huyện, thị xã chưa chặt chẽ, chưa chủ động trong việc hướng dẫn chủ thể triển khai lập dự án. Trung tâm dịch vụ nông nghiệp cấp huyện chưa phát huy vai trò trong thực hiện nhiệm vụ tư vấn, viết dự án.
Quan trọng hơn, đầu ra sản phẩm nông nghiệp chưa ổn định, thiếu doanh nghiệp liên kết tiêu thụ, phần lớn là các thương lái ở địa phương…
Tổ chức lại sản xuất, phát động hợp tác tiêu thụ
“Khi đại dịch xảy ra thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của liên doanh, liên kết. Vì vậy, cần tiếp cận các nguồn quỹ để tạo vốn phát triển sản xuất. Phát triển đặc sản Tiền Giang đang giảm sâu như vú sữa Lò Rèn, sơ ri Gò Công do làm ăn nhỏ lẻ. Cần tổ chức lại sản xuất, để phát động hợp tác, tiêu thụ…”, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Văn Trọng chia sẻ.
Theo ông Trần Hoàng Nhật Nam, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Tiền Giang, giai đoạn 2021 – 2025 phải hoàn thành 109 dự án đã được phê duyệt, tuy nhiên đến nay mới chỉ có 29 dự án được thực hiện. Thời gian tới, cần có sự phối hợp tốt của lãnh đạo các Sở, ngành liên quan. Phòng Kinh tế, Phòng NN-PTNT cần liên kết để sớm thực hiện. Đặc biệt, lãnh đạo địa phương cần quan tâm tháo gỡ khó khăn.
Ngành NN-PTNT sẽ tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch của UBND tỉnh về liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2021 – 2025. Bên cạnh đó, tiếp tục tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức về tinh thần hợp tác của người dân, cán bộ cơ sở về chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Ngoài ra, Sở NN-PTNT tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ HTX nông nghiệp nâng cao năng lực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu sản xuất tập trung, đạt chất lượng, có truy xuất nguồn gốc và tham gia liên kết tiêu thụ theo chuỗi từ đầu vào đến đầu ra.
Cùng với đó, đầu tư cơ sở hạ tầng, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng công nghệ cao cho cánh đồng liên kết sản xuất, đặc biệt là thiết kế lại đồng ruộng để thuận lợi cho cơ giới hóa. Triển khai các chính sách hỗ trợ theo Chương trình mỗi xã một sản phẩm cho các sản phẩm (OCOP) có tham gia liên kết như trưng bày, quảng bá sản phẩm, xây dựng nhãn hiệu, tham gia hoạt động số hóa, chống giả…
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang Phạm Văn Trọng cho rằng, trong việc thực hiện các dự án còn khó khăn, vướng mắc cần sớm đưa ra định hướng, khắc phục. Nghị định 98 hết sức ý nghĩa và phù hợp với tình hình địa phương do đó ông đã chỉ đạo các Sở, ngành, UBND huyện tiếp tục nghiên cứu Nghị định 98 và các nghị quyết liên quan của UBND tỉnh, HĐND tỉnh. Các chủ thể tham gia dự án cần mở rộng liên kết.
Định hướng sắp tới, ông Phạm Văn Trọng cho biết, tỉnh Tiền Giang tiếp tục thực hiện Nghị định 98, các cơ quan chuyên môn, chủ lực là ngành NN-PTNT cần đánh giá lại những khó khăn để có hướng tháo gỡ do Nghị định ban hành từ 2018, có thể không phù hợp nên cần được kiến nghị, sửa đổi cho phù hợp…
Th414
Chuyện về một nông dân sản xuất giỏi khởi nghiệp từ 01 con heo giống
Nguồn tin: Báo Tiền Giang
Với khát vọng thoát nghèo, vươn lên làm giàu từ chính mảnh đất cù lao, ông Dương Tấn Sĩ (51 tuổi, ấp Tân Lợi, xã Tân Thới, huyện Tân Phú Đông) đã khởi nghiệp thành công từ 01 con heo giống.
Ông Sĩ khởi nghiệp thành công với nghề nuôi heo.
*Khởi nghiệp từ 01 con heo giống
Dẫn chúng tôi đi xem trại heo khoảng 400 con của mình, ông Sĩ bồi hồi nhớ lại ký ức về những ngày tháng gian khó. Sau khi xuất ngũ bộ đội, cái nghèo, cái khổ cứ mãi đeo bám nên ông phải đến tận miệt Vĩnh Hưng của tỉnh Long An để làm thuê. Sau khi lập gia đình, ông Sĩ được cha mẹ cho hơn 01 công đất trồng dừa để ra riêng. Thu nhập từ miếng vườn nhỏ không đủ lo cho gia đình nên ông phải đi làm thuê quanh năm. Ban ngày, ông đi vét mương, ban đêm thì đi vác cát, đá thuê.
