Kỹ Thuật
Sâu bệnh hại trên cây sầu riêng
CHIA SẺ KINH NGHIỆM TRỒNG SẦU RIÊNG.
PHẦN III: SÂU BỆNH HẠI TRÊN CÂY SẦU RIÊNG
1) Rầy phấn: Allocaridara malayensis
Đây là côn trùng gây hại rất quan trọng và phổ biến trên sầu riêng. Ở giai đoạn ấu trùng và trưởng thành, rầy gây hại bằng cách chích hút lá non và đọt non, làm cho lá không phát triển, bị biến dạng, cháy mép lá dần dần khô và rụng. Đọt non có thể bị khô và chết, trơ cành mà có thể nhầm với triệu chứng do bệnh. Vết chích do rầy gây ra có thể tạo điều kiện cho nấm bệnh xâm nhập gây hại.
Con trưởng thành dài khoảng 2,5-3,0 mm, cánh trong suốt, toàn thân màu vàng nhạt. Trứng được đẻ thành từng đám trên lá non trong mô lá. Khi mới đẻ trứng có màu vàng, dần chuyển sang màu nâu. Ấu trùng bên ngoài phủ lớp sáp mỏng và các tua sáp kéo dài ở cuối thân. Trưởng thành và ấu trùng tuổi lớn thường di chuyển nhanh khi thấy động.
Rầy phấn phát triển mạnh trong mùa khô. Lây lan nhanh từ vườn này sang vườn khác. Mật độ trong mùa mưa giảm nhanh, tuy nhiên sẽ tăng mật số nhanh khi mùa khô đến. Cây bị hại nặng có lá thưa thớt, quăn queo, lá non rụng nhiều và khô ngọn. Cây không phát triển được tán dẫn đến ra hoa ít, đậu trái kém, trái bị sượng, phẩm chất kém. Rầy tiết nhiều chất mật được tạo điều kiện cho nấm bò hóng phát triển làm đen lá, trái.
Phòng trừ:
– Ngoài tự nhiên có nhiều loài thiên địch của rầy phấn như nhện, bọ rùa Coccinella, Chrysopa sp., và ong ký sinh, do đó cần tạo điều kiện thuận lợi cho các loài thiên địch phát triển để khống chế rầy.
-Tưới đủ nước và bón phân thích hợp cho cây khỏe mạnh. Tăng cường bón phân hữu cơ. Ở miền Đông Nam bộ nên duy trì một lớp cỏ giữ ẩm trong mùa khô.
-Phun nước mạnh trên tán lá để hạn chế sự hoạt động của rầy.
-Phun thuốc khi thấy mật số rầy cao, có thể dùng các loại thuốc trừ sâu kết hợp với thuốc nấm để phòng trừ, thường mỗi cơi đọt nên phun 2 lần cách nhau 15 ngày.
2) Sâu đục trái (Conogethes punctiferalis)
Gây hại khá phổ biến trên các vùng trồng sầu riêng ở nước ta. Ngoài gây hại trên sầu riêng, còn gây hại trên một số cây khác như nhãn, ổi, mãng cầu, chôm chôm… nên việc phòng trừ khó khăn.
Trứng được đẻ trên trái non, nở ra sâu non đục vỏ trái vào bên trong trái và tiếp tục đục cho đến thịt trái. Hóa nhộng ngay trên đường đục hoặc chui ra bên ngoài trái nhả tơ kết kén hóa nhộng trên mặt vỏ trái giữa các gai trái. Giai đoạn này kéo dài khoảng 7-8 ngày.
Trái mọc thành chùm thường bị gây hại ở phần tiếp giáp. Trái non bị hại dễ bị biến dạng và rụng sớm. Vết đục còn tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập gây thối trái. Do sâu có thể gây hại sớm nên phải bao trái sớm mới có hiệu quả.
Nhận diện sâu hại qua vết vết đục trên trái, quan sát phân sâu thải ra bên ngoài vết đục.
Phòng trừ:
Do sâu có nhiều ký chủ khác nhau mà thường được trồng cùng với nhau trong một khu vực nên phải chú trọng phòng trừ cho các vườn xung quanh.
-Trong tự nhiên có các thiên địch của sâu đục trái cần được bảo vệ và phát huy như bọ xít ăn mồi, nhện ăn thịt và kiến vàng….
-Tỉa trái để loại bỏ trái sâu và tiêu huỷ. Tỉa trái còn giúp hạn chế các trái mọc thành chùm dễ bị sâu tấn công.
– Phun trái định kỳ 15 ngày một lần, thuốc trừ sâu cộng với thuốc trừ nấm. Luôn phiên thay đổi gốc thuốc trừ sâu cũng như thuốc nấm.
3) Sâu đục thân.
Sâu đục thân gây hại quanh năm, thường tấn công vào thân, ăn tiện vòng quanh vỏ cây, làm chết phần thân trên, tạo vết thương hở để nấm bệnh xâm nhập.
Phòng trừ : Thường xuyên đi từng gốc để kiểm tra ( 15 ngày / lần ). Khi phát hiện thấy sâu, dùng thuốc trừ sâu nguyên chất bơm vào lỗ sâu hại, hoặc dùng dao bén để moi bắt sâu ra. ngoài ra khi phun thuốc sâu trên lá cũng lưu ý phun vào thân cây để diết bớt ấu trùng .
4) Sâu ăn bông
Bướm đẻ trứng trên chùm bông nở ra sâu non tấn công trên chùm bông. Sâu non ăn phá các phần non của bông làm hư hại hay rụng sớm. Do mật số sâu cao (mỗi bướm cái có thể đẻ từ 50-60 trứng) nên việc phá hại dễ gây thiệt hại đến năng suất mặc dù hoa rất nhiều. Bướm có màu vành nhạt dài 28-32 mm, sâu non có nhiều lông (dạng sâu róm), hoạt động mạnh. Ở Thái lan, sâu ăn bông được xếp là loại gây hại quan trọng.
Phòng trừ:
-Theo dõi định kỳ 2-3 ngày/lần giai đoạn trổ hoa. Phát hiện bướm, tìm diệt ổ trứng và sâu non. Khi sâu mới nở mẫn cảm cao với thuốc nên rất dễ phòng trừ. Thường sâu gây hại trên diện rộng nên cần quan sát tất cả các chùm hoa trên các cây.
-Phát huy vai trò của kiến vàng ngăn chặn và hạn chế sâu.
— Phun trái định kỳ 15 ngày một lần, thuốc trừ sâu cộng với thuốc trừ nấm. Luôn phiên thay đổi gốc thuốc trừ sâu cũng như thuốc nấm.
5) Rầy nhảy: Lawana conpersa
Thuộc loài gây hại ít quan trọng tuy nhiên rầy nhảy có thể gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau như sầu riêng, cam quýt, ca cao, trà, cà phê, cây rừng và cây kiểng … Rầy trưởng thành và ấu trùng đều gây hại bằng cách chích hút trên đọt non, lá non, hoa làm cho cây chậm phát triển hoặc tạo điều kiện cho nấm bồ hóng gây hại.
Trưởng thành trông gần giống như bướm do khi đậu cánh rầy xếp dọc cơ thể như dạng mái nhà, trưởng thành có kích thước 14 mm toàn thân màu trắng, cánh màu trắng có nhiều chấm nâu đen. Trứng được đẻ trên đọt non, lá non, trứng đẻ cắm sâu vào gân lá. Ấu trùng được bao phủ 1 lớp như bông trắng.
Phòng trừ:
– Trong tự nhiên có một số loài nấm có thể gây hại đối với rầy được ghi nhận ở Malaysia là Metarhizium anisopliae var anisophiae đã làm giảm đáng kể mật số của rầy.
-Phun thuốc trừ các côn trùng chích hút cũng hạn chế được rầy nhảy.
6) Rệp sáp (Pseudococcidae)
Rệp sáp gây hại trên cây sầu riêng có nhiều loài, Planococcus sp. thường thấy gây hại trên lá và Pseudococcus sp. thường thấy hại trên trái. Rệp sáp gây hại trên trái phổ biến hon trên cành lá.
Rệp bám trên bề mặt và chích hút chất dinh dưỡng làm cho bộ phận bị hại phát triển kém. Gây hại nghiêm trọng làm cho trái dễ bị sượng. Rệp sáp bài tiết chất mật đường tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển. Trái có rệp sáp và bồ hóng đều không hấp dẫn, khó tiêu thụ và giá bán giảm.
Rệp sáp phát triển mạnh trong mùa khô. Mùa khô cũng là mùa ra hoa kết trái sầu riêng nên trái dễ bị tấn công hơn.
Phòng trừ:
-Bao trái là biện pháp giúp hạn chế một số dịch hại trong đó có rệp sáp.
-Duy trì ẩm độ không quá thấp trong mùa khô bằng lớp phủ xanh trên mặt đất (cỏ phủ đất), bón nhiều phân hữu cơ, tủ đất bằng chất hữu cơ và tưới đủ nước cũng góp phần làm giảm rệp sáp trong mùa khô.
-Tưới phun trên tán tạo ẩm cũng hạn chế được rệp sáp.
-Nhiều thiên địch có sẳn trong thiên nhiên có thể hạn chế rệp sáp như Bọ rùa và Ong ký sinh cần duy trì và phát huy vai trò của chúng.
