Kỹ Thuật
Cách phân biệt trùn quế thật và giả
Giá trị của phân trùn quế còn tùy thuộc vào mỗi người sử dụng như thế nào để có giá trị khác nhau, những vùng không thể phát triển được trùn quế thì giá trùn quế cao, phân trùn quế cũng vậy, còn những vùng phát triển mạnh được trùn quế thì giá thấp hơn vì sản lượng đầu ra quá lớn, và nguồn sản phẩm có nguồn gốc từ những vùng có thể phát triển mạnh được trùn quế khó mà có hàng giả được.
Tại sao lại có phân trùn quế giả, vì phân bò có giá trị thấp hơn, sản lượng cao hơn nhưng vẫn có người làm giả để tung ra thị trường nhằm kiếm lợi nhuận cao từ nông dân, ở những vùng có cây công nghiệp phát triển thường lại không phát triển mạnh về chăn nuôi nên ít có nguồn phân bón dồi dào và giá phân tại các nơi này thường có giá cao, và những hộ kinh doanh phân bón hữu cơ thường kinh doanh theo kiểu di động nên một số người không cần uy tín mà làm việc trái với lương tâm, phân trùn vốn có giá trị cao hơn nhưng sản lượng thì có giới hạn vì ít nhất mất đến 6 tháng mới có thể thu hoạch phân trùn quế để cung cấp đến người tiêu dùng nên càng dễ bị làm giả để bán lại cho người nông dân.
Không chỉ có người nông dân mới bị nạn phân trùn giả, mà những người trong thành thị vốn ít đất nhưng rất yêu cây trồng cũng bị tương tự, vì thành thị rất thiếu đất trồng nên giá trị của các loại đất sạch, phân hữu cơ đều khá cao, nhưng để làm phân thật thì lợi nhuận sản phẩm không đủ thỏa mãn cho những người bất chính, nên họ đã liều mình làm những loại phân mang tên “phân trùn quế” để đưa ra thị trường.
Nếu những người đã từng sử dụng nhiều phân trùn quế rồi thì rất dễ nhận ra đâu là phân giả, đâu là phân thật, nhưng phân đã qua chế biến lại khó phân biệt hơn là phân trùn còn thô, còn người mới sử dụng thì hầu như không biết đâu là giả hay thật, và đôi lúc phải trả tiền cho những sản phẩm làm hại đến cây trồng hoặc không đáng giá như giá trị của nó.
Thật ra phân trùn quế thật có một ít mùi tanh của trùn quế, rất tơi và mịn, có màu nâu sẫm hoặc màu đen tùy vào nguồn thức ăn của trùn quế, nhưng với những đặc tính đó thôi cũng rất khó nhận dạng, và có một cách tuyệt vời khác có thể nhận dạng nữa là ta thả phân vào trong nước và hòa tan vào, bóp ra thật mịn, nếu phân mịn ra và hòa tan trong nước thì đó chính là phân thật và nguyên chất một trăm %, còn phân khác sẽ còn những sợi hay những thứ chưa tiêu hóa hết được và còn xót lại.
Vì trùn quế không thể ăn được những thức ăn khô cứng mà chỉ ăn được những thức ăn mềm và mịn, nên khi nó ra phân cũng vô cùng mịn và mềm, có thể pha loãng ra hết trong nước vẫn được, như tôi đã đề cập thì phân trùn quế tươi có mùi hơi tanh chứ không hôi, đó là mùi của dịch trùn quế, và khi nó khô lại sẽ thành những lớp keo làm dính chặt phân trùn lại thành những khối rất cứng, nhưng khi bỏ vào nước và dùng lực bóp nhẹ thì nó vẫn mịn ra bình thường.
Phân trùn giả như thế nào thì chưa biết nhưng phân trùn quế thật là vô cùng an toàn cho cây, cho người sử dụng, cho môi trường và cho xã hội, nên khi không nhận dạng được phân thật hay giả thì hãy bón thử cho một vài cây nào đó, nếu có dấu hiệu xấu thì phân đó chắc chắn phải xem lại. Và là một người chăn nuôi trùn quế trong nhiều năm qua tôi luôn mong muốn các bạn được sử dụng phân trùn thật để có những trải nghiệm tuyệt vời với những lợi ích mà phân trùn mang lại.
Nguồn Nguyễn Văn Sang
Th313
Quy trình kĩ thuật bón phân cho cây sầu riêng – phần 1
1. Xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng
Các chất dinh dưỡng có vai trò hết sức quan trọng giúp ổn định và tăng năng suất cho cây. Cây sầu riêng cần được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, trung và vi lượng. Thiếu hoặc thừa một trong những yếu tố này đều ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển không bình thường của cây.
Nhu cầu dinh dưỡng của cây tăng theo tuổi cây và mức năng suất. Sầu riêng thu bói có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn cây kiến thiết cơ bản và cây trong vườn ươm. Sầu riêng kinh doanh có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn so với sầu riêng mới thu bói. Năng suất sầu riêng càng cao, càng cần phải bón nhiều phân hơn.
Sầu riêng rất cần kali nhưng không nên sử dụng kali clorua (KCl) mà phải sử dụng Kali Sulphate (K2SO4) và trung-vi lượng (TE) vì KCl làm sầu riêng giảm mùi thơm.
Khi cây sầu riêng cho năng suất quả 6.720 kg đã lấy đi 18,1 kg N, 6,6 kg P2O5, 33,5 kg K2O, 5,4 kg MgO và 2,6 kg CaO.
Đối với sầu riêng tất cả các chất đa lượng và các chất vi lượng như Kẽm, Bo… đều cần thiết cho giai đoạn đậu quả và phát triển quả, trong đó, N, P và là cần thiết nhất trong giai đoạn phát triển quả, K là chất dinh dưỡng cần thiết trong giai đoạn sau của sự phát triển quả cho đến khi thu họach.
Sau đây là một số vai trò của các nguyên tố N, P, K và S đối với sầu riêng:
+ Đạm (N): Đây là thành phần quan trọng cho tất cả bộ phận của cây và đặc biệt cần thiết cho sự sinh trưởng dinh dưỡng.
Đạm cần thiết cho sự phát triển của lá, thân cành, hoa, quả, hạt. Do vậy, cần bón đạm đầy đủ cho cây sầu riêng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc 5 đúng (đúng loại, đúng nhu cầu, đúng loại đất, đúng liều lượng và đúng phương pháp), ngoài ra còn phải đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Cây đủ đạm lá xanh tốt, cây phát triển khỏe, quả phát triển đều.
Sầu riêng được bón phân đầy đủ
Sầu riêng được bón phân đầy đủ
Thiếu đạm: Lá có màu xanh vàng hay xanh noãn chuối. Thiếu nặng lá rụng nhiều, năng suất giảm. Hiện tượng thiếu đạm thường xảy ra trên đất nghèo dinh dưỡng và bón không đủ lượng đạm cây cần.
Thừa đạm: Phát triển thân lá mạnh, lá có màu xanh đậm, dễ bị sâu bệnh tấn công, đậu quả ít, rụng quả nhiều, quả phát triển không bình thường như mất gai, nứt quả…
Quả phát triển không bình thường do dư đạm
Quả phát triển không bình thường do dư đạm
+ Lân (P): Sầu riêng cần lân tương đối ít. Dạng lân dễ tiêu trong đất thường bị giới hạn bởi việc cố định do các phản ứng hóa học, đặc biệt là ở đất chua. Nên thường xuyên bón phân lân với lượng nhỏ. Cần bón lót phân lân trong hố trước khi trồng để giúp cây tăng trưởng trong giai đoạn ban đầu.
Thiếu lân: Lá chuyển màu xỉn, mép lá non ửng đỏ, thiếu nặng lá rụng và cành chết.
+ Kali (K): Kali rất quan trọng khi cây ra quả, lượng kali trong quả rất lớn. Bón thường xuyên phân kali rất cần thiết để duy trì năng suất cao và phẩm chất ngon cho sầu riêng. Với đất nhiều K sẽ cản trở sự hấp thu Ca và Mg. Trong trường hợp này cần bón Ca và Mg nhưng không bón K. Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với các tác động không lợi từ bên ngoài và chống chịu đối với một số loại bệnh. Kali tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét.
Thiếu K: Mép lá chuyển màu vàng cam sau tới màu xám nâu và khô, lá rụng nhiều.
+ Lưu huỳnh (S): Thiếu S, hầu hết lá trên cây chuyển sang màu vàng, xuất hiện những vết như vết bệnh trên lá già. Ở lá non, lúc đầu có màu vàng sáng sau đó chuyển sang màu vàng nhạt, tương tự triệu chứng ở lá già. Lưu huỳnh được bón thông qua phân SA (chứa khoảng 24 % S); phân Super lân (Super lân chứa khoảng 14 % S). …
Ngoài ra, thiếu magiê: phần thịt lá bị vàng và lan dần từ gân chính ra mép lá; thiếu canxi: lá héo vàng từ rìa lá sau lan vào gân chính; thiếu kẽm: các lá và chồi đầu cành không phát triển tốt (rụt đọt), lá không thể nở lớn.
Nguồn: giáo trình nghề trồng câu sầu riêng- BNN &PTNN
Th306
sâu bệnh hại trên cây sầu riêng
1) Rầy phấn: Allocaridara malayensis
Đây là côn trùng gây hại rất quan trọng và phổ biến trên sầu riêng. Ở giai đoạn ấu trùng và trưởng thành, rầy gây hại bằng cách chích hút lá non và đọt non, làm cho lá không phát triển, bị biến dạng, cháy mép lá dần dần khô và rụng. Đọt non có thể bị khô và chết, trơ cành mà có thể nhầm với triệu chứng do bệnh. Vết chích do rầy gây ra có thể tạo điều kiện cho nấm bệnh xâm nhập gây hại.
Con trưởng thành dài khoảng 2,5-3,0 mm, cánh trong suốt, toàn thân màu vàng nhạt. Trứng được đẻ thành từng đám trên lá non trong mô lá. Khi mới đẻ trứng có màu vàng, dần chuyển sang màu nâu. Ấu trùng bên ngoài phủ lớp sáp mỏng và các tua sáp kéo dài ở cuối thân. Trưởng thành và ấu trùng tuổi lớn thường di chuyển nhanh khi thấy động.
Rầy phấn phát triển mạnh trong mùa khô. Lây lan nhanh từ vườn này sang vườn khác. Mật độ trong mùa mưa giảm nhanh, tuy nhiên sẽ tăng mật số nhanh khi mùa khô đến. Cây bị hại nặng có lá thưa thớt, quăn queo, lá non rụng nhiều và khô ngọn. Cây không phát triển được tán dẫn đến ra hoa ít, đậu trái kém, trái bị sượng, phẩm chất kém. Rầy tiết nhiều chất mật được tạo điều kiện cho nấm bò hóng phát triển làm đen lá, trái.
Phòng trừ:
– Ngoài tự nhiên có nhiều loài thiên địch của rầy phấn như nhện, bọ rùa Coccinella, Chrysopa sp., và ong ký sinh, do đó cần tạo điều kiện thuận lợi cho các loài thiên địch phát triển để khống chế rầy.
-Tưới đủ nước và bón phân thích hợp cho cây khỏe mạnh. Tăng cường bón phân hữu cơ. Ở miền Đông Nam bộ nên duy trì một lớp cỏ giữ ẩm trong mùa khô.
-Phun nước mạnh trên tán lá để hạn chế sự hoạt động của rầy.