Vào thời điểm năm 2014, ông Sĩ đến vét mương thuê cho ông Mười Thanh (lúc bấy giờ là Bí thư Đảng ủy xã Tân Thới). Thấy ông Sĩ là người cần cù, ham học hỏi nên ông Mười Thanh đã bán lại 01 con heo giống với giá rẻ, cộng thêm “ưu đãi” là trả từ từ. Ông Sĩ mang con heo giống về nhà xây chuồng để nuôi, bắt đầu hành trình khởi nghiệp với nghề nuôi heo. Lứa đầu tiên, con heo giống này đẻ 9 con, ông Sĩ bán 04 con, để lại 05 con heo sinh sản để gầy giống. Từ 01 con heo giống ban đầu, đến năm 2015, đàn heo của ông Sĩ đã có khoảng 100 con các loại.
Với khát vọng vượt khó, năm 2015, ông Sĩ quyết định lấy thức ăn chăn nuôi về bán tại nhà cho các hộ chăn nuôi xung quanh và cũng giảm chi phí đầu vào cho việc nuôi heo. Ông Sĩ cho biết, thời điểm năm 2017, người nuôi heo điêu đứng khi heo hơi rớt giá thê thảm. Giá heo thịt chỉ còn khoảng 100.000 đồng/03 kg. Rất may, nhờ sự chủ động, nhạy bén, nắm bắt diễn biến thị trường nên năm đó ông không thua lỗ. “Lúc đó, tôi hỏi thăm, cập nhật liên tục tình hình giá cả heo nơi các thương lái. Từ đó, tôi quyết định kéo dài thời gian nuôi heo. Tôi neo lại khoảng 70 con heo đến 01 tạ rưỡi/con mới xuất chuồng. Khi giá heo hơi tăng trở lại, tôi bán ra và thu lợi nhuận. Từ đà này, việc chăn nuôi heo của gia đình tôi tiếp tục phát triển, có tiền mua đất để mở rộng chuồng trại” – ông Sĩ tâm sự.
Đặc biệt, trong năm 2019, dù dịch tả lợn Châu Phi bùng phát trên địa bàn tỉnh gây thiệt hại rất lớn cho người chăn nuôi, nhưng đây là năm ông Sĩ thắng đậm. “Khi vừa xuất hiện bệnh dịch tả lợn Châu Phi, tôi quyết định bán hết đàn heo của gia đình và thu lợi nhuận khoảng 02 tỷ đồng. Sau khi học hỏi được kinh nghiệm từ các đồng nghiệp, các doanh nghiệp về chăn nuôi heo an toàn sinh học, tôi quyết định thu mua heo từ bên ngoài về trại để nuôi. Lúc đó, người nuôi heo rất hoang mang nên họ bán bao nhiêu thì tôi mua bấy nhiêu. Thời điểm đó, giá heo tăng cao, thương lái có nhu cầu thì tôi bán lại. Sau khi bán hết số lượng heo mua từ các hộ dân, tôi vệ sinh chuồng trại để tiếp tục nhập heo về nuôi. Tính trong giai đoạn đó, tôi lãi hơn 01 tỷ đồng” – ông Sĩ chia sẻ.
Sau khi có lợi nhuận lớn từ việc nuôi heo, Sĩ đã mua miếng đất mặt tiền Đường tỉnh 877B để đầu tư cửa hàng thức ăn chăn nuôi, vật tư nông nghiệp khang trang, tạo thuận lợi trong việc mua bán.
*Sự sẻ chia
Ngoài việc vươn lên làm giàu từ nghề nuôi heo, ông Sĩ còn tích cực hỗ trợ các hộ nuôi heo trên địa bàn xã cùng nhau phát triển. Theo đó, ông Sĩ đầu tư kinh phí từ heo giống đến thức ăn cho người dân để chăn nuôi. Đến khi hộ dân xuất chuồng lứa heo, ông Sĩ sẽ thu hồi vốn lại. Nếu có lợi nhuận thì sẽ chia theo tỷ lệ thỏa thuận, đảm bảo lợi ích hài hòa. Lúc cao điểm, ông Sĩ đã đầu tư vốn cho khoảng 30 hộ dân trên địa bàn xã để nuôi heo.
Năm 2020, xã Tân Thới được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới. Với vai trò là Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ nông nghiệp Tân Thới, ông Sĩ đã tập hợp được các hộ dân chăn nuôi heo ở xã tham gia vào HTX. Để HTX hoạt động ổn định, hiệu quả, ông đã chủ động xây dựng liên kết từ đầu vào đến đầu ra. HTX bao tiêu đầu ra, giúp các thành viên an tâm sản xuất, gắn bó với HTX. Điều này giúp xã Tân Thới hoàn thành chỉ tiêu số 13 trong xây dựng nông thôn mới.