-Chỉ phun thuốc trong trường hợp cần thiết. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng với thiên địch
-Tỉa bỏ những bộ phận bị hại nặng và tiêu huỷ. Tỉa bỏ trái mọc từng chùm hoặc mọc gần nhau tạo chổ ẩn trú của rệp sáp.
7) Bọ trĩ
Bọ trĩ gây hại khá phổ biến trên một số vườn sầu riêng ở miền Đông Nam bộ trong mùa khô. Ở ĐBSCL bọ trĩ ít phổ biến hơn có thể do ẩm độ trong vườn cao hơn trong mùa khô so với miền Đông Nam bộ.
Bọ trĩ có kích thước rất nhỏ, nhưng có thể quan sát dễ dàng dưới kính lúp. Bọ trĩ tấn công lá non cho đến khi lá gần trưởng thành. Chích hút chất dinh dưỡng trong lá làm cho phát triển kém. Lá bị tấn công có màu sáng bạc, ít thấy màu xanh. Kích thước lá có thể giảm, lá có thể bị biến dạng trong trường hợp nghiêm trọng. Bọ trĩ cũng tạo điều kiện cho nấm bò hóng phát triển làm đen lá, trái. Mặc dù không gây chết cây nhưng cây sinh trưởng phát triển kém làm cho ra hoa đậu quả kém, trái nhỏ, chất lượng giảm.
Phòng trừ
-Duy trì ẩm độ không quá thấp trong mùa khô bằng lớp phủ xanh trên mặt đất (cỏ phủ đất), bón nhiều phân hữu cơ và tủ đất bằng chất hữu cơ trong mùa khô, tưới đủ nước cho cây cũng là biện pháp giảm được rệp sáp trong mùa khô ở miền Đông Nam bộ.
-Dùng vòi nước mạnh tưới lên cây hoặc áp dụng kỹ thuật tưới phun trên tán trong mùa khô kết hợp tưới nước cũng giúp hạn chế dịch hại.
-Chỉ phun thuốc trong trường hợp cần thiết. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng với thiên địch
-Tỉa bỏ những bộ phận bị hại nặng và tiêu huỷ. Tỉa cành tạo tán thông thoáng hạn chế chổ trú ẩn của bọ trĩ.
8) Nhện đỏ
Nhện đẻ từng trứng rải rác trên mặt lá, trứng nhện hình tròn màu đỏ. Nhện đỏ phát triển mạnh trong thời tiết nắng nóng đỗ ẩm thấp, như mùa nắng năm 2015, khả năng sinh sản khá cao, vòng đời rất ngắn, gây hại bằng cách ăn biểu bì mặt lá, tạo thành những chấm trắng li ti và tiết độc tố. Khi bị nhiễm nặng lá chuyển màu vàng và rụng, ảnh hưởng đến khả năng ra hoa đậu trái của cây.
-Phòng trị:
Trong tự nhiên nhện hại bị nhiều loại thiên địch tấn công, như nhện nhỏ ăn mồi…..Cần tạo điều kiện cho thiên địch phát triển cũng hạn chế được tác hại của nhện.
Phun nước lên tán lá trong mùa nắng giúp rửa trôi bớt nhện và tạo độ ẩm cho thiên địch phát triển sẽ làm giảm mật độ nhện đỏ.
Khi mật độ nhện cao ta mới phải dùng đến hóa học. Dùng thuốc có hoạt chất Abamectin, phun ướt đều tán mặt trên và mặt dưới lá. 5 ngày sau phun nhắc lại, nếu nặng cứ 20 ngày phun nhắc lại, 2 lần cách nhau 5 ngày như trên, nhưng lần 2 thay thuốc bằng thuốc có hoạt chất khác.
9) Bệnh thối vỏ chảy nhựa (bệnh Phytophthora) do nấm Phytophthora palmivora
Đây là bệnh quan trọng nhất trên cây sầu riêng không chỉ ở nước ta mà còn trên khắp vùng trồng sầu riêng trên thế giới. Nấm Phytophthora palmivora ngoài tấn công trên vỏ thân gây triệu chứng thối vỏ chảy nhựa còn gây hại trên lá gây triệu chứng cháy lá, trên quả gây thối quả, trên rễ gây thối rễ, trên ngọn non gây hiện tượng chết ngọn. Trong đó, triệu chứng thối vỏ chảy nhựa là quan trọng nhất.
Trên vỏ thân bệnh khó phát hiện sớm mãi đến khi thấy hiện tượng chảy nhựa (mủ) từ vết loét do nấm gây ra. Nếu phát hiện sớm vết loét còn nhỏ, việc phòng trừ nhanh và hiệu quả. Nếu phát hiện muộn, vết loét lan rộng, nhiều vết loét liên kết với nhau làm cho vỏ cây bị huỷ hoại việc phòng trừ sẽ tốn kém, vết bệnh lâu lành, cây suy yếu. Nếu không phòng trừ, cây có thể chết khi nước và chất dinh dưỡng không được chuyển lên cây.
Trên thân cành, quan sát khi thân cây khô ráo, tìm các vết nứt hoặc chảy nhựa, dùng dao bén cạo bỏ phần mô mặt bị chết. Khi thấy bên trong mạch dẫn hoá nâu, thâm đen và hư hại dần là triệu chứng đặc trưng của bệnh.
Trên lá, vết bệnh khởi đầu là những chấm đỏ màu nâu, sũng nước và lan rộng nhanh. Vết bệnh sau cùng thường có dạng gần tròn màu nâu đen sũng nước với rìa màu vàng nhạt nhỏ. Vết bệnh lan rộng nhanh trong điều kiện ẩm độ không khí cao. Vết bệnh cũng có thể bắt đầu từ cuống lá, cành non làm phần phía trên héo nhanh, rũ và chết dần.
Trên trái vết bệnh đầu tiên là một đốm đen nhỏ sũng nước lan rộng nhanh. Vết thối có thể lan sâu làm hỏng phần trong của trái. Trên vết bệnh có thể thấy nấm tạo thành một lớp trên bề mặt màu trắng xám với rất nhiều bào tử sẳn sàng lây lan qua gió mưa.
Ngoài gây hại trên sầu riêng, nấm có nhiều ký chủ khác như cây cao su, mít… …
Phòng trừ:
-Nguồn bệnh có thể có trong bầu đất và cây con. Do đó phải sử dụng cây giống sạch bệnh.
-Cần chăm sóc cây tốt, khoẻ mạnh để tăng sức đề kháng cho cây như cung cấp nước phân bón hợp lý, phủ đất trong mùa khô ..…
-Trồng cây trên mô, líp để thoát nước thuận lợi.
-Mật độ cây trong vườn ươm vừa phải, tránh trồng xen quá dày.
-Tỉa cành tạo tán để vườn cây thông thoáng.
-Tỉa và tiêu huỷ các nguồn bệnh, ngăn ngừa lây lan. Bệnh có thể lây lan qua dụng cụ chăm sóc, thu hái, giày dép, phương tiện vận chuyển….
-Hạn chế gây thương tích cho cây khi chăm sóc, vận chuyển. Phòng trừ các côn trùng gây vết thương cho cây. Vết cắt cần quét thuốc trừ nấm.
-Diệt mối và kiến làm tổ lên cây.
-Bón nhiều phân hữu cơ ( 5-60 kg phân hữu cơ hoai/cây/năm). Nên sử dụng phân gà, phân rác vi sinh, phân bò… được ủ hoai.
-Vết bệnh còn nhỏ có thể cạo bỏ phần mô chết, bôi thuốc, Aliette 80 WP, Ridomil, Metalaxyl pha 10 %.
-Phun tán cây , Aliette 80 WP, Ridomil, Metalaxyl…Theo hướng dẫn trên bao bì.
-Dùng các chế phẩm sinh học là hướng đang được nghiên cứu áp dụng như bón phân hữu cơ bổ sung vi sinh vật có ích như nấm Trichoderma.
-Tiêm cây với thuốc Phosphonate là một kỹ thuật mới được Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam phát triển. Phương pháp này có hiệu quả và giảm được chi phí khoảng 40% so với biện pháp phun thuốc.
Biện pháp tiêm cây với Phosphonate
Phosphonate là muối Potassium của acid phosphorous được trung hòa đến pH 6.5-7.0 được sử dụng tiêm vào thân hoặc nhánh lớn. Phosphonate thường được bán với các hiệu như
Agri fos 400. với nồng độ hoạt chất là 400 g ./L, được pha loãng với nước sạch theo tỷ lệ 1:1 trước khi tiêm. Để tiêm, trên thân khoan một lỗ đường kính 5 mm, sâu 30-50 mm với một mũi khoan bén, lỗ khoan cao 50-120 cm từ mặt đất. Có thể sử dụng ống tiêm chuyên dụng hiệu ChemjetÒ 20mL. Cần khoảng 2-6 lỗ khoan quanh thân cho mỗi cây. Lỗ khoan nên dưới các nhánh lớn. Hút đầy ống tiêm, kéo cần tiêm về phía sau và xoay nhẹ tay mãi đến khi nghe tiếng “click”, tay cần được khoá. Vặn vòi ống tiêm vào lỗ khoan cho đến khi thật sát. Phóng thích cần tiêm bằng cách xoay ngược lại trong khi vẫn cố định ống tiêm trong lỗ khoan, cần tiêm được phóng thích nhờ lò xo sẽ ép dung dịch thuốc qua lỗ khoan vào bên trong. Nếu không mua được loại nói trên thì có thể mua ống tiêm bằng nhựa, rồi dung ruột xe máy cắt ra tạo lực bơm thuốc, tôi làm cách này khá hiệu quả.