-Phun thuốc khi thấy mật số rầy cao, có thể dùng các loại thuốc trừ sâu kết hợp với thuốc nấm để phòng trừ, thường mỗi cơi đọt nên phun 2 lần cách nhau 15 ngày.
2) Sâu đục trái (Conogethes punctiferalis)
Gây hại khá phổ biến trên các vùng trồng sầu riêng ở nước ta. Ngoài gây hại trên sầu riêng, còn gây hại trên một số cây khác như nhãn, ổi, mãng cầu, chôm chôm… nên việc phòng trừ khó khăn.
Trứng được đẻ trên trái non, nở ra sâu non đục vỏ trái vào bên trong trái và tiếp tục đục cho đến thịt trái. Hóa nhộng ngay trên đường đục hoặc chui ra bên ngoài trái nhả tơ kết kén hóa nhộng trên mặt vỏ trái giữa các gai trái. Giai đoạn này kéo dài khoảng 7-8 ngày.
Trái mọc thành chùm thường bị gây hại ở phần tiếp giáp. Trái non bị hại dễ bị biến dạng và rụng sớm. Vết đục còn tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập gây thối trái. Do sâu có thể gây hại sớm nên phải bao trái sớm mới có hiệu quả.
Nhận diện sâu hại qua vết vết đục trên trái, quan sát phân sâu thải ra bên ngoài vết đục.
Phòng trừ:
Do sâu có nhiều ký chủ khác nhau mà thường được trồng cùng với nhau trong một khu vực nên phải chú trọng phòng trừ cho các vườn xung quanh.
-Trong tự nhiên có các thiên địch của sâu đục trái cần được bảo vệ và phát huy như bọ xít ăn mồi, nhện ăn thịt và kiến vàng….
-Tỉa trái để loại bỏ trái sâu và tiêu huỷ. Tỉa trái còn giúp hạn chế các trái mọc thành chùm dễ bị sâu tấn công.
– Phun trái định kỳ 15 ngày một lần, thuốc trừ sâu cộng với thuốc trừ nấm. Luôn phiên thay đổi gốc thuốc trừ sâu cũng như thuốc nấm.
3) Sâu đục thân.
Sâu đục thân gây hại quanh năm, thường tấn công vào thân, ăn tiện vòng quanh vỏ cây, làm chết phần thân trên, tạo vết thương hở để nấm bệnh xâm nhập.
Phòng trừ : Thường xuyên đi từng gốc để kiểm tra ( 15 ngày / lần ). Khi phát hiện thấy sâu, dùng thuốc trừ sâu nguyên chất bơm vào lỗ sâu hại, hoặc dùng dao bén để moi bắt sâu ra. ngoài ra khi phun thuốc sâu trên lá cũng lưu ý phun vào thân cây để diết bớt ấu trùng .
4) Sâu ăn bông
Bướm đẻ trứng trên chùm bông nở ra sâu non tấn công trên chùm bông. Sâu non ăn phá các phần non của bông làm hư hại hay rụng sớm. Do mật số sâu cao (mỗi bướm cái có thể đẻ từ 50-60 trứng) nên việc phá hại dễ gây thiệt hại đến năng suất mặc dù hoa rất nhiều. Bướm có màu vành nhạt dài 28-32 mm, sâu non có nhiều lông (dạng sâu róm), hoạt động mạnh. Ở Thái lan, sâu ăn bông được xếp là loại gây hại quan trọng.
Phòng trừ:
-Theo dõi định kỳ 2-3 ngày/lần giai đoạn trổ hoa. Phát hiện bướm, tìm diệt ổ trứng và sâu non. Khi sâu mới nở mẫn cảm cao với thuốc nên rất dễ phòng trừ. Thường sâu gây hại trên diện rộng nên cần quan sát tất cả các chùm hoa trên các cây.
-Phát huy vai trò của kiến vàng ngăn chặn và hạn chế sâu.
— Phun trái định kỳ 15 ngày một lần, thuốc trừ sâu cộng với thuốc trừ nấm. Luôn phiên thay đổi gốc thuốc trừ sâu cũng như thuốc nấm.
5) Rầy nhảy: Lawana conpersa
Thuộc loài gây hại ít quan trọng tuy nhiên rầy nhảy có thể gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau như sầu riêng, cam quýt, ca cao, trà, cà phê, cây rừng và cây kiểng … Rầy trưởng thành và ấu trùng đều gây hại bằng cách chích hút trên đọt non, lá non, hoa làm cho cây chậm phát triển hoặc tạo điều kiện cho nấm bồ hóng gây hại.
Trưởng thành trông gần giống như bướm do khi đậu cánh rầy xếp dọc cơ thể như dạng mái nhà, trưởng thành có kích thước 14 mm toàn thân màu trắng, cánh màu trắng có nhiều chấm nâu đen. Trứng được đẻ trên đọt non, lá non, trứng đẻ cắm sâu vào gân lá. Ấu trùng được bao phủ 1 lớp như bông trắng.
Phòng trừ:
– Trong tự nhiên có một số loài nấm có thể gây hại đối với rầy được ghi nhận ở Malaysia là Metarhizium anisopliae var anisophiae đã làm giảm đáng kể mật số của rầy.
-Phun thuốc trừ các côn trùng chích hút cũng hạn chế được rầy nhảy.
6) Rệp sáp (Pseudococcidae)
Rệp sáp gây hại trên cây sầu riêng có nhiều loài, Planococcus sp. thường thấy gây hại trên lá và Pseudococcus sp. thường thấy hại trên trái. Rệp sáp gây hại trên trái phổ biến hon trên cành lá.
Rệp bám trên bề mặt và chích hút chất dinh dưỡng làm cho bộ phận bị hại phát triển kém. Gây hại nghiêm trọng làm cho trái dễ bị sượng. Rệp sáp bài tiết chất mật đường tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển. Trái có rệp sáp và bồ hóng đều không hấp dẫn, khó tiêu thụ và giá bán giảm.
Rệp sáp phát triển mạnh trong mùa khô. Mùa khô cũng là mùa ra hoa kết trái sầu riêng nên trái dễ bị tấn công hơn.
Phòng trừ:
-Bao trái là biện pháp giúp hạn chế một số dịch hại trong đó có rệp sáp.
-Duy trì ẩm độ không quá thấp trong mùa khô bằng lớp phủ xanh trên mặt đất (cỏ phủ đất), bón nhiều phân hữu cơ, tủ đất bằng chất hữu cơ và tưới đủ nước cũng góp phần làm giảm rệp sáp trong mùa khô.
-Tưới phun trên tán tạo ẩm cũng hạn chế được rệp sáp.
-Nhiều thiên địch có sẳn trong thiên nhiên có thể hạn chế rệp sáp như Bọ rùa và Ong ký sinh cần duy trì và phát huy vai trò của chúng.
-Chỉ phun thuốc trong trường hợp cần thiết. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng với thiên địch
-Tỉa bỏ những bộ phận bị hại nặng và tiêu huỷ. Tỉa bỏ trái mọc từng chùm hoặc mọc gần nhau tạo chổ ẩn trú của rệp sáp.
7) Bọ trĩ
Bọ trĩ gây hại khá phổ biến trên một số vườn sầu riêng ở miền Đông Nam bộ trong mùa khô. Ở ĐBSCL bọ trĩ ít phổ biến hơn có thể do ẩm độ trong vườn cao hơn trong mùa khô so với miền Đông Nam bộ.
Bọ trĩ có kích thước rất nhỏ, nhưng có thể quan sát dễ dàng dưới kính lúp. Bọ trĩ tấn công lá non cho đến khi lá gần trưởng thành. Chích hút chất dinh dưỡng trong lá làm cho phát triển kém. Lá bị tấn công có màu sáng bạc, ít thấy màu xanh. Kích thước lá có thể giảm, lá có thể bị biến dạng trong trường hợp nghiêm trọng. Bọ trĩ cũng tạo điều kiện cho nấm bò hóng phát triển làm đen lá, trái. Mặc dù không gây chết cây nhưng cây sinh trưởng phát triển kém làm cho ra hoa đậu quả kém, trái nhỏ, chất lượng giảm.
Phòng trừ
-Duy trì ẩm độ không quá thấp trong mùa khô bằng lớp phủ xanh trên mặt đất (cỏ phủ đất), bón nhiều phân hữu cơ và tủ đất bằng chất hữu cơ trong mùa khô, tưới đủ nước cho cây cũng là biện pháp giảm được rệp sáp trong mùa khô ở miền Đông Nam bộ.
-Dùng vòi nước mạnh tưới lên cây hoặc áp dụng kỹ thuật tưới phun trên tán trong mùa khô kết hợp tưới nước cũng giúp hạn chế dịch hại.
-Chỉ phun thuốc trong trường hợp cần thiết. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng với thiên địch
-Tỉa bỏ những bộ phận bị hại nặng và tiêu huỷ. Tỉa cành tạo tán thông thoáng hạn chế chổ trú ẩn của bọ trĩ.
8) Nhện đỏ
Nhện đẻ từng trứng rải rác trên mặt lá, trứng nhện hình tròn màu đỏ. Nhện đỏ phát triển mạnh trong thời tiết nắng nóng đỗ ẩm thấp, như mùa nắng năm 2015, khả năng sinh sản khá cao, vòng đời rất ngắn, gây hại bằng cách ăn biểu bì mặt lá, tạo thành những chấm trắng li ti và tiết độc tố. Khi bị nhiễm nặng lá chuyển màu vàng và rụng, ảnh hưởng đến khả năng ra hoa đậu trái của cây.
-Phòng trị:
Trong tự nhiên nhện hại bị nhiều loại thiên địch tấn công, như nhện nhỏ ăn mồi…..Cần tạo điều kiện cho thiên địch phát triển cũng hạn chế được tác hại của nhện.
Phun nước lên tán lá trong mùa nắng giúp rửa trôi bớt nhện và tạo độ ẩm cho thiên địch phát triển sẽ làm giảm mật độ nhện đỏ.
Khi mật độ nhện cao ta mới phải dùng đến hóa học. Dùng thuốc có hoạt chất Abamectin, phun ướt đều tán mặt trên và mặt dưới lá. 5 ngày sau phun nhắc lại, nếu nặng cứ 20 ngày phun nhắc lại, 2 lần cách nhau 5 ngày như trên, nhưng lần 2 thay thuốc bằng thuốc có hoạt chất khác.
9) Bệnh thối vỏ chảy nhựa (bệnh Phytophthora) do nấm Phytophthora palmivora
Đây là bệnh quan trọng nhất trên cây sầu riêng không chỉ ở nước ta mà còn trên khắp vùng trồng sầu riêng trên thế giới. Nấm Phytophthora palmivora ngoài tấn công trên vỏ thân gây triệu chứng thối vỏ chảy nhựa còn gây hại trên lá gây triệu chứng cháy lá, trên quả gây thối quả, trên rễ gây thối rễ, trên ngọn non gây hiện tượng chết ngọn. Trong đó, triệu chứng thối vỏ chảy nhựa là quan trọng nhất.
Trên vỏ thân bệnh khó phát hiện sớm mãi đến khi thấy hiện tượng chảy nhựa (mủ) từ vết loét do nấm gây ra. Nếu phát hiện sớm vết loét còn nhỏ, việc phòng trừ nhanh và hiệu quả. Nếu phát hiện muộn, vết loét lan rộng, nhiều vết loét liên kết với nhau làm cho vỏ cây bị huỷ hoại việc phòng trừ sẽ tốn kém, vết bệnh lâu lành, cây suy yếu. Nếu không phòng trừ, cây có thể chết khi nước và chất dinh dưỡng không được chuyển lên cây.
