Trung Quốc sử dụng công nghệ cải tiến nhân giống sinh học, giống cây trồng
Nguồn tin: báo nông nghiệp
Trung Quốc đẩy mạnh ngành công nghiệp nhân giống sinh học thông qua các phương pháp khoa học công nghệ vào các sản phẩm nông nghiệp, mang lại ổn định cho nước này.
Trung Quốc đẩy mạnh ngành công nghiệp nhân giống sinh học thông qua các phương pháp khoa học và công nghệ, đóng góp to lớn vào nguồn cung ngũ cốc và các sản phẩm nông nghiệp quan trọng khác, mang lại ổn định cho đất nước.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc kiên quyết thúc đẩy quá trình hồi sinh ngành hạt giống và đạt được một số bước đột phá.
Theo số liệu thống kê mới nhất của Bộ Nông nghiệp và Nông thôn cùng Viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, quốc gia này đã độc lập nhân giống ba giống gà thịt lông trắng mới, qua đó chấm dứt sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Thị phần của những giống mới này đạt 25,1% vào năm 2023 và chúng được xuất khẩu ra nước ngoài lần đầu tiên vào năm ngoái.
Trung Quốc năm ngoái cũng đã trồng thành công giống cải dầu mới với thời gian sinh trưởng chỉ 169 ngày. Chu kỳ tăng trưởng ngắn này cho phép nông dân tận dụng triệt để các cánh đồng bỏ hoang mùa đông ở miền Nam Trung Quốc bằng cách trồng cải dầu mà không làm trì hoãn việc trồng lúa đầu vụ vào năm sau.
Ngoài ra, Trung Quốc đã thiết lập một hệ thống nghiên cứu và phát triển nhân giống sinh học độc lập, hoàn chỉnh, đồng thời bảo đảm quyền sở hữu công nghệ độc lập và các công nghệ cốt lõi liên quan đến các gen và đặc tính di truyền quan trọng, như khả năng kháng côn trùng, khả năng chịu thuốc diệt cỏ, khả năng chịu hạn, chịu mặn và chất lượng hấp thụ dinh dưỡng được cải thiện.
Theo Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc, gần đây, 37 giống ngô biến đổi gen và 14 giống đậu nành biến đổi gen của nước này đã vượt qua kiểm tra sơ bộ. Đây là bước đi tiên phong trong công nghiệp hóa chăn nuôi sinh học.
Những cây trồng biến đổi gen này cho thấy cả đặc tính kháng thuốc diệt cỏ và kháng côn trùng vượt trội. Ngoài ra, sản lượng của chúng cũng tăng 10%, chứng tỏ tiềm năng phát triển lớn.
Là “con chip” của nông nghiệp, hạt giống có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển của ngành. Đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ chuyển gen là lựa chọn tất yếu để tăng khả năng cạnh tranh quốc tế trong tương lai và tối ưu hóa phân công công nghiệp, đồng thời cũng là giải pháp then chốt để đảm bảo an ninh lương thực đất nước và thúc đẩy sự phát triển bền vững của khoa học và công nghệ trong nông nghiệp.
Ông Li Jiayang, một học giả của Viện Khoa học Trung Quốc cho biết: “Mục tiêu cốt lõi trong tương lai là tăng sản lượng và cải thiện chất lượng hạt giống, giảm sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu cũng như giảm tổn thất do thiên tai gây ra”.
Theo số liệu thống kê chính thức, tỷ lệ đóng góp của các giống cải tiến vào việc tăng năng suất ngũ cốc hiện vượt quá 45%. Đây được coi là lĩnh vực trọng tâm cốt lõi để phát triển ngành hạt giống, đổi mới khoa học công nghệ, giúp nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong nông nghiệp Trung Quốc, qua đó thu hẹp khoảng cách về năng lực sản xuất giữa Trung Quốc và một số nước hàng đầu thế giới.
Th318
Sầu riêng và những tín hiệu ‘tăng’ từ thị trường
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
Sầu riêng Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội khi nhu cầu đối với loại quả này lớn, không chỉ thị trường Trung Quốc mà nhiều nơi khác.