Mất khoảng 20-30 phút để thuốc đi hết vào bên trong. Sau đó xoay ngược lấy ống tiêm ra, hút đầy thuốc và tiêm cho lỗ mới. Nên tiêm vào buổi sáng sớm vì thuốc sẽ được hấp thu nhanh đáng kể so với buổi chiều. Liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.
10) Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum gloeosporioides (Penz.) Penz. & Sacc.
Bệnh thường gây hại trên cây bắt đầu đầu mùa khô, lúc trời mát, nhiều sương mù trong buổi sáng. Bệnh gây hại nặng trên những vườn chăm sóc kém, thiếu phân và tưới nước không đầy đủ. Bệnh cũng phổ biến trên sầu riêng trồng trên đất xấu, ít chất hữu cơ, gió mạnh và không được che mát giữ ẩm thích hợp.
Bệnh thường gây hại trên lá, vết bệnh có thể thấy khi lá trưởng thành trở đi. Vết bệnh thường bắt đầu từ mép lá, chót lá lan vào bên trong. Vết bệnh cũng có thể bắt đầu từ vết thương trên lá do côn trùng, rách do gió hay do chăm sóc. Vết bệnh lan rộng thành những sọc song song có màu nâu đậm trên nền mô chết có màu nâu xám. Bệnh nặng làm lá khô cháy dần và rụng sớm, trơ cành. Bệnh làm cho cây suy yếu dần. Triệu chứng bệnh thán thư thường đi kèm với triệu chứng thiếu dinh dưỡng nhất là thiếu Kali.
Phòng trừ:
– Chăm sóc cho cây khoẻ mạnh, bón phân tưới nước đầy đủ.
-Bón nhiều phân hữu cơ hoai mục.
-Giữ ẩm cho đất trong mùa khô bằng cỏ phủ đất. Phủ gốc với phân hữu cơ, rơm rạ, cỏ khô trong mùa khô.
-Che mát cho cây con.
-Tỉa bỏ lá bị bệnh nặng và tiêu huỹ. Vệ sinh vườn cây.
-Chú ý phòng trừ một số loại côn trùng gây hại trên lá như câu cấu, bọ cánh cứng hoặc một số côn trùng chích hút vì chúng có thể gây ra những vết thương và mở đường cho nấm bệnh tấn công.
-Phun thuốc phòng trừ: Sử dụng các loại thuốc như Benomyl, Appencarb, Carbendazim, Mancozeb, Antracol hoặc thuốc gốc đồng. Luân phiên các loại thuốc để tránh gây ra hiện tượng kháng thuốc của nấm bệnh.
11) Bệnh cháy lá (do nấm Rhizoctonia solani)
Bệnh thường gây hại cây sầu riêng con trong vườm ươm và cây mới trồng những năm đầu. Bệnh cũng gây hại trên cây trưởng thành nơi có bộ tán lá rậm rạp hay mọc gần mặt đất ẩm. Bệnh thuờng xuất hiện một nơi sau đó lan rộng dần ra xung quanh. Vết bệnh thường có màu xanh xám hay xám nâu. Lá non bị nhiễm bệnh giống như bị luộc trong nước sôi, màu xanh nhợt nhạt sũng nước. Các lá được kết dính với nhau do sự mọc lan của các sợi nấm. Do đó khi khô chúng dính với nhau nhưng không rụng. Hiện tượng này nông dân gọi là “tổ kiến”. Bệnh có thể tấn công lên các thân non làm khô chết phần ngọn phía trên và sau đó sẽ chuyển màu trắng xám.
– Nấm gây bệnh thường phát triển trong điều kiện ẩm độ cao, thiếu ánh nắng. Sự lây lan có thể trực tiếp do sợi nấm mọc lan hoặc do hạch nấm di chuyển nhờ dòng nước. Ngoài cây sầu riêng nấm này cũng còn tấn công các loại cây non khác.
– Mầm bệnh này thường phổ biến trong rơm rạ, cây cỏ…do vậy sử dụng các rơm rạ, cây cỏ khô phủ đất cần lưu ý sự lây lan nguồn bệnh.
Phòng trừ
– Ngăn chặn nguồn bệnh lây lan từ bên ngoài vào trong vườn (từ rơm rạ, cỏ khô, nguồn nước chảy..)
– Mật độ trồng nên vừa phải để tạo độ thông thoáng và hạn chế lây lan.
– Nên kiểm soát bệnh bằng chế đọ phun thuốc hoá học với các loại thuốc trừ nấm như EFIGO, Anvil, Moncerene, Bonanza, … Champion 57.6 DP, Dupont TM Kocide 53.8 WG, Funguran – OH 50 WP, Map – jaho 77 WP, COC 85 WP, PN – Coppercide 50 WP, Newkasuran 16.6 WP, Cuproxat 345 SC.
12) Bệnh đốm rong đỏ: do rong (algae) Cephaleuros virescens gây bệnh
Đốm bệnh thường xuất hiện ở phiến lá, đôi khi cũng xuất hiện trên cành non. Đốm bệnh có màu đỏ rỉ sắt bề mặt như lớp nhung mịn, hơi nhô lên mặt lá. Bệnh làm giảm khả năng quang hợp, cây sinh trưởng kém. Ngoài sầu riêng, còn gây hại trên nhiều cây trồng khác.
Bệnh thường thấy trên lá đã trưởng thành. Bệnh phát triển trên cây già cỗi, sinh trưởng kém. Vườn trồng trên đất xấu, vườn chăm sóc kém bệnh nhiều. Cây con không che mát, chăm sóc kém, bệnh có thể gây hại trên thân cành non.
Phòng ngừa:
-Bón phân tưới nước đầy đủ cho cây, phòng trừ các loại sâu bệnh khác giúp cây sinh trưởng tốt giúp hạn chế được bệnh.
-Che mát cho cây con trong mùa khô
-Bón nhiều phân hữu cơ giúp giữ ẩm tốt trong mùa khô.
-Trường hợp bệnh nặng có thể sử dụng Bordeaux để phun trừ.
13) Bệnh nấm hồng do nấm Erythricium salmonicolor (Corticium salmonicolor)
Bệnh thường xuất hiện trên các cành nhỏ mọc ngang ở nơi phân cành. Thời tiết mưa ẩm kéo dài là điều kiện thuận lợi cho nấm bệnh phát sinh phát triển và lây lan. Đầu tiên những sợi nấm màu trắng phát triển bên trên vỏ cây. Sau đó hình thành lớp nấm dạng phấn hồng bao phủ bên ngoài vỏ cây. Bên dưới lớp phấn phủ mô vỏ cây bị thâm và thối làm cho phần trên vết bệnh không được cung cấp nước và chất dinh dưỡng, sau đó lá vàng khô dần và chết. Vỏ cây có thể bị nứt ở vị trí vết bệnh. Bệnh thường làm chết cành nếu không phòng trừ kịp thời. Ở miền Đông Nam bộ bệnh phổ biến và nguy hại hơn so với miền Tây Nam bộ.
Nấm bệnh lây lan qua bào tử bay trong không khí do gió mưa, gặp điều kiện thích hợp sẽ phát triển thành vết bệnh ở nơi mới.
Phòng trừ:
-Không trồng quá dày, tránh trồng xen rậm rạp.
-Tỉa cành tạo tán nhằm tăng độ thông thoáng trong tán cây và trong vườn cây.
-Những cành bệnh nặng, cành chết do bệnh cần được cắt và tiêu huỹ ngăn ngừa lây lan.
-Phun thuốc phòng trừ. Có thể sử dụng các loại thuốc như EFIGO, Validacin, Bonaza, thuốc gốc đồng…. để phun.
-Quét thuốc lên vết bệnh mới xuất hiện và ở các vị trí bệnh có thể xuất hiện. Sử dụng các loại thuốc nói trên.
Nguồn: nông dân Đỗ Trường Sơn
Th831
Bất ngờ hiệu quả về mô hình trồng chuối xen canh sầu riêng
Nói đến mô hình đa cây, người ta nghe nhiều đến cà phê xen tiêu, cà phê xen sầu riêng… Ở Đắk Lắk lại có mô hình trồng xen chuối trong vườn sầu riêng của HTX Nông nghiệp Ko Siêr, phường Tân Lập, TP Buôn Ma Thuột.
E ngại trồng chuối xen trong vườn sầu riêng sẽ lãng phí diện tích đất, ông Y Kuôm Niê Siêng, Chủ nhiệm HTXNN Ko Siêr xua tay “không phí đâu” rồi chia sẻ, trước đây, 97ha đất của HTX chỉ trồng thuần cây cà phê. Khi vườn cà phê đã già cỗi, thoái hóa, HTX quyết định chặt bỏ để thay thế bằng cây sầu riêng giống cơm vàng hạt lép.