Trên thân cành, quan sát khi thân cây khô ráo, tìm các vết nứt hoặc chảy nhựa, dùng dao bén cạo bỏ phần mô mặt bị chết. Khi thấy bên trong mạch dẫn hoá nâu, thâm đen và hư hại dần là triệu chứng đặc trưng của bệnh.
Trên lá, vết bệnh khởi đầu là những chấm đỏ màu nâu, sũng nước và lan rộng nhanh. Vết bệnh sau cùng thường có dạng gần tròn màu nâu đen sũng nước với rìa màu vàng nhạt nhỏ. Vết bệnh lan rộng nhanh trong điều kiện ẩm độ không khí cao. Vết bệnh cũng có thể bắt đầu từ cuống lá, cành non làm phần phía trên héo nhanh, rũ và chết dần.
Trên trái vết bệnh đầu tiên là một đốm đen nhỏ sũng nước lan rộng nhanh. Vết thối có thể lan sâu làm hỏng phần trong của trái. Trên vết bệnh có thể thấy nấm tạo thành một lớp trên bề mặt màu trắng xám với rất nhiều bào tử sẳn sàng lây lan qua gió mưa.
Ngoài gây hại trên sầu riêng, nấm có nhiều ký chủ khác như cây cao su, mít… …
Phòng trừ:
-Nguồn bệnh có thể có trong bầu đất và cây con. Do đó phải sử dụng cây giống sạch bệnh.
-Cần chăm sóc cây tốt, khoẻ mạnh để tăng sức đề kháng cho cây như cung cấp nước phân bón hợp lý, phủ đất trong mùa khô ..…
-Trồng cây trên mô, líp để thoát nước thuận lợi.
-Mật độ cây trong vườn ươm vừa phải, tránh trồng xen quá dày.
-Tỉa cành tạo tán để vườn cây thông thoáng.
-Tỉa và tiêu huỷ các nguồn bệnh, ngăn ngừa lây lan. Bệnh có thể lây lan qua dụng cụ chăm sóc, thu hái, giày dép, phương tiện vận chuyển….
-Hạn chế gây thương tích cho cây khi chăm sóc, vận chuyển. Phòng trừ các côn trùng gây vết thương cho cây. Vết cắt cần quét thuốc trừ nấm.
-Diệt mối và kiến làm tổ lên cây.
-Bón nhiều phân hữu cơ ( 5-60 kg phân hữu cơ hoai/cây/năm). Nên sử dụng phân gà, phân rác vi sinh, phân bò… được ủ hoai.
-Vết bệnh còn nhỏ có thể cạo bỏ phần mô chết, bôi thuốc, Aliette 80 WP, Ridomil, Metalaxyl pha 10 %.
-Phun tán cây , Aliette 80 WP, Ridomil, Metalaxyl…Theo hướng dẫn trên bao bì.
-Dùng các chế phẩm sinh học là hướng đang được nghiên cứu áp dụng như bón phân hữu cơ bổ sung vi sinh vật có ích như nấm Trichoderma.
-Tiêm cây với thuốc Phosphonate là một kỹ thuật mới được Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam phát triển. Phương pháp này có hiệu quả và giảm được chi phí khoảng 40% so với biện pháp phun thuốc.
Biện pháp tiêm cây với Phosphonate
Phosphonate là muối Potassium của acid phosphorous được trung hòa đến pH 6.5-7.0 được sử dụng tiêm vào thân hoặc nhánh lớn. Phosphonate thường được bán với các hiệu như
Agri fos 400. với nồng độ hoạt chất là 400 g ./L, được pha loãng với nước sạch theo tỷ lệ 1:1 trước khi tiêm. Để tiêm, trên thân khoan một lỗ đường kính 5 mm, sâu 30-50 mm với một mũi khoan bén, lỗ khoan cao 50-120 cm từ mặt đất. Có thể sử dụng ống tiêm chuyên dụng hiệu ChemjetÒ 20mL. Cần khoảng 2-6 lỗ khoan quanh thân cho mỗi cây. Lỗ khoan nên dưới các nhánh lớn. Hút đầy ống tiêm, kéo cần tiêm về phía sau và xoay nhẹ tay mãi đến khi nghe tiếng “click”, tay cần được khoá. Vặn vòi ống tiêm vào lỗ khoan cho đến khi thật sát. Phóng thích cần tiêm bằng cách xoay ngược lại trong khi vẫn cố định ống tiêm trong lỗ khoan, cần tiêm được phóng thích nhờ lò xo sẽ ép dung dịch thuốc qua lỗ khoan vào bên trong. Nếu không mua được loại nói trên thì có thể mua ống tiêm bằng nhựa, rồi dung ruột xe máy cắt ra tạo lực bơm thuốc, tôi làm cách này khá hiệu quả.
Mất khoảng 20-30 phút để thuốc đi hết vào bên trong. Sau đó xoay ngược lấy ống tiêm ra, hút đầy thuốc và tiêm cho lỗ mới. Nên tiêm vào buổi sáng sớm vì thuốc sẽ được hấp thu nhanh đáng kể so với buổi chiều. Liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.
10) Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum gloeosporioides (Penz.) Penz. & Sacc.
Bệnh thường gây hại trên cây bắt đầu đầu mùa khô, lúc trời mát, nhiều sương mù trong buổi sáng. Bệnh gây hại nặng trên những vườn chăm sóc kém, thiếu phân và tưới nước không đầy đủ. Bệnh cũng phổ biến trên sầu riêng trồng trên đất xấu, ít chất hữu cơ, gió mạnh và không được che mát giữ ẩm thích hợp.
Bệnh thường gây hại trên lá, vết bệnh có thể thấy khi lá trưởng thành trở đi. Vết bệnh thường bắt đầu từ mép lá, chót lá lan vào bên trong. Vết bệnh cũng có thể bắt đầu từ vết thương trên lá do côn trùng, rách do gió hay do chăm sóc. Vết bệnh lan rộng thành những sọc song song có màu nâu đậm trên nền mô chết có màu nâu xám. Bệnh nặng làm lá khô cháy dần và rụng sớm, trơ cành. Bệnh làm cho cây suy yếu dần. Triệu chứng bệnh thán thư thường đi kèm với triệu chứng thiếu dinh dưỡng nhất là thiếu Kali.
Phòng trừ:
– Chăm sóc cho cây khoẻ mạnh, bón phân tưới nước đầy đủ.
-Bón nhiều phân hữu cơ hoai mục.
-Giữ ẩm cho đất trong mùa khô bằng cỏ phủ đất. Phủ gốc với phân hữu cơ, rơm rạ, cỏ khô trong mùa khô.
-Che mát cho cây con.
-Tỉa bỏ lá bị bệnh nặng và tiêu huỹ. Vệ sinh vườn cây.
-Chú ý phòng trừ một số loại côn trùng gây hại trên lá như câu cấu, bọ cánh cứng hoặc một số côn trùng chích hút vì chúng có thể gây ra những vết thương và mở đường cho nấm bệnh tấn công.
-Phun thuốc phòng trừ: Sử dụng các loại thuốc như Benomyl, Appencarb, Carbendazim, Mancozeb, Antracol hoặc thuốc gốc đồng. Luân phiên các loại thuốc để tránh gây ra hiện tượng kháng thuốc của nấm bệnh.
11) Bệnh cháy lá (do nấm Rhizoctonia solani)
Bệnh thường gây hại cây sầu riêng con trong vườm ươm và cây mới trồng những năm đầu. Bệnh cũng gây hại trên cây trưởng thành nơi có bộ tán lá rậm rạp hay mọc gần mặt đất ẩm. Bệnh thuờng xuất hiện một nơi sau đó lan rộng dần ra xung quanh. Vết bệnh thường có màu xanh xám hay xám nâu. Lá non bị nhiễm bệnh giống như bị luộc trong nước sôi, màu xanh nhợt nhạt sũng nước. Các lá được kết dính với nhau do sự mọc lan của các sợi nấm. Do đó khi khô chúng dính với nhau nhưng không rụng. Hiện tượng này nông dân gọi là “tổ kiến”. Bệnh có thể tấn công lên các thân non làm khô chết phần ngọn phía trên và sau đó sẽ chuyển màu trắng xám.
– Nấm gây bệnh thường phát triển trong điều kiện ẩm độ cao, thiếu ánh nắng. Sự lây lan có thể trực tiếp do sợi nấm mọc lan hoặc do hạch nấm di chuyển nhờ dòng nước. Ngoài cây sầu riêng nấm này cũng còn tấn công các loại cây non khác.
– Mầm bệnh này thường phổ biến trong rơm rạ, cây cỏ…do vậy sử dụng các rơm rạ, cây cỏ khô phủ đất cần lưu ý sự lây lan nguồn bệnh.
Phòng trừ
– Ngăn chặn nguồn bệnh lây lan từ bên ngoài vào trong vườn (từ rơm rạ, cỏ khô, nguồn nước chảy..)
– Mật độ trồng nên vừa phải để tạo độ thông thoáng và hạn chế lây lan.
– Nên kiểm soát bệnh bằng chế đọ phun thuốc hoá học với các loại thuốc trừ nấm như EFIGO, Anvil, Moncerene, Bonanza, … Champion 57.6 DP, Dupont TM Kocide 53.8 WG, Funguran – OH 50 WP, Map – jaho 77 WP, COC 85 WP, PN – Coppercide 50 WP, Newkasuran 16.6 WP, Cuproxat 345 SC.
12) Bệnh đốm rong đỏ: do rong (algae) Cephaleuros virescens gây bệnh
Đốm bệnh thường xuất hiện ở phiến lá, đôi khi cũng xuất hiện trên cành non. Đốm bệnh có màu đỏ rỉ sắt bề mặt như lớp nhung mịn, hơi nhô lên mặt lá. Bệnh làm giảm khả năng quang hợp, cây sinh trưởng kém. Ngoài sầu riêng, còn gây hại trên nhiều cây trồng khác.
Bệnh thường thấy trên lá đã trưởng thành. Bệnh phát triển trên cây già cỗi, sinh trưởng kém. Vườn trồng trên đất xấu, vườn chăm sóc kém bệnh nhiều. Cây con không che mát, chăm sóc kém, bệnh có thể gây hại trên thân cành non.
Phòng ngừa:
-Bón phân tưới nước đầy đủ cho cây, phòng trừ các loại sâu bệnh khác giúp cây sinh trưởng tốt giúp hạn chế được bệnh.
-Che mát cho cây con trong mùa khô
-Bón nhiều phân hữu cơ giúp giữ ẩm tốt trong mùa khô.
-Trường hợp bệnh nặng có thể sử dụng Bordeaux để phun trừ.
13) Bệnh nấm hồng do nấm Erythricium salmonicolor (Corticium salmonicolor)
Bệnh thường xuất hiện trên các cành nhỏ mọc ngang ở nơi phân cành. Thời tiết mưa ẩm kéo dài là điều kiện thuận lợi cho nấm bệnh phát sinh phát triển và lây lan. Đầu tiên những sợi nấm màu trắng phát triển bên trên vỏ cây. Sau đó hình thành lớp nấm dạng phấn hồng bao phủ bên ngoài vỏ cây. Bên dưới lớp phấn phủ mô vỏ cây bị thâm và thối làm cho phần trên vết bệnh không được cung cấp nước và chất dinh dưỡng, sau đó lá vàng khô dần và chết. Vỏ cây có thể bị nứt ở vị trí vết bệnh. Bệnh thường làm chết cành nếu không phòng trừ kịp thời. Ở miền Đông Nam bộ bệnh phổ biến và nguy hại hơn so với miền Tây Nam bộ.
