
Trồng rau má, cả phường khá lên
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
BÌNH ĐỊNH Hiện nay, trên địa bàn phường Tam Quan Nam (thị xã Hoài Nhơn, Bình Định) có đến 213 hộ nông dân ‘đổi đời’ nhờ chuyển đất lúa kém hiệu quả sang trồng rau má.
Rau má thế chân cây lúa kém hiệu quả
Cách đây khoảng 10 năm, một vài hộ dân ở khu phố Cửu Lợi Nam, phường Tam Quan Nam (thị xã Hoài Nhơn, Bình Định) tiên phong trồng rau má dưới tán dừa để kiếm thêm thu nhập. Đất dưới tán dừa mênh mông thật, nhưng cằn cỗi, thiếu dinh dưỡng, tán dừa khép kín, cây rau không có ánh sáng để quang hợp nên èo uột, không phát triển nổi.
Cánh đồng rau má ở phường Tam Quan Nam (thị xã Hoài Nhơn, Bình Định). Ảnh: V.Đ.T.
Thấy cây rau má là loại rau mang lại hiệu quả kinh tế, chính quyền địa phương đã vận động người dân đưa ra trồng tập trung theo hướng chuyên canh trên những diện tích đất lúa bị nhiễm phèn, cho năng suất kém. Những thửa ruộng thoáng đãng như “vùng đất hứa”, sống trên đất này cây rau má không còn vàng vọt, èo uột như khi sống dưới tán dừa mà xanh mướt từng lá. Đầu ra của rau má lại thênh thang nên những thửa ruộng bị nhiễm phèn trước đây không hiệu quả với cây lúa giờ lại mang tiền đến cho người dân.
Chẳng bao lâu sau, những diện tích trước đây canh tác lúa kém hiệu quả dọc các khối phố Cửu Lợi Nam, Cửu Lợi Đông, Tăng Long 1, Trung Hóa… đều được chuyển đổi, cây rau má thay cho cây lúa trải dài như tấm thảm nhung xanh mướt. Mùa nắng, trên những ruộng rau má điểm xuyết những chiếc dù đủ sắc màu, hay những tấm lưới râm che nắng cho những nông dân chăm sóc rau má.
Nông dân trồng rau má ở phường Tam Quan Nam kể: Những cánh đồng sản xuất lúa bị nhiễm phèn ở đây hầu hết bị bỏ hoang vì làm lúa chỉ thu hoạch rơm chứ lúa chẳng có là bao. Thấy những vùng trồng rau má nhỏ lẻ trong vườn nhà của bà con địa phương hàng ngày có nhiều thương lái đến tìm mua từng ký, nhưng không có rau má bán, thế là những nông dân có ruộng nhiễm phèn chuyển đổi những diện tích nói trên từ trồng lúa sang trồng rau má.
Đại lý thu mua rau má của chị Đào Thị Hương ở khu phố Cửu Lợi Nam, phường Tam Quan Nam (thị xã Hoài Nhơn, Bình Định). Ảnh: V.Đ.T.
“Khi ấy tôi mạnh dạn đầu tư trồng 3 sào rau má (500m2/sào), bình quân mỗi tháng thu hoạch khoảng 1 tấn, bán được 8 triệu đồng, trừ mọi chi phí còn lãi hơn 5 triệu đồng. Rau má dễ trồng, ít sâu bệnh, sau khi thu hoạch lứa đầu tôi tiếp tục tưới nước, bón phân, khoảng 20 – 25 ngày sau rau má lại cho thu hoạch, trồng rau má có thể thu hoạch quanh năm.
Bình quân cả năm, mỗi sào rau má cho thu nhập khoảng 20 triệu đồng. Tính ra hiệu quả kinh tế của cây rau má cao gấp 3 – 4 lần so với cây lúa, nhờ vậy vợ chồng tôi xây dựng được căn nhà khang trang, có tiền nuôi con ăn học”, ông Nguyễn Kim Dũng (sinh năm 1970) ở tổ Chùa Vàng, khu phố Cửu Lợi Nam, người có hơn 8 năm gắn bó với nghề trồng rau má chia sẻ.
Theo UBND phường Tam Quan Nam, riêng khu phố Cửu Lợi Nam có gần 50% hộ nông dân trồng rau má với diện tích 7,5ha, mỗi ngày, nông dân ở khu phố này thu hoạch, cung ứng ra thị trường trên 2 tấn rau má. Hiện nay rau má có giá bình quân từ 8.000 – 10.000đ/kg, ước tính mỗi ngày bà con ở đây thu khoảng 16 – 20 triệu đồng. Nông dân các phu phố Cửu Lợi Đông, Tăng Long 1, Trung Hóa… cũng tham gia trồng hơn 10ha rau má, hiện toàn phường có 213 hộ trồng rau má với diện tích khoảng 18ha.
Đổi phận nghèo nhờ rau má
“Mùa nắng là mùa thu tiền của những người trồng rau má. Càng nắng nóng nhu cầu giải nhiệt của người tiêu dùng càng cao, rau má có tác dụng tiêu nhiệt, dưỡng âm, giải độc… nên được tiêu thụ mạnh. Người tiêu dùng mua rau má để nấu canh, ăn sống hoặc làm nước sinh tố…
Mỗi buổi chiều, trên những ruộng rau má đầy ắp tiếng nói cười của nông dân tập trung từng nhóm làm cỏ, tưới nước, bón phân cho những ruộng rau. Đến khoảng 2 – 3 giờ sáng hôm sau, bà con lại tất bật ra đồng thu hoạch rau má mang về nhập cho các đại lý”, ông Nguyễn Kim Dũng phấn khởi cho biết.
Vợ chồng ông Nguyễn Kim Dũng ở tổ Chùa Vàng, khu phố Cửu Lợi Nam chăm sóc rau má. Ảnh: V.Đ.T.
Gia đình ông Huỳnh Lập (sinh năm 1966) ở tổ Chùa Nam, khu phố Cửu Lợi Nam (phường Tam Quan Nam) cũng nhờ rau má mà đổi đời. Trước đây, cuộc sống của gia đình ông Lập luôn thiếu trước hụt sau, làm lúa trên chân ruộng phèn thu hoạch lúa ăn không giáp hạt. Bởi, bản thân ông bị liệt 1 cánh tay không thể làm việc nặng, vợ mua gánh bán bưng, thế là vợ chồng ông Lập chuyển sang trồng rau má. Công việc trồng rau má khá nhẹ nhàng, phù hợp với người khuyết tật như ông. Cũng nhờ rau má mà vợ chồng ông Lập nuôi 2 con học đại học đến nơi đến chốn.
Người có thu nhập “đỉnh” nhất trong những hộ trồng rau má ở phường Tam Quan Nam là anh Huỳnh Văn Đến (sinh năm 1980) ở khu phố Cửu Lợi Nam. Với 8 sào rau má, hàng năm gia đình anh lãi ròng hơn 100 triệu đồng. “Không riêng gì gia đình tôi, mấy năm qua cũng nhờ cây rau má mà hàng trăm hộ nông dân ở phường Tam Quan Nam có cuộc sống đủ đầy hơn, thậm chí có nhiều hộ giàu lên”, anh Đến cho biết.
Bình quân mỗi năm đại lý của chị Đào Thị Hương ở khu phố Cửu Lợi Nam (phường Tam Quan Nam) thu mua, cung ứng ra thị trường khoảng 150 tấn rau má. Ảnh: V.Đ.T
Hiện trên địa bàn Tam Quan Nam có 14 đại lý thu mua rau má lớn nhỏ, hàng ngày cung ứng ra thị trường từ 4 – 5 tấn rau má.
Chị Đào Thị Hương (sinh năm 1974), đại lý chính thu mua rau má ở khu phố Cửu Lợi Nam chia sẻ: “Trước đây, tôi buôn bán các mặt hàng hải sản, vốn bỏ ra nhiều nhưng hiệu quả kinh doanh không cao. Sau khi nhận thấy nhu cầu tiêu thụ rau má của các siêu thị, chợ ở các tỉnh phía Nam rất cao, nên cách đây 8 năm tôi quyết định chuyển sang làm đại lý rau má.
Bình quân mỗi năm, đại lý của tôi thu mua của bà con trên dưới 150 tấn rau má, trị giá gần 1 tỷ đồng để cung ứng cho thị trường các tỉnh Tây Nguyên và TP.HCM. Để có nguồn cung ổn định cho các mối hàng, gia đình tôi còn thuê hơn 1ha đất giao cho 5 hộ dân nghèo trong khu phố trồng rau má cung ứng cho đại lý của tôi, nhờ đó họ có thêm thu nhập trang trải cuộc sống”, bà Hương chia sẻ.
