Tin tức
Nỗi lo sầu riêng bị nấm bệnh
Nguồn tin: báo Đăk Lăk
Khi chuẩn bị vào mùa thu hoạch thì người trồng sầu riêng lại đang phải đối mặt với tình trạng quả sầu riêng bị nhiễm nấm bệnh, thối quả, thậm chí là chết cả cây.
Thiệt hại nặng nề
Gia đình ông Hà Văn Thuấn (tổ dân phố 9, thị trấn Ea Drăng, huyện Ea H’leo) có 1 ha sầu riêng chuẩn bị thu hoạch năm thứ 3.
Ông cho biết, những năm trước, mưa thuận gió hòa nên vườn cây không bị sâu bệnh hại, năng suất đạt gần 20 tấn quả. Thế nhưng, năm nay, do thời điểm cuối tháng 7 đến đầu tháng 8 mưa liên tục nên vườn sầu riêng nhà ông đã bị nấm bệnh gây thối quả hàng loạt. Mặc dù ông đã phun thuốc, bón phân đúng kỹ thuật nhưng nấm bệnh vẫn phát sinh. Nhìn những quả sầu riêng to 2 – 4 kg đang thời kỳ đóng cơm buộc phải cắt bỏ, chôn lấp xa vườn để tránh lây lan, ông tiếc ngẩn ngơ nói: “Mới phát hiện nấm bệnh mà đã thiệt hại chừng 3 tấn quả”.
Gia đình ông Trịnh Văn Thanh (thôn Ea Chăm, xã Ea Tân, huyện Krông Năng) cũng đang ra sức cứu 2 ha sầu riêng chuẩn bị đến kỳ cắt trái. Chưa kịp mừng vì năm nay sầu riêng được mùa (năng suất ước đạt khoảng 40 tấn quả) mà giá lại cao, thì vợ chồng anh phải nghẹn ngào cắt bỏ khoảng 1/3 số lượng quả trong vườn do nhiễm nấm bệnh.
Anh chia sẻ: Tình trạng nấm quả trên cây sầu riêng xuất hiện từ nhiều năm nay, thế nhưng, những năm trước khoảng đến tháng 9 (trước thời điểm cắt sầu riêng chừng 15 ngày) thì trái mới có biểu hiện bị nấm bệnh. Song, mức độ bệnh nhẹ hơn. Năm nay mưa đến sớm và kéo dài nên hầu hết các vườn sầu riêng trong vùng đều bị nấm bệnh xâm hại, dù có phun thuốc phòng ngừa cũng bị mưa rửa trôi nên không hiệu quả.
Anh Trịnh Văn Thanh (thôn Ea Chăm, xã Ea Tân, huyện Krông Năng) kiểm tra vườn sầu riêng để xử lý nấm bệnh.
Với nhà vườn là vậy, những thương lái đã trót bỏ tiền mua trọn vườn sầu riêng rồi tự chăm sóc cũng không tránh khỏi thực trạng buồn. Anh Lương Văn Hiệp (thôn 8, xã Ea Hiao, huyện Ea H’leo) có kinh nghiệm nhiều năm thu mua sầu riêng hiện cũng đang đứng ngồi không yên. Anh cho hay, năm nay do lượng mưa nhiều nên hầu khắp các vườn sầu riêng trong tỉnh đều bị nấm bệnh tấn công. Bị nặng nhất là ở các huyện Krông Năng, Krông Búk, Cư M’gar, có vườn thiệt hại tới trên 50%, thậm chí chết cả cây. Nấm bệnh này lây lan rất nhanh, nếu không sớm xử lý cắt bỏ trái bị nhiễm thì sẽ lây lan ra cả vườn. Hiện nay anh cũng đang thuê kỹ thuật viên ở miền Tây về xử lý, cứu vãn tình thế với những vườn sầu riêng anh chốt mua non trước đó.
