Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây mướp đắng (khổ qua)
Mướp đắng, hay còn được biết tới với tên gọi là khổ qua là giống cây trồng thuộc họ bầu bí. Con người thường trồng mướp đắng để lấy trái phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, hữu ích cho người dùng. Cùng tham khảo kỹ thuật trồng và chăm sóc cây mướp đắng tiêu chuẩn thông qua bài viết để áp dụng thuận lợi trên vườn trồng của gia đình mình.
Chuẩn bị trước khi trồng mướp đắng
Thời vụ trồng thích hợp
Đặc trưng của mướp đắng là có thể đưa vào trồng quanh năm đều sinh trưởng và cho trái theo nhu cầu của con người. Tuy nhiên, thời vụ lý tưởng cho cây phát triển nhất chính là Đông Xuân từ tháng 10 tới tháng 1 năm sau.
Ngoài ra, vụ Hè Thu được đánh giá cao ở năng suất tùy nhiên thường đối mặt với tình trạng bị ruồi đục trái. Vì vậy, khi cân nhắc trồng vào giai đoạn này bà con cần đặc biệt lưu tâm trong quá trình chăm sóc.
Chọn giống mướp đắng
Bạn có thể cân nhắc mua hạt giống tại các đại lý uy tín, hoặc sử dụng trái mướp đắng chất lượng của vụ trước để lấy hạt. Nếu tự chuẩn bị hạt giống cần ưu tiên chọn trái lớn, cầm chắc tay. Sau đó bổ trái khi đã già, lấy hạt rửa sạch và phơi thật khô. Việc ngâm ủ sẽ được tiến hành khi mùa vụ tới.
Ngoài ra, đối với việc mua giống bán sẵn bà con có thể cân nhắc một số giống phổ biến, được đưa vào trồng nhiều như:
- Giống mướp đắng địa phương: khổ qua xiêm, TH-12,…
- Giống mướp đắng lai F1 tiêu biểu như Chiatai, 054 và 185, hay East-west 241,…..
Làm đất và lên liếp
Đặc điểm nổi bật của mướp đắng là có thể trồng thích hợp trên nhiều loại đất khác nhau. Tuy nhiên, yêu cầu của đất trồng phải đảm bảo độ tơi xốp, được làm sạch cỏ, độ thoáng khí cao. Trong đó, ưu tiên dùng đất thịt pha cát mang tới điều kiện sinh tưởng hoàn hảo nhất.
Yêu cầu với diện tích canh tác khổ qua cần được tiến hành cày xới kỹ càng, dọn sạch cỏ dại và tàn dư của vụ trồng trường đó. Sau đó bón lót, rắc thêm vôi bột để khử khuẩn. Hoàn thành việc bón lót thì lên liếp, phơi ải khoảng 20 ngày trước khi trồng.
Tiêu chuẩn của luống trồng khổ qua cần hoàn thành với chiều rộng từ 0.6 – 0.8m, độ cao từ 20 – 30cm là hợp lý. Sau khi lên luống cần căng màng phủ theo chiều dài của luống. Đảm bảo mảng phủ cần kéo sát mép rãnh để tránh tình trang cỏ mọc ảnh hưởng tới quá trình phát triển của cây.
Kỹ thuật trồng khổ qua
Mướp đắng khi trồng cần được thực hiện qua đầy đủ các bước chính là xử lý hạt giống, gieo hạt và trồng dự trù. Trong đó cụ thể yêu cầu của từng bước trong quy trình này sẽ là:
Xử lý hạt giống
Hạt giống đã chuẩn bị trước đó chúng ta đem ngâm cùng nước nóng trong thời gian khoảng 5 – 6 giờ đồng hồ. Nước ấm sử dụng pha theo tỷ lệ tiêu chuẩn là 2 sôi 3 lạnh. Sau khi ngâm xong bà con đem ủ trong khăn ẩm thời gian khoảng 24 giờ.
Lúc này, đem hạt giống rửa sạch bằng nước để loại bỏ hết lớp nhờn bên ngoài. Tiếp tục đem ủ trong khăn ẩm sạch cho tới khi hạt nứt nanh mới tiến hành đem gieo. Cần chú ý để hạt nứt nanh, mọc rễ với độ dài vừa phải.
Gieo hạt
Canh tác mướp đắng thông thường hạt giống sẽ được gieo trực tiếp xuống luống trồng đã chuẩn bị trước đó. Tra hạt trực tiếp xuống lỗ trồng sau đó phủ lên một lớp đất mỏng lên trên cùng. Cần chú ý khi tra hạt bạn cần đảm bảo đặt đầu nứt nanh xuống phía dưới. Cuối cùng phủ lên một lớp rơm rạ, hoặc lớp tro ủ hoai mục.
Với mỗi hốc trồng bà con nên gieo khoảng 5 – 7 hạt phòng trừ tình trạng sâu đất, hay dế phá hoại. Sau khi hoàn thành việc gieo hạt giống thì tưới đẫm nước nhằm duy trì độ ẩm cho đất lý tưởng, thúc đẩy hạt nhanh chóng nảy mầm, phát triển thành câu con.
Trồng dự trù
Bên cạnh việc gieo trực tiếp trên luống trồng thì trồng dự trù cần được cân nhắc thực hiện. Chúng ta nên trồng dự trù thêm một số cây trong bầu đất để sử dụng dặm vào những hốc không lên, hoặc cây quá yếu, bị sâu bệnh phá hoại,… sau một khoảng thời gian canh tác.
Chăm sóc cây mướp đắng
Chăm sóc cây khổ qua khá đơn giản với một vài yêu cầu cơ bản nhất định. Trong đó, cách thực hiện yêu cầu cần tuân thủ chính là:
Tưới nước
Trồng mướp đắng, hay những loại cây trồng khác việc cung cấp đủ nước ảnh hưởng tới quá trình cây sinh trưởng. Việc tưới đủ nước, đều đặn hàng ngày cần được chú ý thực hiện đầy đủ. Trong đó, giai đoạn cây đang ra hoa, nuôi trái thì việc tưới nước cần được chú trọng.
Không để vườn trồng đất quá khô, tuy nhiên cũng cần chú ý để tình trạng ngập úng không xảy ra. Ngoài ra, trong điều kiện thời tiết mưa nhiều việc tránh ngập úng cần thực hiện tránh ảnh hưởng tới quá trình cây phát triển, thậm chí là chết cây.
Làm cỏ
Duy trì việc làm cỏ thường xuyên nhằm kiểm soát độ thông thoáng cho luống trồng. Không tranh dinh dưỡng, giảm thiểu nguy cơ mầm bệnh xuất hiện đều được đảm bảo tốt. Việc làm cỏ cho diện tích trồng mướp đắng cần kết hợp với xới xáo, vun gốc.
Thông thường, việc làm cỏ khi canh tác giống cây trồng này sẽ được tiến hành thủ công bằng tay. Thực hiện đều giúp không gian sinh trưởng của mướp đẳng được đảm bảo tốt nhất.