“Để nâng cao chất lượng, giá trị của cây rau má, thời gian tới, chúng tôi sẽ phối hợp với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp và Hội Nông dân thị xã Hoài Nhơn tổ chức tập huấn cho bà con về kỹ thuật sản xuất rau an toàn theo hướng VietGAP; quy hoạch những diện tích đất màu, đất sản xuất lúa kém hiệu quả sang trồng rau má nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân. Đồng thời tìm kiếm doanh nghiệp trong và ngoài địa phương đầu tư công nghệ chế biến các sản phẩm cao cấp từ rau má”, ông Nguyễn Văn Chữ, Phó Chủ tịch UBND phường Tam Quan Nam cho biết.
Th506

Chuỗi liên kết nông sản đem lại lợi ích kép
Nguồn tin: báo Đồng Nai
Mô hình hợp tác, liên kết giữa nhà vườn với doanh nghiệp (DN) trong sản xuất nông nghiệp đang được H.Cẩm Mỹ đẩy mạnh. Không chỉ giúp nâng cao giá trị và ổn định đầu ra cho nông sản, mô hình còn góp phần phát huy vai trò của các đơn vị kinh tế tập thể, nâng cao thu nhập cho nông dân.
Sản xuất sầu riêng sạch tại Tổ hợp tác sầu riêng Xuân Quế (xã Xuân Quế). Ảnh: H.LỘC
* Hình thành 31 chuỗi liên kết
Cẩm Mỹ có tiềm năng, lợi thế về trái cây, rau xanh, gia súc, gia cầm… Thế nhưng, nhiều năm qua, giá trị sản phẩm đạt thấp vì thiếu liên kết trong sản xuất, tiêu thụ và chế biến. Nhận thấy điều này, địa phương đã tích cực xây dựng mô hình hợp tác, liên kết sản xuất các sản phẩm chủ lực. Nhờ đó, nhiều vùng sản xuất hàng hóa được hình thành. Nông dân, chủ dự án cùng có lợi.
Phó trưởng phòng NN-PTNT H.Cẩm Mỹ Nguyễn Thị Điệp cho biết, trên địa bàn hiện có 31 chuỗi liên kết sản xuất nông nghiệp. Trong đó, có 4 chuỗi UBND huyện phê duyệt và 27 chuỗi do các DN, tổ hợp tác tự thực hiện. Phần lớn các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm phát huy hiệu quả, góp phần tạo bước chuyển biến tích cực cho ngành Nông nghiệp. Có thể kể đến chuỗi liên kết bưởi da xanh tại xã Xuân Mỹ, chuỗi liên kết sầu riêng tại xã Xuân Quế, chuỗi liên kết gà sạch tại xã Lâm San…
Quý I-2023, H.Cẩm Mỹ đã giải ngân hơn 950 triệu đồng hỗ trợ chi phí lắp đặt hệ thống tưới nước tiết kiệm cho 2 chuỗi liên kết là: Cây tiêu, 73 hộ, số tiền 644 triệu đồng và cây bưởi da xanh, 18 hộ, số tiền 308 triệu đồng. |
Ông Nguyễn Văn Lộc, Giám đốc HTX Nông nghiệp – thương mại – dịch vụ Quyết Tiến (xã Xuân Mỹ), chủ dự án chuỗi liên kết bưởi da xanh cho biết, sau 1 năm làm hợp tác, trái bưởi đã có DN ký hợp đồng bao tiêu đầu ra.
“Trước đây mạnh ai nấy làm, sản phẩm ít, chất lượng không đồng đều nên rất khó bán. Khi hợp tác với nhau, trồng trên quy mô lớn, tuân thủ cùng quy trình chăm sóc, sản phẩm nhiều hơn, chất lượng đồng đều hơn và khách hàng tự tìm đến. Hiện HTX ký hợp đồng bán sản phẩm cho DN tại tỉnh Bến Tre” – ông Lộc chia sẻ.
Khi tham gia chuỗi liên kết, nông dân chỉ cần chuyên tâm sản xuất mà không phải lo đầu ra, giá cả. Thị trường lên thì giá lên, còn thị trường xuống thì vẫn bán được giá sàn theo hợp đồng.
Ông Trần Quang Hiệp, Tổ trưởng Tổ hợp tác sầu riêng Xuân Quế (xã Xuân Quế) chia sẻ: “Tổ liên kết bán sầu riêng cho một công ty thu mua chế biến và xuất khẩu trực tiếp. Mặc dù còn trong quá trình làm hồ sơ xin cấp mã vùng trồng nhưng công ty vẫn mua bằng giá sản phẩm ở nơi đã được cấp mã vùng trồng. Bởi vì, họ biết chúng tôi làm theo quy trình sạch, sản phẩm chất lượng tốt, muốn làm ăn lâu dài”.
Ghi nhận tại một số chuỗi liên kết, nông dân hưởng ứng tích cực, bởi họ được bao tiêu đầu ra với mức giá ổn định. DN yên tâm vì có nguồn nguyên liệu tại chỗ, sản phẩm đáp ứng yêu cầu. Một số DN còn hỗ trợ nông dân xây dựng quy trình sản xuất, kỹ thuật chăm sóc, nguyên vật liệu đầu vào.
* “Chìa khóa” cho phát triển nông nghiệp
Xác định nông nghiệp là lĩnh vực thế mạnh, có lợi thế cạnh tranh, thời gian qua, H.Cẩm Mỹ đã có nhiều quyết sách hỗ trợ, ưu đãi nhằm thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Trong đó, trọng tâm là phát triển mô hình hợp tác, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ và chế biến sản phẩm.
Huyện hỗ trợ các chủ thể làm hồ sơ cấp mã vùng trồng, chứng nhận VietGAP, OCOP, tham gia các chương trình quảng bá, giới thiệu sản phẩm. Ngoài ra, huyện đang phối hợp với các ngành chức năng của tỉnh đẩy nhanh tiến độ dự án Cụm công nghiệp chế biến nông sản Long Giao tạo mặt bằng cho chế biến.
Đối với nông dân, huyện hỗ trợ tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, sản xuất an toàn; hướng dẫn thủ tục, quy trình để hưởng thụ chính sách ưu đãi của tỉnh như đầu tư lắp đặt hệ thống tưới nước tiết kiệm…
Giám đốc HTX Chăn nuôi gà Tâm Việt (xã Lâm San) Lê Đình Tuấn Kiệt cho rằng, các ngành chức năng của xã, huyện hỗ trợ HTX rất nhiều trong quá trình thành lập, hoạt động của HTX. Tương tự, HTX hợp tác với đơn vị cung ứng con giống, thức ăn, thuốc để hỗ trợ xã viên được mua sản phẩm đầu vào giá tốt. Tổ chức hướng dẫn các hộ sản xuất theo quy trình an toàn để tạo ra sản phẩm chất lượng, bao tiêu sản phẩm cho nông dân. HTX đang chào hàng một số DN lớn để đưa sản phẩm vào hệ thống siêu thị nhằm nâng cao sản lượng, giá trị sản phẩm.
Giá trị của các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản là rõ ràng, song việc phát triển vẫn còn một số khó khăn. Nhiều chuỗi liên kết do các bên tự thực hiện theo kiểu “thuận mua, vừa bán”, không có hợp đồng ký kết, dễ bị phá vỡ. Thủ tục thanh quyết toán một số nội dung của chính sách hỗ trợ phức tạp dẫn đến quá trình giải ngân kinh phí chậm. Mặc dù vậy, H.Cẩm Mỹ xác định tiếp tục mở rộng và phát triển các chuỗi liên kết nhằm giải bài toán về đầu ra, phát triển nông nghiệp một cách bền vững.
Liên kết, hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp sẽ đem lại lợi kép cho nông dân và DN. Tuy nhiên, muốn tiêu thụ sản phẩm với giá cả ổn định, nông dân phải thay đổi tư duy sản xuất, tạo ra sản phẩm an toàn và chất lượng, tuân thủ nội dung hợp tác giữa các bên.
Hoàng Lộc
Th506

Thay đổi tư duy, tăng kết nối nâng tầm nông, thủy sản đồng bằng
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Tại hội thảo “Nâng tầm nông – thủy sản Việt” vừa diễn ra, các chuyên gia nhận định, hằng năm ĐBSCL đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản của cả nước. Song vựa nông, thủy sản lớn nhất nước nhiều thời điểm rơi vào tình trạng “được mùa rớt giá”; thu nhập của người nông dân bấp bênh. Không chỉ vậy, ĐBSCL còn đứng trước những thách thức từ biến đổi khí hậu; suy thoái nguồn tài nguyên đất, nước; cạnh tranh ngày càng gay gắt… Để tháo gỡ những nút thắt này, từng bước nâng tầm vị thế nông, thủy sản ĐBSCL đòi hỏi sự hợp lực, phát huy tốt vai trò từ Chính phủ, các bộ ngành hữu quan, địa phương đến doanh nghiệp, hợp tác xã và từng nông hộ.