Để phòng ngừa nấm bệnh
Theo ông Lê Đình Chủng, Phó Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Krông Năng, hiện tượng sầu riêng bị thối quả hiện nay là do nhiễm nấm Phytophthora. Loại nấm bệnh này gây hại khi còn tồn tại trong đất, không chỉ với sầu riêng mà hầu hết các cây trồng. Trên sầu riêng thì loài Phytophthora gây hại phổ biến nhất, ngoài ra còn có các loại sâu đục quả, nấm cuống trái… cũng rất nguy hại. Khi gặp điều kiện thuận lợi như mưa nhiều, độ ẩm cao, nấm sẽ phát triển mạnh, lây lan nhanh hơn, nhất là những vườn bị ngập úng kéo dài. Bà con thường hay gọi là bệnh thối rễ, nứt thân, nứt trái, xì mủ, chảy nhựa… đều do nấm Phytophthora gây hại nhưng tùy thuộc vào bộ phận bị tấn công. Chúng có thể gây hại sầu riêng ở giai đoạn vườn ươm đến cây trưởng thành, tấn công mạnh vào rễ, thân, lá, hoa và trái.
Hằng năm, ngành nông nghiệp huyện Krông Năng đã phối hợp với chính quyền các xã, thị trấn thường xuyên tuyên truyền, khuyến cáo người dân không nên phá bỏ diện tích cà phê để chạy đua theo cây sầu riêng; không trồng sầu riêng ở khu vực đất trũng thấp, không phù hợp; sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hợp lý để cây sinh trưởng tốt, tăng sức đề kháng và cho năng suất cao, chất lượng bảo đảm… Cùng với đó, địa phương cũng phối hợp với cơ quan, đơn vị chuyên môn của tỉnh thường xuyên tổ chức tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất, chăn nuôi cho người dân trong huyện. Riêng về cây sầu riêng mỗi năm cũng tập huấn 4 – 5 buổi thu hút hàng nghìn lượt người dân trong huyện tham gia.
Bên trong quả sầu riêng bị nhiễm nấm Phytophthora.
Huyện Krông Năng hiện có 5.700 ha sầu riêng, trong đó có trên 2.000 ha sầu riêng kinh doanh. Những năm trước sâu bệnh hại sầu riêng diễn ra không đáng kể. Riêng năm nay, nấm bệnh Phytophthora bùng phát mạnh và sớm nên thiệt hại lớn cho người dân. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến nay các vườn sầu riêng trong huyện bị thiệt hại từ 20 – 30%. Dự kiến tình hình nấm bệnh trên sẽ còn tăng nữa nếu thời tiết mưa nhiều trong thời gian tới.
Để phòng ngừa nấm Phytophthora cũng như các loại sâu bệnh hại khác, ông Cao Văn Hà, chuyên viên Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Krông Năng khuyến cáo: Trong vườn sầu riêng, người dân cần phát dọn cỏ, lá khô dưới gốc cây, tạo cho đất trồng thông thoáng, tránh tình trạng ngập úng kéo dài; cân bằng dinh dưỡng cho cây trồng, hạn chế phân bón hóa học, tăng cường phân hữu cơ; phun thuốc phòng trừ nấm bệnh định kỳ; quét vôi hoặc dung dịch Bordeaux 1% quanh gốc vào đầu và cuối mùa mưa để hạn chế nấm tấn công từ gốc lên thân. Đối với quả nhiễm nấm thì chỉ còn cách cắt bỏ tránh lây lan. Với thân, cành có vết bệnh thâm đen và chảy nhựa thì nên dùng dao cạo bỏ phần mô bị chết, sau đó bôi thuốc có hoạt chất Mancozeb, Agrifos, Metalaxyl… pha tỷ lệ 1%. Nên bôi thuốc vào lúc trời nắng ráo; sử dụng các loại thuốc đặc trị nấm Phytophthora (pha theo nồng độ khuyến cáo)…
Lê Thành
Th814
Theo dõi để đánh giá tính ổn định năng suất của giống mít sầu riêng
Nguồn tin: báo nông nghiệp
CẦN THƠ Ngành nông nghiệp Cần Thơ khuyến cáo nhà vườn theo dõi, đánh giá năng suất, chất lượng giống mít sầu riêng ít nhất 3 năm, tạo cơ sở đăng ký cây giống đầu dòng.