Ngoài việc chú trọng hoạt động phát triển sản xuất, kinh doanh, trách nhiệm với cộng đồng, xã hội luôn được ông Sĩ quan tâm và tích cực thực hiện. Bởi ông tâm niệm rằng, quá trình sản xuất phải luôn có sự chia sẻ cùng cộng đồng, xã hội. Theo đó, ông đã tích cực, đi đầu trong tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương.
Với những kết quả đạt được trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, ông Sĩ đã khởi nghiệp thành công với nghề nuôi heo. Người nông dân “chân lắm, tay bùn” ngày nào giờ đây đã trở thành nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi nhiều năm liền. Ông Sĩ là nông dân tiêu của của huyện Tân Phú Đông và tỉnh trong phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi. Đến nay, ông đã trao tặng nhiều Bằng khen, giấy khen với thành tích nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi cấp tỉnh, huyện, xã nhiều năm liền và vinh dự được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Đó là sự ghi nhận xứng đáng về những nỗ lực vượt khó, vươn lên làm giàu của ông Sĩ trong chặng đường khởi nghiệp.
Anh Thư
Th320
Thanh long nghịch vụ giá cao
Nguồn tin: Báo Nông Nghiệp
TIỀN GIANG Hiện đang mùa nghịch, cây thanh long ra trái lai rai nên nhiều người bán được giá cao, từ 29.000 – 30.000 đồng/kg.
Từ đầu năm đến nay, nông dân trồng thanh long rất phấn khởi vì trái cây này giữ được giá bán cao. Theo các thương lái, trái thanh long hút hàng do thị trường Trung quốc tiêu thụ mạnh. Trong khi đó, thời điểm này, thanh long có trái do người dân xử lý xông đèn cho trái nghịch vụ, sản lượng thấp. Từ tháng 4 – 5 trở đi, thanh long mới bắt đầu vô mùa thuận, sản lượng mới tăng lên.
Điều đáng ghi nhận là hiện nay dù vào cao điểm mùa khô, nước mặn đang tăng nhưng khu vực trồng cây thanh long kênh mương có nguồn nước ngọt dồi dào, đủ cung cấp cho cây. Mùa khô nhà vườn trồng thanh long vẫn có thu nhập cao. Hiện nay, dù cao điểm của khô hạn nhưng nhờ tích trữ nước ngọt, tích cực chăm sóc nên vườn cây ăn quả ở tỉnh Tiền Giang vẫn tốt tươi, năng suất khá. Với mức giá như hiện nay, mỗi ha cây thanh long, nhà vườn có thu nhập gần 500 triệu đồng/năm.
Ông Đinh Văn Tảo, một nhà vườn trồng cây thanh long tại ấp Long Hòa, xã Quơn Long, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang cũng như nhiều nhà vườn trồng cây thanh long rất phấn khởi khi có nguồn thu nhập tốt.
“Hiện đang mùa nghịch, cây có trái lai rai nên nhiều người bán được giá từ 29.000 – 30.000 đồng/kg. Nếu giá từ 15.000 đồng/kg trở lên là có lãi. Nhà vườn ai trồng thanh long đều rất phấn khởi”, ông Tảo nói.
Thời điểm này tại Tiền Giang, nhà vườn bán trái thanh long ruột đỏ loại 1 giá khoảng 40.000 đồng/kg. Giá mua xô tại vườn khoảng từ 28.000 – 30.000 đồng/kg.
Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Tiền Giang, địa phương có gần 9.000ha thanh long. Trong đó, khoảng 70% là thanh long ruột đỏ. Nhờ kỹ thuật xông đèn xử lý cho trái nghịch vụ nên hầu như bất cứ thời điểm nào trong năm tỉnh Tiền Giang cũng có thanh long cung cấp cho thị trường.
Th317
Tiền Giang ra đề án tạo cú hích mới cho ‘tam nông’
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
Để tạo cú hích phát triển tam nông’ trong thời gian tới, UBND tỉnh Tiền Giang đã phê duyệt ‘Đề án điều chỉnh Tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Tiền Giang đến năm 2030’.