Điểm nghẽn
Vùng trồng sầu riêng phục vụ xuất khẩu tại huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.
TP Cần Thơ có ngành chế biến nông sản, thủy sản xuất khẩu khá mạnh với 45 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu gạo trực tiếp và 44 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản với vùng nguyên liệu ở khắp các tỉnh thành vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Hồng, Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ, nhìn nhận: Chuỗi giá trị nông sản của thành phố vẫn bị tắc ở khâu liên kết. Đến nay chỉ có mặt hàng cá tra là có tỷ lệ hợp đồng liên kết sản xuất tiêu thụ khá cao trên 90%, còn lúa gạo và các các loại rau màu, cây ăn trái chỉ đạt khoảng 30%. Ngoài ra, sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông, thủy sản trên địa bàn thành phố còn vướng các điểm nghẽn như quy mô nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm không đồng đều; nông dân sản xuất tự phát không dựa vào nhu cầu của thị trường, chạy theo cái lợi trước mắt. Đa số nông dân chỉ quan tâm sản xuất chưa chú trọng đến việc xây dựng phát triển nhãn hiệu, thương hiệu cho sản phẩm, hàng hóa; ứng dụng khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế.
Tỉnh Bạc Liêu, với lợi thế về điều kiện khí hậu, đất đai, nguồn nước đa dạng, với 3 vùng sinh thái (mặn, lợ, ngọt) nên rất thuận lợi trong phát triển nông nghiệp, đặc biệt là phát triển nuôi trồng thủy sản, với nhiều mô hình nuôi tôm siêu thâm canh. Tuy nhiên, Ông Lê Tấn Cận, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bạc Liêu, phát triển thủy sản của tỉnh đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng; môi trường nước ô nhiễm khiến dịch bệnh trên tôm nuôi xảy ra ngày càng nhiều. Trong khi đó, việc tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật của người dân còn hạn chế và chậm thay đổi, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sản xuất truyền thống. Một số doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trên địa bàn tỉnh chưa nắm bắt kịp các tiêu chuẩn, yêu cầu của nước nhập khẩu như “Lệnh 248” về quy định quản lý đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nước ngoài nhập khẩu và “Lệnh 249” về biện pháp quản lý an toàn thực phẩm xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Từ đó ảnh hưởng một phần trong chuỗi cung ứng thủy sản (do không đáp ứng các yêu cầu, bị trả hàng) các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong sản xuất, xuất khẩu.
Nhiều ý kiến cho rằng, hạ tầng không đồng bộ, dịch vụ logistics khu vực ĐBSCL chưa phát triển đã làm giảm sức cạnh tranh của nông sản, thủy sản của vùng. Ông Trương Đình Hoè, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (VASEP), nhận xét: Hệ thống cơ sở hạ tầng, logistics, dịch vụ phụ trợ phát triển chưa tương xứng. ĐBSCL vẫn chưa có nhiều vùng nuôi tôm tập trung, quy mô trang trại, hệ thống cảng biển đón tàu container chưa phát triển cũng như hệ thống cung ứng và phân phối vật tư, nguyên liệu phải qua nhiều khâu trung gian khiến cho giá thành sản xuất còn cao và khó cạnh tranh. Đây là những trở ngại căn bản làm xuất khẩu thủy sản của vùng khó bắt kịp với xu hướng hiện nay khi mà thị trường thế giới ngày càng quan tâm nhiều đến an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc cũng như phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhấn mạnh: Chúng ta cần phải thay đổi tư duy ngắn hạn “thuận mua vừa bán” sang tư duy đi đường dài. Nông dân phải bỏ tư duy “mùa vụ”, doanh nghiệp phải bỏ tư duy “thương vụ”, chính quyền phải bỏ tư duy “nhiệm kỳ”. Các hiệp hội ngành hàng phải phát huy hơn nữa vai trò cùng các địa phương kiến tạo không gian phát triển với các địa phương. Chúng ta phải định hình lại khâu tổ chức lại sản xuất. Trong đó, hợp tác liên kết, thị trường là 3 vấn đề lớn của đồng bằng phải giải quyết sau đó mới đến tiết giảm chi phí, chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp.
Hợp lực tìm giải pháp
Từ thực tế đó, nhiều ý kiến cho rằng, để nâng tầm nông thủy sản, ĐBSCL phải tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu quả chiến lược Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu… Song song đó, tập trung phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”; chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp trên cơ sở phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thông minh, phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao.
Mặt khác, theo ông Trương Đình Hòe, để khơi thông dòng chảy nông sản, các địa phương cần phát triển, hoàn thiện hạ tầng logistics tích hợp tại ĐBSCL, nhất là tại Cần Thơ, đáp ứng nhu cầu phát triển xuất khẩu của khu vực, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các doanh nghiệp dịch vụ logistics phát triển cung cấp dịch vụ trực tiếp tại khu vực. Quan tâm phát triển các trung tâm giao dịch thủy sản, các chợ đầu mối thủy sản tại các vùng nguyên liệu, các kho lạnh thương mại trong khu vực. Một số ý kiến đề xuất Chính phủ, các bộ ngành hữu quan nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp bảo đảm sự phù hợp giữa quy hoạch tổng thể với quy hoạch của từng vùng, từng địa phương và phù hợp với nhu cầu thị trường. Đặc biệt chú trọng đến các sản phẩm nông nghiệp có thế mạnh của Việt Nam; ban hành văn bản quy định về liên kết vùng, liên vùng trong phát triển sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp…
Ông Nguyễn Thanh Xuân, Phó Trưởng Văn phòng đại diện Agribank khu vực Tây Nam Bộ, khẳng định: Agribank tiếp tục ưu tiên và có giải pháp cụ thể thúc đẩy tăng trưởng tín dụng phục vụ “Tam Nông”, khách hàng bán lẻ, khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa, khách hàng FDI gắn với việc sử dụng trọn gói các sản phẩm dịch vụ của Agribank. Đồng thời, tập trung vào các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản; nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn, sinh thái; sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, theo mô hình liên kết chuỗi giá trị. Về phía các địa phương căn cứ yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lựa chọn cây, con, ngành kinh tế trọng điểm cần tập trung ưu tiên vốn để xây dựng chiến lược đầu tư phù hợp.
Bài, ảnh: MỸ THANH
Th504

Mô hình ‘Cây xoài nhà tôi’ giúp giá bán cao hơn 5.000 đồng/kg
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
ĐỒNG THÁP Mô hình ‘Cây xoài nhà tôi’ của ông Mách được khách hàng mua trọn gói với giá bán 7 triệu đồng/cây xoài/năm, chủ vườn cam kết giao cho khách hàng khoảng 100kg xoài/năm (2 vụ).
Toàn tỉnh Đồng Tháp có hơn 14.000ha chuyên canh trồng xoài, chiếm 33,7% tổng diện tích cây ăn trái của tỉnh. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Thời điểm này, nhiều nhà vườn trồng xoài trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đang bước vào mùa thu hoạch. Mặc dù giá xoài đang ở mức thấp, nhưng những vườn xoài trồng theo hướng hữu cơ, VietGAP tại huyện Cao Lãnh và TP Cao Lãnh vẫn giữ được giá cao và đầu ra ổn định.
Ông Nguyễn Văn Mách, Phó Chủ nhiệm Minh Tâm Hội quán (xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh) cho biết: Hiện xoài Cát Chu ngoài thị trường có giá 10.000 đồng/kg, nhưng xoài của vườn ông bán được giá 15.000 đồng/kg mà vẫn không đủ hàng giao cho khách nhờ thực hiện canh tác theo hướng hữu cơ từ mô hình “Cây xoài nhà tôi”.
Theo ông Mách, mô hình “Cây xoài nhà tôi” được gia đình ông thực hiện từ năm 2016 theo tiêu chuẩn VietGAP, có chứng nhận xuất xứ rõ ràng. Vì vậy, khách hàng luôn an tâm về an toàn vệ sinh thực phẩm. Mô hình “Cây xoài nhà tôi” của ông Mách được khách hàng mua trọn gói với giá bán 7 triệu đồng/cây xoài/năm, chủ vườn cam kết giao cho khách hàng khoảng 100kg xoài/năm (2 vụ), giá bán tùy theo thời điểm, nhưng cao hơn so với thị trường bên ngoài khoảng 5.000 đồng/kg.
Toàn tỉnh Đồng Tháp có hơn 14.000ha chuyên canh trồng xoài, chiếm 33,7% tổng diện tích cây ăn trái của tỉnh. Các giống xoài chủ lực gồm Cát Chu, cát Hòa Lộc, tượng da xanh… Hiện đa số các nhà vườn đang từng bước sử dụng phân hữu cơ và hầu hết đều bao trái để giảm việc sử dụng thuốc BVTV.