Gần đây, giống mít độc lạ mang hương vị sầu riêng (mít sầu riêng) do anh Nguyễn Hữu Khang ở phường Tân Lộc, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ lai tạo thành công nhận được sự quan tâm của nhiều nhà vườn, bà con nông dân.
Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP Cần Thơ đánh giá cao sự tìm tòi, nghiên cứu các giống cây trồng mới của anh Nguyễn Hữu Khang, người lai tạo thành công giống mít sầu riêng. Ảnh: Kim Anh.
Mới đây, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP Cần Thơ đã đến thăm, tìm hiểu và động viên anh Khang. Bà Phạm Thị Minh Hiếu, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP Cần Thơ hoan nghênh và đánh giá cao sự tìm tòi, nghiên cứu các giống cây trồng mới của nhà vườn. Việc cho ra đời nhiều sản phẩm độc lạ, chất lượng sẽ góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra giá trị kinh tế tốt cho bà con nông dân.
Qua khảo sát thực tế, ngành trồng trọt TP Cần Thơ đánh giá, giống mít sầu riêng là cây trồng có đặc tính mới, hiện hết thời gian cho trái nhưng các gốc mít sầu riêng vẫn đang sinh trưởng, phát triển tốt, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của địa phương.
Thời điểm này, ngành chức năng chưa đưa ra được đánh giá về năng suất, chất lượng của giống mít sầu riêng. Theo bà Hiếu, đối với các giống cây ăn trái, để đánh giá được quá trình sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng của sản phẩm cần phải theo dõi trong thời gian ít nhất 3 năm kể từ khi cây cho trái. Từ đó, nhà vườn hoặc người lai tạo giống mới có cơ sở thực tiễn đưa ra khuyến cáo nhân rộng loại cây trồng mới này.
“Anh Khang không nên vội vã nhân giống số lượng lớn ở giai đoạn này mà cần đánh giá kỹ các đặc tính trước khi nhân giống”, bà Hiếu khuyến cáo.
Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP Cần Thơ cũng đã chỉ đạo các cán bộ chuyên môn của phường Tân Lộc phối hợp cùng anh Khang theo dõi giống mít sầu riêng. Tạo tiền đề để thời gian tới anh Khang có đủ cơ sở đăng ký và được công nhận cây đầu dòng làm giống đúng theo quy định.
Giống mít sầu riêng cần thời gian ít nhất 3 năm để có những dữ liệu đánh giá tính ổn định về năng suất. Ảnh: Kim Anh.
Ngoài ra, đoàn kiểm tra cũng trao đổi, hướng dẫn anh Khang ghi chép lại các thông tin, số liệu trong quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng, các loại dịch bệnh phát sinh, năng suất và chất lượng trái… Từ đó có những số liệu thống kê chính thống, đăng ký cây đầu dòng đáp ứng được yêu cầu nhân giống và mở rộng vùng trồng.
Yếu tố quan trọng nhất được bà Hiếu chỉ ra là phải đánh giá được năng suất của giống mít sầu riêng. Nếu cây trồng này đảm bảo cho chất lượng cao nhưng năng suất thấp thì khó đủ chi phí để bù lại các khoản đã đầu tư. Do đó, cần thời gian ít nhất 3 năm để có những dữ liệu đánh giá tính ổn định về năng suất của mít sầu riêng.
Đối với bà con nông dân có nhu cầu trồng giống cây mới nói chung, bà Hiếu cũng khuyến cáo cần tìm hiểu thông tin, cân nhắc, xem xét, theo dõi chất lượng một giống cây trồng mới, độc, lạ ít nhất 3 năm trước khi mua về trồng ở quy mô rộng, lớn.
Bởi thực tế với một số giống cây trồng mới xuất hiện trên thị trường, sản phẩm ban đầu sẽ bán được giá cao. Tuy nhiên sau đó vài năm, khi cây trồng đã trở nên phổ biến, được nhiều nhà vườn nhân rộng, giá cả sẽ có chiều hướng sụt giảm. Vì thế, ngoài hiệu quả kinh tế, bà con nông dân cần cân nhắc đến yếu tố thị trường tiêu thụ và đầu ra cho sản phẩm.