“Nhận thấy nếu chỉ trồng độc canh một loại cây sẽ có nhiều rủi ro, nên năm 2014, sau khi tham quan, học hỏi kinh nghiệm ở nhiều nơi, HTX đã trồng thí điểm 20.000 cây chuối xen trong vườn sầu riêng. Sau đợt thu hoạch đầu tiên thành công với sản lượng gần 100 tấn trái chuối, HTX đã triển khai trồng xen các giống chuối già hương, già lùn, chuối tiêu hồng trên toàn bộ diện tích”, ông Siêng nói.
Mô hình mới đã mang lại hiệu quả cao
Ưu điểm của cây chuối là rất dễ trồng, thích nghi với mọi điều kiện thời tiết, chỉ cần tưới đủ nước và chăm bón đầy đủ là cây khỏe mạnh và phát triển tốt. Sau 6 tháng trồng, cây chuối sẽ ra hoa, tạo buồng và bắt đầu cho thu hoạch.
Bí quyết để cây chuối trổ ra buồng đều, quả to đều và ngọt là thường xuyên giữ độ ẩm, tạo nguồn nước cho cây; thường xuyên phun thuốc chống sương, dưỡng lá.
Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật nên toàn bộ diện tích chuối trồng xen sầu riêng của HTX đều phát triển tốt, trung bình mỗi năm HTX thu hoạch được 150 tấn chuối quả các loại, với giá bán ổn định tại vườn từ 2.500 – 3.000 đồng/kg.
Cây chuối sau khi chặt buồng có thể tận dụng thân và lá để tủ gốc cây sầu riêng nhằm tạo ẩm, tăng thêm chất hữu cơ và tránh cỏ mọc. Một cây chuối cho hai lượt thu hoạch thì trồng thay thế cây mới để bảo đảm chất lượng quả.
Bên cạnh đó, trồng xen chuối sẽ có tác dụng cản gió và xốp đất, giữ nước cho cây sầu riêng, nhờ vậy, năng suất của sầu riêng cũng cao hơn so với trồng thuần. Bình quân hàng năm HTX thu về khoảng hơn 300 tấn sầu riêng, tăng 20% sản lượng so với trước đây.
Bà Võ Hoàng Như, cán bộ Hội Nông dân phường Tân Lập cho biết, nhờ đầu ra và giá cả ổn định, mô hình trồng xen chuối trong vườn sầu riêng không chỉ tận dụng được khoảng đất mà còn góp phần nâng cao thu nhập trên cùng một diện tích đất. Mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, sản xuất theo hướng tập trung là cách giúp mô hình kinh tế HTXNN Ko Siêr phát triển có hiệu quả, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo việc làm ổn định, thường xuyên cho 34 lao động tại chỗ với mức lương 180.000 – 200.000 đồng/người/ngày công.
HUỲNH QUANG ')}
Th1026
Phân bón hữu cơ là gì ? 10 ưu điểm của phân bón hữu cơ so với phân bón thông thường
Phân bón hữu cơ là gì? 10 Ưu điểm của phân bón hữu cơ so với phân bón thông thường
Việc sử dụng phân bón hóa học một cách tràn lan trong thời gian dài đã khiến nguồn đất sản xuất nông nghiệp bị mất đi phần lớn lượng hữu cơ có vốn có của đất, cho nên đất sản xuất đã và đang ngày càng bạc màu, thoái hóa nghiêm trọng. Chính vì thế việc thay đổi tập quá trong sản xuất nông nghiệp thay đổi loại phân bón vô cơ đang sử dụng qua các loại phân bón hữu cơ đang là giải pháp tối ưu nhất để phục hồi đất sản xuất nông nghiệp của nước ta hiện nay.
I.Phân bón hữu cơ là gì?
Phân bón hữu cơ là dạng phân bón có nguồn gốc đa dạng, chủ yếu được chia thành 5 nhóm chính: nhóm nguồn gốc từ động vật, nhóm nguồn gốc từ thực vật, nhóm vi sinh vật, nhóm sinh vật biển, nhóm hỗn hợp. Việc sử dụng phân bón hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp sẽ làm tăng độ phì nhiêu của đất, cải tạo đất hiệu quả, trả lại cho đất lượng lượng hữu cơ đã bị mất. Đây là giải pháp để nền nông nghiệp phát triển bền vững.
II.Phân loại phân bón hữu cơ.
Hiện tại trên thị trường có rất nhiều loại phân bón hữu cơ, và được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên chủ yếu được phân thành 2 loại chính:
Phân hữu cơ truyền thống và phân hữu cơ được chế biến công nghiệp.
– Phân hữu cơ truyền thống bao gồm các loại phân rác, phân xanh, phân chuồng…
– Phân hữu cơ chế biến công nghiêp bao gồm các loại phân hữu cơ sinh học, phân hữu cơ vi sinh, phân vi sinh vật, phân hữu cơ, phân bón lá hữu cơ, phân hữu cơ – khoáng.
III.Các phương pháp chế biến phân bón hữu cơ.
Trên thực tế có nhiều cách để chế biến phân bón hữu cơ: chế biến thô sơ và chế biến công nghệ.
– Phương pháp chế biến thô sơ nhà nông hoàn toàn có thể tự thực hiện tại nhà. Phương pháp này thường áp dụng trong cho phân chuồng, phân rác, phân xanh, than bùn.
– Phương pháp công nghệ vi sinh, tức sử dụng các vi sinh vật để chế biến phân. Phương pháp này thường được áp dụng trong chế biến các nguồn hữu cơ ít vi sinh vật: rác thải đô thị, than bùn và các chất hữu cơ khó phân hủy như vỏ trấu, vỏ hạt cà phê, bôt gỗ, thân vỏ cây…Các chế phẩm được sử dụng phương pháp chế biến này thường được gọi là phân hữu cơ sinh học.
– Phương pháp chế biến than bùn, gồm hai giai đoạn: giai đoạn hoạt hóa và giai đoạn dưỡng hóa. Phân hữu cơ chế biến từ than bùn ngoài việc cung cấp chất mùn humat còn có vai trò là chất mang, giúp các chất dinh dưỡng khoáng ít bị rửa trôi, là môi trường thuận lợi cho vi sinh vật tồn tại và phát triển.
IV.Công dụng của phân hữu cơ.
1.Phân bón hữu cơ cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng đầy đủ, cân đối, bền vững.
Trong các loại phân bón hữu cơ đều chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng đa lượng N,P,K cần thiết cho cây trồng. Ngoài ra trong phân bón hữu cơ còn có các nguyên tố trung lượng và vi lượng ở dạng dễ hấp thu giúp cây trồng phát triển cân đối. Phân hữu cơ sẽ không bị mất cân bằng dinh dưỡng khi cung cấp cho cây trồng như khi sử dụng phân bón hóa học.
Trong phân bón hữu cơ các chất dinh dưỡng sẽ được phân giải từ từ để có thể cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng trong thời gian dài nhằm đảm bảo đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của cây trồng trong suốt thời gian sinh trưởng của cây.
bí đỏ sử dung phân bón hữu cơ ong biển
Phân bón hữu cơ cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng
Đặc biệt trong các loại phân hữu cơ còn có các loại vi sinh vật hữu ích: vi sinh vật cố định đạm, phân giải lân, phân giải xenlulo… khi sử dụng cho cây trồng sẽ tạo môi trường thuận lợi cho vi sinh vật hữu ích phát triển, hạn chế tối đa các vi sinh vật gây hại.
2.Giúp cây trồng phát triển cân đối, ổn định.
Khi bón xuống đất phân hữu cơ phân hủy thành các chất mùn chứa các loại axít hữu cơ: axit humic, axit fulvic… kích thích sự phát triển của rễ cây, giúp rễ cây dễ hấp thụ các chất dinh dưỡng. Trong trường hợp các chất axit này được phun lên lá cũng sẽ giúp tăng cường quá trình quang hợp của cây trồng.
3.Tăng chất lượng nông sản.
Việc sử dụng phân bón hữu cơ sẽ giúp cây trồng cho nông sản có chất lượng cao hơn so với việc sử dụng phân bón vô cơ. Đối với phân hữu cơ sau khi được chế biến sẽ loại bỏ được các yếu tố độc hại với con người, không để lại tồn dư hóa chất trong nông sản như sử dụng các loại phân bón vô cơ. Vì trong phân bón hữu cơ đã có đầy đủ các dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển của cây trồng cùng hệ thống vi sinh vật hữu ích giúp nhà nông hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, nên sản phẩm luôn an toàn cho người sử dụng, người tiêu dùng.
4.Tăng hàm lượng dinh dưỡng, cung cấp chất mùn cho đất. Cân bằng vi sinh vật trong đất.
Dưới tác động của môi trường, các chất hữu cơ trong đất được phân giải và tích lũy dần giúp hàm lượng dinh dưỡng trong đất ngày càng cao.
Phân hữu cơ phân giải tạo ra chất mùn, tạo nên sự kết dính của kết cấu đất. Nhờ có kết cấu mà đất trở nên tơi xốp, thông thoáng tăng khả năng giữ nước và chất dinh dưỡng tạo môi trường thuận lợi cho vi sinh vật phát triển.
phân bón hữu cơ giúp tạo điều kiện cho vi sinh vật phát triển
Phân hữu cơ sẽ cải tạo đất tạo môi trường thuận lợi cho hệ thống vi sinh vật phát triển, hạn chế các vi sinh vật gây hại cây trồng, điều đó góp phần cải tiến hệ thống vi sinh vật trong đất theo hướng có lợi cho đất và cây trồng.