Vẫn còn tình trạng tranh mua, tranh bán
Trong những năm gần đây, sầu riêng tiêu thụ thuận lợi, giá luôn ở mức cao, người trồng có lãi lớn, quy mô sản xuất sầu riêng tăng nhanh, nhất là tại các vùng tập trung Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và đặc biệt là vùng Tây Nguyên với phương thức trồng xen sầu riêng trong vườn cà phê.
Theo Bộ NN-PTNT, từ năm 2016 đến 2022, tổng diện tích sầu riêng cả nước tăng từ 32.000ha lên hơn 112.200ha; năng suất bình quân sầu riêng có xu hướng tăng nhẹ trong khoảng 14,7 – 15,7 tấn/ha; đặc biệt sản lượng sầu riêng tăng cao, từ 366.000 tấn lên hơn 863.000 tấn (tăng 11,7%/năm).
Năm 2023, diện tích sầu riêng cả nước đạt khoảng 131.000ha, tăng 20% so với năm 2022, sản lượng đạt khoảng gần 1,2 triệu tấn, tăng 3,5% so với năm 2022.
Hiện cả nước có 34 tỉnh thành trồng sầu riêng. Trong đó, tập trung tại 4 vùng: Tây Nguyên (chiếm 47% diện tích cả nước), ĐBSCL (30%), Đông Nam bộ (19%), duyên hải Nam Trung bộ (4,2%). 4 tỉnh có diện tích trên 10.000ha và sản lượng trên 50.000tấn/năm gồm Đắk Lắk, Lâm Đồng, Tiền Giang, Đồng Nai.
Hai giống chủ lực gồm Ri6 và Dona. Trong đó, giống Ri6 phổ biến tại các tỉnh vùng ĐBSCL, giống Dona sử dụng nhiều hơn tại vùng Tây Nguyên (chiếm 60 – 70% trong cơ cấu diện tích).
Việt Nam có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi trồng sầu riêng. Thời vụ thu hoạch sầu riêng quanh năm, giúp sầu riêng Việt Nam cạnh tranh hơn so với Thái Lan (thu hoạch từ tháng 5 đến tháng 8). Sầu riêng chính vụ tại vùng ĐBSCL thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 8; vùng Tây Nguyên thu hoạch từ tháng 7 đến tháng 10; vùng Đông Nam bộ từ tháng 4 đến tháng 7 và vụ nghịch vụ tại ĐBSCL từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
Theo số liệu Bộ Công thương, giá sầu riêng có sự biến động lớn theo nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu thuận lợi. Đối với sầu riêng chính vụ từ tháng 4 – 9, giá cả có sự biến động không lớn. Tuy nhiên, vào các tháng nghịch vụ từ tháng 1 – 3 thì giá sầu riêng có sự biến động mạnh.
Từ tháng 11/2023 đến tháng 2/2024, giá sầu riêng tăng cao vì chỉ có sầu riêng các tỉnh ĐBSCL. Sầu riêng Ri6 từ 120.000 – 150.000 đồng/kg; sầu riêng Dona từ 140.000 – 190.000 đồng/kg. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Ông Vũ Đức Côn, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đắk Lắk, Chủ tịch Hiệp hội Sầu riêng Đắk Lắk cho rằng, thời gian qua, Bộ NN-PTNT, các cơ quan Trung ương, địa phương đã tập trung chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển ngành hàng sầu riêng. Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp, bà con nông dân có trách nhiệm trong việc xây dựng quy trình kỹ thuật, nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, uy tín sầu riêng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Qua đó, giá sầu riêng trên thị trường năm qua tăng cao, giúp nông dân, doanh nghiệp tăng thu nhập, ổn định sản xuất.
Tuy nhiên, ông Côn nhìn nhận, ngành hàng sầu riêng vẫn đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Đơn cử như, vùng sản xuất sầu riêng còn nhỏ lẻ, chưa có vùng nguyên liệu rộng lớn, trình độ kỹ thuật của nông dân còn thiếu và yếu cả về tư duy sản xuất hàng hóa chuyên nghiệp theo quy định của nước nhập khẩu. Việc liên kết giữa đại diện vùng trồng, các đơn vị xuất khẩu với người dân chưa thực sự công khai, minh bạch, rõ ràng, chưa bền vững.