Bên ngoài giống mít sầu riêng tương đồng với mít tố nữ, nhưng lại mang hương vị đặc trưng của sầu riêng, thân cây lùn thấp. Ảnh: Kim Anh.
Như Báo Nông nghiệp Việt Nam đã thông tin, giống mít sầu riêng được anh Nguyễn Hữu Khang hỏi mua một số cây giống từ người Đài Loan vào khoảng năm 2021. Sau đó, anh Khang cắt nhánh mang về Việt Nam thực hiện lai tạo.
Nhánh mít sầu riêng được ghép với một số gốc mít khác với số lượng ban đầu khoảng 400 cây, rồi trồng thử nghiệm tại vườn nhà và một số nhà vườn lân cận ở phường Tân Lộc.
Từ những nhánh mít ban đầu đưa về, hiện anh Khang đã lai tạo thành công 3 loại mít sầu riêng có ruột khác nhau là mít sầu riêng ruột hồng, kem và vàng. Mỗi loại sẽ có một hương vị đặc trưng khác nhau. Trong đó, mít sầu riêng ruột vàng được đánh giá là vượt trội, có thịt dày, hột nhỏ, đặc biệt là các múi mít rất giống với cơm của trái sầu riêng.
Đặc điểm bên ngoài, giống mít này tương đồng mít tố nữ, nhưng lại mang hương vị đặc trưng của sầu riêng. Lá mít sầu riêng khá mỏng, dài, tán lá to, trên các nhánh cây có lớp lông bao phủ, thân cây lùn thấp.
Th814
Sức mạnh đáng kinh ngạc và tầm quan trọng của giun đất
Nguồn tin: Báo Nông Nghiệp
Giun đất là loài động vật dễ nhận biết nhất trong lưới thức ăn dưới đất và hóa ra cũng chính là một trong những loài quan trọng nhất với vườn tược.
Giun đất giúp gia tăng quần thể vi sinh vật và hỗ trợ sự phát triển của rễ cây.
Khả năng cao loại giun bạn gặp phải sẽ là một loài thuộc Aporrectodea, Eisenia, hoặc Lumbricus, những cái tên chi lạ lẫm của những loài giun đất quen thuộc nhất trong số 7.000 loài phổ biến ở những khu vườn có đất tốt.
Về mặt kỹ thuật, giun đất là một nhánh của giun, hay còn gọi là lớp giun ít tơ (oligochaetes), và khi phát triển có thể dài từ vài centimet đến cả mét. Chúng gồm cả loài potworm nhỏ và ít quen thuộc (Enchytraeusdoerjesi) được tìm thấy trong đất rừng (những người làm vườn có thể không quen thuộc với potworm trừ khi họ nuôi cá nhiệt đới, loài này rất thích ăn potworm sống).
Potworm nhỏ hơn nhiều so với giun thường thấy ở vườn, chiều dài chỉ từ vài mm đến vài cm; chúng thành công khi thay thế giun đất trong đất rừng axit nơi mà giun đất xa lánh. Nghe có vẻ khó tin, một mẫu (4.000m2) đất vườn tốt chứa từ 2 đến 3 triệu con giun đất (từ 100 đến 500 con trong mỗi mét vuông); từng đó đủ để thực hiện khối lượng công việc của một chiếc máy ủi và thực sự, đội ngũ này có khả năng đáng kinh ngạc – chúng có khả năng di chuyển 18 tấn đất mỗi năm để tìm kiếm thức ăn.
Trong một mẫu (4.000m2) đất rừng, ta có thể tìm thấy khoảng 50.000 người anh em của chúng – một con số lớn, nhưng so sánh ra thì vẫn là nhỏ (so với đất vườn).
