Th821
BÀI 1 ĐẾN BÀI 5: toàn tập kỹ thuật, bí quyết trồng tiêu năng suất trên 10 tấn/ha
TRỒNG TIÊU ĐƠN GIẢN KHÔNG KHÓ NHƯ MỌI NGƯỜI NGHĨ QUAN TRỌNG LÀ BÍ QUYẾT VÀ KIẾN THỨC ĐỂ CÓ 1 NỀN NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ CHÂN CHÍNH. HÔM NAY CHÚNG TA CÙNG NHAU NGỒI LẠI, XEM XÉT, NGHIÊN CỨU CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU? KINH NGHIỆM KIẾN THỨC CHÚNG TA ĐÃ ĐỦ CHƯA? LIỆU CHÚNG TA CÓ THỂ BIẾN VƯỜN TIÊU CỦA CHÚNG TA ĐẠT NĂNG XUẤT 15 TẤN/HA NHƯ ÔNG QUÉO HAY KHÔNG? LIỆU CHÚNG TA CÓ THỂ LÀM RA TIÊU ĐỎ GIÁ GẤP 3 LẦN TIÊU ĐEN HAY KHÔNG? LÀM SAO ĐỂ TĂNG THU NHẬP TRÊN 1ha LÊN GẤP 5 LẦN ? HY VỌNG CHÚNG TA BÌNH TĨNH CÙNG NHAU ĐỌC, NGHIỀN NGẪM, ĐÚC RÚT QUA 35 BÀI HỌC VỪA LÀ KIẾN THỨC KHOA HỌC VỪA LÀ KINH NGHIỆM SƯƠNG MÁU, BÍ QUYẾT CỦA BAO NGƯỜI CÙNG SỰ THÀNH CÔNG ĐẠT ĐƯỢC QUA THỰC TẾ CỦA CTY. HÔM NAY CHÚNG TÔI CHÂN TRỌNG CHIA SẺ NHỮNG THÀNH CÔNG ĐÓ CHO BÀ CON. CÁC BÀI HỌC ĐƯỢC SẮP XẾP THEO THỨ TỰ TỪ CƠ BẢN ( từ bài 1 đến bài 14) ĐẾN BÍ QUẾT, NÂNG CAO ( từ bài 15 đến bài 35) CÓ PHẦN NÀO KHÔNG HIỂU MỌI NGƯỜI CÓ THỂ ĐIỆN TRỰC TIẾP ĐẾN CHUYÊN VIÊN KỸ THUẬT CTY ĐỂ TRAO ĐỔI SÂU HƠN.
BÀI 1: KỸ THUẬT CƠ BẢN NHẤT TRONG TRỒNG TIÊU
Nguồn: Sở Nông nghiệp & PTNT
Quy trình kĩ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch và chế biến Hồ tiêu ở Chư Sê- gia lai
( bà con tự tìm hiểu và đọc thêm vì hơi dài )
BÀI 2: CHIA SẺ VỚI CÁC BẠN MỚI TRỒNG TIÊU
Bài viết là những tâm tình của bạn tieuphong ở Trảng Bom-Đồng Nai dành cho các bạn mới làm quen với nghề trồng tiêu, loại cây trồng “khó tính khó nết” rất mẫn cảm với dịch bệnh. Bài viết còn là tri thức và kinh nghiệm của một người và một đời trồng tiêu muốn san sẻ với cộng đồng
Theo tôi những người trồng tiêu được vài ba năm có thể gọi là nhữngngười mới trồng tiêu. Vì khi cây tiêu đi vào kinh doanh, thường từ 5 tuổi trở lên, mới cho thu hoạch đáng kể.
Trong thời gian kiến thiết cây tiêu ít gặp bệnh tật, thế nên mọi người mới chủ quan, mải mê chạy theo năng suất, chứ ít quan tâm tới việc phòng, chữa bệnh cho cây.
Gần đây tôi thường nhận được nhiều cuộc gọi của nhiều bạn ở những tỉnh trọng điểm trồng tiêu thú nhận rằng: “Từ trước đến giờ tiêu không bị bệnh nên không biết đường chữa”. Nay thì bệnh chết nhanh đã lây lan thành dịch khắp vườn, cứ mỗi ngày chết vài cây… lo quá! Hoang mang, bối rối, bi kịch cuộc đời từ đây. Lẽ thường “có bệnh thì vái tứ phương”. Thế là cuống lên, ai chỉ sao thì làm vậy, thuốc này thuốc nọ, phun phun, xịt xịt… Cuối cùng thì tiền mất tật mang, tiêu chết cứ chết, đất bị ngộ độc, người thì “tẩu hỏa nhập ma” . Phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh, câu nói cửa miệng còn “xưa hơn Diễm” vẫn có giá trị muôn đời.
Ngay từ khi đào hố, làm bồn thì cũng chính cái bồn đó sẽ chôn vùi sự nghiệp trồng tiêu của mình.
Có bạn băn khoăn, nếu không làm bồn thì cho phân tưới nước như thế nào? Chẳng phải lo lắng gì cả, nên đắp đất lên gốc tiêu theo hình mu rùa, ngăn chăn nước đọng vào vùng cổ rễ tiêu. Nhu cầu nước cho cây tiêu không nhiều như café, chôm chôm… Vào mùa nắng nếu không lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt, có thể tưới tràn. Tiêu mới trồng chỉ nên vét sơ thành cái bồn nhỏ. Lưu ý khi làm bồn là kéo đất bên ngoài vào, không nên vét đất bên trong gốc tiêu ra. Khi bón phân thì tưới nước, rê vòi lướt qua các bồn, nhanh tay tưới qua lại vài lần không để nước ngập bồn, phân sẽ tan mà không lo trôi mất.
Các nhà sản suất phân bón thường hướng dẫn lượng phân bón cho cây hằng năm, bón định kỳ chứ không hướng dẫn cho ta nhận biết khi nào cây cần phân. Bạn Minh Vịnh cho ta biết sinh lý của cây thể hiện qua lá. Đúng vậy, chúng ta phải biết quan sát lá cây. Vườn cây phát triển tốt là bộ lá phải xanh bóng, mỡ màng, không tì vết, lúc nào cũng có đọt non…
Bón phân lúc nào là hợp lý, muốn biết thì thường xuyên kiểm tra bộ rễ. Công việc này tôi thường nói vui là “3 trong 1”. Một là kiểm tra nấm bệnh, thường thì các vết thâm đen xuất hiện nơi cổ rễ, hai là kiểm tra rệp sáp, ba là theo dõi khi nào cây có nhu cầu về dinh dưỡng. Khi cần phân, tự cây sẽ cho ra bộ rễ cám (rễ trắng), các rễ này có nhiêm vụ hút phân. Không có bộ rễ này mà chúng ta cứ cho phân thì hiệu quả sẽ không như mong muốn. Ví như trời nắng mà phun phân bón lá, lúc ấy các lỗ khí khổng đã khép lại thì cây làm sao hấp thụ được dinh dưỡng. Rễ cây mà không hấp thụ được phân thì một phần sẽ thẩm thấu gây ô nhiễm mạch nước ngầm, một phần bốc hơi trong không khí góp phần vào hiện tượng mưa a xít, và lãng phí.
Tôi có hai anh bạn năm nay gần 60 tuổi, một anh sử dụng phân gà, một anh sử dụng phân cút không ủ hoai, không xử lý mầm bệnh. Sau 2 năm bỏ ra hằng trăm triệu đồng để chữa bệnh mà tiêu vẫn rụng như lá mùa thu, giờ thì đành rưng rưng “tiễn em lên đường”. Gần đây có anh bạn trẻ alo cho tôi: “lá, trái rụng quá làm sao đây anh?” Năm lần bảy lượt như thế, gặng hỏi để tìm ra nguyên nhân thì “tiêu em làm bồn và cho phân bò tươi”. Ôi thôi! Cứ thuốc này thuốc nọ chạy theo nó thì e rằng lại “tiền ra như nước sông Đà…” Mong các bạn đừng theo bước chân hai anh bạn già của tôi.
Chúng ta nên tập cho mình thành thói quen ghi chép cẩn thận, chi tiết, những việc làm của mình như bón phân, làm bông và xử lý dịch bệnh, làm tài liệu lưu trữ cho mình để rút kinh nghiệm cho những lần sau. Xây dựng cho mình quy trình chăm sóc, quản lý dịch bệnh.
Hãy chọn cho mình nhà sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật uy tín để “trao thân gửi phận”. Có những cty sản xuất phân, thuốc trọn bộ, thuốc thì từ làm bông đến xử lý các loại bệnh, phân thì nên chọn loại hữu cơ vi sinh không có nguồn gốc từ phân gà, phân heo,phân rác, phân bồn cầu, bể phốt….( tốt nhất dùng phân bò tự ủ hoại mục), trong phân hữu cơ vi sinh có những vi sinh vật có ích giúp cho rễ cây hấp thụ phân bón tốt hơn nhưng hầu hết các cty không làm được phân hữu cơ sạch dành cho tiêu. Nên phun phân bón lá định kỳ để cung cấp trung, vi lượng cho cây, và có thể phối hợp với thuốc ngừa bệnh trong các lần phun. Tốt nhất là nên phối hợp các loại phân, thuốc của cùng một cty, như thế an toàn hơn. Trường hợp phối hợp thuốc giữa hai cty khác nhau thì phải có sự hướng dẫn cẩn thận. Cách đây vài hôm có một bạn nhỏ ở Dốc Mơ băn khoăn: mình sử dụng phương pháp vô cơ kết hợp hữu cơ thì nấm tricoderma làm sao tồn tại được? Vấn đề là ở chỗ đó. Làm cách nào mà đừng để cho tay phải sanh, dưỡng còn tay trái thì hủy, diệt. Điều này cũng làm rất nhiều người băn khoăn và ngạc nhiên vì chưa thấy ai đặt vấn đề, thế nên tôi mới khuyên nên pha trộn các loại thuốc với nhau của cùng một cty, vì có loại thuốc sinh học cũng trị được nấm bệnh mà không làm ảnh hưởng đến tricoderma.
Mỗi vùng, miền có thời tiết khác nhau, nhất là trong thời điểm hãm nước làm bông, không nên cứng nhắc, nương theo trời đất mà làm. Thí dụ năm ngoái phun kích thích ra hoa vào ngày 20/4 nhưng năm nay mưa muộn hơn thì phun vào ngày 2/5, nên uyển chuyển theo thời tiết. Nhìn Trời nhìn Đất mà làm chứ chẳng chống Trời được đâu. Nhà nông còn phụ thuốc rất nhiều vào thời tiết, như năm nay cơn bão số 1 nhiều người không biết “đánh thức miên trạng”của cây tiêu nên tiêu ra nhiều lá, ít bông, làm không ít nhà vườn điêu đứng.
Không dễ dàng gì mà chỉ trong một sớm một chiều thuyết phục được mọi người chuyển hướng, từ lối canh tác vô cơ theo hướng hữu cơ sinh học, thế cho nên tôi rất cách dùng từ của anh Tinh trần Ba “từ từ cai nghiện hóa học”(người đã thấy được hậu quả của việc lạm dụng hóa học). Nếu bạn nào chưa tin vào hướng canh tác hữu cơ sinh học thì nên chia vườn tiêu của mình thành 3 lô để tự kiểm nghiệm,1 lô canh tác hướng vô cơ, 1 lô canh tác hướng vô cơ kết hợp hữu cơ và 1 lô chuyên canh tác hữu cơ. Theo dõi, so sánh từ 2-3 năm để đánh giá hiệu quả, lựa chọn cho mình một con đường đi.