“Nhiều cơ sở sau khi được cấp mã số vùng trồng, đóng gói thiếu sự duy trì chất lượng, chưa tuân thủ đầy đủ các quy định kiểm dịch thực vật của nước nhập khẩu, chưa thực hiện đầy đủ các biện pháp kỹ thuật làm sạch sinh vật gây hại trên hàng hóa trước khi xuất khẩu…
“Tình trạng gian dối, đánh cắp mã số vùng trồng; tranh mua, tranh bán; tình trạng chốt giá sớm, nông dân sẵn sàng bẻ cọc hợp đồng… dẫn đến khó phát triển ngành hàng bền vững”, ông Côn nêu.
Ngoài ra, hiện nay, chưa có Nghị định hoặc Thông tư hướng dẫn cụ thể về công tác cấp và quản lý mã số vùng trồng; chưa có chế tài xử lý các hành vi vi phạm… Công tác ứng dụng thông tin chưa được thông suốt quá trình từ sản xuất, đến thu hoạch, sơ chế, đóng gói và xuất khẩu.
Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đắk Lắk cho biết, trong thời gian tới, địa phương sẽ hoàn thiện Đề án phát triển ngành hàng sầu riêng, bơ giai đoạn 2025 tầm nhìn 2030 trình UBND tỉnh phê duyệt và tổ chức triển khai. Trong đó, ưu tiên phát triển thành vùng chuyên canh để thuận lợi cho áp dụng cơ giới hóa và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, phổ biến các thông tin về quy hoạch trồng sầu riêng thông qua các kênh truyền thông cho nông dân cập nhật.
Sản lượng tăng ít nhất 20%
Dù mới tham gia vào thị trường xuất khẩu chính ngạch, nhưng sầu riêng Việt Nam đã lập kỷ lục tăng trưởng đột phá, trở thành “vua trái cây” của Việt Nam, với giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,2 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu chính là Trung Quốc, Nhật, Úc… chủ yếu là quả tươi và cấp đông.
Đặc biệt, lợi thế gần thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới – Trung Quốc giúp chi phí logistic giảm. Bên cạnh đó, tác động của khủng hoảng Biển Đỏ làm cho hàng hóa các nước đi vào thị trường Trung Quốc gặp nhiều khó khăn về thời gian, vận chuyển, chi phí. Việt Nam đã ký kết 17 Hiệp định thương mại tự do, với nhiều ưu đãi về thuế suất. Đây là lợi thế cạnh tranh cho sầu riêng nói riêng và rau quả Việt Nam nói chung khi xuất sang thị trường Trung Quốc.
Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan, năm 2023, Trung Quốc chi trên 6,7 tỷ USD (trên 1,4 tấn) để nhập sầu riêng. Trong đó, sầu riêng Thái Lan khoảng 928.000 tấn (trên 4,5 tỷ USD); Việt Nam gần 494.000 tấn (trên 2,1 tỷ USD); Philippines trên 3.700 tấn (13,2 triệu USD).
“Phía Trung Quốc đã cấp hơn 700 mã số vùng trồng sầu riêng của Việt Nam (năm 2023 hơn 400 mã). Và hiện Bộ NN-PTNT cũng đang tiếp tục đàm phán với phía bạn về cấp mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói sầu riêng, cũng như việc cho phép xuất khẩu chính ngạch sầu riêng cấp đông. Dự báo, năm nay sản lượng sầu riêng tăng hơn năm ngoái ít nhất khoảng 20%. Sầu riêng Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng cao, nhất là tại thị trường Trung Quốc và ASEAN”, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp Hội Rau quả Việt Nam nhận định.
Theo dự báo của nhiều chuyên gia, sẽ có thêm nhiều cơ hội cho nông sản Việt Nam nói chung, sầu riêng nói riêng. Năm 2024 và những năm tiếp, dự báo xuất khẩu sầu riêng tiếp tục có những thuận lợi. Thị trường truyền thống Trung Quốc tiếp tục có xu hướng tăng về nhu cầu nhập khẩu sầu riêng. Ngoài ra, nhiều thị trường khác đã và đang quan tâm nhập khẩu sầu riêng Việt Nam, trong đó có Thái Lan..