Rõ ràng, giun đất không đóng một vai trò lớn trong lưới thức ăn dưới đất của rừng như ở vườn. Những người châu Âu định cư đầu tiên đã vận chuyển nhiều giống giun đất đến bờ biển phía đông của Bắc Mỹ. Những con giun rong ruổi trong các chậu cây và dằn tàu và, ta có thể tưởng tượng, chúng đến như một hành trang quý giá được nâng niu bởi những người làm vườn, những người biết rằng những con giun sẽ rất có giá trị ở “thế giới mới”.
Khi đến đây, chúng di chuyển khắp lục địa trong những bầu đất chứa cây ăn quả và các bầu ươm khác. Chúng phát triển mạnh mẽ. Nơi duy nhất ở Bắc Mỹ mà giun từ châu Âu không phát triển tốt là ở vùng sa mạc ấm áp phía Tây Nam. Một ví dụ là loài giun bò đêm thông thường (Lumbricusterrestris), loài chiếm ưu thế trong đất vườn từ nơi này đến nơi khác, đã đến cùng với người châu Âu. Hoặc là loài giun quế (Eiseniafetida), một loài giun ủ phân thông thường, có nguồn gốc bản địa (mặc dù nó thường được gọi là giun quế Wisconsin); chúng được những người nuôi trùn quế để lấy phân yêu thích (một cách xứng đáng).
Tất cả các loài giun đất có khả năng lan sang các khu vực mới, tồn tại và nhân lên thành những quần thể đông đúc. Cần có hai con giun để tạo ra giun con, mặc dù giun mang cả hai loại cơ quan sinh dục. Mỗi con có một ống chất nhờn để ấp trứng được đặt trong một cái kén nhỏ. Mỗi kén chứa 15 con giun con trở lên, bản thân chúng, khi nở ra, thường sẽ trưởng thành và bắt đầu sinh sản chỉ sau ba hoặc bốn tháng.
Hãy nghĩ tới một số loài giun có thể sống tới 15 năm, sinh sản liên tục, thì số lượng lớn của chúng trong đất là điều dễ hiểu. Giun là một lực lượng hùng hậu trong đất. Charles Darwin, người đã nghiên cứu chúng trong thời gian dài (và thậm chí đã viết một cuốn sách The Formation of Vegetable Mould Through the Action of Worms with Observations on Their Habits (tạm dịch: Sự hình thành của nấm mốc thực vật thông qua hành động của giun với những quan sát về thói quen của chúng), lập luận rằng mỗi hạt đất đều đã đi qua cơ thể giun ít nhất một lần.
Dù ông ta đúng hay sai, vai trò của chúng trong lưới thức ăn dưới đất là rất quan trọng. Chúng tham gia mật thiết vào quá trình băm nhỏ các chất hữu cơ, làm thoáng khí cho đất, kết tụ các hạt đất, và sự di chuyển của các chất hữu cơ và vi sinh vật trong đất. Chúng cũng làm gia tăng quần thể vi sinh vật và hỗ trợ sự phát triển của rễ cây.
Những cái máy ăn
Mặc dù giun đất không có mắt nhưng các tế bào cảm biến trên da của chúng rất nhạy cảm với ánh sáng. Miệng của chúng, hay còn gọi là prostomium, là một miếng thịt trông giống như một cái môi mở rộng; nó, cùng với yết hầu, có rất nhiều cơ, nhưng không có răng.
Giun ăn gì? Chủ yếu là vi khuẩn, đó là lý do tại sao không có gì ngạc nhiên khi đất có nhiều giun thường có vi khuẩn chiếm ưu thế. Các loại thức ăn khác của chúng là nấm, tuyến trùng và động vật nguyên sinh, cũng như các chất hữu cơ nơi mà các vi sinh vật này sinh sống.
Giun ăn như thế nào? Nó bắt đầu bằng cách đẩy họng ra khỏi miệng và sử dụng nó cùng với miệng để lấy thức ăn vào bên trong cơ thể. Thức ăn đi vào và những cơ khỏe mạnh bắt đầu phân nhỏ nó thành các hạt. Nước bọt được trộn lẫn, làm ẩm thức ăn.