5.Hạn chế sự rửa trôi và xói mòn đất
Các chất hữu cơ được phân giải sẽ kết hợp với các chất khoáng dinh dưỡng trở thành các phức hệ hữu cơ- khoáng có tác dụng quan trọng trong việc làm giảm sự rửa trôi, xói mòn các chất dinh dưỡng. Ngoài ra với các chất mùn có trong phân hữu cơ sẽ làm tăng tính ổn định của kết cấu đất, chính vì thế bảo vệ được cấu trúc đất, hạn chế tối đa việc xói mòn.
6.Cải tạo đất trồng.
Phân bón hữu cơ có công dụng rất tốt trong việc cải tạo đất trồng, đặc biệt đối với đất cát, đất bạc màu. Phân hữu cơ tác động mạnh đến cấu trúc đất, cải thiện các tính chất lý, hóa, sinh học của đất ngày càng trở nên tốt hơn. Chính vì thế tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ là cách quan trọng để cải tạo đất sản xuất nông nghiệp nói chung của nước ta.
phân bón hữu cơ giúp cải tạo đất
7.Không gây ô nhiễm môi trường
Không giống như phân bón vô cơ chứa các hóa chất độc hại, khó phân hủy ở môi trường tự nhiên thì phân bón hữu cơ có thể phân hủy hết trong điều kiện tự nhiên. Các chất có gốc muối sufat, clor, nitrat… có trong phân hóa học khi kết hợp với các ion tự do trong đất sẽ tạo thành các axit làm đất bị chua, khi các chất độc này ngấm xuống nước sẽ gây ô nhiễm nguồn nước. Phân bón hữu cơ làm tăng kết cấu cửa đất, giúp đất trở thành một bộ máy lọc thông minh, lọc các chất độc có trong đất, nước rồi từ từ phân hủy hoặc làm giảm tính độc của chúng, giúp bảo vệ môi trường, an toàn cho con người.
8.Bón phân hữu cơ giúp nhà nông tiết kiệm nước tưới
Việc sử dụng phân bón hữu cơ thường xuyên trong thời gian dài sẽ cải tạo đất trồng hiệu quả, giúp đất tơi xốp, tăng khả năng giữ nước, giữ ẩm. Chính vì thế giúp hạn chế việc phải tưới nước thường xuyên. Giúp nhà nông tiết kiệm chi phí, công sức nhưng cây trồng vẫn phát triển cân đối.
9.Hạn chế việc sử dụng phân bón vô cơ
Tác hại của phân bón vô cơ đối với con ngừoi, môi trường đặc biệt là đất sản xuất nông nghiệp đã quá rõ ràng. Việc sử dụng phân bón hữu cơ giúpgiảm lượng phân bón vô cơ trong sản xuất nông nghiệp, phục hồi đất canh tác, giúp cây trồng phát triển cân đối. Đây là giải pháp tối ưu nhất cho nền nông nghiệp nước ta lúc này.
10.Hương vị ngon, tốt cho con người, vật nuôi.
Việc sử dụng phân bón vô cơ trong không đúng quy cách sẽ khiến nông sản bị tồn dư các hóa chất độc hại, làm giảm lượng chất dinh dưỡng có nông nông sản, từ đó nông sản sẽ giá trị thấp. Việc sử dụng phân bón hữu cơ giúp nông sản không bị tồn dư các hóa chất độc hại, tăng hàm lượng dinh dưỡng trong sản phẩm. Cho nên việc sử dụng phân bón hữu cơ rất an toàn cho con người.
Phân bón vô cơ chỉ có tác dụng trong một thời gián ngắn, chính vì thế cần phải thường xuyên bổ sung dinh dưỡng cho đất, một số trường hợp phân vô cơ cây không hấp thụ được gây lãng phí, phân tích tụ trong đất gây ô nhiễm môi trường. Lợi ích của phân bón hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp đã được minh chứng từ hàng ngàn năm nay. Từ xa xưa cha ông ta đã sử dụng phân bón hữu cơ cho canh tác nông nghiệp. Phân bón hữu cơ không để lại những hậu quả đối với môi trường, sức khỏe như phân bón vô cơ. Việc sử dụng phân bón hữu cơ là con đường giúp nền nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững.
Sưu tầm
Th825
Kĩ thuật canh tác rau trong mùa mưa
Đối với kỹ thuật canh tác mùa mưa có những khác biệt so với mùa khô. Trước hết, đối với đặc tính của cây rau nói chung là nhóm cây trồng sử dụng nước tưới nhiều. Nhưng nếu trong trường hợp ngập nước, úng nước thì cây rau nói chung lại khó phát triển, bộ rễ bị thối và cây sẽ chết.
Do đó việc canh tác rau trong mùa mưa, người trồng cần chú ý chọn ruộng có địa hình cao ráo có khả năng tiêu thoát nước tốt. Đối với chân ruộng thấp trước hết phải tiến hành làm luống cao, có rãnh thoát nước tốt. Xung quanh cần củng cố bờ bao vững chắc và trang bị máy bơm để phòng chống lại các trường hợp mưa lớn, gây ngập úng tạm thời.
Đối với những loại rau: như cải bắp, khổ qua, dưa leo, ớt, đậu đũa, côve…biện pháp sử dụng màng phủ công nghiệp là giải pháp tối ưu. Vì, như vậy sẽ kiểm soát được độ ẩm trong đất. Mùa mưa lượng nước mưa không trực tiếp rơi xuống mặt luống nên bộ rễ không bị úng nước do thiếu Oxy, mặt luống không bị trơ mòn làm trơ rễ. Đất tơi xốp suốt vụ giúp duy trì độ ẩm ổn định suốt mùa vụ, bộ rễ rau lan tỏa khắp liếp. Sử dụng màng phủ công nghiệp còn giảm tối đa công làm cỏ. Cây trồng có lá già không trực tiếp tiếp xúc với mặt đất nên làm giảm được nguồn nấm gây bệnh lây lan từ đất. Một số côn trùng do ảnh hưởng của màng phủ nên không có chổ trú ẩn, khả năng gây hại giảm: như bù lạch, rầy mềm trên dưa hấu, sâu ăn tạp. Từ đó giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật phải phun xịt. Khi bón phân vào ruộng rau có màng phủ sẽ giảm sự rửa trôi phân bón, đặc biệt giảm bốc hơi và rửa trôi phân đạm bón vào.
Đối với nhóm rau ăn lá thì nên trồng trong nhà lưới. Nhà lưới sẽ làm giảm tối đa tác hại của mưa rơi trực tiếp xuống bộ lá, không làm rách lá hoặc làm đất bắn lên gây rách và thủng lá. Giảm được sự truyền bệnh do xây xát. Sử dụng lưới màu trắng. Có thể che phủ lưới trên luống hoặc làm nhà lưới.
Vào mùa mưa cần lưu ý biện pháp phòng trị bệnh thối nhũn (do vi khuẩn gây ra) trên nhóm cây họ thập tự. Do đó, cần tăng cường phân bón hữu cơ hoai mục, phân hữu cơ sinh học. Khi chăm sóc tránh làm xây xát cây. Nhặt bỏ lá già, nhổ bỏ cây bệnh nặng rồi rắc vôi vào gốc. Cần chú ý bệnh gỉ trắng do loại nấm Albugo ipomoea gây ra. Bệnh phát sinh trên lá lúc đầu là những vết nhỏ, sau lớn lên làm cho lá co lại. Lá sẽ bị vàng và rụng héo. Đối với bệnh đốm lá, sương mai, thán thư trên dưa leo, khổ qua, cà chua, cà tím
Biện pháp phủ luống hay nhà lưới đều hiệu quả trong canh tác rau trong mùa mưa.
Theo nhanong.net
Th719
Kỹ thuật trồng và chăm sóc dưa chuột vụ đông
Dưa chuột cho thu hoạch liên tục 1-2 ngày/lần, cần thu sớm khi quả đủ trọng lượng, không để già. Khi thu hoạch phải nhẹ nhàng, tránh làm đứt thân cây, không làm dập nát, để nơi khô mát, sau đó đóng vào bao bì sạch rồi vận chuyển đến nơi tiêu thụ.
Do đó việc trồng đúng kỹ thuật, tránh tồn dư thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) và phân bón có ý nghĩa quan trọng bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Ngành BVTV Hà Nội khuyến cáo thời vụ thích hợp cho cây dưa chuột vụ thu đông là gieo từ tháng 9 đến đầu tháng 10.
Người dân cần sử dụng các giống chất lượng cao được cung ứng từ các công ty có uy tín và một số giống địa phương trong nước. Lượng hạt giống 850-900g/ha. Trước khi gieo phải dọn sạch Cỏ và tàn dư thực vật; làm đất kỹ, tơi nhỏ; lên luống cao 25-30cm, mặt luống rộng 1,2-1,4m, bằng phẳng dễ thoát nước để tránh ngập úng khi gặp mưa. Về xử lý hạt giống trước khi gieo: Ngâm nước ấm 35-40oC trong 3 giờ, sau đó ủ ở nhiệt độ 27-30oC cho đến khi hạt nứt nanh; mỗi luống gieo 2 hàng, theo phương pháp bổ hốc hoặc gieo theo rãnh với mật độ hàng cách hàng 60-70cm, cây cách cây 35-40cm; nên gieo 2 hạt/hốc, khi cây được 2-3 lá thì tỉa bỏ bớt 1 cây xấu.