Phòng trừ sâu bệnh
Mướp đắng khi trồng có nhiều loại côn trùng phá hoại sẽ phải đối mặt. Trong đó thì sâu đất, rệp, sâu xanh, bọ rẫy, hay bọ trĩ, rầy mềm,… là khá thường gặp. Việc kiểm tra vườn trồng thường xuyên cần được hết sức lưu tâm. Nhờ đó, việc canh tác sẽ có được kết quả cao như yêu cầu.
Song song với đó, bệnh hại cây mướp đắng thường thấy là lở cổ đất, đốm nâu trên lá, hoặc bệnh virus, héo rũ,… Loại bỏ lá úa, cắt tỉa lá bệnh khi xuất hiện, đồng thời sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phù hợp cần được chú ý thực hiện. Qua đó, việc xử lý các vấn đề sâu bệnh hại vườn trồng mướp đắng được giải quyết tốt.
Làm dàn leo
Việc làm hệ thống giàn leo đúng kỹ thuật tạo điều kiện cho khổ qua có thể sinh trưởng thuận lợi. trong đó, yêu cầu cơ bản trong quy trình làm giàn sẽ là:
- Trà leo: Khi cây con phát triển có khoảng 3 – 4 lá thật thì lúc này cắm trà cần được thực hiện. Sử dụng cọc trà chiều dài khoảng 2.2 -2.5m với mật độ sử dụng là 2.500 cây/ 1000m2. Sử dụng cắm theo hình chữ A, có cả trà ngang đảm bảo độ chắc chắn.
- Giăng dây: Hoàn thiện hệ thống dây gân phủ toàn bộ hệ thống giàn trên và giàn ngang. Từ đó việc sinh trưởng, nuôi trái dễ dàng với hệ thống dàn leo chắc chắn.
Tiêu chuẩn bón phân cho cây mướp đắng
Phân bón khuyến khích sử dụng là các dòng phân hữu cơ: heo, bò, gà, trùn quế . Bà con sử dụng liều lượng phù hợp tương đương với diện tích trồng cụ thể. Trong đó, liều lượng trùn quế100 – 120 kg/ 1000m2.
Tiến hành bón lót ngay sau khi làm đất xong xuôi. Bón lót kết hợp với rắc vôi bột để cải thiện độ giàu dưỡng chất, cũng giúp khử khuẩn cho đất trồng tốt hơn. Sau đó, phơi ải thời gian tiêu chuẩn trước khi bắt đầu vào canh tác vụ mới.
Việc bón thúc cho cây mướp đắng yêu cầu cần được thực hiện thường xuyên. Đảm bảo nguồn dinh dưỡng cần thiết mới giúp mỗi cây trồng có khả năng sinh trưởng nhanh chóng, sai trái. Bà con cần lưu ý những vấn đề sau:
- Tần suất thực hiện: Khi cây con được từ 20 – 25 ngày tuổi việc bón thúc lần đầu tiên cần được thực hiện đầy đủ. Sau đó, cách khoảng 10 – 15 ngày sẽ thực hiện bón thúc một lần cho tới gần ngày thu hoạch.
- Loại phân bón sử dụng: Ưu tiên dùng một số loại như NPK Hà Lan 20-20-15, hay NPK Hà Lan 17-7-17, NPK Hà Lan 16-9-21, NPK Hà Lan 12-12-18,… cho cây mướp đắng.
- Kỹ thuật bón thúc: Tạo các lỗ nằm cách xa gốc cây một chút sau đó bón trực tiếp phân NPK xuống, phủ đất lên trên. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể pha loãng phân bón để tưới vào gốc liều lượng vừa phải.
Như vậy, việc trồng mướp đắng có thể tiến hành một cách đơn giản và hiệu quả cho từng hộ gia đình. Dù là trồng với mục đích gì, diện tích cụ thể bao nhiêu thì áp dụng theo đúng kỹ thuật kể trên cũng tạo ra những cây trồng chất lượng, xanh tốt và cho thu hoạch năng suất cao.
Nguồn : phân bón Hà Lan
Th1015
Kỹ thuật trồng cây đinh lăng: Cây thuốc quý dân gian
Không chỉ để làm cảnh, tất cả bộ phận của cây đinh lăng đều được sử dụng làm thuốc. Dưới đây là kỹ thuật trồng cây đinh năng cho năng suất hiệu quả nhất
Ngoài trồng để làm cây cảnh, cây đinh lăng còn là một cây thuốc quý dân gian, có thể sử dụng được toàn bộ cây từ rễ, củ, cành và lá để làm thuốc trị bệnh, bồi bổ sức khỏe và làm gia vị cho một số món ăn.
Kỹ thuật trồng cây đinh lăng
Không chỉ làm cảnh đinh lăng còn là cây thuốc quý dân gian
Làm đất: Cày bừa làm đất tơi, đào hố kích thước 20 x 20 x 20cm. Nếu ở vùng đồi phải cuốc hốc sâu 20cm, đường kính hố 40cm, đào hốc thành hai hàng lệch nhau, cây cách cây 50cm.
Trồng cây:
Trồng đinh lăng bằng cây giống để có chất lượng tốt
Trồng bằng hom giống: Hom giống được chọn những cành khỏe, cành bánh tẻ, cành vừa hóa nâu, sau đó cắt từng khoảng dài 20cm để làm hom giống, đặt hom giống nghiêng 45o theo mặt hố đã chuẩn bị sẵn, sau đó lấp hom, để hở đầu hom trên mặt đất 5cm.
Trồng bằng cây giống: Sau khi xé túi bầu, cây giống đặt giữa hố trồng, lấp đất, dùng tay nén đất xung quanh túi bầu.
Trồng xong, phủ rơm rạ lên mặt luống để giữ độ ẩm và tạo mùn cho đất tơi xốp. Khi trồng xong, nếu đất khô phải tưới nước đảm bảo độ ẩm cho đất trong vòng 25 ngày nhưng không để ngập nước. Nếu trời mưa liên tục phải thoát nước ngay để tránh thối hom giống.
Bón phân:
Bón lót: Mỗi hecta bón lót 10 – 15 tấn phân hữu cơ 3-2-2, 400 – 500 kg phân NPK 16-16-16, bón toàn bộ lượng phân lót, sau khi trộn đều với lớp đất mặt cho vào hố. Chuẩn bị trước khi trồng 10 – 15 ngày.
Bón thúc: Năm đầu vào tháng 6 – 7 dương lịch sau khi làm cỏ, bón thúc 10kg urê/sào bằng cách rắc vào hố cách gốc 20cm rồi lấp kín. Cuối năm thứ 2 vào tháng 9 dương lịch sau đợt tỉa cành, bón thêm phân chuồng hoặc phân trùn quế 5 – 6 tấn/ha và 250 – 300kg NPK 16-16-16 + 100kg Clorua kali. Bón thúc vào hố cách gốc 20 – 30cm, vun đất phủ kín phân bón, để cây có điều kiện phát triển mạnh vào năm sau.