Những đột phá trong lĩnh vực nông nghiệp thời gian qua giúp Tiền Giang có nhiều kinh nghiệm thay đổi mô hình phát triển. Nông nghiệp giờ đây là liên kết, là thu hút doanh nghiệp đầu tư nâng cao chuỗi giá trị, chuyển đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, giúp nông nghiệp phát triển bền vững, giúp nông dân làm giàu trên chính mảnh đất của mình…
Xây dựng chuỗi giá trị nhiều ngành hàng, mặt hàng
Tiền Giang đã có Đề án “Phát triển cây sầu riêng tỉnh Tiền Giang đến năm 2025”. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Ông Nguyễn Văn Mẫn, Giám đốc Sở NN-PTNT Tiền Giang cho biết: Thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp tỉnh Tiền Giang theo chuỗi giá trị ngành hàng, ngành nông nghiệp tỉnh đã chuyển dần từ sản xuất theo chiều rộng sang chiều sâu, sản xuất hàng hóa có chất lượng thông qua nâng cao năng suất, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Đối với ngành hàng lúa gạo, diện tích vùng sản xuất lúa chất lượng cao ở các huyện phía tây của tỉnh có diện tích khoảng 21.000ha, chiếm 39,7% diện tích trồng lúa của tỉnh, sản lượng trên 500 ngàn tấn/năm, chiếm 59,8% tổng sản lượng lúa toàn tỉnh (tập trung chủ yếu ở huyện Cái Bè, Cai Lậy và Thị xã Cai Lậy). Cơ cấu giống chủ yếu là những giống lúa chất lượng cao như OM 5451, OM 18, OM 380, IR 4625…
Cây ăn trái toàn tỉnh Tiền Giang có gần 83 ngàn ha, trong đó cây sầu riêng được địa phương chú trọng và thực hiện cụ thể qua Đề án “Phát triển cây sầu riêng tỉnh Tiền Giang đến năm 2025”. Đến cuối năm 2022, diện tích sầu riêng vùng Đề án đạt 17.390ha, chiếm 89,6% diện tích sầu riêng toàn tỉnh, cho sản lượng trên 355,9 ngàn tấn/năm. Tiền Giang đã xây dựng, cấp mã số cho 4 vùng trồng sầu riêng.
Bên cạnh trái sầu riêng, tỉnh tập trung phát triển xoài cát Hòa Lộc nhằm phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Diện tích xoài cát Hòa Lộc hiện có trên 484ha, năng suất 21,6 tấn/ha, sản lượng trên 9,95 ngàn tấn, tập trung nhiều nhất tại huyện Cái Bè. Tỉnh đang thực hiện Dự án chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ xoài cát Hòa Lộc giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030.
Ngoài ra, Tiền Giang tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi khu vực phía Bắc Quốc lộ 1”. Đến cuối năm 2022, toàn vùng Đề án đã thực hiện chuyển đổi 2.926ha, đạt 129,96% so với mục tiêu đến năm 2025; trong đó, chuyển sang cây màu 368ha, chuyển sang cây ăn trái 2.297ha và nuôi trồng thủy sản 261ha.
Động lực từ Nghị quyết 26 về “tam nông”
Nhìn một cách tổng thể, những dấu mốc vừa qua của ngành nông nghiệp tỉnh Tiền Giang không chỉ phản ánh sự chuyển dịch đúng hướng, mà còn cho thấy kết quả tái cơ cấu ngành nông nghiệp mà Tiền Giang đã tập trung thực hiện trong thời gian qua. Đây cũng chính là một trong những nội dung cốt lõi để Tiền Giang triển khai có hiệu quả Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (gọi tắt là Nghị quyết 26).
Theo ông Nguyễn Văn Mẫn, Giám đốc Sở NN-PTNT Tiền Giang, tỉnh luôn xác định phát triển “tam nông” là một trong những ưu tiên hàng đầu nhằm hướng đến mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X, Tiền Giang đã gặt hái rất nhiều thành công, tạo động lực rất lớn để vươn lên cùng cả nước.
Kinh tế nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh có những chuyển dịch đáng kể, có bước phát triển khá và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế của tỉnh, cơ cấu nội bộ ngành chuyển dịch theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả trên cây ăn trái, gia cầm, bước đầu hình thành nhiều mô hình sản xuất chuyên canh, ứng dụng công nghệ vào sản xuất. Các ngành hàng chủ lực từng vùng bước đầu đã nâng cao được khả năng cạnh tranh, dần đáp ứng thị hiếu tiêu dùng của thị trường trong và ngoài nước…
Để tạo cú hích phát triển “tam nông” trong thời gian tới, UBND tỉnh Tiền Giang đã phê duyệt “Đề án điều chỉnh Tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Tiền Giang đến năm 2030”. Theo đó, giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 3 – 3,5%/năm, cơ cấu kinh tế khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 29,7% GRDP của tỉnh vào năm 2025 và GRDP của tỉnh vào năm 2030 đạt từ 12,5 – 14,5%.
Tiền Giang đặt mục tiêu thu nhập bình quân của người dân nông thôn năm 2025 tăng 1,6 – 1,8 lần so với cuối năm 2020 và năm 2030 tăng khoảng 1,6 lần so với năm 2025. Tỷ lệ hộ nghèo nông thôn giảm còn dưới 1% vào năm 2025, đến năm 2025 có 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới, 8/8 huyện đạt nông thôn mới và 3/3 đô thị (thành phố, thị xã) hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới…
Th1118
Tiền Giang: Nâng sức cạnh tranh cho trái sầu riêng xuất khẩu
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Hiện nay, tỉnh Tiền Giang đã mở rộng diện tích vùng chuyên canh sầu riêng xuất khẩu lên 16.890 ha, tập trung tại các huyện, thị vùng kiểm soát lũ phía Tây: Huyện Cai Lậy, huyện Cái Bè, huyện Tân Phước và thị xã Cai Lậy. Trong đó, có trên 11.000 ha cho thu hoạch với năng suất bình quân trên 28 tấn/ha và sản lượng trên 312.000 tấn trái cung ứng thị trường trong và ngoài nước.