Một khi đã tìm được giải pháp cho mình rồi thì tình thần thoải mái, nhẹ nhàng. Vườn tiêu mỗi năm chết vài cây là chuyện bình thường, không lo dịch bệnh lây lan. Cuộc đời làm vườn của tôi mấy mươi năm sử dụng thuốc hóa học, nghĩ lại sợ quá, giờ thì mơ ước một ngày nào đó trên bao bì của một số loại thuốc có dòng chữ “sử dụng sản phẩm này có thể gây bịnh ung thư”… để mọi người biết mà cân nhắc trong việc làm của mình.
Từ đầu mùa mưa đến giờ mải mê vật lộn với con rệp sáp, lũ bất lương đó cứ chực chờ nhảy vào cắn phá rễ tiêu, nay đã tìm được cách đối phó bằng biện pháp sinh học. Hy vọng một ngày gần đây sẽ viết được một bài với cái tựa “Rệp Sáp tên vô lại”.
BÀI 3: KINH NGHIỆM ÔNG VUA HỒ TIÊU 15 TẤN/ha
MỘT BÀI VIẾT NGÀY 3-2-2008 VỀ ÔNG VUA HỒ TIÊU CHƯ SÊ –GIA LAI
Hộ nông, dân Nguyễn Văn Quéo ở tổ 12 thị trấn Chư Sê, Gia Lai trồng tiêu năng suất đạt 15 tấn/ha. Đây là vườn tiêu có năng suất cao nhất thế giới hiện nay. Vườn tiêu mỗi hécta thu 1,5 tỷ đồng một năm.
Anh Quéo có một bí quyết: Giữa lúc hầu hết dân trồng tiêu đổ xô chặt cây rừng làm trụ thì anh bỏ hàng trăm triệu đồng đúc trụ bê tông. Đến nay hiệu quả trồng tiêu trên trụ bê tông đã rõ.
Anh giải thích: Trụ gỗ thường không thẳng, chỗ cong ánh sáng không đến dễ phát sinh sâu bệnh. Thân gỗ khiến loài mối bám vào đó leo lên phá hoại tiêu. Việc thay thế trụ tiêu bằng trụ xi măng còn giúp người trồng tiêu giải được bài toán phá rừng.
Nhìn vườn tiêu người cựu thanh niên xung phong này chúng tôi không khỏi thán phục. Hàng nghìn trụ tiêu tăm tắp đều như một, như xếp, quả trĩu cành.
Sản lượng 15 tấn/ha, trong đó 50% tiêu đỏ giá bán 175.000đ/kg, 50% tiêu đen giá 50.000đ/g, mỗi hécta tiêu cho anh thu nhập không dưới 1,5 tỷ đồng. Đấy là chưa kể, năm 2007 riêng tiền bán tiêu giống 2,5 hécta thu nhập gần 500 triệu đồng.
Chư Sê mỗi hécta tiêu năng suất từ 10 đến 12 tấn có người làm được song 15 tấn/hécta chỉ mỗi anh Quéo. Phó chủ tịch Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam bảo đây là năng suất tiêu cao nhất thế giới.
Anh Quéo hé lộ bí quyết: Vườn tiêu của anh tuyệt đối không bón phân hóa học, chỉ bón phân bò 10kg/gốc/năm sau đó phủ 1 lớp dơm dạ phủ lên trên. Mùa khô mỗi tháng anh tưới nước cho tiêu 1 lần. Vườn cây phải thoáng đãng. Từ năm thứ 3 trở đi chỉ nhổ cỏ mà tránh đào xới làm đứt rễ tiêu.
Các loài sâu bệnh trên tiêu xử lý thuốc bảo vệ thực vật chỉ thực hiện ở gốc, tránh phun trực tiếp lên lá. Điều đặc biệt quan trọng là chọn, xử lý giống lúc mới trồng. Anh cho rằng khí hậu Tây Nguyên trồng giống tiêu Phú Quốc là thích hợp nhất.
Nhiều giải pháp kỹ thuật chế biến tiêu
Mới học đến lớp 7, chưa ra nước ngoài lần nào song anh Quéo được Hội thi sáng tạo kỹ thuật tỉnh Gia Lai lần thứ 3 năm 2007 trao một giải nhì, một giải ba (không có giải nhất) cho 2 sản phẩm: “Chế biến sản phẩm hồ tiêu đỏ” và “Máy bóc vỏ hạt tiêu (trắng)”.
Từ trước đến nay trong nước chỉ sản xuất sản phẩm tiêu trắng (tiêu sọ) và tiêu đen bình thường. Tiêu đỏ là những quả tiêu chín mọng, được chọn lựa kỹ, công phu chất lượng sản phẩm cao, thơm ngon hơn, giá bán gấp 3,5 lần tiêu thường.
Việc thu hoạch tiêu đỏ theo anh Quéo không làm ảnh hưởng đến năng suất vườn tiêu như lâu nay nhiều người trồng tiêu vẫn nghĩ. Nếu thu tiêu chín chỉ cần 2,3 kg đến 2,5 kg tươi được 1 kg khô, tăng khoảng 30% sản lượng. Chất lượng tiêu cũng tăng cao nên giá bán cao hơn.
Thu hoạch tiêu chín mất nhiều thời gian song bù lại sản lượng tăng, lợi nhuận hơn lúc hái sớm. Để sản xuất tiêu đỏ, sau khi thu hoạch, bóc hạt, phân loại tiêu chín, rửa nước sạch, trộn cồn thực phẩm khử trùng và tạo độ bóng. Sấy khô trên lò ga ở nhiệt độ khoảng 40 độ cho đến lúc độ ẩm còn 12,5% là đạt.
Anh Quéo còn tạo ra máy bóc vỏ hạt tiêu bằng trục thẳng đứng thay cho máy bóc vỏ thông thường trục ngang. Tỷ lệ tiêu bóc vỏ theo máy thẳng đạt 75%, tăng 5% so máy bóc vỏ trục ngang, tỷ lệ hạt vỡ không đáng kể.
Ông Nguyễn Dũng – Chủ tịch UBND huyện Chư Sê, kiêm Phó chủ tịch Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam cho biết sắp tới huyện sẽ giao cho anh Quéo 30ha đất làm mô hình trình diễn cho người trồng tiêu đến học tập kinh nghiệm.
Đây cũng là một trong những nơi quảng bá thương hiệu hồ tiêu Chư Sê. Ông Dũng kỳ vọng mô hình sản xuất tiêu năng suất cao của anh Quéo sẽ nhanh chóng phổ biến đến nhiều hộ trồng cây hàng hóa này.
BÀI 4: KỸ THUẬT NHÂN GIỒNG HỒ TIÊU
Vườn hồ tiêu trồng đã 27 năm của gia đình Nguyễn Minh Vịnh.
Muốn thành công trong bất kì lĩnh vực nào cũng phải có mục tiêu rõ ràng, có ước mơ để tạo động lực cho ta phấn đấu, tìm tòi học hỏi, đúc kết kinh nghiệm từ bản thân, gia đình và của người đi trước. Và tuyệt đối không được nản chí trên con đường mà ta đã chọn. Trồng cây hồ tiêu cũng vậy.
Khi mới bắt đầu trồng hồ tiêu, tôi may mắn hơn nhiều người khác là được thừa hưởng kinh nghiệm của gia đình. Một kỹ sư công nghiệp trẻ, bỏ về vườn trồng tiêu thì có rất nhiều lời đàm tiếu. Thậm chí cái cuốc còn cầm không nổi, vì bao năm đèn sách tôi chỉ biết cầm cây bút. Phải học từ những nhát cuốc đầu tiên, học từ những người thân trong gia đình đã chỉ cho tôi biết làm thế nào để trồng cây hồ tiêu. Tôi rất biết ơn những người thân đã giúp đỡ để nay tôi có thể chia sẻ kinh nghiệm lại với bà con.
Hồ tiêu là một loại cây dây leo hoang dại trong rừng được con người mang về trồng từ rất lâu. Hồ tiêu nguyên thủy có chủ yếu là bông đơn tính nên khả năng đậu hạt rất thấp. Hồ tiêu ngày nay năng suất cao nhờ có sự chọn lọc nhân tạo là chính. Cây còn có thể thụ phấn nhờ vào sức gió, côn trùng,… nhưng nhiều nhất vẫn là khả năng tự thụ phấn nếu là bông lưỡng tính. Những bông đơn tính sẽ rụng giống như bông cây trầu không, có ra bông nhưng không đậu hạt.
Hồ tiêu là cây công nghiệp đa niên. Vì vậy, việc chọn giống tốt có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, sản lượng và khả năng đề kháng với dịch bệnh sau này. Theo tôi, khâu quan trọng nhất của việc trồng hồ tiêu chính là chọn giống. Chọn giống làm sao để cho năng suất cao và phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của vùng trồng. Phải chọn những giống có nguồn gốc rõ ràng, đã kiểm định được năng suất và khả năng kháng dịch bệnh, chống chịu với điều kiện bất lợi của môi trường.
CÁC CÁCH NHÂN GIỐNG
Có nhiều phương pháp nhân giống hồ tiêu như: bằng hạt, bằng dây hom, chiết và có thể ghép.
Sự khác biệt giữa giống tốt và giống xấu
- Nhân giống bằng hạt
Việc nhân giống bằng hạt sẽ không đảm bảo những cây con hoàn toàn cho năng suất như cây mẹ. Có thể nó cho ra giống mới năng suất cao hơn. Nhưng cũng có thể nó cho ra cây kém năng suất. Mà cây tiêu chủ yếu tự thụ phấn nên khả năng thoái hóa khi nhân giống bằng hạt là rất lớn. Chỉ có một số ít hạt thụ phấn chéo nhờ gió hay côn trùng thì có thể mang những đặc tính nổi trội của ưu thế lai. Cây tiêu trồng tới ngày nay thì khó tìm thấy cây còn thuần chủng.
Nhược điểm lớn nhất của nhân giống bằng hạt là cây rất lâu ra ác, lâu có trái và cũng không đảm bảo là cây sẽ mạnh hơn phương pháp nhân giống bằng hom cho dù đã chăm sóc đúng cách. Nhưng nếu bà con nào vẫn có ý định nhân giống bằng hạt thì nên chọn giống từ cây bố mẹ mạnh khỏe, hạt to và đều hạt, không bị bồ cào. Giống đó là do mình chọn hạt đem nhân chứ không nên lấy cây mọc lang, mọc dại đem nhân giống. Lấy như vậy sẽ không đảm bảo chất lượng cây giống. Đợi cho tới khi nó ra trái mới biết năng suất kém cũng mất vài năm, nhổ bỏ thì tiếc mà không nhổ bỏ thì cũng chẳng có lợi về mặt kinh tế. Mục đích chính của bà con trồng tiêu là sản lượng thu hoạch được, chứ không phải là tìm hiểu về các phép lai hay nguồn gen như các nhà khoa học.