Bón phân đầy đủ để cây đinh lăng ra rễ to
Chăm sóc:
Từ năm thứ 2 trở đi cần tỉa bớt lá và cành, mỗi năm 2 đợt vào tháng 4 và tháng 9.
Mỗi gốc chỉ để 1 – 2 cành to, tập trung dinh dưỡng nuôi cành chính và củ đinh lăng.
Làm cỏ kịp thời. Bón thúc vào tháng 8 – 9 dương lịch, vun đất phủ kín phân bón, để cây có điều kiện phát triển mạnh vào năm sau. Trồng từ 3 năm trở lên mới thu hoạch.
Kiểm tra thường xuyên tình trạng đồng ruộng, dụng cụ phun thuốc và các bao gói, vệ sinh dụng cụ và xử lý nước thải khi vệ sinh dụng cụ phun thuốc, phòng ngừa khả năng gây ô nhiễm đất trồng và môi trường vùng sản xuất.
Tưới nước, tỉa lá… thường xuyên cho cây đinh lăng
Phòng trừ sâu bệnh:
Đối tượng sâu bệnh hại trên cây chủ yếu là sâu cuốn lá, sâu xanh,… Có thể dùng thuốc hoặc bắt bằng tay vào sáng sớm hoặc chiều mát. Sử dụng các thuốc sinh học như Biocin luân phiên với thuốc Sherpa, Sherzol, Secsaigon để phun cho cây.
Thu hoạch, chế biến, bảo quản:
Lá: Khi chăm sóc cần tỉa bớt lá chỗ quá dày, khi thu vỏ rễ, vỏ thân thì thu hoạch lá trước, sau đó mới chọn hom giống. Lá thu được đem hong gió cho khô là tốt nhất, sau cùng sấy cho thật khô.
Sau khi thu hoạch lá về cần phải sấy khô để khỏi thối
Vỏ rễ, vỏ thân: Có thể thu hoạch vào cuối tháng 8 – 9 dương lịch của năm thứ 2 (cây trồng 5 năm có năng suất vỏ rễ, vỏ thân cao nhất). Rễ và thân cây rửa sạch đất cát, cắt rời rễ lớn, hong gió một ngày cho ráo nước để riêng từng loại vỏ thân, vỏ rễ sau khi bóc. Rễ nhỏ có đường kính dưới 10mm không bóc vỏ. Loại đường kính dưới 5mm để riêng. Rễ cần được phơi, sấy liên tục đến khi khô giòn là được.
Củ và rễ tươi đã thu hoạch cần chế biến ngay, không nên để quá 5 ngày. Có thể thái lát mỏng 0,3 – 0,5cm rồi rửa sạch đem phơi hoặc sấy khô.
Nguồn: Phân bón Hiếu Giang
Th1014
Một số kinh nghiệm trong sản xuất và xử lý ra hoa trên xoài cát Hòa Lộc
Cái Bè là một huyện có diện tích trồng xoài lớn nhất tỉnh Tiền Giang, chủng loại đa dạng như: xoài Cát Hòa Lộc, xoài cát chu, xoài 3 mùa mưa, xoài Đài Loan, xoài Thái… tập trung ở các xã Hòa Hưng, Tân Thanh, Tân Hưng, An Hữu, An Thái Đông, Mỹ Lương, An Thái Trung, Mỹ Đức Tây… Nhưng việc xử lý ra hoa và chăm sóc xoài của bà con nông dân đôi lúc gặp rất nhiều khó khăn. Phổ biến nhất là xử lý xoài không ra hoa hoặc đổ trái non làm giảm năng suất khi thu hoạch
Sau đây là một số kinh nghiệm của tôi đúc kết từ thực tế nhiều năm trồng xoài cát Hòa Lộc trên diện tích 4.000 m2, và quá trình học tập, trao đổi kinh nghiệm qua tham dự tập huấn – hội thảo của cơ quan khuyến nông và sinh hoạt câu lạc bộ khuyến nông.
Đầu tiên, để cho cây xoài được thông thoáng nhằm giảm bớt sự đeo bám của sâu, rầy, hạn chế được độ ẩm ướt dưới gốc cây trong mùa mưa, khi thu hoạch xong tôi thường cắt tỉa những cành kém hiệu quả là cành không đủ sức để ra đọt, tạo tán nhằm để cho ánh nắng chiếu rọi vào thân cây. Sau đó tôi tiến hành xới gốc, bón phân vi sinh hoặc kén trùn quế kết hợp phân hóa học để cho cây phục hồi, tạo cành mới (liều lượng phân bón tùy thuộc vào tán lá và tuổi cây). Sau đó khoảng 8 – 10 ngày, khi kiểm tra nhận thấy nhú mầm đọt thì xử lý thuốc trừ sâu, thuốc trị nấm bệnh theo sự khuyến cáo của nhà sản xuất (nếu xịt bằng máy thì có thể giảm liều lượng thuốc còn lại 80%) để bảo vệ cho đọt phát triển tươi tốt và hạn chế sâu bệnh tấn công đọt non. Giai đoạn này có thể bổ sung thêm phân bón lá hoặc dịch trùn quếpha phun xịt qua lá nhằm giúp cho đọt phát triển nhanh, mạnh.
Quá trình xử lý ra hoa: khi đọt đạt được màu xanh lụa, có thể cắt bỏ bớt những đọt không thể ra hoa rồi sau đó xử lý Paclo với liều 40 – 50g/cây (theo kinh nghiệm thì nên tưới vòng vào thân chiều cao khoảng 1m từ gốc tính lên để không ảnh hưởng đến bộ rể của cây). Đến khoảng 60 – 70 ngày thì xử lý ra hoa. Lựa chọn thuốc xử lý ra hoa tùy mỗi người nhưng bản thân tôi dùng Dola, khoảng 500g cho thùng 100 lít nước với thuốc trừ sâu, thuốc trị nấm bệnh. Nếu thấy đọt quá già thì tôi cộng thêm khoảng 1,5kg Kali đỏ cho thùng 100 lít nước để hạn chế sự ra đọt.
Sau khi xử lí được khoảng từ 12 – 15 ngày thì cây nhú mầm hoa, lúc đó sẽ xử lý thuốc trừ nấm bệnh với thuốc trừ sâu. Vào mùa mưa cần phải sử dụngAntracol hoặc Amista liều lượng theo khuyến cáo nhà sản xuất (đối với thuốc hóa học thì nên thay đổi thuốc vì sử dụng một loại nhiều lần sẽ dễ bị sâu bệnh kháng thuốc). Theo kinh nghiệm bản thân đã áp dụng biện pháp này nhiều năm cho hiệu quả rất cao.
Đến khi trái được 25 ngày tuổi thì sử dụng thuốc phòng trị các bệnh thông thường.