Để đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu xoài, toàn tỉnh có gần 8.230 ha xoài đăng ký mã số vùng trồng, với 296 mã số, 9 cơ sở đóng gói trên địa bàn đã đăng ký mã số cơ sở đóng gói. Trong đó có 33 tổ chức, cá nhân được cấp chứng nhận VietGAP trên cây xoài với diện tích 353ha.
Hiện nay trái xoài Đồng Tháp đã được xuất khẩu sang thị trường Mỹ, mở ra tiềm năng lớn cho ngành hàng xoài Đồng Tháp nói riêng và trái xoài Việt Nam nói chung. Ngoài Mỹ, trái xoài tươi Đồng Tháp còn được xuất sang thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, New Zealand…, đặc biệt Trung Quốc là thị trường tiêu thụ lượng xoài khá lớn.
Th426

Hàm lượng chất hữu cơ trong đất và vai trò đối với cây trồng
Đất đóng vai trò rất quan trọng đối với sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng. Một trong những yếu tố quan trọng nhất của đất là hàm lượng chất hữu cơ. Chất hữu cơ có tác dụng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng và tạo ra môi trường thuận lợi để các vi sinh vật giúp cây trồng phát triển. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về hàm lượng chất hữu cơ trong đất và vai trò quan trọng của nó đối với cây trồng.
Chất hữu cơ trong đất là gì?
Chất hữu cơ là một yếu tố cơ bản để phân biệt giữa đất và đá mẹ được xác định bởi số lượng và tính chất của chúng. Chất hữu cơ trong đất có tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và góp phần quyết định nhiều tính chất của đất, bao gồm tính chất lý, hóa, sinh và độ phì nhiêu.
Chất hữu cơ của đất có thể được chia thành hai loại: tàn tích hữu cơ chưa bị phân giải (bao gồm rễ, thân, lá cây và xác động vật) và chất hữu cơ đã được phân giải (bao gồm mùn và các hợp chất ngoài mùn).
Thành phần chất hữu cơ trong đất có gì?
Để xây dựng một hệ thống canh tác và chăm sóc cây trồng hiệu quả, việc hiểu rõ các thành phần của chất hữu cơ trong đất là rất cần thiết. Các thành phần đó bao gồm:
Hàm lượng Carbohydrates
Tổng hàm lượng carbohydrates của chất hữu cơ trong đất thường dao động từ 5 – 20%. Thành phần này bao gồm các polysaccharides và các đường đơn như galactose, glucose, arabinose và nhiều loại khác. Các carbohydrates này đóng vai trò quan trọng trong cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng và làm tăng độ phì nhiêu của đất.
Các hợp chất chứa đạm (N)
Hàm lượng đạm trong đất tự nhiên thường dao động từ 3 – 6%. Khi thủy phân acid xảy ra, các amino, amoni đường và amino axit được giải phóng. Hiện nay có khoảng 20 loại amino axit đã được định danh và 2 loại amino đường là galactosamine và glucosamine, chiếm tỉ lệ cao nhất trong thành phần đạm của chất hữu cơ.
Ngoài ra, một nghiên cứu trên các loại đất khác nhau cho thấy hơn 50% đạm tồn tại dưới dạng nối của các amino axit và amino đường. Tính chất của các thành phần khác trong chất hữu cơ vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Các hợp chất lân hữu cơ (P)
Chất hữu cơ trong đất chứa nhiều dạng lân hữu cơ, chiếm khoảng 15 – 80% tổng lượng P trong đất. Các hợp chất lân hữu cơ được tìm thấy trong đất bao gồm phospholipids, inositol hexaphosphate (IP6) và một số nucleotides. Trong đó, IP6 được tìm thấy nhiều nhất, là một dạng lân hữu cơ phổ biến và có thể được hấp thụ bởi các cây trồng. Nó có thể kết hợp với các chất hữu cơ khác trong đất để tạo thành các hợp chất phức tạp và cung cấp cho cây trồng một hàm lượng lân hữu cơ phù hợp.
Các thành phần khác trong đất
Các thành phần khác trong đất được xác định dựa trên hợp nhất của các vòng polyphenol. Chúng có thể chứa các quinones và có rất nhiều hợp chất N được liên kết trong thành phần này. Các chất này phần lớn bắt nguồn từ các thành phẩm của quá trình trao đổi chất của vi sinh vật, nhưng chúng cũng có thể có nguồn gốc từ sự phân giải thành phần lignin của thực vật.
Vai trò của chất hữu cơ trong đất đối với cây trồng là gì?
Chất hữu cơ giúp cải thiện cấu trúc đất
Các chất hữu cơ cùng với các vi sinh vật và rễ thực vật tiết ra các chất có tính keo. Chất này giúp chúng liên kết với các hạt khoáng, hình thành nên cấu trúc viên của đất, tạo cho đất có tính tơi xốp.
Hàm lượng chất hữu cơ cao giúp cho đất có tính vật lý tốt hơn, như hạt đất không bị rời rạc, đất tơi xốp hoặc quá kết chặt. Đồng thời khả năng giữ ẩm và thoát nước tốt, tạo điều kiện cho bộ rễ, vi sinh vật và các loài vật có lợi phát triển mạnh.
Ngoài ra, để cải thiện cấu trúc đất, bạn có thể sử dụng phân bón hữu cơ Organic , phân chuồng, phân trùn quế. Đây là một trong những phân bón có chất hữu cơ cao, giúp cấu trúc đất ổn định và tạo điều kiện cho cây trồng phát triển tốt hơn.
Tăng khả năng giữ nước và dinh dưỡng trong đất
Chất hữu cơ (CHC) trong đất có vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng giữ nước và dinh dưỡng cho cây trồng. CHC bao gồm dư thừa động vật, thực vật và là nguồn cung cấp chính các chất dinh dưỡng như N, P và S cho thực vật. Khi CHC bị phân hủy, chúng sẽ trở thành các chất dinh dưỡng có thể được hấp thụ bởi cây trồng. Hơn nữa, CHC còn là nguồn cung cấp Carbon và năng lượng cho vi sinh vật đất, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động hóa sinh của đất. Nếu thiếu hoạt động hóa sinh này, hệ sinh thái đất sẽ ngừng hoạt động.
Hàm lượng chất hữu trong đất giúp duy trì và ổn định độ pH
Mùn là sản phẩm cuối cùng của các chất hữu cơ và có chức năng quan trọng trong việc duy trì và ổn định độ pH. Mùn giúp hạn chế các tác động xấu của môi trường đến sự sinh trưởng và phát triển cây trồng. Điều này xảy ra khi pH thay đổi đột ngột trong quá trình cung cấp phân bón hoặc điều hòa chất dinh dưỡng từ phân bón. Để tăng cường chức năng này, có thể sử dụng phương pháp phun phân bón lá chứa lân hoặc sử dụng super lân kết hợp với các phương pháp khác để cải thiện độ cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng.
Thành phần chất hữu cơ trong đất giúp kích thích sự sinh trưởng của các sinh vật có ích
Chất hữu cơ là nguồn cung cấp thức ăn chính cho vi sinh vật đất và thực vật. Chúng cung cấp Carbon và năng lượng cho vi sinh vật đất, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động hóa sinh của đất. Khi chất hữu cơ bị phân giải, các chất dinh dưỡng như N, P, S,… được giải phóng và trở thành các dạng ion hòa tan dễ dàng hấp thu bởi cây trồng.
Ức chế một số bệnh về rễ thường gặp ở cây trồng
Các chất hữu cơ trong đất còn có vai trò quan trọng cho việc ức chế một số bệnh về rễ ở cây trồng. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các chất này phân giải trong đất tạo ra các chất kháng khuẩn và kháng nấm giúp bảo vệ cây trồng khỏi các bệnh về rễ. Ngoài khả năng tăng cường kháng bệnh của cây trồng CHC còn giúp cây trồng giảm sự phụ thuộc vào các loại thuốc trừ sâu và thuốc bảo vệ thực vật.
Tóm lại, chất hữu cơ đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình canh tác cây trồng. Vì vậy, việc tăng cường hàm lượng chất hữu cơ trong đất là một trong những cách quan trọng để cải thiện chất lượng đất và tăng năng suất cây trồng.
Nguồn: Phân bón Hà Lan
Th426

Lão nông làm giàu từ cây chanh dây
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Mặc dù đã ngoài 60, ông Lê Minh Ứng vẫn không ngừng nghỉ, miệt mài chăm sóc vườn chanh dây được trồng tại Thôn 5, xã Đạ Đờn, huyện Lâm Hà của gia đình.
Ông Lê Minh Ứng với mô hình trồng chanh dây cho thu nhập cao
Trong vườn chanh dây từng cành sai trĩu quả, ông Lê Minh Ứng hào hứng giới thiệu với chúng tôi, vườn chanh dây của ông tuy chỉ mới xuống giống vào hai năm trước, nhưng ngay từ vụ mùa đầu tiên đã đậu trái và sinh trưởng tốt cho đến tận bây giờ.