- Nhân giống bằng hom
Với phương pháp nhân giống này cây con mang đặc tính giống hệt cây mẹ.
Ưu điểm là dể thực hiện, và có thể nhân giống nhanh chóng. Bà con ta thông thường nhân giống bằng lươn (lươn là tiêu mọc bò dưới đất, còn tiêu trên đọt mà không có chỗ leo nữa nó thòng xuống gọi là lươn thòng), hay bằng dây bám trong thân mà chưa ra tay gọi là lươn thân. Và dây bám vào thân đã ra tay gọi là tiêu ác, phần tiêu ra tay ở dưới gốc sau đó bò dài ra gọi là ác gốc. Cách nhân giống khá đơn giản.
Chọn dây đã già cứng cáp có nhiều mắt rễ khí sinh (rễ bám) thì cây sẽ phát triển tốt hơn.
Cắt lấy khoảng 3-4 mắt, chiều dài tối ưu là 30-40 cm tùy vào khoảng cách của mắt dây.
Cắt bỏ hết lá và tay phía dưới bầu đất ươm. Chừa 2/3 lá phần phía trên, cây sẽ phát triển mạnh nhất. Thường ít khi nhân giống bằng lươn thòng, vì không có mắt rễ khí sinh nên cây sẽ phát triển chậm hơn. Có khi cây con trồng leo lên tới ngang ngực mà nhổ lên chỉ có vài cái rễ.
Dựa theo cách chọn hom giống mà ta phân ra làm hai loại là trồng bằng lươn hay trồng bằng ác.
Trồng bằng lươn có nhược điểm là cây lâu ra trái hơn nhưng ưu điểm là cây mạnh hơn và tuổi thọ sẽ cao hơn, cây hồ tiêu kinh doanh sẽ lâu suy hơn trồng bằng ác.
Trồng bằng ác lại mau cho ra trái nhưng cây nhanh già cỗi và sớm suy thoái. Với phương pháp chăm sóc tốt, cho dù trồng lươn hay ác, hồ tiêu có thể kéo dài tuổi thọ trên 35 năm.
Cách ươm giống bằng hom
Theo kinh nghiệm, những nhà vườn trồng tiêu năng suất cao chung quanh tôi phân ra làm hai cách ươm. Tôi áp dụng cả hai cách và thấy cả hai đều hiệu quả. Nên tôi chia sẻ với bà con như sau:
- Cách ươm bài bản
Chuẩn bị bầu ươm kỹ càng bằng cách trộn xơ dừa, tro trấu và đất. Tỉ lệ 50% đất 25% xơ dừa và 25% tro trấu trộn đều với nhau. Dây hom được ngâm vào dung dịch ra rễ cực mạnh trong 5 phút. Vườn ươm phải có sự chuẩn bị, có che chắn cho cây phát triển mạnh. Khi cây đã phát triển mạnh rồi mới được đưa đi trồng. Trước khi đem trồng phải tháo bỏ dàn che chắn, cho cây ra ánh sáng để cây cứng cáp với chế độ ánh sáng tăng dần. Khi trồng, quan trọng nhất là hố đã xử lý tốt để ngăn ngừa dịch bệnh. Phải bón lót đầy đủ phân chuồng hoai mục đã xử lý với lượng 10kg/ hố. Thông thường hố có kích thước 40x40x40cm với đất có tầng canh tác dày, rút nước tốt. Và hố có kích thước 50x50x50cm với đất khó rút nước. Lượng phân chuồng theo kinh nghiệm của tôi thì cứ ngập 2/3 hố là tốt. Sau đó đảo trộn đều, để tối thiểu 20 ngày sau mới xuống giống, hoặc để 1 tháng hay 1 tháng rưỡi cho chắc ăn hơn. Khi xuống giống tiêu không còn sợ cháy rễ vì rễ non của tiêu rất dễ bị tổn thương. Có thể bón lót thêm một tí lân + phân gà đã xử lý chuyên dùng bón lót tiêu con. Tuy đào hố sâu vậy nhưng chỉ trồng cạn thôi, với độ nghiêng chừng 700 so với mặt đất. Không nên dằn chặt đất quá, rễ sẽ kém phát triển. Chỉ dằn gốc và gần mặt cho cây giống khỏi lay. Nếu dây tiêu dài thì nên cột vào một cây giả (nọc phụ) cho tiêu leo lên cây giả trước. Khoảng cách giữa cây tiêu và gốc cây (hoặc nọc) cho tiêu leo là 25 cm và trồng theo 1 hướng nhất định, trồng như vậy sẽ dễ đôn tiêu.
Khi đôn tiêu thì nên khoanh 1 chỗ và 1 hướng cho ta dễ chăm sóc sau này. Tuyệt đối không đôn vòng quanh gốc cây tiêu leo. Vì đôn như vậy sau này rễ tiêu rất dể bị tổn thương khi ta phát cỏ, bón phân… Lưu ý hướng gió bão. Ví dụ: Hướng gió thổi mạnh là từ tây sang đông thì trồng hướng đông đôn sang hướng tây (ngược lại) để cây dễ leo, và khi leo sẽ ít bị tuột. Trồng 1 hướng thôi nhé. Yêu cầu này thường chỉ những người trồng tiêu có kinh nghiệm lâu năm mới để ý. Chỉ nên đôn tiêu khi cây đã ra vài cặp tay cứng cáp. Nếu đôn quá non cây sẽ ra lươn lại, phải mất công bấm đọt. Còn đôn quá già cây sẽ khó ra rễ và hay bị rầy trắng tấn công. Phải xử lý sạch hết rầy trắng trước khi đôn.
- Cách ươm theo chọn lọc tự nhiên hay chọn lọc nhân tạo
Chẳng có chuẩn bị gì. Cứ cắt hom vô trồng trong đất nhà mình, cây sẽ lên tự nhiên. Hom nào yếu thì sẽ chết ngay lúc mới trồng. Sau khi trồng xuống đất, gặp điều kiện môi trường thích hợp, cây nào sống sẽ phát triển rất mạnh và ít bị bệnh tật. Kiểu chăm sóc “con nhà khó” như của đồng bào thiểu số đó mà. Đây là cách ươm chọn lọc tự nhiên.
Ngoài ra khi giâm hom người ta có thể ủ trong cát khoảng 20-30 ngày để cho cây ra rễ. Khi nhổ hom lên để ươm vô bầu với giá thể đất, xơ dừa và tro trấu, thấy cây nào không ra rễ thì vứt bỏ. Cây nào rễ mạnh thì ta ươm, chăm sóc. Lưu ý cẩn thận không làm đứt rễ, và không ngâm trong bất kỳ dung dịch phân nào, kể cả phân bón lá, cây sẽ bị cháy rễ non. Đây cũng là cách ươm theo chọn lọc nhân tạo.
III. Nhân giống bằng phương pháp chiết
Bó chiết tiêu lươn
Đầu tiên, phải chọn những cây tiêu bố mẹ là những cây khỏe mạnh, thường là những cây 2-3 năm tuổi.
Với cây tiêu đã ra ác cao chừng 2 mét, bó tiêu y như chiết cây bình thường. Chọn những dây có rễ bám nhiều (rễ khí sinh), sau đó bó lại chừng 2-3 mắt rễ. Tôi thường dùng giá thể là rễ lục bình trộn với tro trấu và đất ẩm.
Bên trong bó bằng rễ lục bình để giữ nước và kích thích cây ra rễ. Bên ngoài bọc đất trộn tro trấu. Nếu có khô bầu thì chỉ khô đất chứ bên trong vẫn giữ ẩm không sợ cháy rễ. Đợi sau 10 ngày kể từ ngày bó bạn dùng kềm bấm dập phía dưới bầu đất, cẩn thận đừng bấm ngược nhé. Đây là thủ thuật đúc kết từ kinh nghiệm. Nhớ tưới giữ ẩm, tránh không để bầu đất khô. Sau khi bấm dập khoảng 30-45 ngày có thể cắt khúc tiêu đó xuống trồng. Trồng chừng 4-5 mắt rễ khỏi tốn công đôn tiêu.
Khi trồng, phải che chắn bằng lá chuối khô hay bao bì gì đó để ngăn ánh nắng trực tiếp trong vòng 20 ngày đầu và tháo dần sau 1 tháng. Để cây không bị sock nên trồng vào lúc chiều mát. Với phương pháp nhân giống này, có thể trồng tiêu quanh năm…
Bó chiết lươn thòng, bấm dập ngược so với chiết ác.
Bó chiết tiêu ác. Cây tiêu chiết mới 4 tháng tuổi, được chiết lại để nhân giống thêm.
Cây tiêu chiết mới trồng được 2 tuần tuổi. Chung quanh gốc là cây lạc dại và vạn thọ
- Nhân giống bằng tiêu ghép
Phương pháp nhân giống tiêu bằng cách ghép chỉ trong giai đoạn thực nghiệm, chưa có đủ thời gian để khẳng định tuổi thọ của cây như tiêu trồng bằng phương pháp thông thường.
Hơn nữa, với 2 cách nhân giống để trồng bằng hom và cách chiết tiêu cộng với kinh nghiệm chăm sóc hồ tiêu của gia đình tôi ít khi gặp bệnh tật. Do đó tôi không thực hiện nhân giống bằng cách ghép tiêu. Bà con nào đã thực hiện thành công cách ghép tiêu xin chia sẻ. Tôi sẽ học hỏi và chân thành cảm ơn.
BÀI 5 VÌ SAO TRỒNG LẠC DẠI, HOA CÚC TRONG VƯỜN TIÊU
Trồng hoa cúc trong vườn tiêu giảm được tiền mua thuốc trừ sâu
Gần đây, ở huyện Cẩm Mỹ – Đồng Nai xuất hiện mô hình trồng tiêu “lạ”. Khi chúng tôi nhìn tận mắt và nghe chủ vườn kể mới hay, cái “lạ” này có thể giúp người trồng tiêu giảm chi phí và làm ra sản phẩm sạch.
Mô hình sản xuất tiêu “lạ” đó được một số nông dân ở xã Lâm San áp dụng và kết quả cho họ lợi nhuận thêm vài chục đến hàng trăm triệu đồng/ha/năm. Sau một thời gian làm thử thấy mang lại hiệu quả cao, họ truyền kinh nghiệm cho nhau để nhân rộng.
Trồng hoa cỏ trong vườn tiêu
Sau cơn mưa, cây cối như khoác một màu áo mới tươi xanh mơn mởn. Chủ vườn Nguyễn Văn Quang ở ấp 2, xã Lâm San dẫn chúng tôi đi thăm khu vườn tiêu rộng gần 0,5 ha được trồng xen với hoa cúc. Bước vào vườn tiêu, chúng tôi như lạc vào thế giới khác. Từng nọc tiêu vươn cao xanh ngắt đang thời kỳ cho trái xum xuê. Giữa hai hàng tiêu là từng bụi cúc cánh bướm, cúc vạn thọ đang khoe sắc. Từng đàn ong, bướm đủ màu rủ nhau về hút mật.