Lưu ý trong thời gian ra hoa nên thận trọng khi xử lý thuốc, vì hoa xoài cát rất mẩn cảm với thuốc hóa chất và thời tiết. Nếu khi hoa nở mà lạm dụng phân bón qua lá hay khi gặp trời mưa hoặc mù sương muối thì hoa sẽ bị đen (theo tôi thì không nên sử dụng phân bón qua lá giai đoạn này, vì hàm lượng phân lân rất cao, nếu sử dụng nhiều sẽ làm da trái có màu xanh, lượng xơ trong trái rất nhiều làm cho trái chậm lớn, trái không đạt theo yêu cầu, da trái sẽ bị đốm đen).
Hiệu quả kinh tế của mô hình qua theo dõi các năm vừa qua: Với 4.000 m2 chi phí sản xuất bình quân cho 1 vụ xoài, dao động từ 22 – 25 triệu đồng, sản lượng bình quân 3 tấn (năng suất 7,5 tấn/ha). Với giá bán bình quân 22.000đ/kg, tổng thu nhập 66 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí lợi nhuận khoảng 40 triệu đồng.
Võ Văn Hận – CTV khuyến nông xã Hòa Hưng, Cái Bè – Tiền Giang
nguồn: Phân bón Hiếu Giang
Th1011
Kỹ thuật trồng và chăm sóc rau xà lách mỡ
Xà lách mỡ là một trong những loại rung dùng trong nhiều món ăn, mang giá trị dinh dưỡng cao. Tìm hiểu kỹ thuật trồng và chăm sóc rau xà lách mỡ đúng cách giúp mỗi gia đình dễ dàng trong canh tác giống rau này. Tìm hiểu chi tiết qua bài viết dưới đây để có được những thông tin hữu ích nhất.
Thời vụ thích hợp gieo trồng rau xà lách mỡ
Xà lách mỡ là giống rau thích hợp canh tác quanh năm. Tuy nhiên, thời điểm tốt nhất trong năm nên lựa chọn là:
- Vụ sớm: Tiến hành gieo hạt khoảng tháng 8 và trồng cây con vào tháng 9.
- Vụ chính: Gieo hạt xà lách mỡ vào tháng 10 và trồng cây con vào tháng 11.
- Vụ muộn: Tiến hành gieo hạt vào tháng 1 và trồng cây con vào khoảng tháng 2.
Cách chọn giống xà lách mỡ
Khi chọn giống bà con cần chú ý tìm hiểu kỹ lưỡng về nguồn gốc xuất xứ. Đảm bảo hạt giống đều, mẩy để cho mật độ nảy mầm cao. Ưu tiên chọn mua tại các đại lý, các cơ sở cung cấp uy tín.
Sử dụng lượng giống hạt xà lách mỡ trồng với mật độ khoảng 600 – 800gram/ha.
Chuẩn bị và làm đất trồng xà lách mỡ
Chuẩn bị đất trồng
Xà lách mỡ ưa đất trồng có chứa nhiều nito, đồng thời giàu chất hữu cơ, giàu dinh dưỡng và chủ động được tưới tiêu tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt hơn. Thông thường, đất trồng giống rau này được sử dụng là đất thịt nhẹ, cát pha, hoặc đất phù sa sở hữu thành phần cơ giới nhẹ.
Làm đất và lên luống
Trên diện tích đất trồng được quy hoạch bà con tiến hành cày bừa, xới xáo và làm sạch cỏ cùng tàn dư của vụ trước đó. Sau đó tiến hành bón lót tăng dinh dưỡng, ủ hoai mục trong khoảng 7 – 10 ngày trước khi gieo trồng xà lách mỡ.
Tiến hành lên luống sau khi quá trình làm đất đã hoàn thành là bước tiếp theo cần thực hiện. Yêu cầu cụ thể là:
- Lên luống khi gieo hạt: luống rộng 0.9 – 1.0m, chiều cao trong khoảng 20 – 25cm và rãnh giữa các luống rộng 30cm.
- Lên luống khi trồng cây: yêu cầu luống trồng xà lách mỡ đảm bảo chiều cao 20 – 30cm, khoảng cách giữa các luống là 30cm, đồng thời luống trồng rộng từ 0.8 – 1.0m là hợp lý,
Kỹ thuật gieo trồng rau xà lách mỡ
Kỹ thuật gieo trồng cây xà lách mỡ cần thực hiện từ xử lý hạt, gieo hạt, trồng cây con chuẩn xác:
Xử lý hạt trước khi gieo trồng
Thường thì hạt giống rau xà lách mỡ sẽ được gieo trực tiếp trên vườn ươm. Song nếu điều kiện thời tiết quá lạnh thì ngâm hạt trước khi gieo sẽ tăng độ nảy mầm hiệu quả. Bà con sử dụng nước pha theo tỷ lệ 2 nóng : 3 lạnh để ngâm hạt giống trong 2 – 3 giờ đồng hồ.
Sau khi ngâm rửa hạt giống rau xà lách mỡ bằng nước sạch, tiến hành ủ ấm trong 10 – 12 giờ. Thường xuyên kiểm tra tới khi thấy hạt giống nứt kẽ là có thể đem gieo.
GIEO HẠT
- Trên luống vườn ươm bà con tiến hành gieo hạt sau khi đã ngâm ủ với khoảng cách giữa hạt với hạt là 1 – 2 inch, hàng cách hàng khoảng 14 – 20inch.
- Sau khi gieo tiến hành phun nước nhẹ nhàng, đều khắp mặt luống đảm bảo độ ẩm phù hợp.
Trồng cây con
Khi cây con phát triển có từ 2 – 3 lá thật lúc này tách khỏi vườn ươm và trồng trên diện tích canh tác đã chuẩn bị. Kỹ thuật trồng cây con cơ bản sẽ là:
- Mật độ trồng cây cách caah 15 – 20cm, hàng cach hàng khoảng 15 – 20cm tương ứng 16.000 – 17.000 cây/500m2.
- Tiến hành tách và cấy cây con lên luống nên thực hiện vào thời điểm chiều mát.
- Sau khi trồng cần tưới nước trên khắp mặt luống đảm bảo độ ẩm giúp cây con sớm bén rễ.
- Sau khoảng 2 – 3 ngày trồng bà con kiểm tra và thực hiện việc trồng dặm ở vị trí những cây yếu, chết hoặc bị bệnh. Việc trồng dặm cần thực hiện vào chiều mát không có nắng, sau khi trồng tưới nước ngay lập tức.
CHĂM SÓC CÂY XÀ LÁCH MỠ
Tưới nước
Thời gian từ 2 – 7 ngày đầu tiên sau khi gieo hạt duy trì tưới đều đặn 1 lần/ ngày vào sáng sớm hoặc chiều muộn. Ngoài ra, trước khi nhổ tách cây con bà coin cần chú ý tưới nước kỹ để giảm thiểu những tổn thương lên rễ.