Nấm bệnh lây lan qua bào tử bay trong không khí do gió mưa, gặp điều kiện thích hợp sẽ phát triển thành vết bệnh ở nơi mới.
Phòng trừ:
-Không trồng quá dày, tránh trồng xen rậm rạp.
-Tỉa cành tạo tán nhằm tăng độ thông thoáng trong tán cây và trong vườn cây.
-Những cành bệnh nặng, cành chết do bệnh cần được cắt và tiêu huỹ ngăn ngừa lây lan.
-Phun thuốc phòng trừ. Có thể sử dụng các loại thuốc như EFIGO, Validacin, Bonaza, thuốc gốc đồng…. để phun.
-Quét thuốc lên vết bệnh mới xuất hiện và ở các vị trí bệnh có thể xuất hiện. Sử dụng các loại thuốc nói trên.
Nguồn: Facebook Đỗ Trường Sơn
Th227
Bệnh héo xanh, héo tươi trên cây ớt
Đây là bệnh hại đặc trưng của các cây họ cà như ớt, cà chua, khoai tây. Ở Đồng Tháp , bệnh gây hại nặng có thể khiến cây trong vườn chết đến 80%.
Đài truyền hình ĐỒNG THÁP đã phát ra tín hiệu dịch bệnh trong tuần vừa rồi.
Nguyên nhân: Do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum.
Triệu chứng: Đặc điểm nhận diện là cây héo, đôi khi chỉ 1 – 2 nhánh, nhất là khi trời nắng, nhưng lá vẫn còn xanh, sau đó khi trời chiều mát hay ban đêm cây lại phục hồi.
Tuy nhiên triệu chứng héo – tươi chỉ kéo dài vài ngày rồi cây chết hẳn. Ở cây già triệu chứng thể hiện chậm hơn, nếu nhổ cây lên thấy phần thân và rễ cây bị thối đen, mềm nhũn, dùng dao cắt ngang phần thân, rễ bị thối thấy nơi vết bệnh mềm, ngửi có mùi hôi, lõi có màu đen. Cho vào một cốc nước trong sẽ thấy, nếu là cây bị bệnh héo xanh thì dịch sữa trong chứa nhiều vi khuẩn chảy ra chầm chậm từ vết cắt, lấy dịch này pha nước tưới vào vườn cây thì sau 3 – 5 ngày triệu chứng bệnh sẽ xuất hiện.
Thông thường dễ lầm lẫn bệnh héo do nấm và do vi khuẩn, để phân biệt ta chú ý:
Bệnh do vi khuẩn vết bệnh thường mềm nhũn, có mùi hôi, mạch dẫn có màu đen, cây chết nhanh, còn bệnh do nấm đất như Fusarium, Rhizoctonia, Sclerotium…
Bệnh phát triển tương đối chậm, lá chuyển dần sang vàng rồi rụng, diễn biến chậm, nếu cắt ngang thân không thấy dịch chảy ra, không có mùi hôi…
Bệnh héo xanh phát triển nhanh trên nền đất ẩm ướt, thoát thủy kém, vi khuẩn tồn tại trong đất rất lâu. Vi khuẩn còn có thể sống trên nhiều ký chủ phụ, lan truyền qua giống, dụng cụ tỉa cành, vết thương cơ giới do dụng cụ làm vườn, các lỗ hổng tự nhiên (khí khổng ở rễ), tuyến trùng chích hút. Khi bộ phận của cây dưới đất bị thối rữa, vi khuẩn phát tán trong đất, nước và lây lan sang cây bên cạnh, triệu chứng quan sát được khoảng 3 – 7 ngày.
Phòng trị:
– Luân canh, không nên trồng 2 vụ ớt trên cùng chân đất.
– Xử lý hạt giống 54 độ C trong vòng 25 – 30 phút. Dùng hạt giống sạch bệnh, ngâm hạt vào Dung dịch Nano CHITOSAN khi ngâm giống
– Vệ sinh đồng ruộng, ruộng trồng phải sạch cỏ, thu gom tiêu hủy tàn dư thực vật. Bón Tricoderma trước khi xuống giống.
– Bón phân hữu cơ hoai mục. Không được dùng phân bò chưa qua xử lý.
– Khi chăm sóc tránh gây vết thương cho cây, dụng cụ chăm sóc, tỉa cành, thu hái cần sát trùng liên tục bằng formol.
– Ruộng trồng cần bằng phẳng, tránh ruộng úng nước, thoát thủy kém, không trồng ớt trên ruộng các vụ trước đã trồng cây cùng họ cà.
– Nếu trên ruộng có cây bệnh phải lập tức nhổ bỏ và tiêu hủy ngay.
– Lưu ý nguồn nước tưới hay chảy khi mưa từ các ruộng có trồng cây họ cà ở bên trên nguồn vì có thể mang mang bệnh lây lan xuống phía cuối nguồn nước bên dưới.
– Cuối cùng bệnh do vi khuẩn tương đối khó trị, cần thăm đồng thường xuyên, phát hiện sớm và phòng trị kịp thời bằng thuốc đặc trị như NANO ELICTOR + AT PAVADE phun 7 ngày 3 lần, kết hợp tưới AT CẢI TẠO ĐẤT + Tricoderma 15 ngày 1 lần. Phương pháp này tuy có chặm nhưng rất bền vững hơn phương pháp hóa học.
2. Bệnh khảm do virus
Triệu chứng: Có nhiều triệu chứng do virus gây ra trên ớt, có thể là lá ớt biến dạng, xoăn lại, mép cong lên trên, hay lá có màu sắc thay đổi hoặc từng lá có từng mảng xanh đậm hay vàng, hoặc vàng xen lẫn xanh, loang lổ, trường hợp bị nặng chồi không phát triển, cành vặn vẹo, hoa rụng, trái nhỏ, méo mó, cứng… Bệnh do virus gây ra mà tác nhân truyền bệnh là các loài rầy, rệp, tuyến trùng chích hút.
Phòng trị: Do là bệnh do virus gây ra nên không có thuốc phòng trị, chỉ phòng trừ gián tiếp bằng cách tiêu diệt các môi giới truyền bệnh như các loài rầy, rệp mà thôi. Có thể dùng nấm xanh, nấm trắng kết hợp Nano Chitosan phòng thường xuyên sẽ giảm áp lực bệnh.
3. Bệnh sinh lý
Ngoài ra, trên ớt thường thấy phía đáy trái, nhất là ớt ngọt có hiện tượng bị thối đen (thối đáy trái) nguyên nhân là cây thiếu Ca. Để hạn chế bệnh nên tăng cường bón vôi cho đất (bón ít nhất 1 tháng trước khi trồng cây con ra ruộng), khi phát hiện có hiện tượng thiếu Ca có thể tăng cường bón phân Cancium cho cây. Tuy nhiên hiện nay trên thị trường rất khó có caxi ko chứa thành phần đạm, bà con nên dùng Caxi Chelat Ấn độ của cty Agramate Bình Dương sẽ an toàn hơn.
Trên là kinh nghiệm đồng ruộng cùng bà con thời gian qua, ai thấy hay thì áp dụng, không thấy hay mà có kinh nghiệm thì chia sẽ cho bà con mình biết thêm nhé.
Chào bà con !
Nguồn: Facebook Trần Thanh Phương
Th224
Kĩ thuật trồng cam sành
I. Đặc tính giống:
Cam sành được nhân giống từ nguồn sạch bệnh, Trái dạng tròn dẹp, màu vàng sậm, thịt trái nhiều nước, dẻo, hương vị chua ngọt, trọng lượng trung bình 275 gram/ trái. Chu kỳ khai thác 10 – 15 năm. Phù hợp ăn tươi, chế biến và tiêu thụ nội địa.
Chọn cây giống ghép, đảm bảo tiêu chuẩn trồng và đúng giống, qui cách 60-80 cm, cây xanh tốt, không vàng lá, sâu bệnh.
II. Kỹ thuật trồng:
1/ Chuẩn bị đất trồng:
– Khoảng cách trồng: 6m x 5m, hoặc 5m x 4m
– Kích thước hố: 40cm x 40cm x 40cm, hoặc 60 x 60 x 60 cm.
– Bón phân vào hố: Bón lót: 30 – 40 kg phân chuồng hoai mục + 0,3 – 0,5 kg lân + 0,1-0,2 kg Kali + Vôi bột 0,5 – 1 kg; thuốc sâu bột (Basudin 10H…) 0,1kg). Trộn đều lượng phân trên (không có vôi và thuốc) với lớp đất mặt và lớp đất giữa (khi đào hố để riêng). Trả lớp đất dưới xuống hố, tiếp đó lấp phân và đất đã trộn xuống hố, dùng cuốc phá thành hố sau đó rải vôi lên mặt hố và lấp đất mỏng 2-3 cm. Tiếp đó bơm nước vào đầy hố, khoảng 10-15 ngày sau bón thuốc sâu bột trên mặt hố, dùng cuốc đảo trộn đều khoảng 15 ngày sau là trồng được. Nếu không có phân chuồng có thể sử dụng phân hữu cơ sinh học với lượng 10 – 15 kg/hố. Dùng phân xanh thì phải ủ trước 2 -3 tháng với vôi cho đến khi hoai mục.
2. Bón phân cho cam sành:
*số lượng bón
cây từ 1-3 năm tuổi, bón ure/lân/kali: 0.1-0.3/0.3-0.5/0.2( kg/ cây). Phân chuồng/ phân hữu cơ :20-30kg/ cây
cây từ 4-6 năm tuổi, bón ure/lân/kali: 0.4-0.5/0.6- 1.2/0.3( kg/ cây). Phân chuồng/ phân hữu cơ: 30-50kg/ cây
cây từ 7-9 năm tuổi, bón ure/lân/kali: 0.6- 0.8/1.3 – 1.8/ 0.4 (kg/cây). Phân chuồng/ phân hữu cơ : 60-90kg/ cây
cây từ 7-9 năm tuổi, bón ure/lân/kali: 0.8- 1.5/2.0 / 0.5 (kg/cây). Phân chuồng/ phân hữu cơ : 100kg/ cây
* Thời kỳ bón:
– Cây từ 1-3 tuổi:có phân chuồng + phân lân bón vào tháng 12 đến tháng 01.
Đạm urê và kali bón làm 3 lần: Lần 1: vào tháng 1-2: 30% đạm; Lần 2: vào tháng 4-5: 40% đạm + 100%kali; Lần 3: tháng 8 – 9: 30% đạm. (thời gian bón còn tùy thuộc vào khí hậu từng vùng)
– Năm thứ 4 trở đi: phân chuồng + lân + vãi sau khi thu hoạch quả (quả tháng 12 sang tháng 1). Thúc lần 1(Bón đón lộc xuân ): Khỏang từ 15/2-15/3: 40% đạm + 40% kali; + Thúc lần 2: vào tháng 4-5: 30% đạm + 30% kali; Thúc lần 3 (Bón thúc cành thu và nuôi quả ): vào tháng 6-7: 30% đạm + 30% kali.
Cách bón: Sau khi thu hoạch: bón theo vành mép tán, đào rãnh sâu 20cm, rộng 30cm. Các loại phân trộn đều cho vào rãnh lấp kín đất, tủ rơm giữ ẩm. Bón thúc vào Lần 1, lần 2 và 3: trộn đều các loại phân hóa học rải đều trong vòng tán cây, với đảo sâu 4-5cm, vùi đất lấp kín, tủ rơm rác giữ ẩm.