Nếu không được nói trước, vô tình lạc vào đây sẽ nghĩ chủ vườn là một nhà thơ hay nghệ sĩ, họa sĩ gì đó mới có lối trồng cây lãng mạn như vậy. Thế nhưng, chủ vườn lại là nông dân thứ thiệt, quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Anh Quang cho hay: “Tôi nghe nói, trồng hoa cúc trong vườn tiêu sẽ dẫn dụ được các loại thiên địch về diệt bớt các loại côn trùng gây hại nên làm thử. Trồng rồi, tôi thấy tiêu ít bị sâu bệnh, phát triển tốt, năng suất tăng cao, mỗi năm giảm được trên 500 ngàn đồng/sào tiền mua thuốc trừ sâu để phun xịt. Với lại trồng hoa trong vườn tiêu, mỗi lần ra chăm sóc thấy không gian trong lành, thoang thoảng mùi thơm của hương hoa cũng làm giảm bớt mệt nhọc”.
Khác với anh Quang, ông Trần Văn Tấn ở ấp 2, xã Lâm San trồng cỏ lạc dại (đậu phộng dại) trong vườn tiêu.
Đưa chúng tôi ra vườn tiêu rộng mênh mông, giữa các hàng tiêu là cỏ lạc dại mọc tươi tốt như một tấm lụa xanh trải dài có điểm xuyết màu vàng rực rỡ. Không giấu được niềm vui, ông Tấn kể: “Thảm đậu phộng dại này làm lợi cho tôi cả trăm triệu đồng mỗi năm đấy. Tôi có hơn 1ha tiêu, mấy năm trước chăm sóc theo phương pháp truyền thống, năng suất chỉ gần 3tấn/ha/năm. Khoảng 2 năm nay, tôi trồng xen cỏ đậu phộng dại trong vườn tiêu, năng suất tăng lên 4 tấn/ha/năm và giảm một nửa lượng phân bón hóa học”.
Nhờ trồng cỏ lạc dại trong vườn tiêu, chi phí đầu vào cho cây tiêu của ông Tấn giảm gần 20 triệu đồng/ha/năm tiền phân bón hóa học. Cộng với năng suất tiêu tăng hơn 1tấn/ha/năm nên vụ tiêu vừa qua, mỗi ha tiêu ông Tấn lời thêm hơn 100 triệu đồng.
Hướng đến sản xuất sạch
Lâu nay, nông dân trồng tiêu phần lớn chăm sóc theo cách trong vườn phải làm sạch cỏ, khi bị sâu bệnh thì phun thuốc phòng trừ. Hầu hết không ai biết, trồng hoa cúc và một số loại hoa, cỏ khác trong vườn tiêu có thể phòng trừ được nhiều loại sâu bệnh gây hại. Thạc sĩ Trần Thị Phương Chi, ở Chi cục BVTV Đồng Nai, cho biết: “Các nước có nền nông nghiệp phát triển như Hàn Quốc đang hướng đến sản xuất nông nghiệp sinh thái. Cụ thể, họ hạn chế dùng các loại thuốc trừ sâu, chỉ sử dụng các loại thuốc sinh học ít gây hại cho môi trường và con người. Đồng thời họ trồng xen cây hoa, cỏ có ích trong vườn, ruộng để dụ thiên địch về diệt các loại côn trùng gây hại. Với cách làm trên sẽ giảm chi phí đầu vào cho sản xuất, năng suất cây trồng tăng và nông sản đảm bảo vệ sinh”.
Bà Phùng Thị Thanh Tú, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Cẩm Mỹ, cho hay: “Tới đây, Hội Nông dân huyện sẽ phối hợp với hội nông dân các xã tuyên truyền những mô hình sản xuất tiêu an toàn cho năng suất, chất lượng cao để hội viên có thể đến tham quan, học hỏi kinh nghiệm và nhân rộng. Các mô hình trên rất dễ thực hiện trong khi hiệu quả đem lại khá cao”.
Hiện nay, chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp mỗi năm đều tăng. Trong đó, tăng nhiều vẫn là phân bón hóa học, thuốc BVTV. Nếu chọn được mô hình giảm chi phí, năng suất được nâng lên thì lợi nhuận của nông dân sẽ tăng. Thạc sĩ Chi cũng cho biết, các loại hoa cúc, cỏ lạc dại có thể trồng xen trong các vườn trồng cây khác cho hiệu quả rất tốt.
Th821
QUY TRÌNH TRỒNG THANH LONG XUẤT KHẨU
QUY TRÌNH TRỒNG THANH LONG XUẤT KHẨU
Procedures for growing Dragon fruit for export
(Hylocereus undatus Haw)
Áp dụng cho cây THANH LONG trồng tại Việt Nam và trồng bằng cành (hom).
Qui trình trồng
1. Yêu cầu sinh thái
1.1. Nhiệt độ
Cây THANH LONG (Hylocereus undatus Haw.) có nguồn gốc ở vùng sa mạc thuộc Mêhicô và Colombia, là cây nhiệt đới khô. Nhiệt độ thích hợp cho THANH LONG tăng trưởng và phát triển là 14-26oC và tối đa 38 – 40oC. Trong điều kiện có sương giá nhẹ với thời gian ngắn sẽ gây thiệt hại nhẹ cho thanh long .
1.2. Ánh sáng
Cây thanh long chịu ảnh hưởng của quang kỳ, ra hoa trong điều kiện ngày dài, cây sinh trưởng và phát triển tốt ở các nơi có ánh sáng đầy đủ, thiếu ánh sáng thân cây ốm yếu, lâu cho quả. Tuy nhiên, nếu cường độ ánh sáng quá cao, nhiệt độ cao sẽ làm giảm khả năng sinh trưởng của thanh long .
1.3. Nước
Thanh long có tính chống chịu cao với điều kiện môi trường không thuận lợi như chịu hạn giỏi, tuy nhiên khả năng chịu úng của cây không cao. Do vậy, để cây phát triển tốt, cho nhiều quả và quả to cần cung cấp đủ nước, nhất là trong thời kỳ phân hóa mầm hoa, ra hoa và kết quả. Nhu cầu về lượng mưa cho cây là 800 – 2000mm/năm, nếu vượt quá sẽ dẫn tới hiện tượng rụng hoa và thối quả.
1.4. Đất đai
Thanh long trồng được trên nhiều loại đất từ đất khô cằn, đất cát, đất xám bạc màu, đất phèn đến đất phù sa, đất đỏ bazan, đất thịt, thịt pha sét. Tuy nhiên, để trồng thanh long đạt hiệu quả cao đất phải tơi xốp, thông thoáng, thoát nước tốt, đất phèn nhẹ hoặc đất phù sa phủ trên nền phèn có pH từ 5,5 – 6,5, hàm lượng hữu cơ cao, không bị nhiễm mặn.
2. Thiết kế vườn
2.1. Chuẩn bị đất trồng
Vùng đất thấp như ở Đồng bằng sông Cửu Long(ĐBSCL) cần đào mương lên líp nhằm xả phèn, mặn và nâng cao tầng canh tác: mương rộng 1-2 m, líp rộng 6-7 m. Sau đó trồng cây trụ, lên mô và bón lót. Kích thước mô: 80 x 30 cm. Líp nên thiết kế theo hướng Bắc – Nam và trồng cây theo kiểu nanh sấu (giữa các hàng thì cây của hàng kế tiếp phải trồng so le) nhằm tận dụng cao nhất ánh sáng mặt trời của hướng Đông – Tây giúp tăng năng suất thanh long .
Vùng đất cao nên đào hố, kích thước hố 80 x 30 cm. Chọn nơi có nguồn nước suối hoặc nước ngầm để tưới cho cây vào mùa nắng.
2.2. trồng cây chắn gió
Đối với thanh long trồng ở vùng duyên hải miền Trung nên trồng cây chắn gió, có thể trồng các loại cây như: mít, dừa,… trồng thẳng góc với hướng gió để làm giảm thiệt hại của gió bão đến cây thanh long .
2.3. Trồng cây trụ
Cần chuẩn bị cây trụ trước khi đặt hom giống một tháng, có thể dùng trụ xi măng cốt sắt, trụ gạch hoặc trụ gỗ. Nếu dùng trụ gỗ nên dùng các loại gỗ tốt, chịu được nắng mưa, lâu mục. Tuy nhiên, sử dụng trụ gỗ dễ dẫn tới hiện tượng phá rừng, vì vậy, trụ xi măng cốt sắt hay trụ gạch đang được khuyến cáo hiện nay, trụ có cạnh ngang hay đường kính 12- 20cm, trụ cao cách mặt đất 1,5-1,6m, đối với trụ xi măng phần chôn sâu dưới mặt đất khoảng 0,5m, phía trên trụ có 4 cọng sắt ló ra dài 30-40 cm được bẻ cong theo 4 hướng dùng làm giá đỡ cho
Cần chú ý khi dùng trụ xi măng trong năm đầu vào mùa nắng trụ hấp thụ nhiệt mạnh dễ làm đứt các rễ khí sinh của thanh long nên dùng rơm rạ, lá chuối hoặc bao tải bao một lớp mỏng xung quanh trụ để giảm bớt hấp thụ nhiệt của trụ.
2.4. Chuẩn bị hom giống để trồng
Cành được chọn làm giống cần chọn trên cây mẹ tốt, khỏe, và phải đạt các tiêu chuẩn sau:
+ Tuổi cành từ 6 – 24 tháng, cần chọn các cành có gốc cành đã bắt đầu hóa gỗ để hạn chế thối cành.
+ Chiều dài cành tốt nhất từ 40-50 cm.
+ Cành khỏe có màu xanh đậm, sạch sâu bệnh.
+ Các mắt mang chùm gai phải tốt, mẩy, khả năng nảy chồi tốt.
Sau khi chọn cành xong, phần gốc cành 2-4 cm được cắt bỏ phần vỏ cành chỉ để lại lõi cành giúp cành nhanh ra rễ và tránh thối gốc. Cành được giâm nơi thoáng mát khoảng 10-15 ngày cho ra rễ hoặc có thể đem trồng thẳng không qua giai đoạn giâm cành.
2.5. Mật độ – Khoảng cách trồng
Khoảng cách trồng 3,0 m x 3,5m hay 3,0m x 3,0m. Mật độ trồng 70-100 trụ/1000m2. Có thể trồng xen với các loại cây khác. Tuy nhiên, cần bảo đảm cho thanh long nhận đầy đủ ánh sáng.
3. Giống trồng
Thanh long ở Việt Nam hiện có rất nhiều giống/ dòng, tuy nhiên giống hiện trồng phổ biến và đang xuất khẩu trên thị trường là Thanh long ruột trắng, chúng có khả sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện ở Việt Nam, cho năng suất cao, hình dạng quả đẹp, thịt quả màu trắng, thời điểm ra hoa từ tháng 4-9dl, thời gian từ đậu quả đến thu hoạch 28- 35 ngày.
4. kỹ thuật trồng và chăm sóc
4.1. Thời vụ trồng
Tùy theo từng điều kiện cụ thể mà chọn thời vụ trồng thích hợp:
– Tháng 10-11dl: thời gian này có thuận lợi là nguồn hom giống dồi dào vì đây là giai đoạn tỉa cành sau khi thu hoạch, các vùng đất thấp thì mùa này tránh được nguy cơ ngập úng. Tuy nhiên, phải đảm bảo có đủ nước tưới cho cây vào mùa nắng.