Hiện Bộ NN-PTNT đang đàm phán với Ấn Độ để xuất khẩu sầu riêng chính ngạch và đang đàm phán xuất sầu riêng cấp đông vào Trung Quốc, như vậy, dư địa xuất khẩu sầu riêng là rất lớn. Tuy nhiên, để chiếm lĩnh thị trường thì chất lượng vẫn là yếu tố quyết định.
Đồng Nai là tỉnh đứng thứ 4 trong cả nước về diện tích trồng sầu riêng với gần 11.350ha. Cây sầu riêng đã giúp nhiều nông dân ở Đồng Nai thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Năm 2024, tỉnh Đồng Nai tiếp tục mở rộng mã số vùng trồng, nâng cao chất lượng của các mã số vùng trồng được cấp, áp dụng công nghệ canh tác, đảm bảo truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Để chuỗi ngành hàng sầu riêng phát triển bền vững trong thời gian tới, tỉnh đẩy mạnh khuyến khích nông dân, HTX, doanh nghiệp thực hiện theo đúng, đủ theo các quy chuẩn của thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cũng như thu hút đầu tư vào chế biến sâu, nhằm nâng cao chất lượng sầu riêng của Đồng Nai nói riêng và Việt Nam nói chung.
Th1117
Nâng chất lượng, hạ giá thành để ‘cứu’ ngành cá tra
Nguồn tin: Kinh tế Sài Gòn online
(KTSG Online) – Tuy có mức tăng trưởng xuất khẩu dương trong những tháng gần đây, nhưng cá tra vẫn đối diện với rất nhiều khó khăn. Do đó, để giúp ngành hàng này vượt qua khó khăn, hai vấn đề quan trọng cần giải quyết, đó là kiểm soát chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản xuất để gia tăng sức cạnh tranh…
Nâng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất để tăng sức cạnh tranh cho ngành cá tra. Ảnh: Trung Chánh
Thương lái Trung Quốc thuê nhà máy gia công, mượn “code” xuất khẩu!
Để quản lý chất lượng sản phẩm cá tra xuất khẩu, ngày 21-3-2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành thông tư số 07/2017/TT-BNNPTNT về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia “sản phẩm thuỷ sản- cá tra phi lê đông lạnh” (thông tư có hiệu lực từ ngày 5-5-2017- PV).
Theo đó, thông tư nêu trên quy định, tỷ lệ mạ băng đối với cá tra phi lê xuất khẩu không được lớn hơn 20% khối lượng tổng của sản phẩm và hàm ẩm (hàm lượng nước) không được lớn hơn 86% khối lượng tịnh của sản phẩm. Hai chỉ tiêu này được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định nhằm bảo vệ chất lượng sản phẩm cá tra phi lê xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, có không ít thương lái Trung Quốc vào Việt Nam “núp bóng” phía sau người Việt để thành lập công ty TNHH, sau đó, thuê nhà máy sản xuất gia công và thuê cả HS code để xuất khẩu tiểu ngạch vào quốc gia này. HS code (Harmonized Commodity Description and Coding System) hay còn gọi là mã HS là mã số của hàng hóa xuất, nhập khẩu theo hệ thống phân loại hàng hóa có tên là “hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa” để xuất khẩu.
Trao đổi với KTSG Online, ông Ong Hàng Văn, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần thuỷ sản Trường Giang cho biết, các nhà máy sản xuất thuỷ sản ngưng hoạt động hoặc làm ăn không hiệu quả đã chuyển hướng sang “sản xuất gia công” cho thương lái Trung Quốc. “Họ (thương lái Trung Quốc) vào lập công ty TNHH rồi thuê nhà máy để sản xuất gia công”, ông Văn nói và thông tin, doanh nghiệp sản xuất gia công sẽ được thương lái Trung Quốc trả 7.000-8.000 đồng/kg, trong khi đơn vị cho thuê “code” xuất khẩu được trả 5 triệu đồng/container.
Theo dẫn chứng của ông Văn, có một doanh nghiệp đã bán nhà máy cho Công ty cổ phần thuỷ sản Trường Giang, tức không còn sản xuất nữa, trong khi họ có “code” nên đã cho thuê để xuất khẩu.
