Chưa được phân loại

Phát triển kinh tế tập thể trong sản xuất mô hình tôm lúa bền vững
Nguồn tin : báo Nông Nghiệp
KIÊN GIANG Phát huy vai trò kinh tế tập thể trong mô hình tôm – lúa giúp xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hiệu quả, giảm chi phí.
Ngày 26/6 tại TP Rạch Giá, Hội Nông dân tỉnh Kiên Giang tổ chức hội thảo “Giải pháp phát triển kinh tế tập thể sản xuất mô hình tôm – lúa bền vững”, với sự tham dự của đại diện các hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp và các sở, ngành liên quan.
Mô hình tôm – lúa đem lại đa dạng nguồn thu từ con tôm và cây lúa, mang lại lợi nhuận cao cho nông dân. Ảnh: Trung Chánh.
Mô hình sản xuất tôm – lúa (luân canh 1 vụ tôm, 1 vụ lúa) được nông dân vùng ven biển tỉnh Kiên Giang bắt đầu thực hiện cách đây gần 30 năm. Hiện mô hình này đã trở thành loại hình nuôi trồng kết hợp có thế mạnh của tỉnh, tập trung ở các huyện An Minh, An Biên, U Minh Thượng và Vĩnh Thuận.
Những năm gần đây, sản lượng tôm nuôi thu hoạch theo mô hình sản xuất này đạt hơn 61.000 tấn, chiếm hơn 55% sản lượng tôm nuôi toàn tỉnh và hàng trăm ngàn tấn lúa phục vụ tiêu dùng và chế biến xuất khẩu.
Ông Phạm Thành Trăm, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã tỉnh Kiên Giang, cho biết, kinh tế tập thể của tỉnh phát triển mạnh và có hình thức đa dạng, gồm tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mà nòng cốt là hợp tác xã. Hiện nay, toàn tỉnh Kiên Giang có 3 liên hiệp hợp tác xã với 35 hợp tác xã thành thành viên, 447 hợp tác xã. Kinh tế tập thể giúp liên kết những hộ sản xuất nhỏ lẻ, tạo điều kiện thuận lợi tương trợ, chia sẻ nguồn lực, lợi ích, kinh nghiệm, liên kết cộng đồng và từng bước mở rộng hợp tác với các thành phần kinh tế khác.
Theo đánh giá của các hợp tác xã, mô hình sản xuất tôm – lúa hiệu quả hơn rất nhiều so với sản xuất độc canh cây lúa hoặc nuôi tôm theo cách truyền thống. Mô hình này đem lại hai nguồn lợi kinh tế từ tôm và lúa, góp phần cải tạo đất, môi trường sinh thái tự nhiên và ứng phó với biến đổi khí hậu đang ngày càng diễn biến phức tạp.
Sản phẩm tôm và lúa thu hoạch từ mô hình kết hợp này là sản phẩm sạch, chất lượng cao, do đó được doanh nghiệp đặt hàng thu mua chế biến xuất khẩu. Có nhiều hộ thành viên tổ hợp tác, hợp tác xã trung bình một ha thu hoạch từ 400 – 500kg tôm thuơng phẩm và 5 – 6 tấn lúa, sau khi trừ chi phí sản xuất, thu lợi nhuận hàng trăm triệu đồng.
Tại hội thảo, đại diện các đơn vị trực thuộc Sở NN-PTNT Kiên Giang đã chia sẻ về chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển sản xuất mô hình tôm – lúa bền vững theo hướng liên kết, hợp tác công – tư; đầu tư các công trình thủy lợi phát triển sản xuất, vay vốn tín dụng, hỗ trợ tập huấn kỹ thuật, đầu tư đối ứng.
Sở Khoa học – Công nghệ Kiên Giang hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức nông dân xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm nông nghiệp, nhất là các sản phẩm chế biến từ chuỗi giá trị tôm – lúa, phát triển sản phẩm OCOP như tôm khô, gạo hữu cơ.
Th601
xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản
Trong vòng 4 tháng đầu năm nay, Nhật Bản phát hiện nhiều lô nông sản Việt Nam xuất khẩu nhiễm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) vượt ngưỡng giới hạn cho phép của Nhật như: thanh long, rau ngót tươi, mùi tàu…
Mới đây, Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT) vừa có văn bản gửi các Chi cục Kiểm dịch thực vật, các doanh nghiệp xuất khẩu sang Nhật Bản và các tổ chức cá nhân liên quan về việc Nhật Bản tăng cường kiểm soát an toàn thực phẩm một số mặt hàng.
Cục BVTV cho biết, phía Cục đã nhận được thông tin từ Thương vụ Việt Nam và trên website của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản về việc trong vòng 4 tháng đầu năm, cơ quan chức năng nước này đã kiểm tra và phát hiện nhiều lô nông sản của Việt Nam xuất khẩu nhiễm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng giới hạn cho phép của Nhật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín nông sản Việt Nam.
Th601
Chăm sóc cà phê ở Tây Nguyên
Cà phê là loại cây trồng được nhiều bà con ở vùng đất Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đăk Nông nói riêng lựa chon để phát triển kinh tế gia đình bởi nó thích hợp với điều kiện khí hậu, đất đai thổ nhưỡng nơi đây.