Sau khi trồng, mỗi ngày nên tưới 2 lần. Khi cây mọc 3-4 lá, 1-2 ngày tưới một lần; giai đoạn nở hoa và trong khi thu hoạch quả luôn giữ độ ẩm đất 80-85% (có thể tưới rãnh cho cây, khi đủ ẩm phải tháo hết nước). Khi cây có tua cuốn, tiến hành làm giàn theo hình chữ A. Trong các đợt bón thúc, làm cỏ cần kết hợp cắt tỉa lá già, lá bị Bệnh giả sương mai, riêng lá bị dòi đục hại nặng đem tiêu hủy.
Đối với cây dưa chuột chỉ nên sử dụng phân hữu cơ đã ủ hoai mục, tuyệt đối không dùng phân tươi, nước phân tươi, nước giải tươi để bón và tưới cho rau; đồng thời bón bổ sung phân hữu cơ vi sinh, hữu cơ sinh học; chú ý các đối tượng sâu bệnh là bệnh đốm phấn vàng, bệnh phấn trắng, dòi đục lá, bọ trĩ và sâu xanh sọc dưa.
Dưa chuột là cây cho thu hái liên tục (1-2 ngày/lần), do vậy không nên sử dụng thuốc hóa học phòng trừ sâu bệnh ở giai đoạn quả. Nông dân sử dụng các loại thuốc thảo mộc, nguồn gốc sinh học và hóa học thế hệ mới khi sâu bệnh phát sinh gây hại với mật độ cao; nên chọn các loại đất luân canh với cây trồng khác như lúa nước và các cây trồng cạn khác họ bầu bí nhằm hạn chế nguồn sâu bệnh chuyển tiếp; dùng biện pháp thủ công như: Bắt giết sâu non, ngắt lá bị dòi đục, rệp hại nặng đem tiêu hủy.
Riêng bệnh đốm phấn vàng phát sinh từ các lá gốc rồi lan dần lên các lá phía trên, từ khi bệnh phát sinh, có thể tiến hành ngắt lá bệnh từ gốc lên định kỳ 5-7 ngày/lần, vừa tạo độ thông thoáng cho ruộng, vừa hạn chế tốc độ phát sinh của bệnh.
Nguồn: kĩ thuật nuôi trồng ')}
Th620
Kĩ thuật làm bông cho cây hồ tiêu
Kỹ thuật làm bông cho cây hồ tiêu
Để cho cây hồ tiêu cho năng suất cao ổn định yêu cầu cây hồ tiêu phải mạnh khỏe ít bệnh tật. Hạn chế hồ tiêu suy bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý trong cả năm. Cây có khỏe mạnh thì mới cho năng suất cao ổn định.
Để cho cây hồ tiêu cho năng suất cao ổn định yêu cầu cây hồ tiêu phải mạnh khỏe ít bệnh tật. Hạn chế hồ tiêu suy bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý trong cả năm. Cây có khỏe mạnh thì mới cho năng suất cao ổn định.
Mỗi mắt tay của cây tiêu đều có thể cho bông nếu ta biết đánh thức nó dậy. Những mắt trên tay hồ tiêu luôn chứa 1 mầm. Việc phân hóa mầm hoa hợp lý cây sẽ luôn cho năng suất cao.
1. Các việc cần làm khi hãm nước
Sau khi thu hoạch rửa cây bằng thuốc gốc đồng để tiêu diệt mầm bệnh, diệt nấm có hại trên lá như thán thư địa y, và cho lá già lá bệnh tật rụng đi.Làm sạch chồi, cắt bỏ tiêu lươn và những tay nằm sát mặt đất. Gom những lá già lá bệnh tật rụng đem đi đốt.
Việc phân hóa mầm hoa chính là hãm nước. Thời gian hãm nước từ 30 đến 45 ngày tùy vào tiêu sung hay không. Cho nên sau khi thu hoạch cần phân ra làm 3 loại tiêu: tiêu sung, tiêu bình thường không sung không suy và tiêu suy.
Đối với hồ tiêu suy, thường là những giống chín sớm như Ấn Độ, bà con chỉ cần tưới theo cho tới đợt thúc phân, thì thúc cùng lúc với tiêu đã hãm nước cây sẽ ra bông. Cây suy thì lúc nào cũng sẵn sàng cho ra bông. Nhưng nếu ta không cân đối phân bón thì sang năm cây lại bị mất mùa. Vì vậy phải tạo dinh dưỡng. từ khi thu hoạch, nhất là tưới nước. Phải biết cách phân biệt cây tiêu sung hay ít sung để điều chỉnh lượng nước tưới cho cây hợp lý trong quá trình thu hoạch. Với hồ tiêu sung và hồ tiêu bình thường thì việc hãm nước 30-45 ngày là yêu cầu rất quan trọng. Mặc dù hồ tiêu rất tốt, sung nhưng nếu không hãm nước tạo điều kiện phân hóa mầm hoa thì cây sẽ rất ít bông.
Sau khi hãm nước xong nên tưới lại ướt đẫm như mưa 2 đợt trong tuần cho cây hồi phục. Không chỉ tưới trong gốc mà phải tưới cả ngoài tán cây, vì rễ của hồ tiêu kiếm ăn rất xa. Xịt phân bón lá kích thích ra hoa và lá non tập trung trước rồi mới bón phân. Việc làm này giúp cho cây hồi phục sức khỏe sau một thời gian ta ép cây. Nếu bón phân ngay lần tưới đầu tiên thì cây không hấp thu được, có thể còn làm tổn thương bộ rễ và lãng phí phân bón. Phân bón lá giúp cây trồng hấp thu dễ dàng hơn.
Vấn đề lớn trong quá trình phân hóa mầm hoa mà bà con hay gặp, đó chính là gặp mưa sớm, khắc phục bằng cách xịt thuốc phân hóa mầm hoa, hoặc có thể thay thế bằng thuốc gốc đồng, lúc này lá cây sẽ rụng đi khoảng 15-30 %. Sau khoảng 1-2 tuần ta xịt lại phân bón lá kích thích ra hoa và lá non tập trung y như là đã hãm nước. Và thực hiện bước kế tiếp y như đã phân hóa mầm hoa xong vậy. Bà con lưu ý chỉ nên áp dụng cho hồ tiêu sung vì tác động này là khá mạnh. Cách làm này có thể cho hồ tiêu ra bông như ý. Nên xem dự báo thời tiết để ta còn có thể tính toán cho cây ra bông hợp lý.
2. Bón phân trong quá trình làm bông
Nước là cốt lõi trong việc phân hóa mầm hoa thì phân chính là chìa khóa để đánh thức những mầm hoa đang ngủ yên đó. Trong quá trình tiêu làm bông nếu không cung cấp đủ chất dinh dưỡng thì cây sẽ tiếp tục ra lá. Vào giai đoạn này cây cần lượng phân rất lớn, bao gồm tất cả các yếu tố đa, trung, vi lượng và xác bã hữu cơ.
Sau khi tưới ướt dẫm như mưa cho cây hồi phục sức khỏe. Bên trên tán lá xịt phân bón lá thì bên dưới 1 tuần sau đó dùng phân hữu cơ Amino (dạng phân nước đổ gốc) cho cây hồi phục rễ có kết hợp thuốc trị tuyến trùng, rệp sáp (dùng các chế phẩm Metharizum,… sinh học rất hiệu quả). Lưu ý đọc kỹ hướng dẫn và xem kỹ thành phần của phân Amino có kết hợp được với thuốc trị tuyến trùng, rệp sáp bạn đang dùng không.
Tuần tiếp theo xịt phân bón lá có kết hợp thuốc ngăn ngừa rầy nâu, bọ trĩ, bọ cánh cứng cắn chích hút hoa và lá non.
Tuần tiếp theo nữa, khi cây đã nhú mắt cua và lá non, dùng phân hữu cơ sinh học NPK+TE chuyên dùng cho hồ tiêu. Lần này là lần làm bông chính, cây cần rất nhiều dinh dưỡng bao gồm các yếu tố đa, trung, vi lượng. Nhớ bón ngoài tán lá cây tránh không được phạm rễ. Nên bón vào sáng sớm hoặc chiều mát thì hiệu quả hấp thu sẽ cao hơn. Chỉ cần dùng tay rải đều một lớp mỏng vừa phải bên ngoài tán lá, cây to tán to thì bón nhiều, cây nhỏ tán nhỏ bón ít. Thường thì bón cách gốc từ 40-60cm tùy cây.
Cuối cùng sau đó 2 tuần bạn bỏ phân chuồng, phân hữu cơ hoai mục có ủ chung với nấm Trichoderma, bổ sung lượng xác bã hữu cơ cho cây trồng chống suy cây. Lần bón phân này rất quan trọng, bảo đảm dinh dưỡng cân đối, chống suy cây trong năm cho hồ tiêu. Lần này bà con có thể bỏ thêm vôi cho đất. Ngoài ra bà con mua phân hữu cơ vi sinh khoáng đậm đặc bỏ cho hồ tiêu. Nếu tìm không thấy thì mình có thể mua khoáng bỏ cho hồ tiêu và tự ủ phân vi sinh .