*Vùng chuyên canh sầu riêng mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội to lớn
Sầu riêng mang lại hiệu quả kinh tế cao, là nguồn nông sản hàng hóa giá trị xuất khẩu lớn, có lợi thế cạnh tranh của tỉnh. Qua khảo sát, 70% – 80% sản lượng sầu riêng được xuất khẩu, chủ yếu là thị trường Trung Quốc. Trong đó, có khoảng 20% sản phẩm được chế biến trước khi xuất khẩu. Với giá bán từ 60.000 đồng/kg trở lên, mỗi ha sầu riêng hiện cho lợi nhuận hàng tỷ đồng, cao nhất trong các loại cây ăn trái đặc sản của tỉnh.
Toàn vùng hình thành được 15 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp kiểu mới, thu hút gần 16.000 thành viên đang tích cực phát huy vai trò tập hợp nông dân, liên kết sản xuất, giải quyết đầu vào và đầu ra cho nông sản hàng hóa. Qua đó, tạo việc làm cho khoảng 02 vạn lao động nông nghiệp địa bàn vùng kiểm soát lũ.
Hợp tác xã chuyên canh sầu riêng Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy) đi đầu trong liên kết chuỗi giá trị. Theo ông Huỳnh Tấn Lộc, Giám đốc Hợp tác xã, trong nước, Hợp tác xã xây dựng chuỗi cung ứng sầu riêng cho các siêu thị Co.opmart, các chợ đầu mối, cửa hàng thực phẩm sạch. Ngoài nước thì liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản có uy tín như: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phạm Gia (Tiền Giang), Công ty Cổ phần AMEII Việt Nam – Hà Nội chuyên xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,… Nhờ vậy, hợp tác xã luôn tiêu thụ sầu riêng cho nông dân với giá cao hơn thị trường bên ngoài từ 10% – 15%.
Xã Tam Bình (huyện Cai Lậy) nhờ tiên phong xây dựng vùng chuyên canh sầu riêng hiệu quả cao được công nhận xã đầu tiên của tỉnh đạt chuẩn và ra mắt xã nông thôn mới vào năm 2015. Thị xã Cai Lậy có gần 6.500 ha vườn cây ăn trái, chủ yếu chuyên canh sầu riêng được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới vào năm 2020. Huyện Cai Lậy với hàng chục ngàn ha sầu riêng chuyên canh đang phấn đấu đến cuối năm 2022 đạt chuẩn và ra mắt huyện nông thôn mới… là minh chứng hiệu quả kinh tế – xã hội mà vùng chuyên canh sầu riêng mang lại cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân những địa bàn khó khăn trước đây phía đầu nguồn sông Tiền của tỉnh Tiền Giang.
*Nhiều giải pháp nâng sức cạnh tranh cho cây trồng đặc sản
Giai đoạn 2022 – 2025, địa phương giữ ổn định diện tích hiện có cùng với tập trung ứng dụng khoa học – công nghệ, khuyến khích nông dân thâm canh theo hướng VietGAP, GlobalGAP; tổ chức lại sản xuất… gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, thích ứng biến đổi khí hậu, nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của trái sầu riêng đặc sản trên thị trường cũng như an toàn, truy xuất nguồn gốc, bảo vệ môi trường sinh thái. Qua đó, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội và phát triển bền vững cho vùng chuyên canh sầu riêng.
Đến năm 2025, sản lượng khoảng 360.000 tấn trái, có 25% diện tích được công nhận an toàn (VietGAP, GlobalGAP), 50% diện tích được cấp mã số vùng trồng và tỷ lệ sầu riêng xuất khẩu chiếm 70% – 80% sản lượng.