Tiếp theo, thức ăn đi từ thực quản của giun tới diều. Từ ngăn chứa này, thức ăn di chuyển đến mề, một khối cơ cực khỏe được lấp đầy một phần bởi cát và các hạt đá nhỏ. Khi mề co lại và giãn ra, thức ăn sẽ được cát nghiền nát, đóng vai trò như “răng” của loại giun không răng này.
Khi thức ăn được nghiền xong, nó sẽ đi đến ruột của giun. Tuy nhiên, ngay trước đó, nó được trộn với một loại canxi cacbonat lỏng. Với danh tiếng của chúng trong việc tái chế chất hữu cơ, thật đáng ngạc nhiên khi nói rằng giun đất thiếu các enzym cần thiết để tiêu hóa chúng, thay vào đó phải dựa vào vi khuẩn.
Tất cả hoạt động nghiền trong mề đảm bảo rằng những thức ăn đến ruột của chúng đủ nhỏ và sẵn sàng cho vi khuẩn sống ở đó nhanh chóng tiêu hóa được. Các chất dinh dưỡng do vi khuẩn tạo ra cuối cùng được hấp thụ vào máu của giun, và bất kỳ chất hữu cơ nào không được tiêu hóa hết sẽ bị loại bỏ. Chất thải này có thể vô ích đối với giun, nhưng đối với một người làm vườn thì đó là chất cải tạo đất tuyệt vời.
Phân của giun là chất cải tạo đất tuyệt vời.
Phân trùn
Phân trùn (tên gọi của phân giun) có hàm lượng chất hữu cơ cao hơn 50% so với đất chưa đi qua giun. Đây là một sự gia tăng đáng kinh ngạc và làm thay đổi hoàn toàn thành phần của đất, làm tăng CEC (khả năng trao đổi ion dương) do bề mặt hữu cơ giữ điện tích lớn hơn hẳn.
Do đó, các chất dinh dưỡng khác có khả năng bám vào chất hữu cơ đã đi qua giun. Lợi ích không dừng lại ở đó. Các enzym tiêu hóa của giun (hay nói đúng hơn là các enzym được tạo ra bởi vi khuẩn trong ruột của giun) mở khóa nhiều liên kết hóa học đáng lẽ sẽ khóa chặt các dinh dưỡng và khiến thực vật không hấp thụ được.
Vì vậy, đất trùn giàu phốt phát gấp bảy lần so với đất chưa đi qua giun. Chúng có gấp mười lần lượng kali có sẵn trong đất; năm lần nitơ; ba lần magiê có thể sử dụng được; và có hàm lượng canxi cao gấp rưỡi (nhờ canxi cacbonat được bổ sung trong quá trình tiêu hóa). Tất cả các chất dinh dưỡng này bám dính với các chất hữu cơ trong viên phân.
Mỗi năm giun có thể tạo ra một lượng đáng kinh ngạc từ 10 đến 15 tấn phân trùn trên một bề mặt rộng một mẫu Anh (hơn 4.000m2). Con số gần như không thể tin được này rõ ràng có ý nghĩa quan trọng đối với những người làm vườn: khả năng tăng lượng chất dinh dưỡng sẵn có mà không cần bón bổ sung và cung cấp hàng tấn phân như vậy khác nào giả kim thuật.
Máy băm siêu hạng
Giun đất được xếp vào loại máy băm. Khi chúng tìm kiếm thức ăn, chúng phá vỡ lớp lá mục trong vườn và trên bãi cỏ, trực tiếp và gián tiếp làm tăng tốc độ phân hủy thực vật lên nhiều lần. Chúng đập vụn lá và các chất hữu cơ khác cho vi khuẩn và nấm tiếp cận tốt hơn với xenlulose (và các loại carbohydrate khác) và lignin (chất không phải carbohydrate) trong chất hữu cơ.
Do đó, giun đất rõ ràng đã tạo điều kiện cho việc tái chế chất dinh dưỡng trở lại cây trồng. Đồng thời, giun cũng có thể thay đổi thành phần của quần xã lưới thức ăn bằng việc cạnh tranh với nấm và vi khuẩn để lấy chất dinh dưỡng, thậm chí ăn cả chúng luôn.