Xét về mặt pháp lý, thương lái Trung Quốc có đủ các loại giấy tờ liên quan để xuất khẩu, tuy nhiên, theo ông Văn, việc này đang gây ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Bởi lẽ, thương lái Trung Quốc sản xuất sản phẩm chất lượng thấp để có giá cạnh tranh. “Họ bán tiểu ngạch qua biên giới nên giá nào cũng bán”, ông Văn nói và cho rằng, thương lái Trung Quốc bán rẻ đến mức các doanh nghiệp nhập khẩu chính ngạch của quốc gia này cũng… “chết”!.
Ông Trần Văn Hùng, người sáng lập Công ty TNHH Hùng Cá cho biết, tình trạng nâng tỷ lệ mạ băng và hàm ẩm trong sản phẩm cá tra đang bị một bộ phận lạm dụng để có giá rẻ. “Nhưng, việc này liệu có giúp chúng ta tồn tại hay không?”, ông đặt câu hỏi và lo lắng nói: “Mấy anh hạ giá để bán, rồi thêm phụ gia làm miếng cá “nhão nhẹt” như kem chuối, thì làm sao giữ được uy tín?”
Chính vì vậy, ông Hùng đề nghị, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội cá tra Việt Nam (VINAPA) cùng các đơn vị liên quan phải vào cuộc kiểm tra để bảo vệ chất lượng sản phẩm và uy tín của ngành cá tra Việt Nam.
Ông Phan Hoàng Duy, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thuỷ sản Cần Thơ (Caseamex) đồng quan điểm khi gợi ý, cần nhìn nhận lại về chất lượng sản phẩm. “Sản phẩm phục vụ người tiêu dùng, nhưng chế biến nước ra nhóc hết, thì làm sao họ dám ăn tiếp lần sau?”, ông nói.
Từ vấn đề nêu trên, ông Văn của Trường Giang đề nghị, cơ quan quản lý nhà nước phải kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng sản phẩm. “Đơn vị nào một năm không hoạt động nữa thì nên dẹp, thu hồi code, phải tổng kiểm tra lại hết”, ông đề nghị.
“Kéo” giá thành sản xuất xuống
Bên cạnh củng cố chất lượng sản phẩm, vấn đề quan trọng cần thực hiện để gia tăng sức cạnh tranh cho xuất khẩu cá tra Việt Nam là phải kéo giảm giá thành sản xuất.
Ông Duy của Caseamex, cho biết cá tra Việt Nam đã xuất khẩu đi khoảng 150 thị trường trên thế giới, trong đó, kết quả khả sát sơ bộ của đơn vị này cho thấy, người tiêu dùng mua cá tra Việt Nam do đây sản phẩm cá thịt trắng có giá cạnh tranh.
Tuy nhiên, sức cạnh tranh của sản phẩm cá tra Việt Nam đang ngày càng giảm khi các loại sản phẩm cùng phân khúc có giá sản xuất ngày càng thấp hơn.
Ông Nguyễn Văn Kịch, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần thuỷ sản Cafatex dẫn chứng, trước đây giá thành sản xuất cá tra Việt Nam thấp hơn cá minh thái Alaska, nhưng bây giờ cao hơn. “Trước đây, giá thành sản xuất cá tra chỉ 1 đô la Mỹ/kg, nhưng bây giờ đã là 1,2-1,3 đô la Mỹ/kg, cao hơn cá Alaska Pollock (cá minh thái Alaska- PV)”, ông Kịch nói và cho rằng, chi phí thức ăn, thuốc, xăng, dầu, điện, nước tăng khiến giá thành sản xuất tăng.
Ông Văn của Trường Giang thì dẫn chứng, trước dịch Covid-19 thức ăn cá tra có giá chỉ 10.000 đồng/kg, nhưng sau dịch đã “vọt” lên mức giá 13.000 đồng/kg. “Hiện có giảm trở lại, nhưng cũng hơn 12.000 đồng/kg”, ông cho biết và nói rằng, từ chỗ thức ăn chiếm 55-60% giá thành sản xuất cá tra, thì nay đã “nhảy” lên 70-80%.