3. Tưới nước:
Sau trồng tưới ướt đẩm đất, Sau trồng hai ngày tưới 1 lần, khi cây xanh tốt trở lại 5 – 7 ngày tưới 1 lần. thời kỳ khô hạn, ít mưa nên tưới 3 – 5 ngày 1 lần. Tưới dặm nếu nắng gắt, thoát nước kịp thời khi bị úng. Tiến hành tủ gốc cam.
4/ Sâu bệnh hại và biện pháp phòng trừ:
– Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citrella ): Sâu non đục vào lá gây nên những đường ngoằn ngoèo, thường đi chung với bệnh loét gây nên.
Tỉa cành, bón phân hợp lý, điều khiển sự ra chồi sao cho đồng loạt để hạn chế sư lây nhiễm liên tục trong năm. Phòng trừ bằng cách phun thuốc sớm ngay từ giai đoạn cây ra lộc non . Sử dụng 1 trong các loại thuốc: Phosphomidon, Dimethoate, Trigard, Abamectin và Dimilin có hiệu qủa phòng trị tốt sâu vẽ bùa. Bên cạnh các loại thuốc hóa học thì hiệu quả của dầu khoáng đối với sâu vẽ bùa cũng đã được khẳng định.
– Sâu đục thân, cành: Sâu đục rỗng thân cành gây chảy mủ, cành chết. Sâu đùn mạt cưa ra ngoài miệng hang. Phòng trừ bằng cách cắt bỏ cành bị hại nặng, chích thuốc trừ sâu vào lỗ đục (Dùng thuốc cypermap 25EC, Map permethrin 50EC…), có thể rải ít Basudin 10 H, dùng móc sắt bắt sâu.
– Nhện đỏ, nhện trắng: Có thể sử dụng thuốc hoá học khi mật số Nhện đạt 3 con thành trùng /lá hoặc trái. Sử dụng các loại thuốc đặc trị Nhện, các loại thuốc trừ Sâu gốc Cúc hoặc Lân hữu cơ kết hợp với Dầu khoáng. Ðể ngăn chặn sự bộc phát tính kháng thuốc, khi sử dụng thuốc hóa học cần luân phiên các loại thuốc có gốc hóa học khác nhau. Có thể sử dụng các loại thuốc như Comite, Trebon, Pegasus, Bi 58, Kelthane, Danitol, Ortus 5SC, Selecron 500EC/ND… (theo liều lượng khuyến cáo) và Dầu khóang DC-Tron Plus (nồng độ 0,5%)…
Bệnh Bồ hóng: Bệnh thường xuất hiện nơi râm mát, và đây là bệnh kế phát sau khi có sự hiện diện của côn trùng họ chích hút. Nấm phát triển trên bề mặt lá, cành non, tạo thành lớp dày che kín cả mặt lá, thân, trái. Hạn chế sự phát triển của nhóm côn trùng họ chích hút, bằng các loại thuốc đặc trị cho từng nhóm côn trùng chích hút ấy. Dùng máy phun nước lên tán cây rửa trôi các chất thải của côn trùng họ chích hút thải ra. Hạn chế sử dụng phân bón qua lá, nếu phun phân bón qua lá nhiều bệnh gây hại ngày càng nặng hơn. Phun thuốc trị khi bệnh nặng: Copper B 75 WP, Derosal 60 WP, Kumulus 80 DF, Champion 77 WP với nồng độ 0,2-0,5% hoặc Chlorine 0,04%, phun 7-10 ngày/lần.
5. Các biện pháp chăm sóc khác:
Thường xuyên làm sạch cỏ và trồng cây xen che phủ đất, giữ ẩm, hạn chế cỏ dại theo phương châm lấy ngắn nuôi dài (có thể trồng chuối trong 2 -3 năm đầu)
Tạo tán: đối với cây ghép được tiến hành như sau:Khi chồi mắt ghép cao 30-40 cm thì bấm ngọn tạo cành cấp 1. Khi cành cấp 1 dài 30-40 cm bấm ngọn để tạo cành cấp 2, từ các cành này mọc ra cành cấp 3. Nên để 3-4 cành cấp 1; 6-8 cành cấp 2 và 12-16 cành cấp 3 để tạo cho cây có tán hình mâm xôi, thấp cây dễ chăm sóc.
Thời kỳ nụ hoa, quả non: tỉa hoa dị hình, quả ra muộn. Thời kỳ đậu quả 1-2 tuần: phun bổ sung chất dinh dưỡng và nguyên tố vi lượng.
6/ Chăm sóc cam sau thu hoạch:
Cam, quýt sau thu hoạch cần được chăm sóc, vệ sinh, cắt tỉa, phòng trừ sâu bệnh để cây tiếp tục phát triển và cho mùa bội thu sau.
– Tiến hành làm sạch cỏ dại, sau 25 – 30 ngày thu hoạch cắt tỉa các cành sâu bệnh, cành tược, khô héo, cành tăm hương, mọc không đúng hướng…
– Quét vôi vào gốc cây ngăn sự cư trú của sâu bệnh.
– Phòng trừ sâu bệnh bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp: bón phân đầy đủ, cân đối, kịp thời, bón đúng kỹ thuật, phun thuốc đúng lúc, đúng cách.
7/ Xử lý ra hoa:
Ngưng tưới và rút nước mương (nếu có) khoảng 2-4 tuần cho đến khi cây vừa “xào lá” (lá hơi héo vào buổi chiều nhưng sáng mai không tươi lại hoàn toàn). Sau đó tưới nước đẫm lại ba ngày liền, ngày tưới hai lần. Ngày thứ tư thì tưới mỗi ngày/lần.
Sau khi tưới nước lại bộ lá tươi trở lại, pha 35ml RA HOA C.A.T + 15g F.Bo/8 lít hoặc kích phát tố hoa trái Thiên Nông 7g + 15g F.Bo/8 lít , phun sương đều tán cây và trong thân cây hai lần (5 ngày/lần) thúc ra hoa đồng loạt, sau khi cây ra đọt non tưới hai ngày/lần.
8/ Thu hái và bảo quản:
Khi quả có màu đỏ da cam và vàng lá cam 1/3 – ¼ diện tích vỏ quả thì thu hoạch, thu hoạch và ngày nắng ráo, dùng kéo cắt hạn chế rụng lá gãy cành.
nguồn: hoinongdan
Th222
Kĩ thuật xen canh cà phê và mắc ca
Dưới đây là kỹ thuật trồng cây cà phê xen lẫn cây mắc ca mà những người trồng thành công đã chia sẻ giúp bà con có thêm thu nhập không phụ thuộc quá nhiều vào cây cà phê.
Mật độ trồng:
Đối với kỹ thuật trồng cây cà phê vối thì trồng 6x6m trồng xen giữa ngã tư cây cà phê.
Cà phê chè mật độ trồng 7.5×4.5m trồng xen giữa ngã tư cây cà phê.
Cách chọn giống : Chiều cao của cây tính từ mặt bầu lên đến mắt ghép là 40- 60cm trở về, thân vanh tròn từ 6 – 10mm, vì như thế tuổi của cây gốc ghép chỉ khoảng 20 – 24 tháng tuổi rễ cọc còn nhỏ khi ta trồng xuống rễ cọc tiếp tục mọc dài cắm sâu xuống đất tạo cho cây có thể đứng vững chắc chống lại được với hạn hán, lũ lụt . Đặc biệt cây không bị nghiêng, đổ do gió bão. Mắt ghép thấp thì sau này chiều cao của cây hạn chế, cành lá xum xuê thuận tiện sau này thu hoạch, cắt tỉa .
Cách trồng : Kích thước hố 60 x 60 x 50cm. Đảo phân chuồng hoặc phân hữu cơ, phân lân, vôi và một phần đất mặt. Cắt bỏ túi nilông, cắt phần rễ cọc ở đáy bầu bằng kéo hoặc dao sắc, cắt vát để rễ không bị dập, nhanh đâm rễ mới, tiếp theo đưa cây xuống hố lấp đất đã trộn xuống xung quanh gốc, mặt bầu bên dưới mặt đất 30cm, rắc thuốc hạt Basudin hoặc Phuradang 1kg / 20 gốc, cắt bỏ những lá bên dưới mắt ghép.
Làm Cỏ : Giống các loại cây trồng bình thường khác và cùng đợt với cây cà phê. Tháng 8 đào hố giữa 4 gốc Macca, cào lá xuống, mỗi hố cho 2kg phân lân, 500g vôi và lấp đất lại (để lá phân hủy tạo thành phân mùn hữu cơ ), sạch lá thu hoạch quả nhanh và không thất thoát.
Bón phân : Khi đang còn nhỏ ta nên bón nhiều lần 20 – 25 ngày /lần dùng URÊ 70% + KLY 30% khoảng 300g/cây/lần cây càng phát triển thì tăng lượng phân, khi cây vào tuổi thu trái bón phân URÊ 30 % ,KLY 70 % . Phân Lân và vôi ta bón thành 1 lần vào đầu mùa mưa, lượng phân lân 400kg/ha/năm, vôi 250kg/ha/năm ,bón đều cho các năm.
Tưới nước : Nếu ta trồng từ tháng 4 đến tháng 5, khi này đang thời điểm mùa mưa vùng Tây Nguyên, đến đầu mùa khô rễ cây đã phát triển tốt ta chỉ cần tưới cùng với cà phê là đủ ẩm để phát triển tốt, lượng nước tưới giống cây cà phê .
Tỉa cành tạo tán : Sau trồng 1 tháng cắt bỏ hết lá dưới mặt ghép ít nhất ta để 4 – 6 cành, chồi cao 40cm mà chưa phân cành thì ta cắt bỏ cho đâm chồi ra từ kẽ lá tiếp tục cứ làm như thế thì cây đâm càng nhiều chồi. Các cành trục chính phải để 10 – 15 cành, chiều cao duy trì từ 6->8m là phù hợp.
Trong quá trình trồng cà phê và mắc ca cần theo dõi thường xuyên để phát hiện Bệnh tránh lây sang cà phê hoặc mắc ca và có phương pháp chữa trị sớm nhất.
nguồn:kĩ thuật nuôi trồng
Th104
Chia sẻ kinh nghiệm bón phân cho cây tiêu
Cây Hồ tiêu là cây cực kì khó tính nhưng nếu các bạn hiểu rõ nó thì cũng không có gì là ghê gớm. Nếu các bạn không siêng năng thì tôi khuyên các bạn nên trồng cà phê, cao su hay đại loại những cây trồng khác.
Nói về hồ tiêu là một chủ đề mênh mông mà bất cứ người trồng hồ tiêu nào cũng nhắc đến. Từ cách bón phân, tạo cành tỉa tán cho tới chăm sóc sâu bệnh. Cho nên nói như TS Nguyễn Hoàng thì chỉ mới giới thiệu sơ lược. Các bạn đã biết sử dụng internet để tìm hiểu về cây hồ tiêu thì ít nhiều cũng là người có học thức. Theo kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn trồng tiêu lâu năm của tôi, xin chia sẻ việc thực hiện các bước cơ bản bón phân như sau: “Tốt nhất nên bón phân theo hướng phát triển bền vững hữu cơ vi sinh kết hợp hóa học theo thời điểm“.