Tầm quan trọng của tác động của giun đất được thể hiện bằng một thực tế đơn giản: lá cây trên nền rừng hoặc trong vườn hoặc bãi cỏ thường cần một tới hai năm để phân hủy nếu không có giun giúp cắt nhỏ, nhưng chỉ cần ba tháng khi có giun.
Ở một số vùng của Hoa Kỳ và Canada, rừng bị xâm lấn bởi giun đất do ngư dân để lại. Những thứ này đã làm thay đổi hoàn toàn môi trường sống của tầng đất mặt, và toàn bộ khu rừng bị ảnh hưởng vì lớp thảm mục bị mục nát nhanh hơn rất nhiều không tốt cho sức khỏe của cây và phần còn lại của lưới thức ăn trong đất.
Kết quả cuối cùng của quá trình băm nhỏ và tiêu hóa của giun là các phần nhỏ rác hữu cơ mà vi sinh vật có thể ăn được. Các quần thể vi sinh vật trong đất cũng được tăng cường do một số vi sinh được trộn lẫn vào phân trùn trong quá trình hình thành và thải bỏ, tạo ra các vùng bao bọc nấm và vi khuẩn.
Với tất cả những lợi ích này, chẳng phải thật lạ lùng sao khi coi người làm vườn là một trong những kẻ săn thù của giun đất?
Đào bới
Giun đất cực kỳ khỏe, điều này cực kỳ cần thiết với lượng công việc đào bới mà chúng vẫn làm. Trong khi đi trong đất để kiếm ăn, giun có thể di chuyển những hòn đá nặng gấp sáu lần trọng lượng của chúng. Đất cung cấp cho chúng độ ẩm, kiểm soát nhiệt độ và bảo vệ chúng khỏi các loài chim và động vật săn mồi khác trên mặt đất.
Các loại giun khác nhau tạo ra các loại đường hào khác nhau, một số là vĩnh viễn và một số khác là tạm thời. Các đường hào tạm thời thường bị bỏ hoang sau khi bị lấp đầy bởi phân và chất thải của giun, rễ cây đâm vào những con đường này, có thể xuyên xuống sâu hơn mức mà thường rễ có thể, đồng thời tiếp cận được chất dinh dưỡng và các vi sinh vật đã giải phóng chính những chất đó.
Một số loại giun đất di chuyển lên xuống trong đất, đôi khi sâu tới khoảng 3,7 mét. Chúng băm nhỏ rác trên bề mặt và kéo một số vào đường hào, nơi sau đó nó sẽ bị phân hủy. Khi làm đường hào, đất từ tầng sâu hơn được bỏ lại trên bề mặt.
Các loài giun đất khác di chuyển theo chiều ngang, hiếm khi rời khỏi lớp đất 15cm trên cùng, mà ngay cả những loài giun đất này cũng phân bố lại các chất hữu cơ trong khoảng cách khoảng một mét, mặc dù ở cùng một tầng đất.
Dù bằng cách nào, hoạt động này cũng tương tự như việc cung cấp thực phẩm đến một khu vực khác của thị trấn và tác động đến toàn bộ cư dân của lưới thức ăn dưới đất. Giun đất cũng di chuyển các vi sinh vật, hoặc gắn liền với cơ thể của chúng hoặc gắn vào lớp vụn mà chúng kéo xuống lòng đất, bắt đầu các cộng đồng vi sinh vật ở nơi trước kia chưa từng có.
Giun đất không chỉ làm tăng độ tơi xốp của đất mà bằng cách phá vỡ và trộn các chất hữu cơ, chúng còn làm tăng khả năng giữ nước của đất. Một lần nữa, hãy nghĩ đến vài triệu con giun đang đào bới trong một mẫu đất vườn tốt tươi.
Các đường rãnh hào của chúng trở thành những con đường quan trọng để thoát nước và lưu thông khí. Và vì có những con giun di chuyển theo chiều dọc và một số khác theo chiều ngang xuyên qua đất, những con đường này có thể đưa nước đến đủ các ngóc ngách dưới lòng đất, cho dù được cây trồng sử dụng ngay lập tức hay được lưu trữ, để hấp thụ sau này.