Tỉnh đưa ra các nhóm giải pháp về hỗ trợ phát triển sản xuất; chú trọng chuyển giao khoa học – kỹ thuật giúp giảm chi phí đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu; xây dựng và phát triển hệ thống dịch vụ sản xuất và tiêu thụ sầu riêng gắn với xúc tiến thương mại và phát triển thị trường…
Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang hướng dẫn nông dân về kỹ thuật trồng sầu riêng an toàn VietGAP hoặc GlobalGAP, kỹ thuật ủ phân hữu cơ bón cho cây trồng, kỹ thuật tỉa cành, tạo tán, xử lý ra hoa rải vụ, tưới phun sương tự động tiết kiệm nước,…
Hiện nay, ước tính có 96,3% diện tích sầu riêng được cơ giới hóa khâu tưới nước, tăng gần 26% so thời điểm cách đây 05 năm (2017); diện tích sử dụng phân hữu cơ đạt trên 91%, sử dụng nấm Trichoderma.sp trong quá trình chăm sóc đạt gần 66%, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật gốc sinh học chiếm 67,5% diện tích… Hàng năm, có gần 6.800 ha sầu riêng áp dụng kỹ thuật xử lý rải vụ theo ý muốn (sản xuất vụ nghịch) cho năng suất cao hơn và bán được giá, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn vườn cây chính vụ từ 1,7 – 2,3 lần.
Toàn vùng cũng có gần 200 ha và sản lượng mỗi năm gần 6.000 tấn trái đạt tiêu chí VietGAP. Bộ Khoa học và Công nghệ đã cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Cai Lậy” cho Hội Làm vườn huyện Cai Lậy – địa phương có vùng chuyên canh sầu riêng lớn nhất tỉnh, mở ra một tương lai mới cho sự phát triển bền vững của cây ăn trái đặc sản đang giúp nông thôn vùng lũ Tiền Giang giàu đẹp hẳn lên.
Xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, mở rộng thị trường xuất khẩu được đẩy mạnh, tháo gỡ điểm nghẽn về đầu ra cho vùng chuyên canh sầu riêng. Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang… tích cực kết nối cung cầu, tìm kiếm và mở rộng thị trường cho trái sầu riêng thông qua các kênh phân phối lớn như: Các siêu thị, trung tâm thương mại (BigC, Co.opmart, Bách Hóa Xanh…), Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines). Tỉnh quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã chuyên canh sầu riêng dự, tìm kiếm cơ hội làm ăn tại các Hội chợ kết nối cung – cầu hàng hóa; phối hợp Cục Xúc tiến thương mại, Hiệp hội Rau quả Việt Nam hỗ trợ các doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia các Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia và quốc tế nhằm quảng bá, giới thiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ trái sầu riêng.
Đồng thời, nắm bắt thời cơ khi trái sầu riêng được chấp nhận xuất chính ngạch sang thị trường Trung Quốc và các thị trường khó tính khác trên thế giới. Để được xuất chính ngạch, toàn vùng đã được cấp 02 mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích gần 100 ha. Tỉnh đang tiếp tục nộp hồ sơ, chờ thẩm định trong những ngày tới 21 hồ sơ với khoảng 1.100 ha, ước sản khoảng 30.000 tấn trái.
Đáng mừng là tín hiệu vui từ việc xuất khẩu chính ngạch giúp giá sầu riêng niên vụ 2022 – 2023 tăng mạnh. Hiện thương lái thu mua tận vườn sầu riêng đầu vụ từ 75.000 – 80.000 đồng/kg, với giá này mỗi ha nông dân thu lãi ròng trên 01 tỷ đồng.
Tỉnh triển khai dự án “Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sầu riêng tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030”, nhằm nâng cao giá trị trái sầu riêng thông qua hình thành chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ, áp dụng khoa học – công nghệ, gắn kết sản xuất và kinh doanh, ứng dụng công nghệ xử lý sau thu hoạch, chế biến sâu và giảm tổn thất sau thu hoạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Mặt khác, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kỹ năng thương mại cho các hợp tác xã; hình thành phương thức sản xuất – tiêu thụ mới thông qua hợp đồng, nhân rộng mô hình Hợp tác xã sầu riêng Ngũ Hiệp… Từ đó, nâng cao thu nhập cho nông dân vùng chuyên canh và các đối tượng tham gia chuỗi liên kết; thực hiện thắng lợi mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp địa bàn kiểm soát lũ phía Tây theo hướng định hình nền nông nghiệp phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai và nông dân làm giàu.
Mộng Tuyết
Th1116
Sầu riêng nghịch vụ hiệu quả gấp đôi
nguồn tin Báo nông nghiệp
TIỀN GIANG Sầu riêng nghịch vụ có giá bán cao hơn từ 20 – 40 nghìn đồng so với chính vụ, cho hiệu quả kinh tế tăng gấp đôi so với chính vụ.
Sầu riêng nghịch vụ hiệu quả cao hơn từ 1,7 lần
Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, tỉnh hiện có khoảng 17.000ha cây sầu riêng. Trong đó khoảng 10.000ha cây đang trong thời kỳ kinh doanh, năng suất bình quân 28 tấn/ha. Thời gian qua, nông dân đã vận dụng kỹ thuật canh tác sầu riêng nghịch vụ nhằm rải vụ, mang lại hiệu quả rất cao.