Ông Ứng kể, trải qua bao nhiêu thăng trầm với cây cà phê, đến gần 10 năm trở lại đây, nhận thấy vườn cà phê đậu trái không chất lượng, cho năng suất thấp, công chăm sóc tốn kém, nên ông Ứng quyết định dừng lại.
Để có thể tận dụng tối đa ưu thế các điều kiện về khí hậu, thổ nhưỡng tại địa phương, ông Ứng tìm tòi, học hỏi các mô hình kinh tế mới cho hiệu quả kinh tế cao ở các địa phương khác.
Gia đình ông bắt đầu chuyển sang trồng các loại cây khác như: ớt chỉ thiên, tiêu, chanh đào, su. Mặc dù, đã dành nhiều thời gian để thử nghiệm trồng, nhưng chỉ được một thời gian, các loại cây này đều không thể sinh trưởng tốt. Cho đến đầu năm 2021, ông có cơ duyên biết đến mô hình chanh dây từ những nhà nông các huyện, thành lân cận. “Trước đây, gia đình đã từng trồng chanh dây, nhưng chỉ với mục đích trồng chơi để làm giàn cho mát và không nghĩ sẽ phát triển kinh tế từ loại cây này. Năm 2021, trên diện tích đất 6 sào của gia đình, tôi đã bắt tay vào việc cải tạo, xử lý lại đất đai để trồng chanh dây”, ông Ứng chia sẻ.
Theo ông Ứng, muốn cây chanh dây phát triển tốt cần phải ưu tiên về các điều kiện sinh thái như đất đai. Chanh dây là loại cây ưa độ ẩm nên người trồng vừa tưới nước thường xuyên để tránh tình trạng cây bị thiếu nước, teo trái, vừa phải chú ý tình trạng ngập úng, đất bị rửa trôi, xói mòn khiến cây bị thối rễ, mất thu hoạch. Bên cạnh đó, mùa mưa chính là môi trường cho các loại vi khuẩn phát triển, gây bệnh; đặc biệt là bệnh bã trầu hay bệnh đốm nâu ở cây chanh dây. Chính vì vậy, người dân khi trồng cần phải thường xuyên vệ sinh vườn, tạo không gian thoáng đãng và chỉ nên sử dụng các loại chế phẩm sinh học bảo vệ thực vật có lợi cho cây cũng như để đảm bảo an toàn thực phẩm đến người tiêu dùng. Có như vậy, vườn chanh dây mới có thể ra nhiều hoa, đậu nhiều trái và cho năng suất cao.
Hiện tại, vườn chanh dây của ông Ứng cho thu hoạch quanh năm, tỷ lệ đậu trái tốt. Trung bình mỗi tuần, vườn thu hoạch 2 – 2,5 tấn chanh dây và được các thương lái trên địa bàn huyện Lâm Hà, Đức Trọng đến tận vườn thu mua. Ngoài ra, những lứa chanh dây đậu trái đẹp sẽ được ông Ứng chọn lọc và xuất bán cho các thương lái tại TP Hồ Chí Minh. Bình quân mỗi tháng, gia đình ông Ứng thu về 60 – 80 triệu đồng từ cây chanh dây.
Theo Hội Nông dân xã Đạ Đờn, ông Lê Minh Ứng là một trong những tấm gương tiêu biểu trong Phong trào Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng của địa phương. Không những là một trong những người tiên phong đưa mô hình chanh dây về trồng thành công trên địa bàn xã mà ông còn giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm về kĩ thuật chăm sóc, cây giống, đầu ra của cây chanh dây, với mong muốn có thể mang lại nguồn thu nhập ổn định hơn cho bà con Nhân dân. Vì vậy, thời gian tới, Hội Nông dân xã Đạ Đờn sẽ tích cực tham mưu với Đảng ủy, chính quyền xã đề ra những phương án và định hướng cụ thể nhằm phát triển cũng như nhân rộng mô hình chanh dây và các mô hình điển hình khác để góp phần xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững ở cơ sở.
Th426

Tam nông nhìn đến năm 2030
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Để đạt và vượt các chỉ tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, toàn tỉnh Lâm Đồng tăng cường huy động tối đa các nguồn lực từ ngân sách nhà nước kết hợp với nguồn lực xã hội hóa; đặc biệt có những chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng, tạo sinh kế việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.
Ngành Nông nghiệp Lâm Đồng ưu tiên phát triển công nghệ số canh tác trên các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao.
Theo ngành chức năng, triển khai chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân (tam nông) đến năm 2030, toàn tỉnh Lâm Đồng phấn đấu đạt tăng trưởng nông, lâm nghiệp và thủy sản bình quân 4 – 4,5%/năm, chiếm tỷ lệ hơn 32% trong cơ cấu kinh tế. Trong đó, tăng bình quân năng suất lao động 5,5 – 6%; giá trị sản xuất đạt trên 300 triệu đồng/ha/năm.
Ở khu vực công nghiệp, dịch vụ nông thôn phấn đấu tăng trưởng bình quân trên 10%/năm. Giá trị xuất khẩu hàng năm tăng bình quân từ 10 – 12%; kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt trên 800 triệu USD, tỷ trọng giá trị xuất khẩu nông sản chế biến, chế biến sâu đạt trên 35%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 50%; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 75%. Thu nhập bình quân của người dân nông thôn tăng gấp 2,5 – 3 lần năm 2020. Giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm trên 1,5%/năm. Thu nhập bình quân đầu người vùng dân tộc thiểu số bằng ít nhất 75% bình quân toàn tỉnh; hàng năm thu hút 3 – 5% lao động vùng dân tộc thiểu số chuyển sang làm việc phi nông nghiệp.
Ngoài ra, toàn tỉnh phấn đấu 100% công trình thủy lợi trọng điểm được khởi công; cứng hóa 100% đường trục thôn, xóm và trên 90% đường trục chính nội đồng; 75% diện tích canh tác được tưới; trên 40% hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch. Tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên 50%, xã nông thôn mới kiểu mẫu 20 – 25% và có 4 huyện đạt chuẩn huyện nông thôn mới nâng cao. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt nông thôn được thu gom, xử lý trên 80%. Tỷ lệ che phủ rừng duy trì ổn định trên 55%.
Với các chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2030 nêu trên, giải pháp trọng tâm trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Lâm Đồng là cơ cấu lại cây trồng có lợi thế cạnh tranh như cây rau, hoa, cây ăn quả, cây đặc sản, cây dược liệu. Đồng thời, tập trung chuyển đổi, giảm tỷ lệ diện tích thu nhập dưới 50 triệu đồng/ha/năm còn 3%; ổn định vùng trồng lúa từ 14.000 ha đến 15.000 ha. Tiếp tục tái canh, cải tạo giống cà phê già cỗi, nhân rộng diện tích cà phê theo tiêu chuẩn bền vững, năng suất đạt 36 tạ/ha và giá trị sản xuất bình quân đạt trên 154 triệu đồng/ha; chú trọng trồng xen cây ăn quả, cây đa mục đích đạt trên 50% diện tích cà phê. Đặc biệt, cây rau, hoa mở rộng diện tích canh tác tại các huyện có điều kiện sản xuất phù hợp như: Lạc Dương, Đam Rông, Lâm Hà, Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lâm. Trong đó, tăng cường ứng dụng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn; khuyến khích chuyển đổi sang canh tác ngoài trời với các giống cây trồng mới phù hợp, đạt hệ số sử dụng đất ở mức 3,0 đến 3,5, giá trị sản xuất bình quân tăng lên 6 tỷ đồng/ha/năm. Riêng cây dâu tằm ổn định diện tích từ 13.000 ha đến 15.000 ha; cây dược liệu phát triển dưới tán rừng; hỗ trợ xây dựng và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chế biến tinh chế dược liệu…
Ngoài ra, với cây ăn quả, cây đặc sản mang tính đặc hữu của vùng như sầu riêng, bơ, chuối, chanh leo, hồng, dâu tây… tập trung phát triển trên cơ sở chuyển đổi các diện tích sản xuất kém hiệu quả, vườn tạp, mở rộng diện tích trồng xen với cây công nghiệp; hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa quy mô lớn gắn với xây dựng, phát triển thương hiệu, quản lý, bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm nông nghiệp trên thị trường trong nước và xuất khẩu; hỗ trợ cấp mã số vùng trồng, chỉ dẫn địa lý; hỗ trợ cấp chứng nhận chất lượng, ứng dụng công nghệ sơ chế, chế biến, bảo quản, truy xuất nguồn gốc, đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn của các thị trường xuất khẩu truyền thống và các thị trường mới…
Đáng kể đến năm 2030, toàn tỉnh có 3.000 ha canh tác thông minh và 60% đàn vật nuôi được chăn nuôi theo quy trình tự động hóa; có 50% diện tích cây ăn quả được cấp mã số vùng trồng; trên 200 cơ sở sản xuất nông sản được dán tem truy xuất nguồn gốc khi đưa ra thị trường; 100% các sản phẩm sử dụng thương hiệu “Đà Lạt – Kết tinh kỳ diệu từ đất lành” được số hóa toàn bộ quá trình quản lý sản xuất và giám sát chất lượng. Ngành chức năng Lâm Đồng cho biết thêm giải pháp toàn diện ở đây là: “Đẩy nhanh ứng dụng chuyển đổi số vào nông nghiệp, nông thôn; đồng bộ trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp theo hướng thông minh; ứng dụng công nghệ số để tự động hóa các quy trình sản xuất từ khâu chăm sóc, thu hoạch, bảo quản đến khâu kinh doanh, quản lý giám sát nguồn gốc nông sản, chuỗi giá trị cung ứng sản phẩm; ưu tiên phát triển trên các nhóm cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao như rau, hoa, bò sữa…”.