Bà con lưu ý một vài điểm nhỏ nhưng rất quan trọng trong kỹ thuật làm bông như sau:
Khi bông đang nở, tuyệt đối không được xịt phân bón lá. Như vậy sẽ làm cho bông trổ bị thưa, bồ cào. Mặc dù có nhiều sản phẩm phân bón lá có ghi rõ là có thể xịt lúc trổ bông.
Trái với suy nghĩ của nhiều người là thời tiết khô ráo nắng nóng thì cây sẽ đậu bông tốt hơn. Đó là suy nghĩ sai lầm. Khi tiêu đang trổ bông cần làm cho độ ẩm không khí của vườn tăng lên bằng cách tưới gốc hoặc có thể dùng máy xịt vào không khí xung quanh cây tiêu. Tuyệt đối không xịt lên bong. Khi tiêu đang trổ bông 3 ngày bà con nên xịt hoặc tưới nước một lần. Thời gian trổ bông của hồ tiêu kéo dài từ 10-20 ngày. Đó chính là lý do tại sao những cây hồ tiêu trổ bông muộn như tiêu Sẻ, Sẻ Mỡ trổ đợt 2 thì hạt sẽ to và đều hạt hơn. Những giống trổ sớm như Ấn Độ, phải nâng nhu cầu xác bả hữu cơ tăng lên 150% so với bình thường thì năng suất sẽ rất cao và ổn định mà không phải quan tâm nhiều tới việc phân hóa mầm hoa, vì nó rất nhiều hoa.
Khi đang nuôi hoa và lá non, xịt phân bón lá có hàm lượng N cao sau đó giảm dần. Khi vào hạt, nên kiếm loại phân bón lá nào có hàm lượng N ít, chủ yếu là P và K +TE để tránh không cho tiêu ra lá non. Đặc tính của cây hồ tiêu là khi đã ra lá non thì dù ít hay nhiều sẽ ra hoa. Mà những hoa ra trái vụ đó sẽ làm giảm năng suất cho vụ tiếp theo, thậm chí sẽ có một mùa mất trắng.
Khi chuẩn bị thu hoạch, nên bón phân Amino đổ gốc để to hạt chắc trái chống suy cây. Vì giai đoạn này bộ rễ đã hoạt động yếu, chỉ có phân dạng Amino thì cây trồng mới dễ hấp thu. Cây không suy thì mới cho năng suất cao và ổn định.
Trong quá trình chăm sóc, bà con hãy quan sát lá tiêu. Cây nhiễm bệnh gì, hay cần nhu cầu dinh dưỡng gì thì đều biểu hiện qua lá. Thiếu phân thì lá sẽ nhỏ lại. Thiếu vi lượng thì lá non nhỏ lại có màu trắng. Hay những biểu hiện bệnh thán thư, địa y, chết nhanh, chết chậm… thì lá cây sẽ biểu hiện đầu tiên. Bà con có kinh nghiệm thì sẽ kịp thời phòng bệnh hay bổ sung nhu cầu dinh dưỡng cho cây một cách hợp lý nhất.
Nguồn gia tiêu.com
Th608
Một số hiểu biết khi sử dụng nấm Trichoderma và nấm kí sinh
Về nấm Trichoderma và nấm ký sinh côn trùng
*Nấm Tricho tấn công nấm gây hại có trong tự nhiên bằng các con đường:
– Cạnh tranh nguồn thức ăn.
– Tiết chất kháng sinh gây chết nấm gây hại rồi tiếp tục tiết Enzym phân hủy và ăn xác nấm gây hại.
-Tricho cũng tấn công tuyến trùng bằng cách tiết chất kháng sinh gây chết tuyến trùng, sau đó bao vây với số đông rồi giết chết tuyến trùng, gọi là cơ chế thắt chặt cổ tuyến trùng.
*Nấm ký sinh côn trùng chủ yếu có 3 dòng : nấm trắng, nấm xanh và nấm hồng.
Đối với nấm ký sinh trên côn trùng ( NKSCT) Tricho không cạnh tranh với NKSCT vì hai loài này dùng hai nguồn thức ăn khác nhau.Tuy nhiên Tricho tiết kháng sinh làm ức chế hoạt động của NKSCT và có thể giết chết nó với quân số cao hơn.
Vì vậy, nhà sản xuất khuyến cáo không nên sử dụng 2 sản phẩm này chung một lần. Nên sử dụng NKSCT trước ít nhất 15 ngày sau đó mới sử dụng Tricho.
Trong trường hợp sâu bệnh hoành hành thành dịch, nhà nông sử dụng NKSCT sau khi đã sử dụng Tricho thì NKSCT vẫn có thể hoạt đông được (nhưng thời gian tối thiểu phải sau 15 ngày) hiệu lực tuy có giảm bởi NKSCT được rắc, tưới tập trung vào cổ rễ sau đó theo dòng nước phân tán theo hệ rễ (nơi côn trùng tập trung), hoặc phun lên cây để tiêu diệt nhiều loài côn tùng gây hại.Thực tế trong tự nhiên, tất cả các loài vi sinh vật có lợi cũng như có hại đều cùng tồn tại và sinh sôi ở thế cạnh tranh nhau.
Vi nấm sợ chất hóa học, vậy tại sao trộn vi nấm vào phân (có chứa các thành phần hóa học)?
Cần phân biệt như sau:
-Thuốc hóa học BVTV như thuốc trừ sâu bệnh, côn trùng… các loại thuốc này đều gây hại cho động vật và vi sinh vật.
– Thuốc trừ cỏ và thuốc hóa học BVTV có gốc canazon (ví dụ hecxaconazon) là hai loại hủy diệt vi nấm hữu ích.
Các loại phân bón như NPK, các muối kim loại trung vi lượng như canxi, ma nhê, clo, lưu huỳnh, đồng, sắt, kẽm, măng gan, bo không gây hại cho động vật vi sinh vật và cho cả thực vật nếu sử dụng đúng liều lượng.
Vì vậy, việc trộn các loài nấm hữu ích vào các sản phẩm phân bón thuần túy không gây hại cho vi nấm. Một số còn là nguồn thức ăn cho vi nấm hữu ích như các amino axít (cũng là những chất hóa học). Các loại phân bón này chỉ làm cho môi trường đất bị ngộ độc (làm cho pH xuống dưới 5,5) do những gốc hóa học khó phân hủy, tích lũy trong nhiều năm canh tác và chúng làm thay đổi độ pH của đất, làm cho các loại vi nấm hữu ích bị ức chế hoặc chết. Thế cho nên vì sao trong rừng cây cỏ chen nhau mọc mà cây cỏ, đất đai trong rừng vẫn tốt?
Ngưỡng pH lý tưởng cho: – Nấm Tricho : 6,5 – 6,8 ; – Vi nấm KSCT: 6,8 – 7,2.
Chúc bà con thành công!
Tiêuphong (Giatieu.com)
Th519
Hướng dẫn 4 công thức điều chế thuốc trừ sâu từ thảo mộc
Hướng dẫn 4 công thức điều chế thuốc trừ sâu từ thảo mộc
Sâu bệnh hại là một trong những nỗi lo luôn canh cánh trong lòng của người trồng rau, làm vườn. Mặc dù các loại thuốc BVTV cho hiệu quả nhanh nhưng gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người sử dụng. Thay vào đó, bà con có thể tự pha chế thuốc trừ sâu bằng các loại thảo mộc thân thiện với môi trường.
1.Điều chế thuốc sâu từ ớt, tỏi, gừng
– Tác dụng: Ớt, tỏi, hành, gừng là một trong những loại củ quả có chứa một hàm lượng axit cao gây tác động mạnh đến các bộ phận nhạy cảm đến mắt, da của những loại sâu bệnh hại. Do đó có thể diệt trừ và xua đuổi chúng
– Pha chế: Bạn cần chuẩn bị các nguyên liệu như sau: 1kg tỏi, 1 kg ớt, 1kg gừng trộn với 3 lít rượu.Đầu tiên,bạn giã nhỏ gừng,tỏi ớt tiếp theo ngâm vào các chum hay thùng kín,đổ khoảng 1lit rượu vào và bịt kín. Trong quá trình ngâm không nên để thùng ngâm ở những nơi quá nắng nóng, hoặc để hở, tránh làm bay mất hơi rượu.
– Ngâm từng loại nguyên liệu riêng hay ngâm chung cả 3 loại vào 1 thùng. Nếu ngâm riêng thì 1kg nguyên liệu ta ngâm chung với 1 lít rượu. Nếu ngâm chung thì ngâm cả 3 loại với 3 lit rượu…Đây là nước cốt tinh để pha chế khi phun
-Thời gian ngâm tốt nhất là 15 ngày,mục đích là để cho các chất gây cay có trong nguyên liệu trộn đều vào rượu. Như vậy, tỷ lệ các chất gây cay trong dung dịch ngâm sẽ có nồng độ đậm đặc nhất, tốt cho việc tiêu diệt sâu hại.
2. Thuốc trừ sâu sản xuất từ cây hành tăm
– Tác dụng: Chống nấm, trừ sâu, xua đuổi sâu bọ nhẹ. Tiêu diệt các loại côn trùng,sâu: Rệp vừng, bướm hại bắp cải, bét, ruồi hại cà chua, ve, bọ bay màu trắng, bệnh chết cây non do quá nhiều nước, bệnh tàn rụi muộn, bệnh đốm lá cà chua, chuột nhắt và chuột chũi…
– Hướng dẫn pha chế: Ta cần 10-100g củ hành tăm giã nhỏ với 1 lít nước, để trong thùng có nắp 4-7 ngày trước khi phun.