– Tháng 5-6 dl: Đối với các vùng thiếu nước nên trồng vào đầu mùa mưa (tháng 5-6dl) nhưng sẽ gặp khó khăn về hom giống, dễ bị ngập úng, thối gốc.
4.2. Cách đặt hom
+ Đặt hom cạn 2-4cm, đặt phần lỏi (đã gọt bỏ lớp vỏ bên ngoài) xuống đất để tránh thối gốc.
+ Đặt áp phần phẳng của hom vào mé trụ tạo điều kiện thuận lợi cho cành ra rễ và bám sát vào cây trụ.
+ Cột hom sát vào cây trụ để tránh gió làm lung lay và đổ ngã.
+ Mỗi trụ đặt 3-4 hom.
4.3. Tưới nước
Tuy thanh long là cây chịu hạn tốt, nhưng nắng hạn kéo dài sẽ làm giảm khả năng sinh trưởng phát triển của cây và giảm năng suất. Biểu hiện của sự thiếu nước là: cành mới hình thành ít, cành phát triển rất chậm, cành bị teo lại và chuyển sang màu vàng, tỉ lệ rụng hoa ở các đợt ra hoa đầu tiên cao >80%, quả bé. Do đó, cần tưới nước thường xuyên cho cây, tùy theo ẩm độ đất mà chu kỳ tưới cho cây có thể thay đổi 1-7 ngày/lần.
4.4. Tủ gốc giữ ẩm
Tủ gốc giữ ẩm cho cây vào mùa nắng bằng rơm rạ, cỏ khô, xơ dừa, rễ lục bình,.. tủ cách gốc 5 – 10 cm. Biện pháp này cũng tránh được cỏ dại phát triển đồng thời khi rơm rạ bị phân hủy sẽ cung cấp cho đất một lượng dinh dưỡng đáng kể.
4.5. Tỉa cành và tạo tán
4.5.1. Tạo tán
Mục đích là tạo cho cây có bộ khung cơ bản, vững chắc từ đó phát triển các cành nhánh thứ cấp, giúp cây sinh trưởng mạnh, thông thoáng, ít bị sâu bệnh tấn công. Cây có dạng hình tròn đều sẽ cho năng suất cao và ổn định lâu dài.
4.5.2. Tỉa cành
Tỉa cành nhằm tạo bộ tán đẹp cho cây, hạn chế sâu bệnh và cạnh tranh dinh dưỡng.
– Từ mặt đất tới giàn, tỉa tất cả các cành xung quanh chỉ để lại một cành phát triển tốt, áp sát cây trụ.
– Trên giàn, tỉa cành theo nguyên tắc 1 cành mẹ để lại 1-2 cành con, chọn cành sinh trưởng mạnh, phát triển tốt, tỉa bỏ các cành tai chuột, cành ốm yếu, cành sâu bệnh, cành già không còn khả năng cho quả, các cành nằm khuất trong tán không nhận được ánh sáng. Khi cành dài 1,2m – 1,5m bấm đọt cành giúp cành phát triển tốt và nhanh cho quả.
– Hàng năm, sau khi thu hoạch cần tỉa bỏ những cành đã cho quả 2 năm, cành bị sâu bệnh, cành ốm yếu, cành nằm khuất trong tán.
4.6. Cỏ dại
Cỏ dại cạnh tranh dinh dưỡng với cây thanh long và là nơi trú ẩn của sâu bệnh, trước mỗi đợt bón phân cần làm sạch cỏ gốc và xung quanh gốc thanh long . Trong vườn có thể dùng máy cắt cỏ hoặc dùng thuốc diệt cỏ (các loại thuốc đã được cho phép sử dụng trên thị trường).
4.7. Mực nước trong mương (áp dụng cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Mực nước trong mương quá cao có thể gây úng và thối rễ thanh long . Vì vậy, nên để mực nước trong mương cách mặt líp 30-40 cm, vào mùa nắng nên để nước vô ra tự nhiên để rửa phèn, mặn.
4.8. Vét bùn bồi líp (áp dụng cho vùng ĐBSCL)
Vét bùn bồi líp đưa phù sa lắng tụ trong vườn lên mặt líp nhằm cung cấp thêm dinh dưỡng cho cây. Tháng vét bùn thường từ 2-3 dương lịch hoặc sau mùa mưa, lớp bùn dày khoảng 2- 3 cm là tốt.
4.9. Phân bón
Tùy theo loại đất, giai đoạn sinh trưởng mà lượng phân cung cấp cho cây khác nhau
+ Giai đoạn kiến thiết cơ bản: 1-2 năm đầu sau khi trồng.
Tùy theo sinh trưởng và phát triển của cây mà cung cấp phân cho cây mục đích tạo điều kiện tối hảo cho cây khỏe, phát triển tốt và cho năng suất cao sau này.
– Bón lót: 3-5kg phân PH1, 500g super lân hoặc lân Văn Điển.
– Một tháng sau khi trồng bón PH1 2 Kg sau đó tưới 25g Urea + 25g DAP/trụ, hoặc 80g NPK 20-20-0/trụ, tưới xung quanh gốc cách gốc 5-10cm, 2 tuần/lần.
– Bón thúc Bón PH1 2 Kg sau 5 ngày bón 100g Urea + 100g 20-20-15/trụ vào các giai đoạn 3 tháng sau khi trồng, sau đó cứ 3 tháng bón một lần. Khi cây ra hoa bón thêm 100g 20-20-15/trụ
– Cách bón: xới nhẹ, rãi xung quanh gốc, lắp phân lại bằng một lớp đất mỏng, bón cách gốc 20-40cm theo tuổi cây
+ Giai đoạn kinh doanh: từ năm thứ 3 trở đi
* Phân hữu cơ:
– Lần 1: (Sau khi thu hoạch) bón 2-3 kg phân trùn quế PH1 .
– Lần 2: (chuẩn bị ra hoa) bón1-2kg phân trùn quế PH1./ trụ
– Lần 3: (nuôi trái) bón 1-2kg phân trùn quế PH1/trụ
* Phân hóa học:
– Liều lượng bón:
+ Đối với vườn thanh long từ 3-5 năm tuổi: theo công thức 500gN + 500g P2O5 + 500g K2O/trụ/năm tương đương 1,08kg Urea + 3,6kg lân super + 0,83kg KCl.
+ Đối với vườn thanh long từ 5 năm tuổi trở lên, bón lượng phân là: 750gN + 500gP2O5 + 750gK2O/trụ/năm tương đương 1,63kg Urea + 3,6kg lân super + 1,25kg KCl.
– Cách bón: rãi đều trên mặt đất xung quanh trụ thanh long , xới nhẹ cho hạt phân lọt xuống đất hoặc phủ lên bằng một lớp đất mỏng sau đó tủ bằng rơm rạ hay cỏ khô, sau khi rãi phân cần tưới nước cho phân tan.
– Thời gian bón: Chia làm 8 lần bón
Lần 1: ngay sau khi kết thúc thu hoạch vụ chính (vào khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10dl) hoặc có thể áp dụng khi đã thu hoạch 80% số lượng quả trên vườn. Bón 3,6kg phân lân + 200g Urea/trụ (cây từ 3-5 năm tuổi) hoặc 3,6 kg phân lân + 300g Urea (cây >5 năm tuổi)
Lần 2: cuối tháng 12 dương lịch. Bón 200g Urea + 150g KCl/trụ (cây 3-5 năm tuổi) hoặc 300g Urea + 250g KCl (cây >5 năm tuổi).
Lần 3: cuối tháng 2 dương lịch. Bón 200g Urea + 150g KCl/trụ (cây 3-5 năm tuổi) hoặc 300g Urea + 250g KCl (cây >5 năm tuổi).
Lần 4: cuối tháng 4 dương lịch. Bón 100g Urea + 100g KCl/trụ (cây 3-5 năm tuổi) hoặc 300g Urea + 250gKCl (cây >5 năm tuổi).
Từ lần 5- lần 8 cứ mỗi tháng/lần với liều lượng và loại phân như lần 4.
Ghi chú:
– Nếu đất có phản ứng chua thì thế super lân bằng lân Văn Điển.
– Có thể thay thế phân đơn bằng các loại phân hỗn hợp khác.
– Có thể sử dụng phân NPK chuyên dùng cho cây ăn trái thay thế phân đơn như sau:
Lần 1: ngay sau khi kết thúc thu hoạch (cuối tháng 9 đầu tháng 10dl). Bón 0,5kg NPK 20-20-15/trụ
Lần 2: cuối tháng 12dl. Bón 0,5kg phân chuyên dùng AT1 (18-12-8)/trụ.
Lần 3: cuối tháng 2dl. Bón 0,5kg phân chuyên dùng AT2 (7-17-12)/trụ.
Lần 4: cuối tháng 4dl. Bón 0,5kg phân chuyên dùng AT2 (7-17-12)/trụ.
Từ lần 5 đến lần 8 (mỗi tháng 1 lần) bón 500g NPK 13-13-13/trụ.
Như vậy: Tổng lượng phân bón cho 1 vụ/năm/trụ sẽ là:
520gN + 590g P2O5 + 495g K2O/trụ
* Phân bón lá:
– Sau khi thu hoạch và cắt tỉa cành tạo tán, tiến hành phun phân bón lá 30-10-10, phun 3 lần, cách nhau 7 ngày, 15g/bình 8 lít.
– Khi chuẩn bị ra hoa, phun phân bón lá 10-60-10, phun 2 lần, cách nhau 7 ngày, sau đó chuyển sang phun phân bón lá 6-30-30, phun 2 lần, cách nhau 7 ngày, 15g/bình 8 lít.
– Sau khi thụ phấn 3 ngày, phun 30-10-10, 15g/bình 8 lít.
– Trong giai đoạn nuôi trái phun 20-20-20, 7 ngày/lần, 15g/bình 8 lít.
– Trước thu hoạch (15-20 ngày), phun phân bón lá 12-0-40-3Ca, 15g/bình 8 lít, phun 2 lần, cách nhau 7 ngày.
Ghi chú: + Có thể sử dụng các loại phân bón lá có công dụng tăng chất lượng quả đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu.
+ Để tăng chất lượng quả đạt tiêu chuẩn xuất khẩu (tai lá xanh, cứng, 3 tai ở đầu chóp quả dài ≥ 7cm: phun kết hợp loại bón lá dịch trùn quế DTQ 5-5-5 hay loại phân bón hữu cơ sinh học FISH EMUSION (5-1-1).
4.10. Xử lý ra hoa
Cây thanh long thuộc nhóm cây ngày dài, sự ra hoa chịu ảnh hưởng của quang kỳ, ở miền Nam thanh long bắt đầu ra hoa vào tháng 4-9dl vì số giờ chiếu sáng trong ngày >12 giờ (ngày dài). Vì vậy, muốn thanh long ra hoa quả nghịch vụ vào giai đoạn đêm dài ngày ngắn, một trong những biện pháp hiệu quả nhất hiện nay là tạo chiếu sáng nhân tạo trong thời gian ngày ngắn bằng cách đốt đèn trong một thời gian nhất định giúp cho cây ra hoa đồng loạt.