Sau khi cây con hồi xanh, phát triển tốt duy trì tưới nước 2 – 3 ngày/ lần. Lượng nước sử dụng cần cân đối với điều kiện thời tiết, độ ẩm của đất để cân đối hợp lý. Ưu tiên sử dụng nước giếng khoan không ô nhiễm, hoặc nước máy để đảm bảo an toàn.
Phòng trừ sâu bệnh hại
Xà lách là giống rau sinh trưởng và thu hoạch trong thời gian ngắn. Bởi vậy, sâu bệnh hại không xuất hiện quá nhiều, chủ yếu là các loại như:
- Sâu tơ: Phòng trừ bằng cách vệ sinh sạch sẽ diện tích canh tác, tưới nước trong điều kiện trời mát mẻ. Tuy nhiên, khi sâu tơ xuất hiện bà con nên tìm hiểu và sử dụng một số loại thuốc trừ sâu đặc trị để xử lý.
- Sâu ăn tạp: Loại bỏ nguy cơ bằng cách làm đất trước khi canh tác kỹ lưỡng, thăm vườn trồng thường xuyên, sử dụng biện pháp sinh học nếu sâu xuất hiện và sinh sôi nhanh chóng.
- Bệnh hại: Rau xà lách mỡ thường gặp phải một số bệnh như chết cây con, thối bẹ, thối nhũn vi khuẩn,…
Làm cỏ
Yêu cầu làm cỏ cần thực hiện thường xuyên tránh để xà lách mỡ bị tranh dinh dưỡng, đảm bảo được độ thông thoáng để cây trồng sinh trưởng. Nên làm cỏ mỗi lần bón phân kết hợp với xới xáo kỹ luống trồng.
BÓN PHÂN CHO CÂY XÀ LÁCH MỠ
Bón phân cho cây rau xà lách mỡ yêu cầu cần thực hiện qua hai giai đoạn là bón lót và bón thúc. Kỹ thuật cơ bản là:
Bón lót
Bón lót là công đoạn thực hiện sau khi quá trình làm đất hoàn thành. Sử dụng phân bò, tro trấu, trùn quế hoặc phân bón hữu cơ 3 Con Gà, hoặc dùng phân bón hữu cơ Organic 1 bằng liều lượng là 50 – 60kg/1000m2. Bón trực tiếp lên đất sau đó ủ hoai mục khoảng 10 ngày trước khi gieo trồng.
Bón thúc
Bón thúc cho diện tích canh tác rau xà lách mỡ yêu cầu cần thực hiện qua 3 lần cơ bản là:
- Bón thúc lần 1: Thời điểm thực hiện khi cây xà lách có từ 2 – 3 lá thật. Bà con sử dụng phân bón NPK 20-20-15 với liều lượng khoảng 15 – 20kg/1000m2.
- Bón thúc lần 2: Sau khoảng 15 ngày gieo hạt bà con tiến hành bón thúc lần tiếp theo liều lượng là 15 – 20kg/1000m2 bằng phân bón NPK.
- Bón thúc lần 3: Sau khi gieo hạt giống từ 20 – 25 ngày thực hiện bón thúc lần cuối cùng. Bà con dùng phân bón NPK 17-7-17 với liều lượng tiêu chuẩn là 15 – 20kg/1000m2 tưới đều lên luống trồng.
Thu hoạch rau xà lách mỡ
Thông thường, rau xà lách mỡ sẽ cho thu hoạch sau khoảng 25 – 40 ngày trồng. Xà lách mỡ thành phẩm khi đã cuộn chặt chúng ta có thể tiến hành tỉa dần từ cây lớn tới cây nhỏ. Cần chú ý sử dụng dụng cụ thu hoạch phù hợp, hợp vệ sinh đẻ đảm bảo an toàn cho các cây còn lại.
Ngoài ra, trong quá trình thu hoạch tỉa nên loại bỏ các lá già, những lá nhiễm bệnh, lá úa,… ở những cây còn lại. Đối với xà lách mỡ đã chặt về cần được bảo quản ở nơi thoáng mát. Cần chú ý trước khi thu hoạch khoảng 7 ngày không sử dụng các loại thuốc trừ sâu, hay phân bón.
Như vậy, bài viết đã chia sẻ một cách chi tiết thông tin về kỹ thuật trồng, cũng như chăm sóc cây rau xà lách mỡ. Đây chắc chắn sẽ là kiến thức hữu ích và đầy đủ để bà con nông dân tự tin bắt đầu vụ gieo trồng với cơ hội thắng lớn.
Nguồn: Phân bón Hà Lan
Th222
Hiệu quả từ mô hình nuôi trùn quế khép kín
Hiệu quả mô hình nuôi trùn quế khép kín
(AGO) – Lấy trùn quế làm trung tâm của quy trình nuôi, trùn quế làm thức ăn cho gà, heo, bò; sau đó lại tận dụng phân của bò, gà, heo để ủ và sinh ra trùn quế. Cách làm khép kín này giúp anh Nguyễn Thanh Sang (ngụ ấp Phú Quới, xã Phú An, Phú Tân) tiết kiệm chi phí chăn nuôi, đặc biệt chất lượng của đàn gia súc, gia cầm còn được cải thiện rõ rệt.
Dẫn chúng tôi tham quan lần lượt 3 trại nuôi gà, heo, bò kết hợp điểm nuôi trùn quế, anh Sang giải thích: “Vì chưa có điều kiện nên phải thuê đất để nuôi mỗi con một chỗ, nhưng không lâu nữa tôi sẽ cất trang trại để nuôi tập trung, vì hiệu quả kinh tế nhờ kết hợp trùn quế trong chăn nuôi rất êm. Tôi còn có ý tưởng lấy đất mùn sau khi nuôi trùn quế để trồng thêm rau an toàn trong nhà lưới, cung cấp rau sạch tại địa phương”. Trại gà ta của anh Sang hiện có 600 con được nuôi xoay vòng liên tục: Gà đẻ trứng, ấp cho nở rồi bổ sung vào tổng đàn khi gà thịt đã bán đi, đem lại lợi nhuận cho anh từ 5-6 triệu đồng/đợt bán. Trong khi đó, trại nuôi heo thịt luôn được duy trì hàng chục con heo thịt và heo giống, thu nhập ổn định sau mỗi lượt xuất chuồng. Theo anh Sang, trùn quế là nguồn thức ăn giàu đạm, rất thích hợp để nuôi bò và gà thả vườn. Trước đây làm nghề thu mua nông sản, vì thị trường chững lại nên anh Sang tìm hiểu nghề làm ăn khác, mong tìm được mô hình hợp với kinh tế gia đình và điều kiện tự nhiên ở địa phương. Nhờ sự giới thiệu của một người bạn tại TP. Hồ Chí Minh, anh biết đến hiệu quả của trùn quế trong sản xuất nông nghiệp, hơn nữa còn giúp ích trong việc giải quyết lượng phân thải chăn nuôi nên liền thử nghiệm.