3. Thuốc trừ sâu sản xuất từ lá cà chua
– Tác dụng: Trong lá cà chua có chứa nhiều Alkaloids, một loại hóa chất có tác dụng diệt và đuổi côn trùng rất hiệu quả, nhất là rệp vừng, bướm đêm, sâu rầy, bù lạch vv…
– Cách pha chế: Dùng khoảng 2 bát lá cà chua nghiền nát ngâm với 2 cốc nước qua đêm, sáng ra gạn lấy nước trong, pha thêm hai cốc nước rồi đem phun vào cây trồng, nhất là loại rau thơm, gia vị.
– Chú ý: Lá cà chua rất độc, gia súc không ăn. Bạn nên trồng xen canh một vài cây cà chua trong vườn để xua đuổi vài loài sâu bọ.
4. Chế thuốc trừ sâu từ thuốc lá
– Tác dụng:Thuốc lá cũng là một loại thảo mộc giúp tăng khả năng diệt trừ sâu bọ.Điển hình như các loại bọ trĩ,sâu đục thân,bọ xít dài,sâu cuốn lá nhỏ…các loại rệp ngô,rệp đậu tương,sâu khoang, sâu ba ba trên rau muống, sâu khoang ở cây táo, nhện đỏ ở cam chanh…
– Cách pha chế: Để chế thuốc người ta lấy lá thuốc cho vào ngâm 1 ngày trong nước lã với tỷ lệ 1 kg lá/ 20 – 40 lít nước. Sau đó vớt ra nghiền nhỏ rồi lọc đem đi phun.
Gia đình chị Nguyễn Thị Thanh Tâm, thôn 9, xã Tào Sơn cũng đang sử dụng loại thuốc trừ sâu sinh học này cho toàn bộ 3 sào bí của gia đình. Nhờ việc sử dụng chế phẩm trừ sâu chiết xuất từ thảo mộc nên số lượng sâu hại giảm đáng kể, chi phí phun thuốc giảm 40% – 50%. Cách làm này cũng được gia đình chị Tâm tiến hành cho các loại cây trồng khác. Loại hỗn hợp này có thể tiêu diệt được 85 – 90% sâu hại. Thời gian bảo quản và sử dụng thuốc tự chế này lên tới 4- 5 tháng.
Hiện nay loại thuốc trừ sâu này được nhiều hộ dân dùng phun đại trà cho các loại rau màu, cây ăn quả, lúa để vừa đảm bảo sức khỏe cho bản thân vừa cung cấp sản phẩm tốt cho cộng đồng. Với nhiều ưu điểm hơn hẳn so với những sản phẩm thuốc trừ sâu khác như: có thể trừ được nhiều loại sâu, bọ gây hại như sâu tơ, sâu đục thân, sâu đục quả, nhện đỏ, bọ xít xanh… hiệu lực của thuốc kéo dài do thuốc có khả năng diệt trừ được cả trứng, sâu non và sâu trưởng thành; không gây ô nhiễm môi trường, nguồn nước.
Nguồn: Trung Tâm Chế Phẩm Sinh Học
Th513
Phân biệt phân trùn 3,4 tháng và trên 6 tháng
Phân biệt phân trùn quế 3,4 tháng và trên 6 tháng
Phân trùn quế là sản phẩm của quá trình con trùn tiêu thụ thức ăn và thải ra. Phân trùn quế hiện nay được sử dụng rộng rãi cho cây công nghiệp, ăn trái, rau màu, hoa, dược liệu…. Với hàm lượng chất hữu cơ cao cộng thêm hàm lượng các vi sinh vật có sẵn tự nhiên giúp tăng cường quá trình cải tạo đất cũng như phát triển bộ rễ, tăng khả năng đề kháng cho cây trồng. Tốt là vậy, nhưng nhiều bà con thắc mắc: có một số phân trùn quế bán giá rất rẻ và còn lẫn phân bò tươi. Tại sao như vậy???.
Làm sao để mua được phân trùn quế đúng chuẩn??? Chúng ta cùng phân biệt phân trùn quế 3,4 tháng và phân trùn trên 6 tháng nhé
– phân trùn quế nuôi 3,4 tháng thu hoạch: có mùi hôi của phân bò còn lẫn, màu nâu vàng. Khi bóp ra, chảy nước màu vàng, nhìn bằng mắt thấy lẫn phân bò tươi . Hiện tượng này là do thu hoạch quá sớm, phân chưa được hoai hoàn toàn. Phân trùn chưa đủ tháng này khi đem đi phơi sấy, giảm ẩm và sàng lọc, sản phẩm phân trùn cao cấp vẫn có màu nâu vàng, còn mùi nhẹ của phân bò. Đối với phân trùn 3,4 tháng, hàm lượng các chất : hữu cơ, vi sinh rất thấp.
– Phân trùn quế nuôi trên 6 tháng: màu nâu đen, k còn mùi hôi của phân bò tươi. Bóp nhẹ chảy nước màu nâu, mùi tanh nhẹ của con trùn. Phân tơi xốp, đem đi phơi sấy, giảm ẩm, sàng lọc ra phân trùn nâu đen, hoàn toàn không có chứa màu vàng của phân bò. Hàm lượng chất hữu cơ của phân trùn trên 6 tháng từ 25% trở lên. Các nhóm vi sinh trên 10^6.
Để thu hoạch được 1kg phân trùn tươi, phải mất 6kg phân bò tươi và hơn 6 tháng. Do vậy, phân trùn quế nuôi trên 6 tháng giá thường cao hơn loại 3,4 tháng nhiều. Điều này đồng nghĩa với việc chất lượng của hai loại hoàn toàn khác nhau.
Th406
Bệnh rệp bông hại cam sành và cách phòng trừ
Bệnh Rệp bông (Planococcus lilacinus) là một loài côn trùng đa thực, chúng gây hại hàng chục loại cây trồng khác nhau, trong đó có cây cam sành.
Trồng cam sành
Cả con trưởng thành và con ấu trùng đều bu bám và chích hút nhựa của những chồi non, lá non, nụ Hoa, hoa, trái non… của cây cam sành. Nếu mật số cao có thể làm cho chồi non, lá non bị xoắn vặn không phát triển được, nụ hoa, hoa và trái non có thể bị rụng. Để phòng trừ rệp bông có kết quả, xin giới thiệu kinh nghiệm những nhà vườn ở Cái Bè (Tiền Giang):
– Không nên trồng cam quá dày, thường xuyên tỉa bỏ những cành bị sâu bệnh, cành nằm khuất trong tán lá không có khả năng cho trái… để vườn thông thoáng.
– Kiến lửa, kiến cao cẳng, kiến hôi… thường sống cộng sinh với rệp, chúng ăn chất đường mật do rệp tiết ra và tha rệp đến những nơi có nhiều thức ăn mới. Để hạn chế rệp lây thì phải diệt kiến bằng cách thường xuyên dọn sạch Cỏ rác, lá cây mục tủ ở xung quanh gốc để phá vỡ nơi trú ngụ của kiến. Khi xịt thuốc trừ rệp nên xịt cả những nơi có nhiều kiến tập trung trên cây. Nếu dưới gốc cây có nhiều kiến thì dùng thuốc Padan, Basudin hoặc Regent hột rải xung quanh gốc để diệt kiến.
– Kiến vàng (Oecophylla smaragdina) là thiên địch tiêu diệt côn trùng gây hại cho cây cam quýt. Nên nuôi kiến vàng trong vườn cam để chúng diệt sâu hại, rầy rệp. Nếu vườn đã nuôi kiến vàng thì phải hạn chế phun thuốc hóa học, vì loài kiến này rất dễ chết bởi thuốc.
– Do rệp bông có khả năng gây hại nhiều loại cây, vì thế mỗi khi xịt thuốc diệt trừ rệp trên cây cam sành cũng phải phun xịt diệt trừ rệp trên cả những cây trồng khác đang có rệp trong vườn để chúng không lây lan trở lại cây cam sành.
–Kiểm tra vườn cam thường xuyên (nhất là giai đoạn cây đang có đọt non, lá non, bông, trái non…) để phát hiện sớm và phun thuốc diệt trừ rệp ngay từ khi mật độ còn thấp, không cho chúng tích lũy số lượng gây hại mạnh. Có thể sử dụng một trong các loại thuốc như: Dầu khoáng DC-Tron Plus 98,8EC, Applaud 10WP; Supracid 40EC/ND; Suprathion 40EC; Bitox 40EC/50EC; Butyl 10WP… phun trực tiếp vào chỗ có rệp đeo bám. Trước khi phun thuốc nhiều người đã phun bằng nước có pha xà bông để rửa trôi bớt lớp phấn sáp bên ngoài con rệp, khi xịt thuốc, thấy hiệu quả của thuốc cao hơn.
– Có bà con còn dùng máy bơm nước có áp suất cao (khi tưới vườn) xịt mạnh tia nước vào chỗ có nhiều rệp, rệp cũng bị rửa trôi rất nhiều.
Nguồn: kĩ thuật nuôi trồng
Th902