Phương pháp chiếu đèn
Tùy theo mùa vụ mà số đêm chiếu sáng và thời gian chiếu sáng thay đổi, số giờ chiếu sáng trong ngày càng ngắn và thời tiết càng lạnh thì thời gian chiếu đèn và số giờ đốt đèn trong đêm càng tăng, số đêm chiếu sáng từ 15-20 đêm đồng thời số giờ chiếu sáng/đêm từ 6-10 giờ là thanh long có thể ra hoa. Thời gian từ khi ra nụ đến khi hoa nở từ 18-21 ngày và từ khi hoa nở đến lúc thu quả từ 28-35 ngày. Do đó, tùy theo mục đích và nhu cầu quả trên thị trường mà nhà vườn quyết định thời gian xử lý ra hoa. Loại bóng đèn chiếu sáng có thể sử dụng là loại bóng đèn tròn 75-100W, khoảng cách hợp lý nhất từ bóng đèn đến cành thanh long là 0,5-1,0m.
Bón phân
– Phân hữu cơ:
+ Lần 1: Trước khi thắp đèn một tháng bón 0.5 kg phân PH1/trụ
+ Lần 2: Trước khi thắp đèn 15 ngày, bón 0,5kg/trụ phân PH1.
+ Lần 3: Sau khi nụ xuất hiện bón 0,5kg/trụ phân PH1.
– Phân bón lá:
+ Trước khi thắp đèn một ngày, phun phân bón lá 6-30-30, phun 2 lần, cách nhau 5 ngày, 15g/bình 8 lít.
+ Sau thụ phấn, phun phân bón lá 30-10-10, phun 2 lần, cách nhau 5 ngày, 15g/bình 8 lít.
+ Trước khi thu họach 3 tuần, phun phân bón lá 12-0-40-3Ca, phun 2 lần, cách nhau 5 ngày, 15g/bình 8 lít.
4.11. Tỉa hoa, quả: chọn 2-4 hoa phát triển tốt trên mỗi cành, các hoa còn lại tỉa bỏ, nên chọn các hoa trên cùng một cành ở 2 mắt xa nhau. Sau khi hoa nở 5-7 ngày tiến hành tỉa quả, mỗi cành chỉ để lại 1-2 quả, chọn các quả phát triển tốt, không dấu vết sâu bệnh và không bị che khuất trong bóng mát.
4.12. Bao quả: Nhằm tạo quả thanh long có màu sắc đẹp ngăn ngừa vết chích hút của côn trùng, có thể dùng bao ni lon để bao quả thanh long .
Thời gian bao: sau khi hoa thụ phấn vài ngày, lúc cánh hoa vừa héo hoặc rụng. Nếu cánh hoa chưa rụng thì cần tỉa bỏ cánh hoa khi bao quả.
Phương pháp bao: bao ni lon được cắt phần dưới đáy bao ở hai bên gốc đáy, cách gốc bao 2cm, cắt sâu vào trong bao khoảng 2cm, mục đích cho hơi nước thoát ra khi quả hô hấp, dùng dây thun cột miệng bao dính vào cành thanh long .
2. Phòng trị sâu bệnh hại
Thanh long ít bị sâu bệnh hại như các loại cây ăn quả khác. Một vài sâu bệnh hại chính trên thanh long và biện pháp phòng trị
2.1. Sâu hại
2.1.1. Kiến: cắn đục khoét làm hư hom giống và cành thanh long , trên quả làm tổn thương vỏ quả, đây là loại côn trùng dễ phòng trị.
Biện pháp phòng trừ: Dùng Basudin 10H, Padan 3H trộn với cát rải đều quanh gốc hoặc những nơi kiến làm tổ, dùng các loại thuốc trừ sâu thuộc nhóm 3 phun vào các đoạn cành bị kiến tấn công.
2.1.2. Rầy mềm (Toxoptera sp): Gây hại trên hoa, quả bằng cách chích hút nhựa để lại vết chích nhỏ trên vỏ quả đến khi quả chín sẽ mất màu đỏ của quả, mất giá trị xuất khẩu.
Biện pháp phòng trừ: Phun các thuốc bảo vệ thực vật đã được cho phép lưu hành trên thị trường có hoạt chất như: Methidathion; Cypermethrin + Profenofos; Buprofezin + Isoprocarb theo liều khuyến cáo.
2.1.3. Các loại bọ xít: Dùng vòi chích hút vào vỏ quả, tai quả gây vết thương tạo điều kiện cho nấm bệnh và vi khuẩn gây hại làm giảm chất lượng của quả.
Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh vườn thanh long, phát quang bụi rậm, cỏ dại. Dùng các loại thuốc phòng trừ rầy theo nồng độ khuyến cáo, phun lên vườn khi có bọ xít xuất hiện.
2.1.4. Ruồi đục quả: là đối tượng nguy hiểm và là đối tượng kiểm dịch rất khắc khe của nhiều nước nhập khẩu thanh long trên thế giới hiện nay. Ruồi cái chích vào vỏ quả và đẻ trứng vào bên trong, bên ngoài lớp vỏ có dấu chích sẽ biến màu nâu, khi trứng nở thành giòi ăn phá bên trong quả làm thối quả và rụng.
Biện pháp phòng trị:
– Vệ sinh đồng ruộng: Quả rụng là nơi lưu tồn ruồi làm tăng mật số rất nhanh do đó phải nhặt quả rụng, thu hái những quả còn sót lại trên cây sau khi thu hoạch đem đốt hoặc chôn vùi vào đất sâu 10cm
– Biện pháp canh tác: Thu quả đúng thời điểm.
– Sử dụng pheromone bẫy ruồi đực: Tẩm pheromone có trộn thuốc trừ sâu vào miếng thấm, gắn vào bẩy và treo lên cây, tránh ánh sáng chiếu trực tiếp vào bẫy, mỗi 2 tuần thay thuốc một lần, nên treo bẫy đồng loạt trên diện rộng.
– Phun mồi Protein: Ruồi thành trùng cần ăn Protein để phát triển giới tính, con cái phát triển trứng, con đực phát triển tinh trùng.
+ Phương pháp pha Protein: 50ml mồi protein + 1 lít nước + thuốc trừ sâu (Malathion 50ND = 4cc, Pyrinex 20ND = 10cc, Regent 5SC = 3cc). Phun hỗn hợp Protein đã pha thành điểm 20ml/trụ. Phun vào lúc 8-10 giờ sáng.
– Sử dụng thuốc hóa học: chỉ nên phun khi vừa đậu quả sau đó áp dụng các biện pháp khác.
2.2. Bệnh hại và biện pháp phòng trị
2.2.1. Bệnh thối cành: Bệnh thường xảy ra vào mùa nắng. Cành bị nhiễm bệnh chuyển sang màu vàng, mềm sau đó thối, do nấm Alternaria sp gây ra.
2.2.2. Bệnh Đốm nâu trên thân cành: Thân cành thanh long có những đốm tròn như mắt cua màu nâu. Vết bệnh nằm rải rác hoặc tập trung, thường kéo dài thành từng vệt dọc theo thân cành. Do nấm Gloeosporium agaves gây ra.
2.2.3. Bệnh Nám cành: Trên thân cành có một lớp màng mỏng màu xám tro, nhám. Tác nhân do nấm Macssonina agaves. Syd và Sphaceloma sp.
Biện pháp phòng trừ: Biện pháp phòng trị chung cho các bệnh trên là: Vệ sinh vườn, cắt và tiêu hủy những cành bệnh.
– Phun các thuốc bảo vệ thực vật có hoạt chất như: Kasugamycin; Copper Hydrocide, ..ở giai đoạn cây đâm cành, ra hoa và đậu quả.
3. Thu hoạch và bảo quản
3.1. Thu hoạch
Thanh long nên thu hoạch trong thời gian 30 – 32 ngày sau khi nở hoa để quả có chất lượng ngon nhất và bảo quản lâu hơn
Thu hoạch lúc sáng sớm hoặc chiều mát, tránh ánh nắng gay gắt chiếu trực tiếp vào quả làm tăng nhiệt độ trong quả, mất nước nhanh ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian bảo quản
Hái quả bằng kéo cắt tỉa cành sắc bén, khi cắt quả xong cho vào giỏ nhựa, để trong mát, vận chuyển ngay về nhà đóng gói càng sớm càng tốt, không để lâu ngoài vườn
Không đặt quả xuống đất trong khi hái nhằm tránh nhiễm nấm bệnh
Không chất quả quá đầy giỏ khi vận chuyển, bao lót kỹ che phủ mặt giỏ bằng giấy, lá, tránh ánh nắng chiếu và tổn thương khi va chạm
3.2. Bảo quản
Nhiệt độ 5oC, ẩm độ 90% kết hợp với bao quả bằng polyetylen có đục 20-30 lổ bằng kim may và hàn kín bao, thanh long có thể bảo quản tươi được 40-50 ngày. Ở nhiệt độ 28oC và ẩm độ 70% thời gian tồn trữ chỉ được một tuần.
4. Tiêu chuẩn quả thanh long xuất khẩu
Chất lượng quả thanh long thương mại là do màu sắc và hình dạng hấp dẫn của quả thanh long . Do vậy, để đạt tiêu chuẩn xuất khẩu quả thanh long cần đạt các tiêu chuẩn sau:
– Trọng lượng quả: tùy thị trường nhập khẩu:
+ Thị trường Châu Âu: 250-300g/quả
+ Thị trường Trung Quốc: 400-600g/quả
+ Thị trường Singapore: 300-500g/quả
+ Thị trường Hồng Kông: > 400g/quả
– Quả không bị vết của nấm hay côn trùng gây hại.
– Quả sạch dạng hình đẹp, vỏ có màu đỏ đều trên 70% diện tích quả và láng. Khoang mũi không sâu quá 1cm và quả không có mũi nào lồi lên.
– Tai thẳng, cứng, xanh và dài trên 1,5cm (đối với thị trường Trung Quốc tai quả càng dài càng tốt)
– Thịt quả có màu trắng và cứng, hột màu đen.
– Quả không có vết tổn thương cơ giới hay chỗ bị thâm và không có đốm xanh hay vết cháy do nắng hay do phun thuốc hóa
Th821
Trồng cây cao su bằng phân trùn PH1
Kỹ Thuật Trồng Cây Cao Su
Theo Trung tâm Khuyến nông tỉnh, cây cao su không kén đất, có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau như đất cát pha, đất mịn, đất Bazan… thoát nước tốt, tầng canh tác dày sâu hơn 1 m (không có đá tảng, hay đá tổ ong).
Đất trồng cao su có độ cao từ 700 m trở xuống so với mặt nước biển. Chu kỳ khai thác cây cao su kéo dài, do vậy để thuận lợi cho quá trình khai thác, bà con nên chọn đất có độ dốc không quá 300. Trước khi trồng phải chuẩn bị đất và đào hố trước từ 1-2 tháng. Sau đó chọn các giống cao su có năng suất cao được công nhận là giống Quốc gia đang trồng có hiệu quả ở Tây Nguyên như: PB 260, VM 515, GT1, PB 235… Thời điểm trồng cao su ở tỉnh ta vào mùa mưa khi đất đủ ẩm: khoảng từ ngày 20/5 đến 15/7 (giống stum trần) và đến 30/7 (giống bầu). Đối với giống stum trần (10 tháng tuổi), bà con lựa chọn cây giống có mắt ghép ổn định, thuần giống. Cưa động mầm trước khi trồng từ 3-5 ngày, vết cưa cách mí trên mắt ghép 6-10 cm, cưa nghiêng gốc 300 về phía đối diện mắt ghép và bôi mỡ Vazơin lin vào. Đường kính gốc ghép cách cổ rễ 10 cm phải đạt 15mm trở lên. Rễ thẳng, độ dài 40 cm trở lên. Đối với cây giống bầu, tối thiểu phải có hai tầng lá. Tầng lá trên cùng ổn định (lá cứng, xoè ngang, có màu xanh); các tầng lá khác phát triển bình thường, không rụng. Mật độ trồng phù hợp và phổ biến hiện nay trên địa bàn Kon Tum là 555 cây/ha với khoảng cách hàng cách hàng 6m, cây cách cây 3 m. Ở các vùng đất có độ dốc lớn hơn 50 nên thiết kế hàng theo đường đồng mức. Đào hố theo quy cách: 60 cm x 60 cm x 60 cm hoặc 60 cm x 70 cm x 50 cm-độ sâu các hố 60 cm.