Sử dụng trùn quế làm thức ăn cho heo, bò, gà giúp mô hình chăn nuôi của anh Nguyễn Thanh Sang tiết kiệm chi phí
Với chục con bò vỗ béo có sẵn ở gia đình, anh lấy nguồn phân để nuôi trùn. Trong ô nuôi, giống trùn được trải phía dưới, bên trên lót phân của gà, bò, heo làm thức ăn cho trùn. Đến nay, anh Sang có 25 ô nuôi trùn quế, với diện tích 1.000m2. Sau 60 ngày nuôi, trùn giống bắt đầu sinh sản và cho 3-4kg trùn khối. Khi lượng trùn phát triển ổn định, anh tiến hành nuôi gà con, vỗ béo gà thịt, nấu hoặc phơi khô để trộn trùn và cám thành thức ăn viên cho heo. Lúc đầu, anh cho vật nuôi ăn nhiều trùn quế để sớm đạt hiệu quả nhưng kết quả lại không như ý muốn. Làm tới đâu anh rút kinh nghiệm tới đó, điều tiết chế độ ăn để theo dõi sức khỏe và sự phát triển của đàn gà, heo. Nếu bán trùn quế ra thị trường, với giá hiện tại 40.000 đồng/kg sẽ có thêm khoản thu nhập khá lớn nhưng anh Sang quyết định giữ lại toàn bộ để chăn nuôi, vì so chi phí với cách nuôi thông thường, trùn quế giúp việc nuôi gà tiết kiệm được 50%, nuôi heo tiết kiệm được 40%. Lấy đơn cử việc nuôi gà, anh phân tích theo cách nuôi truyền thống thì thời gian thả nuôi đến xuất bán mất ít nhất 6 tháng. Tuy nhiên, nuôi với thức ăn trùn quế thì gà lớn nhanh hơn, giảm mắc bệnh, thời gian nuôi chỉ còn 4 tháng, gà bán cho khách hàng được khen thịt ngon, dai và đầu ra ổn định.
Mô hình nuôi trùn quế khép kín của anh Nguyễn Thanh Sang là một trong 5 mô hình tiêu biểu được chọn tuyên dương tại Đại hội điểm nông dân thi đua sản xuất- kinh doanh giỏi xã Phú An. Mô hình được Hội Nông dân huyện Phú Tân và chính quyền xã đánh giá cao không chỉ bởi mang lại lợi ích kinh tế, mà còn có ích cho môi trường vì góp phần xử lý nguồn chất thải trong chăn nuôi hiệu quả. Nếu áp dụng rộng rãi thì nông dân sẽ có cơ hội tăng thu nhập cho gia đình và tạo ra nguồn thực phẩm sạch, an toàn.
Bài, ảnh: MỸ HẠNH, báo An Giang
Th220
phân trùn quế- loại phân hữu cơ vi sinh tốt nhất
Thức ăn chủ yếu của trùn quế là phân trâu bò, ngựa, dê, cừu, thỏ, lợn, gà; phế thải rau, củ quả, cây thân thảo và các loại rác thải hữu cơ hoai mục…; sau khi được trùn tiêu hoá sẽ trở thành phân trùn, có chứa một số Axit Amin hàm lượng tương đối cao. Nếu được bổ xung thêm khoáng chất P và một số loại Axit Amin như: Tyrosin, Arginin, Cystin, Methiomin, Histidin… thì phân trùn quế có thể làm thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm, thủy sản.
Phân trùn chứa một hỗn hợp vi sinh có hoạt tính cao, dễ hòa tan trong nước, chứa hơn 50 % chất mùn. Do đó nó không chỉ kích thích tăng trưởng cây trồng, mà còn tăng khả năng cải tạo đất. Phân trùn quế còn chứa các khoáng chất được cây trồng hấp thụ một cách trực tiếp, không như những loại phân hữu cơ khác phải được phân hủy trong đất trước khi cây hấp thụ. Hàm lượng N-P-K, Ca và các chất khoáng vi lượng trong phân trùn, cao gấp 2 – 3 lần phân trâu bò, phân ngựa; gấp 1,5 – 2 lần phân lợn và phân dê. Hơn nữa, phân trùn quế không có mùi hôi thối như các loại phân gia súc, gia cầm, lại có thể lưu giữ lâu ngày trong túi nilon mà không bị mốc, rất thuận lợi cho việc bảo quản và vận chuyển.
Phân trùn quế làm giảm hàm lượng Acid Carbon trong đất và gia tăng nồng độ Nitơ ở trạng thái cây trồng có thể hấp thu được. Chất Acid Humic ở trong phân trùn quế có thể giúp cây trồng dễ dàng hấp thụ nhiều hơn bất kỳ chất dinh dưỡng nào khác. Chất IAA (Indol Acetic Acid) có trong phân giun là một trong những chất kích thích hữu hiệu, giúp cây trồng tăng trưởng tốt.
Phân trùn có thể giúp chống sự xói mòn và tăng khả năng giữ nước trong đất. Cây trồng khi bón trùn quế sẽ không bị “cháy”, khống chế được các kim loại nặng xâm nhập cây gây đột biến làm phát sinh tế bào lạ có hại, gây hoại tử rễ…Chất mùn trong trùn quế loại trừ được những độc tố, nấm và vi khuẩn có hại trong đất, có thể ngăn ngừa các bệnh về rễ và đẩy lùi nhiều bệnh của cây trồng.
Phân trùn quế còn có tác dụng điều hòa môi trường đất rất tốt, giúp cây phát triển ngay cả khi nồng độ pH trong đất quá cao hoặc thấp. Việc nuôi trùn Quế lấy phân, chính là việc áp dụng công nghệ xử lý rác thải hữu cơ bằng con trùn Quế (công nghệ VERMICOMPOST ), một trong những công nghệ rẻ tiền nhất.
Hiện tại phân trùn Quế thường được sử dụng cho mục đích như: Kích thích sự nẩy mầm và phát triển của cây trồng; Điều hòa dinh dưỡng và cải tạo đất, làm cho đất luôn màu mỡ và tơi xốp; Dùng làm phân bón lót cho cây và rau quả, tạo ra sản phẩm có chất lượng và năng suất cao; Dùng làm phân bón lá hảo hạng và có khả năng kiểm soát sâu bọ hại cây trồng. Vì vậy, phân trùn là loại phân sạch thiên nhiên quí giá để bón cho hoa, cây cảnh, rau quả trong nông nghiệp sạch, được thị trường rất ưa chuộng.