Chọn giống cây tốt phù hợp với chất đất, sau đó bón lót cho tiêu con bằng phân chuồng hoai mục 10-15 kg trên gốc như TS Nguyễn Hoàng hướng dẫn trộn với Metharizum (lấy từ đất Chư Sê) ngừa rệp sáp hại rễ. Bạn biết đấy, rễ tiêu rất dễ bị tổn thương nếu vi sinh vật có hại tấn công lúc nhỏ thì cây sẽ không phát triển tốt. Nên bỏ phân hữu cơ vi sinh chia nhỏ ra làm nhiều đợt trong mùa mưa cây sẽ phát triển rất tốt. Lưu ý cây tiêu rất ít bệnh tật trong 3 năm đầu tiên trồng nếu xử lý đất tốt. Cuối mùa mưa bạn nên bón thêm một ít lân tăng khả năng chịu hạn cho hồ tiêu vào mùa khô (bón phân lân hữu cơ phân gà hoai). Trường hợp cây vàng lá do thiếu vi lượng như Mg, Bo… nên xịt ít phân bón lá vi lượng hoặc một loại hữu cơ vi sinh đậm đặc nào đó đạt tiêu chuẩn là cây hồi phục rất nhanh. (Có thể sử dụng cách này cho tiêu lớn bị tháo khớp và vàng lá).
Về phần bón thúc và tưới thúc, các bạn nên sử dụng theo phương pháp phát triển bền vững, cần chú ý: Rễ tiêu rất để tổn thương, các bạn không nên xới phạm rễ. Vì vậy, nên ngâm phân cho tan trước khi bón và bón cách gốc 50-60cm ngoài tán tiêu một chút. Thời điểm bón phân và xử lý thuốc tốt nhất là vào lúc sáng sớm và chiều mát (không bón quá 9h sáng và trước 3h chiều), cây tiêu khó tính chỗ này đây. Trường hợp không ngâm tưới mà chôn để cho ăn dần thì nên xới nhẹ ngoài tán gốc cây 60cm và sâu khoảng hơn 5cm, lấy đất ngoài xa lấp lại. Bón theo TS cũng được nhưng lưu ý thêm 2 kg phân gà hoai rải xung quanh tán tiêu. (xử lý tuyến trùng và sâu hại không đề cập trong bài viết này)
Bón phân khi tiêu chính thức cho thu hoạch, vấn đề này rất nhức nhối vì lúc nào tôi cũng nghe hỏi bón phân khi nào? lúc nào? thời diểm nào? và bón như thế nào?… hàng vạn câu hỏi như thế nào.
Trước tiên, tùy vùng hồ tiêu mà bón phân. Phải căn cứ từ thời điểm thu hoạch năm trước. Nếu nhà bạn phải có từ 2 đến giống tiêu trở lên thì dễ có kinh nghiệm hơn. Thông thường là khi tiêu Ấn Độ vừa chín bói thì tiêu Vinh Linh làm chắc hạt, bạn nên bỏ Kali và phân hữu cơ Amino đổ gốc để chắc hạt to trái. Lượng phân đợt cuối giúp cây có năng suất mà chống suy tiêu.
Sau khi thu hoạch, phải tạo cành tỉa tán không bón gì cả để hãm tiêu. Thời gian hãm tiêu từ 30-45 ngày tùy tiêu sung hay suy. Gần tới mùa mưa, nên rửa lá tiêu bằng thuốc gốc đồng + vôi ngăn ngừa nấm. Sau đó tưới nước 2- 3 lần cho ướt đẫm như mưa (lưu ý không bón phân). Cây chỉ ăn phân khi bắt đầu ra lá non, lá non ra là rễ đang nhú. Bón đợt đầu thật đậm, nên dùng hữu cơ giàu humate, lần này rất quan trọng vì tiêu làm bông đồng loạt. Hồ tiêu có năng suất hay không thì quan trọng nhất là lần này, vì hồ tiêu mà bón phân không đúng cách sẽ ra 2 đợt hoa khiến cho việc thu hái hay chăm sóc sẽ rất khó. Sau khi thấy lá non lớm chớm xuất hiện là xịt thuốc trừ rầy, rệp chích hút nhựa và xử lý tuyến trùng gốc. Nên xịt một lần phân bón lá loại giàu trung vi lượng hoặc bón phân hữu cơ đậm đặc. Xịt theo thời điểm nào bạn thấy cây có dấu hiệu thiếu vi lượng vàng lá.
Khi cây bắt đầu đâu đậu trái non, nên đổ gốc bằng phân hữu cơ vi sinh và xịt thuốc chống rụng trái non, thối trái. Để ý mùa này là mùa mưa sâu hại chích hút rất nhiều, lật mặt sau lá mà có rầy bám lá non thì bạn nên xịt thuốc tiêu diệt.
Khi tiêu bắt đầu làm hạt, bón một lần nữa là 3 lần, đều sử dụng hữu cơ sinh học chuyên dùng cho cây tiêu (Humic,…) và lần 4 làm chắc hạt là dùng NPK trong đó Kali cao, N và P ít thôi. Và lần to trái thì như tôi nói ở trên lúc tiêu Ấn Độ chín bói là 5 lần. +1 lần bổ sung hữu cơ phân gà hoai mục đã được xử lý. Các bạn nên chia ra làm nhiều lần mà bón, như ăn cơm mà các bạn nấu một lần một bao gạo thì ăn có nổi không, thì cây tiêu cũng vậy. Hàm lượng bao nhiêu ư ? tùy cây mà rải quanh tán, gốc to thì nhiều nhỏ thì ít. Bón phân hay xịt và bón gốc đều theo hướng dẫn trên bao bì phân. Chú ý đọc kỹ hướng dẫn trước khi sử dụng, tránh tư tưởng của người Việt Nam mình là bón thừa ra cho chắc. Nên bón đúng bón đủ, đúng liều lượng và đúng thời điểm (theo 4 đúng).
Lưu ý: Các bạn không nên cho người khác cỏ dê vì sẽ làm bạc màu đất của bạn. Đốt và tháo gỡ những cây tiêu bị bệnh trong vườn sạch tới chiếc lá cuối cùng, trồng mới thay những cây xấu lèo tèo sau đó đôn tiêu kỹ càng. Xử lí đất tốt, ngừa bệnh hơn chữa bệnh, làm mương thoát thủy kỹ càng vì cây tiêu rất sợ úng, làm chồi tiêu lươn bò sạch sẽ cách gốc 40-50cm… Chúc các bạn thành công.
Nguồn gia tiêu.com
Th1217
Kỹ thuật nuôi gà thả vườn
Nuôi gà thả vườn mang lại giá trị kinh tế cao, tuy nhiên bà con cần lưu ý và làm đúng theo kỹ thuật nuôi để có đàn gà chất lượng nhất
nuôi gà thả vườn
I. Xây dựng chuồng trại
+ Nền phải kiên cố, chắc để dễ vệ sinh, dễ sát trùng tiêu độc, nền có độ dốc thích hợp dễ thoát nước, không ẩm ướt, tránh bị chuột đào bới. Bởi vậy, nền chuồng thường láng xi-cát hoặc lát gạch.
+ Diện tích nền chuồng tùy thuộc vào quy mô, mức độ thâm canh nhưng phải đảm bảo đủ rộng. Chuồng nuôi gà con 10 – 12 con/m2, Chuồng nuôi gà dò 5 – 6 con/m2.
+ Mái chuồng làm bằng vật liệu khó hấp thu nhiệt để chống nóng. Mái có thể lợp bằng tole hoặc mái lá, lợp qua vách chuồng khoảng 1 m để tránh mưa, hắt làm ướt nền chuồng. Làm một mái hoặc 2 mái.
+ Tường vách chuồng: Xây cách hiên 1 – 1,5 m , vách chỉ nên xây cao 30 – 40 cm còn phía trên dùng lưới thép hoặc phên nứa. Trường hợp tường vách được coi là tường bao thì phải có thêm cửa sổ để chuồng thông thoáng
+ Rèm che: Dùng vải bạt, bao tải, … Che cách vách tường 20 cm phía ngoài chuồng nuôi, nhằm bảo vệ cho gia cầm tránh được mưa, gió rét nhất là ở giai đoạn gà nhỏ.
+ Chuồng được ngăn làm nhiều ô, tùy diện tích nhưng ít nhất nên ngăn thành 2 – 3 ô để dễ quản lý đàn gà nhất là gà sinh sản. Nên ngăn ô bằng lưới thép hoặc nan tre đảm bảo thông thoáng.
+ Hệ thống cống rãnh: Chuồng nuôi bắt buộc phải có hệ thống cống rãnh ngầm, đồng thời có đường thoát nước bên ngoài để tránh hiện tượng đọng nước xung quanh tường.
+ Chuồng làm cao 1,5 m, dài 2,5 m, rộng 2m. Chuồng có 1 hoặc 2 cửa cho gia cầm ra vào.
Chuồng phải được vệ sinh khử trùng tiêu độc trước khi nuôi. Có thể dùng Formol 2% với liều 1ml/m2, Paricolin 0,05% hoặc disinfecton 0,05% trước khi bắt gà về nuôi từ 7- 15 ngày.
II. Chuẩn bị vườn thả (bãi chăn)
– Bãi thả nên có cây bóng mát (trồng cây ăn quả hoặc cây lâm nghiệp), có trồng cỏ xanh là nguồn thức ăn có chứa nhiều vitamin, khoáng, là nguồn dinh dưỡng cho gà. Có thể làm lán tạm để treo thêm máng ăn (chú ý tránh mưa ướt) và máng uống cho gà trong thời gian chăn thả. Cây bóng mát trồng cách hiên chuồng nuôi 4 – 5 m, tán cây che nắng phải cao hơn chiều cao mái hiên chuồng nuôi để tăng cường thông thoáng.
– Có bãi thả gà tự do, vận động. Trên bãi thả gà có thể tìm được một số thức ăn, tắm nắng để tạo vitamin làm xương rắn chắc, sức khỏe tốt, ít bị bệnh.
– Vườn thả phải đủ diện tích cho gà vận động và kiếm thêm thức ăn. Yêu cầu diện tích bãi chăn thả tối thiểu là từ 0,5 đến 1m2/gà, bãi chăn bố trí cả hai phía (trước và sau) của chuồng nuôi và thực hiện chăn thả luân phiên, sẽ tốt hơn là sử dụng bãi chăn thả một phía. Bãi chăn bố trí chạy dọc theo chiều dài chuồng nuôi, sao cho khoảng cách từ cửa chuồng đến hàng rào không quá xa, gà dễ ra vào (đặc biệt khi gặp thời tiết bất thường xấu).
– Bãi chăn thả được san lấp bằng phẳng, dễ thoát nước, không có vũng nước tù đọng, không có rác bẩn, vật lạ ở trong bãi chăn, định kỳ thu dọn lông gà rơi vãi ở bãi chăn. Thường xuyên duy trì thảm thực vật ở bãi chăn để có môi sinh, môi trường tốt cho khu trang trại, hơn nữa còn bổ sung thêm nguồn thức ăn xanh, giàu vitamin cho gà.
– Bao xung quanh bãi chăn nên sử dụng lưới mắt cáo hoặc rào bằng phên tre,… Sao cho thông thoáng nhưng chắc chắn, chống người, thú hoang, hoặc thú nuôi xâm nhập và gà không thể vượt qua
– Bãi chăn phải thường xuyên vệ sinh và định kỳ phụ tiêu độc.
III. Chuẩn bị quây úm và phương pháp sưởi ấm gà con
– Quây gà làm bằng cót, tấm nhựa hoặc dùng lưới thép và bên ngoài bọc bằng bạt…
– Quây úm được bố trí trong phòng úm, không nên làm gần cửa ra vào tránh gió lùa. Có thể dùng các tấm mây bồ, tôn .. có chiều cao 0,5 m, quây vòng tròn có đường kính 2,8 – 3,0 m. Một quây gà đường kính như trên nuôi được 400 gà con vào mùa hè và 500 con vào mùa đông.