Kỹ thuật bón phân
Khi đào hố để riêng lớp đất mặt trộn mỗi hố khoảng 6 kg phân truøn PH , lấp hố trước khi trồng ít nhất là 10 ngày. Mỗi hố trồng 1 cây. Đối với giống stum trần, khi trồng dùng cuốc móc đất sâu tương đương chiều dài stum. Đặt stum xuống quay mặt về hướng tây nam, giữ cho cây thẳng đứng, mép dưới mắt ghép ngang bằng miệng hố. Lấp kỹ từng lớp đất, dậm đều và chặt, lấp kín phần cổ rễ 1-2cm (cách mí dưới mắt ghép 1 cm). Đối với giống bầu, khi vận chuyển phải cẩn thận không làm vỡ bầu, gẫy chồi. Khi trồng dùng cuốc moi hố bằng kích thước bầu và dao sắc cắt đáy bầu, cắt hết chỗ cong của rễ cọc đáy bầu. Đặt bầu vào hố cho thẳng đứng, mắt ghép cũng hướng theo hướng tây nam, mép dưới mắt ghép ngang mặt đất. Rạch bầu theo chiều thẳng đứng, kéo nhẹ túi bầu đến đâu ém chặt đất đến đó, không làm vỡ bầu. Khi trồng cao su phải chuẩn bị 20-25% cây giống để trồng dặm, dùng bầu ghép 2-3 tầng lá. Trồng dặm ngay trong vụ trồng và kết thúc trước 30/8.
Sau khi trồng 1,5-2 tháng, bà con tiến hành bón thúc đợt 1 và tháng 10 bón đợt 2 kết hợp tủ ẩm giữ gốc. Bón theo rãnh vành khăn quanh gốc cao su- cách gốc 30-40 cm và lấp kín kết hợp với xới xáo. Sau khi bón phân đợt hai, tiến hành tủ gốc bằng cỏ khô hoặc rơm rạ, tủ cách gốc 10 cm, bán kính phủ 1 m và trên phủ một lớp đất mỏng chống cháy. Từ hai năm trở đi, mỗi năm bón hai lần trong mùa mưa. Đợt 1 bón vào tháng 4-5; đợt 2 bón tháng 9-10. Lượng phân bón các năm cụ thể như sau:
Năm thứ nhất: Phân PH1:220 kg; 20kg đạm (urê),50 kg lân, 10 kg ka li;
Năm thứ hai: Phân PH1 340 kg; 45 đạm, 150kg lân, 15kg kali;
Năm thứ ba:Phân PH1: 340kg; 60kg đạm, 75kg lân, 25 kg ka li;
Từ năm thứ bốn đến năm thứ bảy: mỗi năm bón phân PH1;80 kg đạm, 40 kg lân, 25 kg ka li. Mỗi năm bón thành hai đợt trong mùa mưa.
Khi cao su phát triển, bà con làm cỏ bảo đảm cho cao su luôn được sạch cỏ. Khi làm cỏ trên hàng không được kéo đất ra khỏi lô cao su và giúp cho lớp đất mặt luôn tơi xốp. Năm thứ nhất làm cỏ rộng 2 m, từ năm hai trở đi làm cỏ rộng 3 m, làm 4-5 lần/năm. Khi làm cỏ giữa hàng cao su có thể phát, cày hoặc dùng thuốc diệt cỏ tuỳ theo mức độ cỏ. Khi cây cao su phát triển phải thường xuyên kiểm tra các chồi mọc ngoài mắt ghép phải cắt bỏ để hạn chế tiêu hao dinh dưỡng. Loại bỏ cả các chồi ngang mọc từ thân ghép, các cành có độ cao từ 3 m trở xuống, không tạo tán quá thấp làm cây dễ bệnh. Trong giai đoạn đầu khi cây còn nhỏ, có thể trồng xen cây họ đậu để tăng thu nhập, chống xói mòn đất. Chú ý trồng xen hàng cách hàng tối thiểu 1,5 m để không ảnh hưởng đến cây cao su.
Chúc bà con thành công
Th821
CÁCH SỬ DỤNG PHÂN TRÙN QUẾ
Cho sự nẩy mầm: Dùng 20-30% phân trùn trộn với đất ,xem như một hỗn hợp nẩy mầm tốt nhất đảm bảo cho cây phát triển không ngừng trong 3 tháng mà không cần bất cứ thức ăn nào khác. Có khả năng làm tăng tỷ lệ nẩy mầm của hạt ,giúp cây con phát triển nhanh và có tỷ lệ sống cao.
Như là chất điều hòa chất: Nếu bạn bỏ phân trùn và tưới nước thường xuyên vào một vùng đất cằn cõi đã được cuốc lên ,thì lớp đất này sẽ cải tạo đáng kể (3 000 – 3500kg/ha).
Như là phân bón: Bỏ phân trùn trực tiếp quanh gốc cây (không gây hư hại cây nếu dùng nhiều)bón lót cho cây ,rau,quả các loại sẽ tạo ra một loại thực phẩm hảo hạng và đạt năng suất cao.
Như chất phân bón lỏng: Có thể pha trộn nước theo tỷ lệ 1/5,hỗn hợp chất lỏng này có thể sử dụng như một loại phân bón hảo hạng và có khả năng kiểm soát sâu bọ khi phun trực tiếp vào thân,lá .
Như là nhà cải tạo đất :Vì phân trùn chứa đựng hàng ngàn kén trùn/kg nên khi ta bón phân trùn vào đất ,gặp điều kiện thuận lợi ,kén trùn sẽ nở ra và sinh sống trên chính mảnh đất canh tác của chúng ta – mà chúng ta ai cũng biết nơi nào có trùn sinh sống thì nơi đó đất luôn màu mỡ và tơi xốp.
Th820
Kỹ thuật nuôi trùn quế
KTNT – Thức ăn: Mỗi ngày trùn (giun) quế tiêu thụ một lượng thức ăn tương đương với trọng lượng cơ thể chúng, nên phải đảm bảo đủ lượng thức ăn cần thiết cho trùn. Thức ăn gồm: phân bò, trâu, dê, heo, gà, vịt, rơm, rạ… (phân gà, phân heo, phân vịt phải ủ hoai).
Giống: Nên liên hệ các trại chăn nuôi để có nguồn giống khoẻ, đảm bảo chất lượng.
Chuồng trại: Nếu nuôi trùn với mục đích tăng thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của gia súc, gia cầm, thủy – hải sản thì chuồng có thể tận dụng chum, chậu, bể nước không còn sử dụng. Nếu nuôi với quy mô lớn có thể làm chuồng bằng tấm bạt nylon.
Thông thường chuồng xây ngang 1,5m, cao 0,5m, dài 2m trở lên. Chuồng được che phủ bằng lá dừa là tốt nhất vì vừa tạo được bóng mát, vừa giữ được độ ẩm. Chuồng trại phải bảo đảm thông thoáng, không khí ra vào lưu thông.
Chất nền: Là yếu tố quan trọng cho trùn trong thời gian đầu sinh sống, là nơi trú ẩn khi trùn tiếp xúc với môi trường mới và phải đạt các yếu tố sau: tơi xốp, sạch, giàu dinh dưỡng…
Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp nhất cho trùn phát triển là từ 20 – 28 độ C. Bà con ở khu vực phía Bắc cần chú ý: vào mùa đông nhiệt độ xuống thấp, phải che chắn kỹ, thắp đèn vào ban đêm để giữ nhiệt độ ở mức thích hợp, tránh trường hợp trùn bị ngủ đông.
Độ ẩm: Nước là thành phần quan trọng nhất, chiếm khoảng 65 – 80% trọng lượng cơ thể trùn nên phải thường xuyên tưới nước cho trùn (ít nhất 2 lần /ngày). Nhận biết độ ẩm thích hợp bằng cách: Lấy tay nắm phần sinh khối trong chuồng sau đó thả ra, nếu thấy phần sinh khối còn giữ nguyên và tay ta chỉ ướt là đủ, nếu thấy nước chảy ra hoặc phần sinh khối bị vỡ và rơi xuống là quá ướt hoặc quá khô.
Ánh sáng: Trùn rất sợ ánh sáng nên phải che chắn chuồng thật kỹ vào ban ngày để tránh tia tử ngoại lọt vào chuồng.
Không khí: Khí CO2, H2S, SO3, NH4 là kẻ thù của trùn nên phải đảm bảo thức ăn sạch sẽ, không có các thành phần hóa học gây bất lợi cho trùn, chuồng trại.
Cho ăn: Sau khi bỏ giống được 2 ngày, tiến hành cho trùn ăn, lượng thức ăn mỗi lần khoảng 8cm trên mặt luống. Sau đó, tiếp tục cho trùn ăn khi thấy trên bề mặt luống đã xốp và không còn thức ăn cũ. Chú ý không nên cho trùn ăn khi lượng thức ăn cũ còn quá nhiều, vì lượng thức ăn bị tồn đọng làm cho trùn chỉ lo tập trung ăn và sống phía dưới luống mà không sống trên bề mặt. Điều này khiến cho trùn giảm khả năng sinh sản.
Sinh sản: Trùn là loài lưỡng tính, mỗi con đều có cả bộ phận sinh dục đực (tinh hoàn) và bộ phận sinh dục cái (buồng trứng). Bộ phận sinh dục này nằm ở vị trí đốt thứ 18 đến 22, lệch về phía đầu, đây được gọi là đai sinh dục. ở đốt thứ 6 – 8 có hai lỗ, đây là nơi có túi nhận tinh.
Tinh trùng của con này sẽ vào túi nhận tinh của con kia và tạm thời ở đó để chuẩn bị cho sự thụ tinh tiếp theo. Lúc này, đai sinh dục dày lên, nhận một ít trứng rồi di chuyển lên phần đầu trùn và nhận tinh trùng ở túi đựng tinh, sau đó thoát ra ngoài và tự thắt chặt hai đầu lại thành kén.
Số lượng kén đẻ ra tuỳ thuộc vào giống và tuổi trưởng thành của trùn. Sau khi kén đẻ 2 – 4 tuần có thể nở. Trung bình mỗi kén nở ra 6 – 20 trùn con và chỉ sau 70 ngày, trùn con sẽ thuần thục và trưởng thành.
Trùn sinh sản quanh năm, trung bình một tuần một lần.