Nguồn: sưu tầm
Th112
Phân trùn quế không dùng để bón
Trước đây tôi cũng như mọi người, vẫn lầm tưởng phân trùn quế cũng chỉ là phân bón để bón cho cây trồng giống như bao nhiêu loại phân bón hữu cơ vi sinh khác, mỗi cây phải bón từ 5-10 kg cho mỗi lần bón, và sau 3 tháng sẽ bón mới lại để cung cấp cho cây trồng. Chúng ta cũng có thể làm được điều này, cây vẫn rất tươi tốt, nhưng khi tính toán lại hiệu quả kinh tế thì bà con lại thấy rằng: có tốn tiền quá không khi sử dụng phân trùn quế thay thế những loại phân bón khác?
Thật sự đúng như vậy. Vì để sản xuất ra một kg phân trùn quế không hề đơn giản, qua biết bao nhiêu công đoạn và thời gian dài mới cho ra những kg phân trùn quế chất lượng để sử dụng. Nên chỉ có thể nói rằng phân trùn quế là không thể rẻ như những loại phân hữu cơ khác khi chỉ thu gom từ trong chuồng rồi đem đi ủ hay phơi khô rồi bán. Phân trùn quế không như thế, phân trùn quế phải được trùn quế tiêu thụ từ phân động vật khác và tiêu thụ một cách thường xuyên và đều đặn trong vòng 4-6 tháng mới có thể thu hoạch, mặt khác để tạo ra phân trùn quế thì phải mất ít nhất là số lượng phân động vật khác gấp đôi như thế.
Nên phân trùn quế với giá rẻ là phân kém chất lượng, hoặc phân trùn quế chưa được sử dụng đúng với giá trị thật sự vốn có của nó. Chúng ta không thể sử dụng và đánh đồng phân trùn quế như những loại phân bón khác, vì như thế là lãng phí thật sự nguồn tài nguyên hạn hẹp và có giá trị cao này. Vậy câu hỏi là chúng ta phải sử dụng như thế nào?
Phân trùn quế có rất nhiều loại dinh dưỡng khác nhau trong nó, nhưng hàm lượng mỗi thành phần thì rất ít. Nên khi bón phân trùn quế để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng hiệu quả không cao khi giá của chúng cao hơn những loại phân bón khác. Nhưng mà khi biết được rằng phân trùn quế là một môi trường sinh khối để vi sinh vật phát triển tốt thì lại khác, chúng ta sẻ sử dụng phân trùn quế như một môi trường sống cho vi sinh vật, và liều lượng sử dụng khi đó không còn nhiều như lúc bón nữa, mà mỗi cây chỉ cần 1-2 kg phân trùn quế để rãi xung quanh vùng rễ để tạo môi trường tốt cho vi sinh vật.
Khi vi sinh vật có môi trường phát triển, chúng mới sinh sôi nảy nở và hoạt động tốt, khi đó những loại vi khuẩn cố định đạm sẻ làm cho đất tăng thêm hàm lượng đạm rất nhiều, những con vi sinh phân giải lân sẽ làm nhiệm vụ phân giải lân khó tiêu mà trước đó chúng ta đã bón nhưng cây chưa kịp sử dụng, những con vi sinh phân giải kali khó tan sẽ giúp cây có thêm kali mới để sử dụng và đặc biệt nhất là những vi khuẩn đối kháng sẽ phát triển mạnh và cạnh tranh dinh dưỡng mạnh mẽ với những con gây hại. Kết quả cuối cùng là vùng rễ xung quanh cây được tơi xốp với đầy dinh dưỡng dễ tiêu, không còn những tuyến trùng và vi khuẩn gây hại. Cây khỏe mạnh, lớn nhanh chắc hẳn sẽ cho năng suất cao.
Tuy nhiên để phát huy tốt nhất phân trùn quế ta cần phải thực hiện thêm 2 việc nữa là bổ sung thêm nấm đối kháng tricodecma để tăng khả năng đối kháng mầm bệnh cho cây trồng lên gấp bội, Phân trùn quế không có được chủng này nên chúng ta cần phải bổ sung thêm vào ngay khi bón. Và thứ 2 là sau mỗi 10-15 ngày cần bổ sung thêm chế phẩm sinh học hoặc dịch trùn quế, vì bản thân dịch trùn quế sẽ có những vi sinh vật có lợi mà phân trùn quế sở hữu. Vì sao phải bổ sung thêm như vậy? Bên ngoài môi trường vi sinh vật và vi khuẩn có lợi chịu nhiều ảnh hưởng bởi thời tiết và khí hậu, và những vi sinh vật cũng có vòng đời ngắn, nếu chúng không thể phát triển tốt trong môi trường xung quanh rễ trong thời gian dài chúng ta phải bổ sung thêm vào một cách thường xuyên và thời gian 10-15 ngày/lần là hợp lý.
Khi môi trường xung quanh vùng rễ tốt sẽ giúp cây dễ hấp thụ phân bón chúng ta cung cấp vào, thế nên chúng ta không cần phải bón nhiều như trước. Và việc giảm lượng phân bón xuống phải có thời gian, có thể giảm dần mỗi lần bón cho cây 10% và quan sát xem cây phát triển như thế nào, chúng ta không sợ cây thiếu phân, chỉ sợ cây thừa phân và chuyển hóa thành dạng khó tiêu tạo chất độc trong đất.
Với thông tin trên, phân trùn quế sẽ là môi trường tốt xung quanh vùng rễ để vi sinh vật phát triển để tạo môi trường tốt cho cây dễ hấp thụ, nên chúng ta phải kết hợp sử dụng phân trùn quế cùng các loại phân bón hiện đang sử dụng cho cây trồng, phân trùn quế chỉ giúp bà con giảm sử dụng những loại phân bón khác bằng cách giúp cây hấp thụ tốt hơn, phân trùn quế không thay thế phân bón khác bằng cách cung cấp dinh dưỡng cho cây, bà con cần hiểu rõ vấn đề để sử dụng tốt hơn nguồn tài nguyên quý giá mà chúng ta đang sở hữu.
Hãy nhớ phân trùn quế không dùng để bón mà dùng để tạo môi trường cho vi sinh vật phát triển, vi sinh vật phát triển tạo môi trường xung quanh vùng rễ tốt, môi trường xung quanh vùng rễ tốt sẽ giúp cho cây dễ hấp thụ dinh dưỡng, cây dễ hấp thụ dinh dưỡng sẽ cần ít phân bón hơn và khỏe mạnh hơn, cây khỏe mạnh sẽ kháng bệnh tốt và lớn nhanh, kết quả cuối cùng là năng suất mà bà con luôn mong đợi con số ưng ý nhất. Thông tin này có thể rất ít người có thể biết được, nếu ai đọc được thông tin này và ứng dụng thành công, tôi mong bà con hãy chia sẻ đến những bà con khác để ứng dụng tốt trong mô hình cánh tác của mình hiệu quả hơn nữa. Chúc bà con sử dụng tốt hơn sản phẩm phân trùn quế
Nguồn: trùn quế củ chi
Th110
Phân bón lá sinh học thế hệ mới từ trùn quế
Phân bón lá sinh học thế hệ mới là phân bón có chứa các acid amin cung cấp cho cây trồng. Phân bón lá từ trùn quế có chứa Amino Acids & Peptids (A xít amin tự do & chuỗi A xít amin) là phân bón sinh học cao cấp nhất được biết tới vì hiệu lực cao đối với cây trồng và những ưu việt của nó đối với nền nông nghiệp hiện đại trên thế giới.