– Mùa hè ngày tuổi thứ 5 thì nới rộng quây và đến ngày thứ 10 thì có thề tháo bỏ quây. Mùa đông ngày tuổi thứ 7 thì nới rộng quây và cuối tuần thứ 2 – 3 thì có thể tháo bỏ quây.
– Bố trí trong quây úm: Khay, mẹt cho gà con ăn và máng uống nhỏ được bố trí xen kẽ nhau trong quây đảm bảo cho gà con ăn uống được thuận tiện. Chụp sưởi (làm bằng tôn dạng hình nón có đường kính rộng 60 đến 80cm, bên trong khoét 3 lỗ so le nhau để lắp bóng điện, ở nóc chụp có móc để buộc dây treo) dùng bóng điện, bóng hồng ngoại để cung cấp nhiệt sưởi, chụp sưởi có tác dụng hứng nhiệt và tập trung nhiệt để tăng khả năng cấp nhiệt cho gà, ngoài ra làm chụp sưởi sẽ không làm cho nhiệt thoát ra ngoài nên tiết kiệm được điện… chụp sưởi thường treo giữa quây gà, treo cao 40 – 50 cm so với mặt nền.
* Sưởi ấm cho gà :
Chụp sưởi đặt cách mặt nền 30 – 40 cm. Điều chỉnh dụng cụ sưởi ấm cho gà tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường và tuổi gà. Trong quây gà và chuồng nuôi, nhiệt kế nên đặt tầm ngang lưng gà. Gà con đủ nhiệt sẽ an uống tốt, khoẻ mạnh lớn nhanh và ít bệnh; nếu gà bị thiếu nhiệt khi úm thì sẽ an uống kém, hay mắc bệnh, nhiều gà còi cọc, tỷ lệ hao hụt cao,…
Bằng cách quan sát hoạt động của gà, ta cũng có thể đánh giá được nhiệt độ có phù hợp hay không để điều chỉnh chụp sưởi cho thích hợp.
+ Khi nhiệt độ cao quá yêu cầu : Đàn gà tỏa ra xung quanh sát vòng quây, tránh xa chụp sưởi, há mỏ để thở, uống nhiều, ăn ít.
+ Khi nhiệt độ thấp dưới yêu cầu : Đàn gà quây xung quanh chụp sưởi, tụ đông lên nhau ngay dưới chụp sưởi, kêu nhiều, ăn uống ít
+ Khi nhiệt độ thấp dưới yêu cầu : Đàn gà quây xung quanh chụp sưởi, tụ
đông lên nhau ngay dưới chụp sưởi, kêu nhiều, ăn uống ít
+ Khi nhiệt độ thích hợp : Đàn gà phân bố đều trong quây, ham ăn uống,
kêu ít (yên tĩnh).
+ Nếu gà tụm lại một phía trong quây : có thể bị gió lùa, cần phát hiện và
che hướng gió.
nuôi gà thả vườn
IV. Chọn gà con
Xác định tiêu chuẩn gà con 1 ngày tuổi
– Khối lượng sơ sinh lớn (35 – 36g/con)
– Khỏe mạnh, tinh nhanh, hoạt bát, thân hình cân đối.
– Mắt tròn sáng mở to
– Chân thẳng đứng vững, ngón chân không vẹo
– Lông khô, bông tơi xốp, sạch, mọc đều
– Đuôi cánh áp sát vào thân
– Bụng thon và mềm
– Rốn khô và kín
– Đầu to cân đối, cổ dài và chắc
– Mỏ to chắc chắn, không vẹo, 2 mỏ khép kín.
V. Cho gà ăn, uống
1. Cho gà con ăn, uống
– Cho gà ăn, uống giai đoạn úm từ 0 – 3 tuần tuổi:
+ Cho gà ăn: Dùng thức ăn gà con chủng loại 1 – 21 ngày (nếu là thức ăn hỗn hợp viên), nếu thức ăn tự chế biến phải căn cứ vào chế độ dinh dưỡng có trong 1kg thức ăn hỗn hợp để phối trộn các nguyên liệu đáp ứng đủ nhu cầu. Nguyên liệu thức ăn phải có chất lượng tốt. Rải mỏng, đều thức ăn lên khay ăn hoặc mẹt có độ dầy 1cm, sau đó từ 2 – 3 giờ dùng bay sắt cạo sạch thức ăn lẫn phân có trong khay đem sàng để gạt bỏ phân ra ngoài, tận thu thức ăn cũ và tiếp thêm lượt mỏng thức ăn mới để cho gà ăn. Cho gà ăn tự do cả ngày đêm, bổ sung thêm thức ăn cho gà trong một ngày đêm từ 8-10 lần. Khi gà được 3 tuần tuổi trở đi thay thế khay ăn bằng máng ăn cỡ trung bình P30.
+ Cho gà uống nước: Dùng máng uống gallon chứa nước cho gà uống, 2 tuần đầu dùng máng cỡ 1,5-2,0 lít, các tuần sau dùng máng cỡ 4,0 lít. Đế máng uống kê thật phẳng bằng gạch mỏng cao hơn độn lót chuồng từ 1cm đến 3cm tùy theo độ lớn của gà để gà không bới độn lót vào làm bẩn nước uống. Máng uống đặt xen kẽ với khay ăn. Máng uống được rửa sạch hàng ngày theo quy định, hàng ngày thay nước uống cho gà khoảng 4 lần(sáng, chiều, tối, và giữa đêm).
– Cho gà ăn, uống giai đoạn từ 4 – 9 tuần tuổi:
+ Cho gà ăn: Dùng thức ăn gà dò chủng loại 21 – 42 ngày (nếu là thức ăn hỗn hợp viên), nếu thức ăn tự chế biến phải căn cứ vào chế độ dinh dưỡng có trong 1kg thức ăn hỗn hợp để phối trộn các nguyên liệu đáp ứng đủ nhu cầu. Nguyên liệu thức ăn phải có chất lượng tốt.
Chuyển đổi thức ăn dần cho gà ăn theo cách phối hợp sau:
1. Ngày thứ nhất 75% thức ăn cũ và 25% thức ăn mới
2. Ngày thứ hai 50% thức ăn cũ và 50% thức ăn mới
3. Ngày thứ ba 25% thức ăn cũ và 75% thức ăn mới
4. Ngày thứ tư cho ăn 100% thức ăn mới
Cho gà ăn bằng máng trung P30, sau đó chuyển dần cho gà ăn bằng máng đại P50, đổ thức ăn vào máng có chiều cao bằng 1/2 của thân máng, định kỳ 2 giờ lắc máng cho thức ăn rơi xuống. Máng được treo bằng dây sao cho miệng máng cao ngang lưng gà. Mật độ máng ăn cho gà theo yêu cầu: 30 con – 40 con/máng. Cho gà ăn tự do cả ngày đêm, bổ sung thêm thức ăn cho gà trong một ngày đêm từ 2 lần (sáng, tối) hoặc 4 lần (sáng, chiều, tối, đêm).
+ Cho gà uống nước: Dùng máng uống gallon chứa nước cho gà uống, dùng máng cỡ 4,0 lít hoặc 8 lít. Để máng uống kê thật phẳng bằng gạch cao hơn độn lót chuồng từ 4 cm đến 5 cm để gà không bới độn lót vào làm bẩn nước uống. Máng uống đặt với số lượng 100 con cho 1 máng. Máng uống được rửa sạch hàng ngày theo quy định của thú y, hàng ngày thay nước uống cho gà khoảng 4 lần (sáng, chiều, tối, và giữa đêm).
2. Cho gà thịt ăn, uống
Lượng nước uống đầy đủ cho gà hàng ngày. Không bao giờ để gà khát nước, máng hết nước. Nếu đàn gà nuôi mà không được uống nước trong 1 ngày thì 2 ngày tiếp theo gà sẽ không tăng trưởng được về khối lượng và sẽ chậm lớn trong 1,5 tháng sau đó. Lượng nước uống hàng ngày của gà có thể khác nhau tùy theo mùa, nhưng trung bình lượng nước mà đàn gà tiêu thụ hàng ngày gấp đôi lượng thức ăn. Do vậy, căn cứ vào tuổi của gà, lượng thức ăn ăn vào và nhiệt độ môi trường để tính lượng nước cho gà uống, đặc biệt khi pha thuốc tăng sức đề kháng, phòng bệnh, chữa bệnh cho đàn gà.
Thức ăn được cho ăn theo nhu cầu của gà. Cần chia làm nhiều đợt để theo dõi lượng thức ăn tiêu thụ, tránh để thức ăn dư thừa.
+ Theo dõi khả năng tiêu thụ thức ăn
– Theo dõi và ghi chép đầy đủ mức tiêu thụ thức ăn hàng ngày của gà theo giai đoạn.
+ Xác định nhu cầu dinh dưỡng
– Dựa trên giống gà nuôi, các lứa tuổi khác nhau để xác định nhu cầu dinh dưỡng cho gà theo các giai đoạn cho đúng tiêu chuẩn.
– Ngoài ra chúng ta cần căn cứ vào mùa vụ để xác định nhu cầu protein, năng lượng trao đổi, vitamin và khoáng cho từng loại gà khác nhau.
– Thực tế sản xuất người ta chia thức ăn cho gà thịt được chia làm 3 giai đoạn như sau:
+ Khẩu phần thức ăn khởi động cho gà 1 – 21 ngày tuổi
+ Khẩu phần thức ăn tăng trưởng cho gà 22 – 35 (hoặc 42) ngày tuổi
+ Khẩu phần thức ăn vỗ béo sau 36 ngày tuổi đến xuất chuồng.
VI. Chăm sóc gà
1. Theo dõi tình trạng sức khoẻ đàn gà
– Đối với gà nuôi thịt: Đầu tuần thứ 5 chỉ thả gà 2 giờ/ ngày cho gà tập làm quen. sau đó đuổi gà vào chuồng, nhũng buổi sau tăng dần thời gian thả từ 30 phút đến 1 giờ, như vậy sau khoảng 10 ngày là thả gà tự do. Trước khi mở cửa, gà đã được cho ăn, uống khá đầy đủ, đặc biệt, nước uống có pha kháng sinh, vitamin.
– Hàng ngày quan sát đàn gà, phát hiện những biểu hiện không bình thường để có biện pháp xử lý kịp thời.
2. Vệ sinh chuồng trại, dụng cụ nuôi gà
– Giai đoạn úm hàng ngày kiểm tra và dọn rìa xung quanh máng uống độn chuồng bị ướt, xới đảo độn lót chuồng từ 7 – 10 ngày/lần và bổ sung thêm lượt mỏng độn lót. Không thay độn lót chuồng thường xuyên.
– Để đảm bảo cho đàn gà khỏe mạnh, chuồng nuôi, vườn chăn thả phải thường xuyên vệ sinh sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng hoặc vôi bột 15 ngày/ lần. Phòng bệnh cho gà theo đúng lịch.
– Định kỳ xới đảo, bổ sung chất độn chuồng để đảm bảo độ dày cần thiết và làm cho chất độn chuồng luôn khô, tơi xốp
– Thường xuyên kiểm tra chất độn chuồng nếu bị ướt phải hốt ra ngoài và bổ sung chất độn chuồng mới.
– Máng ăn hàng ngày phải vệ sinh bằng cách dùng khăn lau sạch trước khi đổ thức ăn, tiêu độc máng ăn 1 lần/tuần.
– Máng uống hàng ngày phải cọ rửa và sát trùng.