Th424

Cần xây dựng hợp tác xã mạnh
Nguồn tin: báo Cần Thơ
Các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp (NN) đã và đang phát huy vai trò quan trọng trong nâng cao hiệu quả sản xuất NN tại vùng ĐBSCL. Đặc biệt, các HTX đã khẳng định vai trò không thể thiếu trong việc liên kết giữa các hộ nhỏ lẻ để hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hóa lớn, đảm bảo an toàn và chất lượng, tạo thuận lợi trong kết nối với doanh nghiệp hình thành các chuỗi giá trị ngành hàng bền vững. Dù vậy, hiện việc phát triển các HTX NN vẫn còn gặp nhiều khó khăn cần được tháo gỡ kịp thời.
Sầu riêng được trồng tại HTX Vườn cây ăn trái Trường Khương A ở huyện Phong Điền, TP Cần Thơ.
Hiệu quả từ HTX NN
Với sự quan tâm khuyến khích và hỗ trợ từ ngành chức năng, thời gian qua nông dân đã tích cực liên kết, hình thành được nhiều HTX để phát triển sản xuất nông nghiệp theo quy mô hàng hóa lớn và nâng cao chất lượng, giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm. Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), đến cuối năm 2022, toàn vùng ÐBSCL đã có 2.615 HTX NN và 20 Liên hiệp HTX NN, chiếm 13,26% tổng số HTX NN cả nước. Các HTX NN của vùng ÐBSCL tập trung nhiều ở 2 lĩnh vực là trồng trọt (lúa gạo, cây ăn trái) và nuôi trồng thủy sản (tôm, cá), chiếm khoảng 65,5% tổng số HTX nông nghiệp của vùng. Hiện cả vùng có 2.083 HTX NN hoạt động hiệu quả, chiếm 82,8% tổng số HTX NN cả vùng. Có 343 HTX NN ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, chiếm 14,1% tổng số HTX NN cả vùng. Có 1.136 HTX tham gia liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm NN cho thành viên, chiếm 46,73% HTX NN cả vùng. ÐBSCL hiện là vùng có tỷ lệ HTX NN tham gia liên kết tiêu thụ sản phẩm cho thành viên lớn nhất cả nước. Ðến nay, hình thức hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị giữa HTX với doanh nghiệp tại ÐBSCL đã trở lên khá phổ biến. Trong chuỗi liên kết với doanh nghiệp, HTX đã phát huy vai trò tổ chức kinh tế tập thể để tổ chức các hành động tập thể giữa các hộ nông dân thành viên cùng nhau áp dụng chung quy trình kỹ thuật trong sản xuất nhằm tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, đồng đều về chất lượng.
Cần quan tâm tháo gỡ khó khăn
Dù có bước phát triển đáng kể và đang có nhiều đóng góp tích cực vào phát triển NN nhưng năng lực của các HTX NN trong vùng nhìn chung còn hạn chế về vốn, tài sản, trình độ cán bộ quản lý và năng lực sản xuất kinh doanh. Quy mô hoạt động của phần lớn HTX còn nhỏ, số thành viên còn ít và chưa đa dạng được nhiều dịch vụ phục vụ xã viên. Tỷ lệ sản phẩm nông sản được tiêu thụ qua HTX còn thấp. Hiện còn nhiều HTX chưa thực hiện liên kết với các doanh nghiệp để tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Một số HTX có liên kết nhưng còn lỏng lẻo, chưa tạo thành chuỗi giá trị…
Ðể HTX NN phát huy tốt hơn nữa vai trò trong liên kết, phát triển NN, tới đây ngành chức năng cần kịp thời giúp HTX khắc phục các khó khăn và hạn chế. Ðặc biệt, hỗ trợ về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và tập huấn để nâng cao năng lực trong tổ chức sản xuất, kinh doanh của HTX và mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động. Rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách và tạo thuận lợi cho HTX trong tiếp cận về tín dụng, khoa học công nghệ, sản xuất theo tiêu chuẩn… để nâng cao hiệu quả sản xuất, khả năng chế biến, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm và liên kết được với các đối tác cả trong và ngoài nước. Khuyến khích doanh nghiệp liên kết với HTX…
Theo ông Trần Anh Thư, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, thời gian qua HTX NN còn hạn chế về năng lực vốn, năng lực điều hành, trang thiết bị phục vụ sản xuất, khả năng liên kết, tiếp cận thị trường và thực hiện dịch vụ phục vụ thành viên. Ðặc biệt, HTX còn gặp khó trong liên kết với doanh nghiệp, trong khi thực tế cho thấy những HTX thành công trong thời gian qua hầu như đều có sự tham gia liên kết chặt của doanh nghiệp. Tới đây, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao sự lãnh đạo của Ðảng và sự vào cuộc của các cấp chính quyền trong thúc đẩy phát triển HTX NN, An Giang chú trọng vai trò của các doanh nghiệp trong liên kết với HTX. Phát triển hệ sinh thái HTX theo chuỗi giá trị ngành hàng, lấy doanh nghiệp làm trọng tâm. Theo ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, HTX NN nào có sự tham gia liên kết của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tâm huyết, có tiềm lực và làm ăn có bài bản thì hầu như HTX đó đều hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là ta chỉ chờ vào doanh nghiệp. Tới đây, bên cạnh thực hiện tốt các chính sách và nghị quyết, chương trình, đề án về phát triển HTX của Trung ương, các địa phương cần quan tâm có những chính sách đặc thù để huy động tốt các nguồn lực hỗ trợ mạnh hơn cho HTX và thu hút doanh nghiệp tham gia.
Phát biểu tại hội nghị định hướng phát triển HTX NN bền vững vùng ÐBSCL vừa diễn ra ở tỉnh Hậu Giang, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh, HTX NN mạnh yếu, bền vững hay không bền vững không chỉ giới hạn trong không gian của HTX, trong số thành viên của HTX, trong sự đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của địa phương mà còn tác động đến sự bền vững của cả không gian sản xuất NN, hình ảnh của một nền NN và thương hiệu của nông sản. Chúng ta hãy đặt định hướng phát triển bền vững trong không gian rộng lớn hơn như vậy, mới thấy cần phải hành động quyết liệt hơn, đồng bộ hơn từ trên xuống dưới và từ dưới lên, bên trong và cả bên ngoài HTX. Khi và chỉ khi có HTX bền vững, chúng ta mới vượt qua tình trạng của một nền NN với một lời nguyền manh mún, nhỏ lẻ, tự phát. Khi ấy thu nhập của người nông dân được tăng thêm nhờ dựa vào lợi thế quy mô, mua chung, bán chung, tổ chức các dịch vụ chung. Khi và chỉ khi có HTX bền vững, chúng ta mới hướng đến hình ảnh một chuỗi ngành hàng và nhờ đó tạo ra giá trị gia tăng trong từng công đoạn của chuỗi, khi ấy mới thực sự chuyển từ tư duy sản xuất NN sang tư duy kinh tế NN. HTX có bền vững mới có được mối liên kết bền chặt với doanh nghiệp trên tinh thần hài hòa lợi ích, cùng kiến tạo chiến lược dài hạn để xây dựng thương hiệu chung cho nông sản đồng bằng… Từ cách tiếp cận như vậy, các địa phương quan tâm đúng mức đến việc phát triển HTX từ trong nhận thực đến hành động của cả hệ thống chính trị. Kịp thời ban hành các nghị quyết, chương trình hành động, mục tiêu cụ thể, chỉ tiêu cụ thể và thời gian cụ thể. Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức của xã hội về HTX…l
Th424

Nhiều cánh đồng lúa trắng xóa do bị sâu cuốn lá
Nguồn: báo nông nghiệp
HẢI PHÒNG Tại Hải Phòng, mật độ sâu cuốn lá nhỏ vụ xuân 2023 xuất hiện cao hơn hẳn so với các năm gần đây, một số diện tích đến nay đã gây trắng lá.