Từ năm 2018 đến nay, trung bình diện tích rải vụ khoảng 6.787ha/năm, năng suất đạt từ 18 – 20 tấn/ha. Chênh lệch năng suất giữa xử lý rải vụ so với vụ thuận từ 0,5 – 2 tấn/ha; giá bán dao động từ 60.000 – 95.000 đồng/kg, chênh lệch giá bán tăng từ 20.000 – 40.000 đồng/kg. Sản xuất rải vụ thu hoạch nghịch vụ cho hiệu quả kinh tế cao hơn chính vụ trung bình từ 1,7 – 2,3 lần.
Hơn một tháng qua, giá trái sầu riêng nghịch vụ tại Tiền Giang ổn định từ 70.000 đồng/kg trở lên. Ảnh: Trọng Linh.
Hơn một tháng nay, trái sầu riêng nghịch vụ được các thương lái thu mua xô tại vườn với giá cao và ổn định, từ 70.000 đồng đến hơn 80.000 đồng/kg. Với mức giá ổn định như hiện nay, mỗi ha cây sầu riêng, nhà vườn có thu nhập khoảng 1 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, sản lượng thấp, nhất là sầu riêng đạt chuẩn để xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc vẫn không đủ số lượng để cung ứng cho đối tác. Bởi để trái sầu riêng được chấp nhận xuất chính ngạch sang thị trường Trung Quốc cần có mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói. Thời điểm này, tỉnh Tiền Giang mới có 2 mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích gần 100ha. Cơ quan chức năng cho biết đang tiếp tục nộp hồ sơ, chờ thẩm định trong những ngày tới 21 hồ sơ với diện tích khoảng 1.100ha, ước sản khoảng 30.000 tấn trái.
Ông Dương Trần Trọng Quang, Chủ tịch UBND xã Hội Xuân, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, địa phương có 600ha cây sầu riêng chuyên canh chia sẻ: Thời điểm này, đầu ra của trái sầu riêng rất ổn định, cung không đủ cầu. Ông Quang cũng cho biết hiện chỉ mới có khoảng ¼ diện tích sầu riêng nông dân xử lý bắt đầu có trái. Đến cuối tháng 11 (âm lịch), sầu riêng mới chín rộ, bà con rất phấn khởi.
Áp dụng đồng bộ kỹ thuật theo hướng hữu cơ
Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, công tác chuyển giao khoa học, kỹ thuật cho nông dân ứng dụng vào sản xuất là một trong những giải pháp làm giảm chi phí đầu tư, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm sầu riêng. Ngành NN-PTNT đã tổ chức nhiều lớp hướng dẫn cho nông dân về kỹ thuật trồng sầu riêng theo hướng an toàn, với các kỹ thuật phổ biến như ủ phân hữu cơ để bón sầu riêng, tạo tán, tỉa cành, xử lý ra hoa trái vụ, phủ bạt trong sản xuất, tưới phun sương.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các chế phẩm sinh học để xử lý phân chuồng, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, nấm Trichoderma sp. và các phế phụ phẩm trong sản xuất sầu riêng là những tiến bộ giúp bà con kiểm soát các loại nấm hại rễ, góp phần tạo nên cây sầu riêng khỏe, đạt năng suất cao và tiết kiệm chi phí. Đến nay, diện tích sử dụng phân bón hữu cơ đạt trên 90% diện tích; sử dụng nấm Trichoderma sp. chiếm gần 66%; sử dụng thuốc BVTV sinh học chiếm trên 68% diện tích sầu riêng trong vùng Đề án phát triển cây sầu riêng của tỉnh.
Ngoài ra, cơ giới hóa trong tưới nước được ứng dụng vào sản xuất sầu riêng ngày càng tăng, giúp tiết kiệm chi phí, gia tăng lợi nhuận cho nông dân. Đến cuối năm 2021, ước tính có trên 96% diện tích áp dụng cơ giới hóa trong tưới nước, tăng gần 26% so với năm 2017.
Thời gian tới, nhằm nâng cao giá trị trái sầu riêng, Sở NN-PTNT Tiền Giang cho biết: Tỉnh đã và đang triển khai dự án “Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sầu riêng tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030”. Qua đó hình thành chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ, áp dụng khoa học công nghệ, gắn kết sản xuất và kinh doanh, ứng dụng công nghệ xử lý sau thu hoạch, chế biến sâu và giảm tổn thất sau thu hoạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Th1014
Một số kinh nghiệm trong sản xuất và xử lý ra hoa trên xoài cát Hòa Lộc
Cái Bè là một huyện có diện tích trồng xoài lớn nhất tỉnh Tiền Giang, chủng loại đa dạng như: xoài Cát Hòa Lộc, xoài cát chu, xoài 3 mùa mưa, xoài Đài Loan, xoài Thái… tập trung ở các xã Hòa Hưng, Tân Thanh, Tân Hưng, An Hữu, An Thái Đông, Mỹ Lương, An Thái Trung, Mỹ Đức Tây… Nhưng việc xử lý ra hoa và chăm sóc xoài của bà con nông dân đôi lúc gặp rất nhiều khó khăn. Phổ biến nhất là xử lý xoài không ra hoa hoặc đổ trái non làm giảm năng suất khi thu hoạch
Sau đây là một số kinh nghiệm của tôi đúc kết từ thực tế nhiều năm trồng xoài cát Hòa Lộc trên diện tích 4.000 m2, và quá trình học tập, trao đổi kinh nghiệm qua tham dự tập huấn – hội thảo của cơ quan khuyến nông và sinh hoạt câu lạc bộ khuyến nông.