Theo ông Văn, tình hình dịch bệnh gia tăng cũng khiến nhu cầu sử dụng thuốc phòng trị bệnh tăng theo, từ 200 đồng/kg đã tăng lên 300-500 đồng/kg, thậm chí lên 800 đồng/kg đối với nhưng ao nuôi bị dịch bệnh nhiều.
Cũng theo ông Văn, cá tra nhiễm ký sinh trùng khiến cuống mật bị chai cứng, dẫn đến cá không thể tiết mật để tiêu hoá, khiến thức ăn bị tiêu hao nhiều hơn. “Bình thường hệ số thức ăn chỉ 1,55-1,6 thì hiện nay tăng lên 1,7-1,8 (tức để nuôi 1 kg cá tra nguyên liệu phải tiêu tốn đến 1,7-1,8 kg thức ăn- PV)”, ông dẫn chứng.
Chính vì vậy, theo ông, con đường để ngành cá tra tồn tại là phải hạ giá thành sản xuất. “Muốn vậy, phải giảm tỷ lệ hao hụt, tăng trưởng nhanh, giảm dịch bệnh, hệ số thức ăn thấp”, ông cho biết.
Để kéo giảm giá thành sản xuất cá tra, ông Dương Nghĩa Quốc, Chủ tịch VINAPA kiến nghị, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nên có ý kiến để Bộ Tài Chính giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi từ 2% như hiện nay xuống còn 0%.
Trong khi đó, bà Phạm Thị Thu Hồng, Phó tổng thư ký VINAPA, cho rằng cách đây tư 10 năm, đã có công trình nghiên cứu và ứng dụng thành công phương pháp cho ăn gián đoạn để hạ giá thành sản xuất cá tra. “Công trình này đã công bố và được ứng dụng từ cách đây 10 năm, cho nên, các doanh nghiệp, cơ sở nuôi nên áp dụng phương pháp này để hạ giá thành sản phẩm”, bà gợi ý.
Theo đó, phương pháp cho ăn gián đoạn được áp dụng theo cách thức một tuần nghỉ 2 ngày, tuy nhiên, kết quả đã được chứng minh qua thực tế là cá nuôi vẫn có tốc độ tăng trưởng đảm bảo như so với cho ăn liên tục. “Quan trọng nhất, hệ số tiêu hao thức ăn của phương pháp cho ăn gián đoạn giảm xuống còn 1,3-1,45”, bà Hồng cho biết và nói rằng, đơn vị này sẵn sàng hướng dẫn doanh nghiệp, cơ sở nuôi áp dụng để giúp giảm chi phí sản xuất cho ngành cá tra.
Trung Chánh
Th914
Mở cơ hội kết nối kinh doanh, đầu tư doanh nghiệp Trung Quốc và doanh nghiệp ĐBSCL
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Bài, ảnh: MỸ THANH
Tại chương trình giao lưu – kết nối kinh doanh doanh nghiệp (DN) Trung Quốc – DN ĐBSCL mới đây, các chuyên gia, DN đến từ Trung Quốc khẳng định với nền văn hóa, ẩm thực tương đồng, nông sản ĐBSCL có rất nhiều cơ hội để thâm nhập vào thị trường tỉ dân này. Về phía DN ĐBSCL cũng bày tỏ mong muốn được phía Trung Quốc hỗ trợ các lĩnh vực có thế mạnh như vốn, công nghệ, phát triển hạ tầng logistics…
Sầu riêng là một trong những mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu lớn sang Trung Quốc trong 8 tháng năm 2023. Trong ảnh: Thu hoạch sầu riêng tại tỉnh Bến Tre.
Th321
Cần Thơ xuất khẩu lô sầu riêng chính ngạch đầu tiên sang Trung Quốc
Nguồn tin: Báo Sài Gòn Giải Phóng
Ngày 17-3, tại TP Cần Thơ, Sở NN-PTNT TP Cần Thơ tổ chức lễ xuất khẩu chuyến hàng sầu riêng đầu tiên theo Nghị định thư ký kết giữa Bộ NN-PTNT Việt Nam với Tổng cục Hải quan Trung Quốc.