Tuy nhiên, việc chăm sóc đê cây cà phê cho năng suất cao luôn là vấn đề khiến bà con phải trăn trở suy nghĩ. Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật nhưng năng suất cà phê vẫn còn thấp, chưa tương xứng với những gì mà thiên nhiên ưu đãi. Nguyên nhân phần lớn do diện tích cà phê đã già cỗi, hoặc một số diện tích bị bệnh vàng lá do rễ bị nấm và tuyến trùng xâm nhập. Vấn đề khó khăn này đã được người dân trên địa bàn tỉnh Đăk Nông giải quyết bằng cách ghép cải tạo hoặc luân canh cây ngắn ngày rồi trồng mới. Ghép cải tạo hay trồng mới không phải lúc nào cũng thành công nếu không biết vận dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật và những kinh nghiệm thực tế của người trồng cà phê. Người tôi muốn nhắc đến là anh Đỗ Hoàng Yên ở thôn Đức An, xã Thuận An, huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông.
Dẫn chúng tôi đi thăm vườn cà phê của gia đình, anh Yên tâm sự: Cây cà phê được gia đình anh trồng từ năm 1996. Do chưa có nhiều kinh nghiệm, ban đầu gia đình anh mua giống không rõ nguồn gốc nên cây hay bị bệnh, nhất là bệnh rỉ sắt và đốm mắt cua. Vườn cà phê thường xuyên phải phun xịt thuốc phòng trừ sâu bệnh. Dù đã được đầu tư chăm sóc, chịu khó lao động nhưng do năng suất thấp chỉ đạt khoảng 2 tấn/ha. Sau khi trừ chi phí thì lợi nhuận thu được chỉ đủ trang trải cuộc sống và quay vòng đầu tư, không dư giả được bao nhiêu. Nhiều lúc anh đã nghĩ tới việc phải thay thế loại cây trồng khác để cải thiện cuộc sống gia đình.
Năm 2012, anh đã mạnh dạn cưa toàn bộ vườn cà phê với diện tích trên 1ha để ghép cải tạo bằng giống các giống cà phê mới năng suất cao hơn như dòng vô tính TR4 và dòng cà phê dây tại địa phương. Do nắm chắc kỹ thuật ghép và chăm sóc vườn sau ghép, tỷ lệ cây và chồi ghép đạt trên 96%, từ thực tế của gia đình mình, anh cho rằng, vườn cà phê giống ghép đã cho năng suất cao hơn 1,5 tới 2 lần so với trước khi ghép.
Sau khi ghép, mầm ghép phát triển tốt, mập mạp, khỏe mạnh. Sau 1 năm cây đã cho thu bói, nhưng anh đã bỏ lứa hoa đầu để cây cà phê tập chung dinh dưỡng nuôi cây, đến năm thứ 3 thì cây bắt đầu cho năng suất ổn định. Cà phê ghép có ưu điểm hơn cà phê già là khoảng cách giữa các chùm quả dầy, hạt to đều trong khi cây cà phê già hạt không đều, dễ bị dập nát. Đến nay, với 1ha cà phê ghép cho năng suất ổn định hơn 4 tấn nhân/ha. Với giá bán thấp như năm 2017 là 36.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, vườn cà phê của gia đình anh vẫn thu lãi trên 85 triệu đồng. Nhận thấy hiệu quả của cách làm này, anh cho biết sẽ ghép cải tạo dần 5 sào cà phê già còn lại để nâng cao hiệu quả kinh tế.
Những năm đầu anh thấy cây cà phê sau khi ghép vẫn còn xuất hiện sâu, bệnh nhưng những năm về sau thì bệnh ít dần nên đỡ tốn chi phí phun thuốc trị bệnh. Tùy vào năng suất thu hoạch mà anh sử dụng thêm phân bón phù hợp để bù lại năng suất đã mất đi giúp cây không bị kiệt sức. Gia đình anh thường dùng loại phân NPK 16:16:8 vào đầu mùa mưa, phân NPK 20:20:15 vào giữa mùa mưa. Nếu vụ nào cây cho trái nhiều thì cần bón thêm kali và phân bón lá để bổ sung thêm vi lượng cho cây. Đặc biệt anh rất chú trọng đến việc sử dụng phân chuồng ủ hoai để bón cho cây cà phê (10 – 15 kg phân chuồng ủ hoai/cây). Phân chuồng ủ hoai sẽ giúp cải tạo đất, giúp cây hấp thu dinh dưỡng tốt hơn.
Sử dụng biện pháp ghép cải tạo làm trẻ hóa cây cà phê là một biện pháp kỹ thuật đơn giản, vừa tiết kiệm chi phí sản xuất, vừa nâng cao hiệu quả canh tác. Thiết nghĩ bà con nên học hỏi để áp dụng biện pháp trên cho vườn cà phê già, năng suất thấp nhằm cải thiện hiệu quả kinh tế./.
Trịnh Đình Thâng
Trung tâm Khuyến nông Đăk Nông
Th628