Đầu tiên, để cho cây xoài được thông thoáng nhằm giảm bớt sự đeo bám của sâu, rầy, hạn chế được độ ẩm ướt dưới gốc cây trong mùa mưa, khi thu hoạch xong tôi thường cắt tỉa những cành kém hiệu quả là cành không đủ sức để ra đọt, tạo tán nhằm để cho ánh nắng chiếu rọi vào thân cây. Sau đó tôi tiến hành xới gốc, bón phân vi sinh hoặc kén trùn quế kết hợp phân hóa học để cho cây phục hồi, tạo cành mới (liều lượng phân bón tùy thuộc vào tán lá và tuổi cây). Sau đó khoảng 8 – 10 ngày, khi kiểm tra nhận thấy nhú mầm đọt thì xử lý thuốc trừ sâu, thuốc trị nấm bệnh theo sự khuyến cáo của nhà sản xuất (nếu xịt bằng máy thì có thể giảm liều lượng thuốc còn lại 80%) để bảo vệ cho đọt phát triển tươi tốt và hạn chế sâu bệnh tấn công đọt non. Giai đoạn này có thể bổ sung thêm phân bón lá hoặc dịch trùn quếpha phun xịt qua lá nhằm giúp cho đọt phát triển nhanh, mạnh.
Quá trình xử lý ra hoa: khi đọt đạt được màu xanh lụa, có thể cắt bỏ bớt những đọt không thể ra hoa rồi sau đó xử lý Paclo với liều 40 – 50g/cây (theo kinh nghiệm thì nên tưới vòng vào thân chiều cao khoảng 1m từ gốc tính lên để không ảnh hưởng đến bộ rể của cây). Đến khoảng 60 – 70 ngày thì xử lý ra hoa. Lựa chọn thuốc xử lý ra hoa tùy mỗi người nhưng bản thân tôi dùng Dola, khoảng 500g cho thùng 100 lít nước với thuốc trừ sâu, thuốc trị nấm bệnh. Nếu thấy đọt quá già thì tôi cộng thêm khoảng 1,5kg Kali đỏ cho thùng 100 lít nước để hạn chế sự ra đọt.
Sau khi xử lí được khoảng từ 12 – 15 ngày thì cây nhú mầm hoa, lúc đó sẽ xử lý thuốc trừ nấm bệnh với thuốc trừ sâu. Vào mùa mưa cần phải sử dụngAntracol hoặc Amista liều lượng theo khuyến cáo nhà sản xuất (đối với thuốc hóa học thì nên thay đổi thuốc vì sử dụng một loại nhiều lần sẽ dễ bị sâu bệnh kháng thuốc). Theo kinh nghiệm bản thân đã áp dụng biện pháp này nhiều năm cho hiệu quả rất cao.
Đến khi trái được 25 ngày tuổi thì sử dụng thuốc phòng trị các bệnh thông thường.
Lưu ý trong thời gian ra hoa nên thận trọng khi xử lý thuốc, vì hoa xoài cát rất mẩn cảm với thuốc hóa chất và thời tiết. Nếu khi hoa nở mà lạm dụng phân bón qua lá hay khi gặp trời mưa hoặc mù sương muối thì hoa sẽ bị đen (theo tôi thì không nên sử dụng phân bón qua lá giai đoạn này, vì hàm lượng phân lân rất cao, nếu sử dụng nhiều sẽ làm da trái có màu xanh, lượng xơ trong trái rất nhiều làm cho trái chậm lớn, trái không đạt theo yêu cầu, da trái sẽ bị đốm đen).
Hiệu quả kinh tế của mô hình qua theo dõi các năm vừa qua: Với 4.000 m2 chi phí sản xuất bình quân cho 1 vụ xoài, dao động từ 22 – 25 triệu đồng, sản lượng bình quân 3 tấn (năng suất 7,5 tấn/ha). Với giá bán bình quân 22.000đ/kg, tổng thu nhập 66 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí lợi nhuận khoảng 40 triệu đồng.
Võ Văn Hận – CTV khuyến nông xã Hòa Hưng, Cái Bè – Tiền Giang
nguồn: Phân bón Hiếu Giang
Th130