Xuất khẩu chuyến hàng sầu riêng đầu tiên theo Nghị định thư sang Trung Quốc
Lô sầu riêng xuất khẩu 18 tấn, được trồng tại Cần Thơ. Doanh nghiệp chịu trách nhiệm xuất khẩu là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Ngọc Minh Lạng Sơn. Đơn vị nhập khẩu là Công ty TNHH Logistic Pan Asia Thẩm Quyến (Trung Quốc).
Ông Trần Thiện Thanh, Phó Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Sầu riêng Trường Phát (thuộc phường Trường Lạc, quận Ô Môn, TP Cần Thơ), cho biết: HTX có diện tích 20ha, với 20 hộ tham gia, tuổi cây trung bình từ 5 đến 15 năm, giống sầu riêng Ri 6, ngoài ra còn trồng mới thêm khoảng 10ha. Hiện HTX đạt tiêu chuẩn xuất khẩu và được cấp 2 mã vùng trồng xuất sang thị trường Trung Quốc. HTX Trường Phát cũng đã thỏa thuận và ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm lâu dài với giá từ bằng đến cao hơn giá thị trường.
Ngành NN-PTNT TP Cần Thơ cho biết, thành phố hiện có gần 26.000ha đất trồng cây ăn quả. Trong đó, sầu riêng là một trong những sản phẩm có giá trị kinh tế cao, lợi nhuận hàng năm đạt hàng trăm triệu đồng/ha. Thời gian qua, diện tích trồng sầu riêng tăng mạnh từ 537ha năm 2015 lên gần 3.000ha hiện nay, tập trung chủ yếu tại huyện Phong Điền, Thới Lai và quận Ô Môn.
Th203
Sau Tết, thanh long tiêu thụ tốt, giá bán ổn định
Nguồn tin: báo Nông Nghiệp
Những ngày đầu năm mới, thanh long ruột trắng tại Bình Thuận tiếp tục được thương lái đẩy mạnh thu mua, giá vẫn ở mức cao ổn định, nông dân phấn khởi.
Sau Tết Nguyên đán Quý Mão 2023 tại “thủ phủ” thanh long ở tỉnh Bình Thuận, thương lái tiếp tục đẩy mạnh thu mua thanh long để đáp ứng thị trường trong và ngoài nước.
Ông Nguyễn Tánh, một nông dân trồng thanh long có thâm niên ở thôn 5, xã Hàm Liêm (Hàm Thuận Bắc), cho biết, trước Tết giá thanh long ruột trắng thu mua xô tại vườn có thời điểm dao động từ 22 – 23 ngàn đồng/kg. Sau đó gần giáp Tết giá hạ xuống còn trung bình từ 17 – 18 ngàn đồng/kg.
Bước sang những ngày đầu năm mới, giá thanh long tại Bình Thuận tiếp tục giữ ổn định, dao động trung bình khoảng 20 ngàn đồng/kg, thậm chí nhiều nơi thu mua xô tại vườn ở mức cao từ 22 – 25 ngàn đồng/kg đối với hàng có tỷ lệ từ 80% trở lên.
Theo ông Tánh, nông dân trồng thanh long Bình Thuận không ngờ qua Tết giá thanh long vẫn giữ ở mức cao, ổn định như vậy. Bởi với giá này, nếu nông dân thu hoạch sẽ có mức thu nhập khá, vì chi phí đầu tư cho 1 kg thanh long khoảng 10 ngàn đồng/kg.
Như vườn thanh long 350 trụ của gia đình ông Trần Văn Bình, ở xã Hàm Minh (Hàm Thuận Nam), vừa mới thu hoạch hơn 3 tấn trái vào 30/1, tức mùng 9 tháng giêng. Ông Bình cho biết, nhờ tất bật chăm sóc nên vườn thanh long nhà ông cho trái rất chất lượng. Thương lái vào vườn ưng ý nên đã đặt hàng từ trước Tết. Với giá bán trung bình 23 ngàn đồng/kg, sau khi trừ chi phí ông lãi khoảng 50 triệu đồng, rất phấn khởi.