Sâu cuốn lá nhỏ hoành hành tại huyện An Dương. Ảnh: Đinh Mười.
Vụ xuân 2023, các địa phương tại Hải Phòng gieo cấy hơn 26.000ha lúa. Đến nay, lúa đang ở giai đoạn đẻ nhánh rộ – cuối đẻ nhánh, một số diện tích lúa đứng cái, phân hóa đòng, bơ bản cây lúa sinh trưởng phát triển thuận lợi, khá tốt.
Tuy nhiên, vào cuối tháng 3, đầu tháng 4, một số diện tích lúa tại các địa phương này bị ảnh hưởng bởi sâu cuốn lá nhỏ lứa 1 với tổng diện tích khoảng 1.800ha. Nhiều nhất là huyện Kiến Thụy với 800ha và huyện Thủy Nguyên với 700ha, còn lại rải rác ở các xã trên địa bàn 4 huyện: Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, An Lão và An Dương.
Sâu cuốn lá nhỏ lứa 1 vũ hóa rộ chủ yếu vào tuần cuối tháng 3/2023, mật độ trưởng thành phổ biến 0,2 – 0,3 con/m2, cao 2 – 3 con/m2, cá biệt có nơi 7 – 10 con/m2.
Riêng tại Thủy Nguyên, sâu non phát triển gây hại tại một số xã như Thiên Hương, Hoa Động, Phục Lễ, Phả Lễ, Kênh Giang, Tam Hưng với mật độ sâu non rất cao, trung bình từ 100 – 150 con/m2, nơi cao 250 – 300 con/m2, cá biệt có nơi 450 con/m2 (xã Hoa Động), mật độ trứng trung bình 40 – 60 quả/m2, cao 100 quả/m2.
Người dân nhiều nơi lo lắng phun thuốc phòng trừ dù chưa được cơ quan chức năng khuyến cáo. Ảnh: Đinh Mười.
Các huyện còn lại một số nơi xuất hiện sâu non có mật độ trung bình từ 20 – 30 con/m2, nơi cao 40 – 50 con/m2như: xã An Hưng, An Hồng (huyện An Dương); xã Đại Đồng, Đại Hà, Tân Trào, Đoàn Xá (huyện Kiến Thụy); xã Chiến Thắng, Mỹ Đức, Tân Viên (huyện An Lão); xã Trấn Dương, Hòa Bình (huyện Vĩnh Bảo); xã Tiên Thắng, Toàn Thắng (huyện Tiên Lãng). Cá biệt có nơi 150 – 200 con/m2 như tại xã An Hòa huyện An Dương và xã Đại Đồng huyện Kiến Thụy.
Ghi nhận tại xã Bắc Sơn, huyện An Dương, hơn 30ha lúa Đài thơm 8 trồng theo hướng hữu cơ đang bị sâu cuốn lá gần như toàn bộ, có những nơi bị nặng lá đã trắng xóa.
Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hải Phòng, mật độ sâu cuốn lá nhỏ vụ xuân 2023 xuất hiện cao hơn hẳn so với các năm gần đây, một số diện tích đến nay đã gây trắng lá. Tuy nhiên, đến thời điểm này chưa ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất.
Cơ quan chức năng đã chỉ đạo phòng trừ tại các diện tích bị sâu cuốn lá nhỏ với mật độ trên 50 con/m2, lứa 1 phòng trừ từ 5 – 10 tháng 4 và đợt 2 sau nghỉ lễ 30/4 – 1/5. Riêng diện tích 31ha tại xã Bắc Sơn (huyện An Dương) nguyên nhân dẫn đến sâu bệnh hàng loạt là thời điểm phun thuốc gặp mưa.
Nhiều cánh đồng, lúa đã trắng xóa do bị sâu cuốn lá. Ảnh: Đinh Mười.
Vừa qua, người dân lo lắng ảnh hưởng đến năng suất nên đã tập trung phun thuốc phòng trừ bằng phương pháp thủ công. Tuy nhiên, cơ quan chức năng đã kịp thời khuyến cáo người dân tập trung phòng trừ sâu cuốn lá vào lứa 2 sắp tới, khi lúa làm đòng, bởi đây mới là thời điểm quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lúa.
Cũng theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hải Phòng, ngoài sâu cuốn lá, bệnh đạo ôn cũng đã xuất hiện, gây hại lá từ trung tuần tháng 3 trên các giống nhiễm (nếp các loại, TBR225, J02, Đài Thơm 8…) với tổng diện tích khoảng 200ha.
Đáng lưu ý, bệnh gây hại nặng trên giống nếp, tỷ lệ bệnh phổ biến 5 – 10%, nơi cao 20% số lá, cá biệt xuất hiện ổ bệnh gây lụi thành chòm nhỏ như tại các xã Tam Đa, Hòa Bình, Nhân Hòa, Trấn Dương, Vinh Quang… (huyện Vĩnh Bảo); xã Đại Thắng, Tự Cường (huyện Tiên Lãng); xã Ngũ Phúc, Thanh Sơn, Tân Trào (huyện Kiến Thụy); xã Chiến Thắng, Tân Viên, Quốc Tuấn, Mỹ Đức (huyện An Lão); xã An Hồng, An Hưng, Quốc Tuấn (huyện An Dương).
Th419

Cơn sốt chanh leo ở Tây Nguyên: Giống giả tràn lan, nông dân khốn đốn
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
Chanh leo nhập từ Đài Loan, chanh leo chính hãng, những lời rao bán khắp mạng xã hội đẩy nhiều nông dân vào cảnh điêu đứng vì giống giả, cây chưa kịp lớn đã chết.
Khốn đốn vì mua giống trên mạng xã hội
“Hôm đầu vài cây giống chết, hôm sau thêm chục cây, ngày sau nữa thì hàng loạt cây héo rũ. Em không tin nổi vào mắt mình nữa”, Kpă Y Yô nói.
Nam thanh niên người Ê Đê kể rằng cách đó 1 tuần, anh mua giống chanh dây (chanh leo) từ một phụ nữ trên mạng xã hội với lời quảng cáo: Chanh dây chính hiệu Đài Nông 1, giá 2,6 triệu đồng/thùng/102 cây.
Khi thấy hiện tượng cây giống chết nhiều, Y Yô gọi điện cho người phụ nữ bán hàng tên Nguyen Huong, song không ai nghe máy.
Anh Kpă Y Yô bên cạnh nhiều gốc chanh leo kém chất lượng, vừa trồng vài hôm đã thối rễ. Ảnh: Văn Việt.
Y Yô không phải là trường hợp duy nhất nhận “trái đắng” trong cơn sốt chanh dây đang bùng lên ở nhiều nơi tại Tây Nguyên. Dọc từ Gia Lai đến Đắk Lắk, câu chuyện mua phải giống giả, giống kém chất lượng khiến vườn chanh dây thất thu hoặc chết hàng loạt không phải hiếm.
Trở về nhà khi hoàng hôn buông xuống, nam thanh niên sinh năm 1996 ngồi ủ rũ một góc, trả lời nhát gừng khi người nhà hỏi thăm.
17h ở xã Dliê Yang, huyện Ea H’leo (Đắk Lắk) trời khá tối. Nhà Y Yô không bật điện, vì tiết kiệm. Vợ Y Yô bế con đi ngang, nói: “Mai phải đóng tiền học cho đứa lớn và đứa bé nhé”. Y Yô im lặng, người cha của anh thì thở dài, em trai Y Yô nhìn ra cửa, ánh mắt bất định.
Tiền mua giống chanh dây là của hai anh em góp vào, em trai cũng có 2 đứa con nhỏ. Học phí sẽ đến cùng một lúc. Vốn liếng đã dồn hết vào giống, máy bơm, phân bón. Chừng 7ha cà phê của cả nhà chung sức làm thì chưa tới lúc thu hoạch. Ba người đàn ông ngồi im lặng, mặc bóng tối dần bao phủ căn phòng khách chật hẹp.
Muốn bắt đền người bán cũng không được, vì cuộc mua bán không hề có hóa đơn. Y Yô thấy hàng xóm khá lên vì chanh dây, nên anh cũng muốn làm theo. “Giá chanh dây hiện giờ là 12.000đ đến 17.000đ/kg quả tươi. Mà chỉ cần bán với giá 10.000đ/kg thì cũng đã có lãi rồi. Chưa kể tầm 4 tháng lại cho thu hoạch một lần”, đó là lời hàng xóm nói với Y Yô.
Giá một thùng chanh dây giống Đài Nông 1, 100 cây, chừng 2,8 triệu đồng đến 3,2 triệu đồng, tùy đại lý. Chỉ vì tiết kiệm 200 nghìn đồng, và cả tin, Y Yô ít nhất khiến 4 đứa trẻ rơi vào cảnh thiếu học phí.