– Phun thuốc sát trùng toàn bộ chuồng nuôi 1 lần/tuần trong trường hợp khu vực không có dịch bệnh và 3 ngày/lần khi khu vực xung quanh có dịch bệnh.
– Hàng ngày phải thay thuốc sát trùng trong khay để trước cửa ra vào chuồng nuôi.
– Thường xuyên dãy cỏ xung quanh chuồng nuôi, hàng tuần phải phun thuốc sát trùng tiêu độc
VI. Phòng bệnh:
Có nhiều bệnh trên gà, nhưng tập trung các bệnh sau:
Bệnh phải phòng nhiễm Vacxin phải dùng Loại vacxin Cách pha, sử dụng Vị trí, đường cho vacxin Tuổi dùng vacxin
Niucatxơn
Lasota hoặc V4 Nhược độc đông khô 100 liều/lọ +30ml nước cất Nhỏ vào mắt, nũi cho gà 3-7 ngày tuôi (lần 1)
Niucatxơn Lasota hoặc V4 Nhược độc đông khô 100 liều/lọ +1lít nước cất Cho gà uống trong ngày 18-20 ngày tuổi (lần 2)
Niucatxơn hệ 1 (H1) Nhược độc đông khô 100 liều/lọ +30ml nước cất Tiêm dưới da cánh: 0,2ml/gà 35-40 ngày tuổi (lần 3)
Bệnh Gumboro Gumboro (dùng 1 trong 3 loại: D78, Bur 706, Medivac GumboroB) Nhược độc đông khô 100 liều/lọ + 30ml nước cất Nhỏ mũi, miệng gà, 2-3 giọt/con 1-3 ngày tuổi (lần 1)
Bệnh Gumboro 1 trong 3 loại vacxin: D78, Bur 706, Medivac-Gumboro B Nhược độc đông khô 100 liều/lọ + 11 lít nước cất Cho gà uống trong ngày 14-15 ngày tuổi (lần 2)
Bệnh đậu gà Vacxin đậu gà Nhược độc đông khô 100 liều/lọ + 1ml nước cất Lấy ngòi bút sạch, luộc vô trùng, chấm vào vacxin rồi rạch nhẹ 2 lần dưới cánh gà 14-15 ngày tuổi (chỉ dùng 1 lần)
Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm (IB) Vacxin IB (chủng H120) Nhược độc đông khô 100 liều/lọ + 30ml nước cất Nhỏ mũi, miệng cho gà: 2-3 giọt/con 1-2 ngày tuổi (lần 1)
Vacxin IB (chủng H52) Nhược độc đông khô 100 liều/lọ +1 lít nước cất Cho gà uống trong ngày 28-30 ngày tuổi (lần 2)
Bệnh tụ huyết trùng Vacxin THT gia cầm Vacxin chết keo phèn 50ml/lọ Tiêm cho gà: 02ml/gà (đùi, lườn gà) 40 ngày tuổi (chỉ tiêm 1 lần)
Nguồn kythuatnuoitrong.edu.vn
Th1216
Kỹ thuật nuôi lươn không bùn
Mô hình nuôi lươn không bùn tiết kiệm nhiều chi phí, dễ quản lý, chăm sóc, nhu cầu tiêu thụ loại lươn này rất lớn, tận dụng được diện tích đất nhỏ trong gia đình để nuôi.
Với sự hướng dẫn của Hội Nông dân huyện Diên Khánh (Khánh Hòa), tổ liên kết nuôi lươn không bùn gồm 6 thành viên (đều là cán bộ hội) đã được thành lập. Anh Trần Như Hổ – Tổ trưởng tổ liên kết nuôi lươn không bùn cho biết: Sau khi vận động đóng góp vốn, chúng tôi đã vào huyện Hóc Môn (TP.HCM) mua giống lươn về nuôi. Tháng 9.2013, chúng tôi đã mua 300kg giống với gần 6.000 con giống về thả nuôi. Vừa nuôi, vừa tìm hiểu các thông tin kỹ thuật để áp dụng, mô hình “nuôi lươn không bùn” của tổ liên kết đạt năng suất rất cao.
Tổ liên kết vừa xuất bán vụ đầu tiên với trọng lượng 1,4 tấn, giá bán thịt giao động từ 120.000 – 140.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí lãi 58 triệu đồng. Ngoài bán thịt, tổ liên kết còn bán giống cho bà con nông dân với 3 loại giá và đem lại nguồn thu ổn định. Hiện tổ liên kết đã tiếp tục thả nuôi lươn được trên 1 tháng tuổi. Lươn đang trong giai đoạn phát triển rất tốt.
Về kỹ thuật nuôi cũng như cách chăm sóc và cho lươn ăn, anh Trần Như Hổ chia sẻ thêm: Mỗi ngày cho lươn ăn 1 lần vào thời gian 5 giờ chiều, thức ăn chủ yếu các loại cá tươi về xay nhuyễn cho lươn ăn, sau khi cho ăn khoảng 2- 3 giờ sau thay nước. Với lươn có trọng lượng 20 con/kg nuôi vào thời tiết không lạnh, khoảng 4 tháng cho thu hoạch và thời tiết lạnh khoảng 4,5 tháng cho thu hoạch, mật độ nuôi 400 con/m2, mức nước đảm bảo 40cm, nhiệt độ để lươn phát triển từ 22 – 27 độ C, phía trên được che độ mát bởi lưới Thái Lan hoặc che bạt và phải ngăn cản được nước mưa, không làm ảnh hưởng đến lươn. Phía dưới hồ nuôi được lát gạch men.
Anh nói : “Lươn nuôi rất đơn giản, nuôi theo mô hình lươn không bùn tiết kiệm nhiều chi phí, dễ quản lý, chăm sóc, nhu cầu tiêu thụ loại lươn này rất lớn, tận dụng được diện tích đất nhỏ trong gia đình để nuôi”. Bí quyết thành công, để đem lại thành công trong mô hình này phải thường xuyên theo giỏi lươn phát triển để có biện pháp cho ăn, chăm sóc. Mô hình này vừa được tập huấn cho nông dân huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa), điểm nghiên cứu cho nhiều sinh viên Trường Đại học Nha Trang và là điểm cung cấp giống cho nhiều địa phương trên địa bàn toàn tỉnh.
Tổ liên kết nuôi lươn bùn vừa mở rộng thêm 10m2 diện tích nuôi lươn. Bên cạnh hệ thống nuôi lươn, tổ liên kết cũng thiết kế ao nuôi cá để tận dụng các thức ăn thừa từ nuôi lươn. Mô hình nuôi lươn không bùn đã góp phần bảo vệ môi trường, tăng thu nhập cho các cán bộ hội viên Hội Nông dân và đặc biệt cung cấp nguồn giống, thịt tin cậy cho các hộ nông dân và các nhà hàng, khách sạn.
Theo Công Tâm (Trang Trại Việt)
Th1201
Hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cây cam sau thu hoạch
1. Đốn tỉa, tạo hình
Sau mỗi mùa thu hái quả, công việc đốn tỉa, tạo hình cho cây cam phải được tiến hành thường xuyên như: cắt bỏ những cành khô, cành bị sâu bệnh, cành tăm, cành vượt, cành xiên vào tán, cành mọc quá dày, cành quá yếu nhằm tạo cho cây thông thoáng, ít sâu bệnh.
2. Chăm sóc, bón phân
* Chăm sóc
– Làm cỏ, xới đất: Thường xuyên làm sạch cỏ quanh gốc theo hình chiếu của tán cây, để hạn chế việc cạnh tranh nước và dinh dưỡng của cỏ dại; ngăn chặn sự trú ngụ, xâm nhập của sâu bệnh. Việc xới đất cần thực hiện hàng năm để giúp đất thông thoáng, cung cấp thêm ôxy cho đất. Gần gốc thì xới nông, giữa các hàng thì xới sâu hơn do rễ của cam quýt mọc yếu và nông gần lớp đất mặt.
– Tưới nước: Cây cam là loại cây ưa ẩm và ít chịu hạn, việc tưới nước cho cây là rất cần thiết ở các thời kỳ nẩy mầm, phân hoá mầm hoa, thời kỳ ra hoa, kết quả và quả phát triển. Đối với mùa khô hạn cần tưới nước cho cây từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Cây cam cũng rất sợ úng, do đó phải thoát nước kịp thời trong mùa mưa lũ. Không để vườn cam bị úng, nhất là giai đoạn khi cây đang có quả.
* Bón phân
– Lượng bón:
Loại phân 4 – 5 năm
(kg/cây) 6 – 7 năm
(kg/cây) Trên 7 năm bón theo năng suất
trên 80 tạ/ha (kg/tấn quả)
Phân hữu cơ 35 – 40 45 – 50 2.000 – 2.500
Phân đạm urê 0,35 – 0,45 0,5 – 0,55 24 – 26
Phân lân 0,9 – 1,2 1,4 – 1,5 70 – 75
Phân kali 0,45 – 0,5 0,55 – 0,65 25 – 30
Vôi bột 0,7 – 0,8 0,8 – 1,0 150 – 250
– Cách bón: Dùng cuốc đào rãnh hoặc cuốc hố theo mép ngoài hình chiếu tán cây, sâu 25 – 30 cm, rộng 20 – 25 cm (tuỳ lượng phân bón) trộn đều các loại phân bón, bón vào rãnh rồi lấp đất ngay.
– Thời gian bón:
+ Lần 1: sau khi thu hoạch quả, bón toàn bộ phân hữu cơ, phân lân, vôi bột và 1/3 phân đạm.
+ Lần 2: trước khi cây ra hoa, bón 1/3 lượng đạm.
+ Lần 3: sau khi cây đậu quả 6 – 8 tuần, bón 1/3 lượng đạm và 1/2 lượng kali.
+ Lần 4: trước khi thu quả 1 – 2 tháng, bón nốt 1/2 lượng phân kali còn lại.
3. Phòng trừ sâu bệnh
Cây cam thường bị một số đối tượng sâu bệnh gây hại như: sâu đục thân, sâu vẽ bùa, nhện, rệp; bệnh ghẻ, bệnh thối quả, bệnh thối gốc, chảy mủ, bệnh loét cam…
Biện pháp phòng trừ hiệu quả nhất là áp dụng quy trình phòng trừ tổng hợp để có vườn cây khỏe, sạch sâu bệnh.
– Cắt tỉa thường xuyên để cành thông thoáng, cắt bỏ những cành mới héo do sâu đục thân tuổi nhỏ gây ra; vệ sinh vườn cây để giảm nguồn lây lan của sâu bệnh.
– Tăng cường chăm sóc bón phân, tưới nước để vườn cây khỏe mạnh. Tỉa cành, bón phân hợp lý, điều khiển cây ra lộc tập trung để dễ theo dõi và phòng trừ sâu bệnh hại.
– Đối với sâu đục thân, đục cành: bắt diệt sâu trưởng thành (xén tóc), dùng dây thép luồn vào lỗ đục diệt sâu non; bơm thuốc Bi58, Monitơ 0,2% vào lỗ đục của sâu.
– Tiêu diệt các loài côn trùng môi giới truyền bệnh như rầy chổng cánh truyền bệnh vàng lá Greening…
– Sử dụng các biện pháp sinh học trong phòng trừ sâu bệnh hại như: sử dụng bẫy bả sinh học, thả nuôi các loài thiên địch có ích (kiến vàng), kết hợp trồng xen với các loài cây không cùng đối tượng sâu hại…
– Khi cây xuất hiện sâu bệnh cần phun các loại thuốc chuyên dùng cho cây ăn quả theo hướng dẫn ghi trên bao bì.
Nguồn nhà nông Việt nam
Th403