Trong bối cảnh các nước trên thế giới yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nông sản thì phân bón lá từ trùn quế có thành phần Amino Acids & Peptids là sự lựa chọn khôn ngoan của các nhà vườn để vừa có năng suất cao, chất lượng tốt, nông sản dễ xuất khẩu, an toàn cho môi trường, là sản phẩm tất yếu để sử dụng trong sản xuất nông nghiệp theo quy trình GAP và đạt lợi nhuận cao. Hiệu quả cao của phân bón lá từ trùn quế có thành phần Amino Acids & Peptids thể hiện ở các tác dụng sau:
1/ Thúc đẩy quá trình sinh tổng hợp trao đổi chất
Các Amino Acid là hợp phần cấu tạo nên protein và enzim (men sinh học). Chúng là yếu tố cơ bản của tất cả các cơ thể sống và có vai trò quan trọng trong hoạt động trao đổi chất của tế bào. Cây trồng có khả năng tổng hợp Amino Acid từ sự đồng hóa đạm, nhưng quá trình này bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố môi trường và sức khỏe của cây. Đạm hữu cơ từ glutamate và glutamin thường được dùng để sinh tổng hợp nên các Amino Acid.
Các Amino Acid đơn kết hợp lại với nhau sẽ tạo thành các liên kết Peptide nhờ các phản ứng ngưng tụ. Protein là các chuỗi polypeptide được tạo thành từ trên 100 Amino Acid đơn và trọng lượng phân tử của chúng thường lớn hơn 10.000 Dalton. Quá trình tổng hợp Amino Acid và Peptide rồi hình thành nên Protein và enzim trong cây thể hiện qua sơ đồ sau:
NO3– Amino acids Proteins, Enzymes Photo-
NH4+ —–> Peptides —–> —–> synthesis
Bón trực tiếp Amino Acid và Peptide cho cây sẽ giúp giảm được công đoạn tổng hợp Amino Acid từ đạm cây hút và giúp cây trồng tăng trưởng một cách mạnh mẽ, tạo năng suất cao và chất lượng tốt. Hiệu quả và lợi ích của Amino Acids & Peptids là khắc phục sự khủng hoảng sinh lý của cây trồng hoặc ảnh hưởng bất lợi của môi trường (hạn, nhiệt độ cao, quá nắng, sốc khi cây chuyển giai đoạn sinh trưởng…) đã được chứng minh qua nhiều kết quả nghiên cứu.
Từ các kết quả nghiên cứu này, Amino Acid & Peptids đã trở thành các sản phẩm dùng phổ biến như là phân bón sinh học ở nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới. Cùng với vai trò là hợp phần của protein và quá trình sinh tổng hợp trong cây, các Amino Acid & Peptide còn thực thi nhiều vai trò khác và đem lại rất nhiều ích lợi cho cây trồng.
2/ Đối với sức khỏe của cây trồng
Nhiều năm nay các Amino Acid & Peptide đã được biết đến có thể làm giảm rõ ràng tác hại của sâu bệnh hại trên cây trồng. Bao quanh các mạch tạo thành của một số Amino Acid có chứa lưu huỳnh. Đây là yếu tố góp phần làm tăng sức đề kháng sâu bệnh ở cây trồng. Nhiều báo cáo chỉ rõ hiệu quả của các Amino Acid & Peptide đối với bệnh sưng vàng rễ khoai tây do tuyến trùng gây ra (Kovacs). Bón phân Amino Acid & Peptide qua lá có tác dụng giảm có ý nghĩa ấu trùng và trứng tuyến trùng so với đối chứng. Jacob cũng đã ghi nhận sự giảm có nghĩa tình trạng sần hư trái do vi rút (plum pox virus) gây ra sau khi phun vài lần Amino Acid & Peptide. Các Amino Acid & Peptide cũng làm giảm rụng trái ở các cây ăn trái dạng quả hạch nhờ ảnh hưởng của chúng như là các hormon dinh dưỡng trong cây.
3/ Đối với sự ra hoa và đậu trái
Các kết quả nghiên cứu ở Ý trên cây oliu cho thấy Amino Acid & Peptide nâng cao khả năng thụ phấn và kéo dài thời gian sống của hạt phấn. Các công thức sử dụng chế phẩm kết hợp Amino Acid & Peptide với vi lượng Bo đã tăng cao hiệu quả của sự thụ phấn. Sự thụ phấn là cơ sở quan trọng của tiến trình đậu trái, vì thế sử dụng phân bón lá từ trùn quế giúp làm tăng tỷ lệ đậu trái, đặc biệt đối với các cây tự thụ phấn như cà phê, tiêu ……
4/ Tăng tính hữu hiệu sinh học của nguyên tố vi lượng
Các Amino Acid & Peptide có khả năng liên kết với các kim loại như mangan, sắt và kẽm tốt giống như với canxi và magiê. Các nguyên tố trung vi lượng này hiện diện tự nhiên trong nước dùng để phun hoặc được bổ sung ngay trong phân bón. Các dạng phức Amino Acid – Kim loại được hấp thụ bởi cây trồng một cách nhanh chóng và hiệu quả cao. Nó cũng gia tăng hiệu quả trong việc vận chuyển qua một “Chặng đường” dài từ rễ, lá đến các bộ phận khác trong cây.
5/ Làm tăng hiệu quả của thuốc bảo vệ thực vật
Sự kết hợp Amino Acid & Peptide với thuốc bảo vệ thực vật sẽ làm gia tăng hiệu quả của sản phẩm so với dùng riêng rẽ. Theo Leandri và đồng sự 1986, Amino Acid & Peptide làm tăng hiệu quả của thuốc trị nấm Viclozonlin (Ronilan) trị bệnh Botrytis(thối trái) trên cây nho và dây tây. Amino acids & Peptides làm tăng hiệu lực thuốc bảo vệ thực vật như thế nào? Khả năng bám dính đặc biệt của Amino acids & Peptides giúp giữ được thuốc trên bề mặt lá tốt hơn ngay cả trong điều kiện gặp mưa. Hoàn thiện tính chất thấm và cân bằng pH của dịch phun là những bổ sung giúp gia tăng hiệu quả của thuốc so với không có Amino acids & Peptides.
Với việc sở hữu các acid amin, phân bón lá sinh học từ trùn quế là một trong những phân bón sinh học thế hệ mới giúp cho nền nông nghiệp nước ta theo kịp các nền nông nghiệp hiện đại của thế giới để bắt đầu canh tác sạch, canh tác bền vững.
nguồn: trùn quế củ chi
Th1027