Giống chanh dây chưa về, nhiều nông dân đã đợi sẵn, tranh mua. Ảnh: VV.
Cách nhà Y Yô khoảng 50km, chị Nguyễn Thị Th. (nhân vật yêu cầu không nêu tên) còn lâm vào cảnh đáng buồn hơn. Tin vào các quảng cáo trên mạng xã hội, chủ yếu trên facebook, tiktok, chị Th. mua 6 thùng giống chanh dây Tai Shiang được quảng cáo là xuất xứ từ Đài Loan. Với giá 3 triệu đồng/thùng, chị Th. mong đổi vận, song toàn bộ 600 cây giống lăn ra chết sạch, cùng với đó là 18 triệu đồng tiền giống coi như mất trắng, bởi không có hóa đơn chứng từ.
Chị Th. khóc sưng mắt khi kể chuyện. Chồng chị đã bỏ lên rẫy cả tuần nay, với hi vọng vớt vát vào chút ít cây cà phê còn lại.
Bạc đầu vì giống chanh dây kém chất lượng
Nông dân khổ, các đại lý bán giống chanh dây làm ăn chân chính cũng bạc đầu vì câu chuyện cây giống.
Chủ đại lý N.C., ở Ea H’leo, đơn vị có đăng ký kinh doanh cây giống chanh dây than thở: “Mấy năm nay chanh dây được mùa, được giá nên bà con mua rất đông. Không có nguồn cung đủ cũng bị một số người chửi mắng tận nhà, hoặc nhắn tin, gọi điện gây sức ép”.
Đại lý N.C. cho biết thời gian qua, nhiều nông dân phản ánh việc trên mạng xã hội Facebook và Zalo có một người tên L., thường xuyên chào bán giống chanh dây phổ biến như Đài Nông 1, hoặc giống Tai Shiang, Tai One “nhập khẩu từ Đài Loan”.
Không ít nông dân nghĩ rằng nhà N.C. cố ý găm hàng, tăng giá, nên có thời điểm, hàng chục người kéo đến chặn cửa. Họ hi vọng sẽ đón đầu các lô giống khi xe chở hàng tới đại lý. “Ai cũng bảo bên L. có, mà sao bên tôi không có, hay là cố ý để ép giá. Họ chửi mắng ghê lắm, bạc cả đầu, mất ngủ triền miên mà không biết làm sao”.
Nếu N.C. bán các loại giống chanh dây được cấp phép, có hồ sơ truy xuất với giá từ 3 triệu đến 3,2 triệu đồng/thùng thì người bí ẩn tên L. trên mạng xã hội luôn rao bán giống chanh dây có giá thấp hơn 200 nghìn đồng/thùng tùy loại.
Ông chủ N.C. nói gia đình ông cũng trồng chanh dây, đại lý kiêm luôn cả thu mua quả tươi rồi bán lại cho các nhà máy chế biến ở Đắk Lắk và Gia Lai.
“Nói thẳng là cứ bảo giống nhập từ Đài Loan, chứ làm gì có Đài Loan nào, “nhập” từ Gia Lai qua đây đó. Làm ăn không có tâm”, ông chủ N.C. tiết lộ.
Theo ông chủ N.C., tiền mua giống, tiền vận chuyển, nếu thật sự từ Đài Loan về, thì không thể dưới 2,9 triệu đồng/thùng. “Tôi nói luôn là mấy chỗ quảng cáo giống Đài Loan trên mạng xã hội đều là bịp đó, làm ăn không có tâm. Cứ cho là vận chuyển bằng máy bay đi, thùng giống rớt xuống sân bay Tân Sơn Nhất đã phải 3 triệu đồng. Còn vận chuyển lên đây nữa, bán với giá 2,8 triệu đồng thì ai tin nổi”.
Giai đoạn trước khi có dịch bệnh Covid-19, cây giống chanh dây nhập khẩu từ Đài Loan về đến sân bay Tân Sơn Nhất khoảng 1,1 USD, nhà nhập khẩu tính tổng chi phí bán hàng, lợi nhuận thì giá tới tay đại lý thấp nhất cũng đã 2,9 triệu đồng/thùng. Đại lý bán cho người dân khoảng 3,5 triệu đồng/thùng.
Lý giải thêm về việc “chanh Đài Loan nhập từ Gia Lai”, ông chủ N.C. nói vẫn có nông hộ “gặp hên” được lô giống tốt, được mùa được giá. Song đa phần nông hộ khi mua giống trôi nổi trên mạng xã hội, sẽ lâm vào cảnh cây giống chết, hoặc sống được thì năng suất không cao. Hoặc có nông hộ trồng chanh dây, chỉ được vụ đầu, vụ sau cây cho sản lượng cực thấp.
Bên trong cơ sở sản xuất giống chanh dây của Nafoods Group. Ảnh: Văn Việt.
“Trồng chanh dây không dễ, trời nắng nóng là phải “quay béc” (dùng giàn phun tưới trên cao để hạ nhiệt). Nếu không làm thế thì giống nào cũng chết, hoặc năng suất thấp, hoặc rất khó đậu hoa, rụng hoa, rụng trái non hoặc trái nhăn nheo, năng suất thấp, bán không được giá”, ông chủ N.C. chia sẻ.
Phân tích về thị trường, ông chủ N.C. cho biết ở Ea H’leo, giá thu mua quả chanh dây hiện tại thấp nhất là 16.000đ/kg. Với mức giá này, và việc một năm cho thu hoạch từ 3 – 4 lứa, chanh dây đang mang lại thu nhập cho nông dân cao hơn so với cà phê, tiêu.
“Vài năm qua, giá chanh dây tăng đều. Tôi nghĩ dần dần nó còn cạnh tranh với sầu riêng. Phải chịu chăm mới được, và quan trọng là mua giống phải có hóa đơn chứng từ. Mua bán mà cứ nói chơi chơi rồi đến lúc có vấn đề biết kêu ai”.
Nafoods Group hỗ trợ hộ dân bị thiệt hại
Ông Đoàn Ngọc Có, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Gia Lai cho biết, từ giống gốc là giống chanh leo Đài Nông 1 có xuất xứ từ Đài Loan, sau này, một số doanh nghiệp lớn đã ghép và tạo ra các loại giống mới, được cấp chứng nhận là giống đầu dòng, đảm bảo chất lượng khi đưa ra thị trường.
Nhận thấy tiềm năng kinh tế từ cây chanh leo, Công ty Cổ phần Nafoods Group là doanh nghiệp đi đầu tại Việt Nam hợp tác, nhận chuyển giao công nghệ sản xuất từ giáo sư Lin Yin Ta để sản xuất giống chanh leo Đài Nông 1 ngay trên lãnh thổ Việt Nam, địa điểm tại Viện Nghiên cứu Sản xuất cây trồng công nghệ cao Nafoods.
Song song với việc tiếp nhận tiến bộ khoa học, Nafoods Group cũng là doanh nghiệp đầu tiên tại Việt Nam hoàn chỉnh các hồ sơ pháp lý liên quan đến sản xuất và lưu hành giống chanh leo Đài Nông 1. Cụ thể: Sở NN-PTNT Nghệ An cấp “Quyết định công nhận cây đầu dòng chanh leo ” ngày 28/12/2018; cấp “Quyết định chứng nhận vườn cây đầu dòng chanh leo” ngày 07/10/2020.
Sau khi nắm được thông tin trường hợp gia đình anh Kpă Y Yô và chị Nguyễn Thị Th. bị thiệt hại do mua phải giống chanh leo không rõ nguồn gốc xuất xứ, Công ty Cổ phần Nafoods Group đã tặng anh Kpă Y Yô một thùng giống chanh dây trị giá hơn 3 triệu đồng. Đối với trường hợp chị Nguyễn Thị Th., Công ty cũng đã liên hệ để hỗ trợ.
Đại diện của Nafoods Group cũng cho biết, thực tế nhiều đại lý cấp 1 làm việc với đại lý cấp 2 không có hợp đồng, chủ yếu qua “nói chuyện” nên khi phát sinh nhu cầu về cây giống, dễ dẫn đến mâu thuẫn, tranh cãi về sản lượng, giá cả. Đại lý cấp 2 kêu đại lý cấp 1 không được, thường sẽ kêu lên Công ty. Tuy nhiên, Công ty không thể can thiệp vào việc này bởi đại lý cấp 1 muốn bán cho ai, bán với giá bao nhiêu là quyền của đại lý cấp 1, Công ty không thể chỉ định.
Tình trạng này cũng lý giải một phần cho việc nhiều nơi ở Tây Nguyên đang “cháy” giống chanh leo từ các nhà cung cấp được cấp phép, có xưởng sản xuất và cây đầu dòng đạt chuẩn của Bộ NN-PTNT.
Th509