Theo khảo sát của chúng tôi, dù giá thanh long ở mức cao song hiện nông dân thu hoạch lứa thanh long sau Tết tại Bình Thuận cũng không nhiều. Bởi cùng thời điểm 2 năm trước do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19, giá thanh long giảm sâu, chỉ vài ngàn đồng/kg, thậm chí không ai mua dẫn đến nông dân thua lỗ nặng, ngán ngẩm. Hơn nữa nhiều vườn thanh long đã phá bỏ, không chăm sóc nên sản lượng giảm nhiều.
Như tại khu vực thôn 5, xã Hàm Liêm thời điểm này cũng chỉ vài vườn có trái chín cho thu hoạch. Hầu hết vườn thanh long nông dân mới chong đèn và ra trái non. Tại vườn thanh long 450 trụ của nhà Nguyễn Văn Hồng, thôn 1, xã Hàm Liêm cũng mới ra búp, trái non, dự kiến khoảng 1 tháng nữa mới thu hoạch.
“Gia đình tôi có gần 1.000 trụ thanh long chia ra 2 pha chong đèn ra trái nghịch để tránh dồn sản lượng cùng một lúc bán không được giá. Nhưng bất ngờ giá thanh long dịp Tết được thu mua ở mức cao. Vừa qua gia đình có 350 trụ đã cho thu hoạch 3,8 tấn, sau khi loại bỏ hàng dạt còn 3,5 tấn. Với giá bán bình quân khoảng 22 ngàn đồng/kg, doanh thu 80 triệu đồng, trừ chi phí gia đình “bỏ tủi” khoảng 65 triệu đồng, rất phấn khởi’, ông Hồng chia sẻ và cho biết thêm, do thấy giá thanh long trước và sau Tết được thu mua ở ổn định, ở mức cao nên hiện nhiều nông dân trên địa bàn đã chăm sóc vườn trở lại và tập trung chong đèn thanh long.
Về vấn đề này, ông Huỳnh Cảnh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thanh long Bình Thuận cũng xác nhận giá thanh long được thu mua ở mức cao đã kích thích nông dân tập trung trở lại chăm sóc thanh long và chong đèn để thu hoạch trái.
Đối với thanh long vào những ngày đầu năm mới được tiêu thụ tốt và giá vẫn giữ ở mức cao, bình quân khoảng 20 ngàn đồng/kg tại vườn, bởi việc xuất khẩu thanh long sang thị trường Trung Quốc hiện rất thuận lợi.
“Sỡ dĩ giá thanh long thu mua ổn định, bởi việc xuất khẩu thanh long sang thị trường Trung Quốc thuận lợi. Các cửa khẩu thông quan hàng hóa nhanh và các chợ bên phía Trung Quốc buôn bán bình thường, trái cây tiêu thụ ổn đinh như lúc chưa có dịch”, ông Cảnh cho hay.
Ngoài yếu tố trên, cũng theo ông Cảnh, hiện sản lượng thanh long xuất sang thị trường Trung Quốc cũng không nhiều. Tại Bình Thuận sản lượng thanh long tỉnh này thu hoạch trước và sau Tết ước giảm khoảng 50% so với trước đây. Và, dự kiến trong 10 ngày nữa, sản lượng thanh long chín thu hoạch cũng ít và giá tiếp tục giữ ổn định và khó xuống.
Theo Sở NN-PTNT Bình Thuận, đến cuối tháng 12/2022, diện tích thanh long trên địa bàn khoảng 26.977ha, giảm 5.283 ha so với năm 2021; sản lượng đạt hơn 600.000 tân, giảm hơn 80.000 tấn so với năm 2021. Để nâng cao chất lượng trái thanh long, đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước thời gian qua tỉnh tập trung đẩy mạnh sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn GAP. Nhờ vậy, đến tháng 12/2022 có khoảng 11.264ha thanh long đạt tiêu chuẩn VietGAP. Bên cạnh đó, toàn tỉnh cò có hơn 660ha thanh long đã được cấp giấy chứng nhận GlobalGAP, 3 doanh nghiệp sản xuất thanh long theo hướng hữu cơ gồm: Công ty TNHH Nông nghiệp công nghệ cao Bình Anh (3ha), Công ty TNHH Thanh long Hoàng Hậu (2ha) và Trang trại Kim Hải (1ha).
Th318