Nhân luống: Sau 2 tháng lượng trùn được nhân đôi, có thể tách trùn để nhân luống hoặc cho gia súc, gia cầm ăn. Trước khi nhân luống 3 ngày phải cho trùn ăn. Lúc này trùn tập trung trên bề mặt luống, ta lấy phần trên của luống khoảng 20cm bỏ vào luống mới và tiếp tục cho luống cũ ăn cho đến khi đầy luống.
Thu hoạch: Nhử mồi là phương pháp thu hoạch hữu hiệu nhất. Sau khi cho trùn ăn được 3 ngày, lấy khoảng 20cm bề mặt trên luống. Trải tấm nylon ngoài sân trống có ánh nắng càng tốt. Đổ phần hỗn hợp này lên tấm nylon, sau đó gạt bỏ phần phân trùn bên trên vì trùn sợ ánh nắng nên trốn xuống phía dưới. Chú ý lấy lớp phân trùn này cho trở lại luống để tiếp tục nuôi như chất nền.
Trong trường hợp luống đã đầy phân mà không có chuồng mới (chuồng trống) để nhân giống hoặc vì trời mưa nhiều không thể tách được trùn và phơi phân, có thể làm như sau: Xúc toàn bộ sinh khối trong chuồng đổ sang một bên, sau đó dùng phên tre để chắn lại, dùng cọc tre để giữ phên. Bỏ thức ăn mới vào phần chuồng trống, trùn sẽ nghe được mùi thức ăn mới và chui sang. Khi có điều kiện thích hợp thì bắt trùn hoặc trời nắng sẽ phơi phân trùn dễ dàng hơn.
Cách sử dụng:
Trùn quế: Sấy khô, nghiền nát làm thức ăn cho cá cảnh; chế biến thực phẩm cho gia súc, gia cầm hoặc cho ăn sống.
Phân trùn: Phơi khô cho vào bao hoặc đem ra sử dụng ngay. Bà con nuôi tôm, cá có thể dùng phân trùn để xử lý nước cho ao rất hữu hiệu.
Trên thực tế, việc nuôi trùn phụ thuộc nhiều vào yếu tố môi trường như: thời tiết, độ ẩm và khu vực nuôi.
Minh Huệ
(Theo tài liệu của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
Th820
Chế Phẩm Sinh Học Từ Trùn Quế
Trong nông nghiệp, trùn quế được coi là loại thức ăn đạm cao cấp cho vật nuôi. Các loài cá, baba, tôm, ếch, lươn, cua biển… đều rất thích ăn trùn. Đối với gia súc, gia cầm, trùn là loại thức ăn bổ dưỡng. Tuy nhiên, trùn quế tươi chỉ có thể để không quá một ngày ở nhiệt độ thường nên rất khó lưu trữ.
Từ thực tế đó, TS Võ Thị Hạnh cùng các cộng sự thuộc Phòng Vi sinh Viện Sinh học nhiệt đới đã tạo ra 3 chế phẩm sinh học từ trùn quế để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, làm phân bón cho cây… Các chế phẩm này có thể được bảo quản, lưu trữ trong thời gian dài, từ 6-10 tháng.
Một ưu điểm nổi trội của các chế phẩm này là vẫn giữ nguyên mùi trùn tươi, các chất dinh dưỡng không bị mất đi hoặc biến chất theo thời gian. Chế phẩm đầu tiên là BIO-T, dùng làm thức ăn cho tôm sú, cá tra, gà lương phượng và vịt xiêm. Điều đáng nói là nếu sử dụng trùn quế tươi phải cần một lượng nhiều gấp 10 lần so với BIO-T mới có hiệu quả tương tự. BIO-T được sản xuất bằng cách sử dụng trùn quế tươi phối trộn với hỗn hợp vi khuẩn hữu ích và enzyme tiêu hóa dùng trong chăn nuôi, lên men tạo sản phẩm có mùi trùn, giàu dinh dưỡng (đạm protein và amin cao), enzyme tiêu hóa, vi khuẩn hữu ích và các chất kháng sinh…
Chế phẩm thứ hai là BIO-BL, đã được dùng để bón cho cây trà ô long và một số cây hoa màu, cây kiểng… Kết quả sau khi sử dụng cho thấy búp trà tươi, màu sắc đẹp hơn, mùi hương của trà cũng thơm hơn. BIO-BL được tạo thành từ trùn quế tươi phối trộn với hỗn hợp vi sinh vật hữu ích và enzyme dùng trong trồng trọt, lên men tạo sản phẩm có mùi trùn, giàu đạm protein và amin cao, enzyme tiêu hóa có hoạt lực cao, vi khuẩn hữu ích…
Chế phẩm BIO-PT được tạo ra bằng cách dùng phân trùn ủ lên men, sản phẩm làm ra có mùi thơm, độ ẩm 40%, đạm tổng 2%, chất hữu cơ, kháng sinh và hỗn hợp vi khuẩn hữu ích. BIO-PT dùng để gây màu và xử lý nước ao nuôi tôm dùng trong nuôi trồng thủy sản.
Nhóm tác giả cho biết ưu điểm của phương pháp chế biến trùn quế bằng công nghệ vi sinh là không cần dùng thiết bị đông lạnh hay thiết bị sấy nên không tốn chi phí điện, năng lượng, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Với công nghệ đơn giản, các hộ nông dân nghèo ở các vùng xa xôi có thể áp dụng dễ dàng. Việc có thêm các chế phẩm sinh học mới có giá thành rẻ góp phần làm cho ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và trồng trọt phát triển tốt hơn.
Nguồn Từ : khoahoc.tv
Th820
Thành Phần Trùn Quế Và Công Dụng Trùn Quế
Thành phần dinh dưỡng của trùn quế
Với hàm lượng Protein thô chiếm từ 50 – 70% trọng lượng khô của cơ thể, hàm lượng đạm của Trùn quế tương đương với bột cá, thường được dùng trong thức ăn chăn nuôi và thủy sản. Cơ thể trùn quế còn hội đủ 12 loại Axit Amin và nhiều loại Vitamin, chất khoáng cần thiết cho gia súc, gia cầm và thủy sản. Đặc biệt trùn quế còn có các loại kích thích tố sinh trưởng tự nhiên mà trong bột cá không có. Thức ăn chăn nuôi có bột Trùn sẽ không có mùi tanh và khét của cá và dầu cá, có thể hấp dẫn vật nuôi, mà có thể bảo quản được lâu hơn thức ăn có dùng bột cá.
Trong thủy sản
Trong chăn nuôi
Th820
Lợi Ích To Lớn Của Trùn Quế (Giun Quế) P3
Giun có hàm lượng Protein cao, giàu nguyên tố vi lượng tương tự thịt thỏ – là loại thịt giàu đạm, ít chất béo. Trong giun có tới 8 loại Axit Amin cần thiết cho con người. Hàm lượng Vitamin B1, B2 trong giun gấp 10 lần khô đậu tương, 14 lần bột cá, cùng sự phong phú về Vitamin A, E, C và các vi lượng khoáng chất có lợi cho sức khỏe dinh dưỡng của con người. Vì vậy nhiều nước đã sử dụng giun để chế biến thành thực phẩm cho con người. Ở Nhật, có tới 200 loại thực phẩm được chế biến từ giun. Ở Italya giun được chế biến patê. Ở Đài Loan có hơn 200 món ăn làm từ giun. Ở Australia người ta ăn giun với món ốp lếp. Hiện nay, đã có đồ hộp thực phẩm làm bằng giun và bánh bích quy bán ra thị trường. Nhiều nhà dinh dưỡng học trên thế giới dự đoán: Giun – loại động vật dinh dưỡng, dễ nuôi, trong tương lai sẽ trở thành nguồn quan trong về thực phẩm động vật bình dân, phổ biến và quá giá của loài người. Giun cũng cung cấp nguyên vật liệu thô tốt nhất cho công nghiệp. Một số Enzyme và hoạt chất được chiết xuất từ giun để làn thuốc, thức ăn, mỹ phẩm. Hiện giun đang được quan tâm nghiên cứu sử dụng trong sản xuất mỹ phẩm.
5. Giun góp phần bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp sinh thái
Giun có sức tiêu hóa lớn. Tác dụng phân giải hữu cơ của giun chỉ đứng sau các vi sinh vật. Một tấn giun có thể tiêu hủy được 70 – 80 tấn rác hữu cơ, hoặc 50 tấn phân gia súc trong 03 tháng. Các nước trên thế giới đã tận dụng cơ năng đặc thù này của giun để xử lý chất thải sinh hoạt hoặc rác thải hữu cơ, làm sạch môi trường, có hiệu quả tốt. Một công ty ở California (Mỹ) đã nuôi 500 triệu giun, hàng ngày xử lý khoảng 2.000 tấn rác. ở Nhật, những nhà máy hằng năm sản xuất được 10.000 tấn giấy, với 45.000 tấn phế thải, đã sử dụng giun để xử lý chất thải, đồng thời sản xuất được 2.000 tấn giun khô, 15.000 tấn phân giun. Giun sống trong đất sẽ làm tăng độ phì nhiêu của đất. Phân giun góp phần làm giảm mức sử dụng phân hóa học, giúp cây trồng phát triển tốt, tăng khả năng chống sâu bệnh, giảm bớt việc sử dụng thuốc trừ sâu, nhờ đó bảo vệ được môi trường. Với những khu vực ô nhiễm, nếu nuôi giun cũng làm sạch được môi trường nước. Hơn nữa, giun đất có thể xử lý chất thải hữu cơ, phân gà, phân lợn, phân bò và chuyển hóa phân bón hữu cơ có chất lượng cao, và bằng cách đó cải thiện môi trường sinh thái các vùng nông thôn. Thậm chí, phân của giun cũng có thể xử lý nước thải. Nuôi giun trong gia đình, vừa xử lý được rác thải, vừa có phân giun bón cho hoa, cây cảnh. Một số nước đã làm các khay nuôi giun đặt tại bếp ăn của các gia đình, thậm chí cả ở các khách sạn năm sao.
6. Những tác dụng khác của giun
Giun là một sinh vật chỉ thị về môi trường thổ nhưỡng, Dùng kính hiển vị điện tử quan sát tình trạng sưng tấy, nổi u của giun: Các tế bào thượng bì của niêm mạc đường ruột co lại hoặc bị lở loét xuất huyết… Có thể đánh giá được mức độ ô nhiễm kim loại nặng và hóa chất độc hại của môi trường vùng đất mà giun sống. Giun sống trong đất, nhưng da rất ít dính đất. Hỗn hợp dịch thể mà giun tiết ra, cũng phương thức vận động của giun, đang được nghiên cứu phỏng sinh học về công nhệ không bám đất hoặc ít bám đất trong tác nghiệp cơ giới. Giun là một trong những loại mội câu rất hấp dẫn đối với cá. Với 20% dân số có sở thích đi câu ở Nhật, đã cần mỗi năm đến 300 tần giun, Ở Trung Quốc, hằng năm cùng tiêu tốn trên 1000 tấn giun để làm mồi câu, Giun còn được sử dụng làm học cụ trong nhà trường, có thể tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, vừa rẻ tiền, thao tác dễ dàng, mà việc thu nhập bảo quả tiêu bẩn lại an toàn cho thầy giáo và học sinh.
Th821