Muôn loài đều yêu thích giun đất
Ngoài các loài chim, một số ký sinh trùng và ruồi ký sinh, và thỉnh thoảng là động vật có vú (chuột chũi, cá ngư dân – loài cá ưa nhiệt đới), giun đất có rất ít kẻ thù.
Những con chim mà chúng thu hút đến bãi cỏ sẽ ăn chúng, nhưng từ góc độ mạng lưới thức ăn trong đất, không có gì bị mất đi cả. Phân chim không chỉ chứa chất dinh dưỡng và vi sinh vật, mà chân chim còn mang động vật nguyên sinh, và chúng lan khắp nơi khi chim nhảy từ chỗ này sang chỗ khác. Và, thỉnh thoảng, một con chim sẽ thả giun xuống một địa điểm mới (nhưng không phải những con chim tới sớm hơn, chúng luôn bắt được giun).
Nhìn vào lợi ích của giun đất. Giun cắt nhỏ các mảnh vụn để các sinh vật khác có thể dễ dàng tiêu hóa chúng hơn. Giun làm tăng độ tơi xốp, khả năng giữ nước, độ phì nhiêu và lượng chất hữu cơ của đất. Giun phá vỡ đất cứng, tạo đường dẫn cho rễ cây và giúp kết dính các hạt đất với nhau; giun luân chuyển các chất dinh dưỡng và vi sinh đến các vị trí mới khi chúng di chuyển trong đất để tìm kiếm thức ăn.
Với tất cả những lợi ích này, chẳng phải thật lạ lùng sao khi coi người làm vườn là một trong những kẻ săn thù của giun đất?
Xới xáo và các phương pháp đảo đất cơ học khác phá hủy hào rãnh của giun và làm giảm hoặc thậm chí tiêu diệt quần thể giun đất bằng việc cắt chúng thành những mảnh nhỏ không bao giờ tái sinh lại thành giun được nữa. Và người làm vườn sử dụng phân bón hóa học là xát muối vào vết thương theo đúng nghĩa đen: những hóa chất này là muối gây kích ứng với giun và đuổichúng ra khỏi đất vườn.
Một quần thể giun đông đảo là một dấu hiệu rõ ràng của một mạng lưới thức ăn khỏe mạnh. Nó có nghĩa là chất hữu cơ, vi khuẩn, nấm, động vật nguyên sinh và tuyến trùng – tất cả những thứ cần thiết để hỗ trợ một quần thể giun – đều có sẵn. Với những nền tảng này, rất có thể các phần khác của lưới thức ăn trong đất cũng theo đúng trật tự.
Nguồn: Teaming with microbes/Jeff Lowenfels Va Wayne Lewis
Th814
Trồng lúa hữu cơ, mang gạo sạch đến người tiêu dùng
Nguồn tin: Báo Long An
Sau 1 năm tìm tòi, nghiên cứu và thử nghiệm trồng lúa theo hướng hữu cơ, anh Phạm Văn Quốc (SN 1980, ngụ ấp 3, xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) đã thành công bước đầu, cung ứng nguồn gạo sạch cho người tiêu dùng tại huyện Bến Lức, TP.Tân An và TP.HCM.
Anh Phạm Văn Quốc tâm huyết với sản phẩm gạo hữu cơ ST25 mang nhãn hiệu sản phẩm độc quyền Gạo thơm Tín Phát
Từ 3.000m2 lúa được trồng theo hướng hữu cơ ban đầu, hiện nay, anh Quốc tăng diện tích lên 8.000m2 với giống ST25. Anh Quốc còn vận động nông dân trên địa bàn xã Thạnh Đức canh tác theo hướng hữu cơ với diện tích trên 30.000m2. Tháng 12/2021, xã Thạnh Đức tạo điều kiện cho anh Quốc thành lập Hợp tác xã (HTX) Sản xuất – Thương mại và Dịch vụ Nông nghiệp Thuận Phát (ấp 6, xã Thạnh Đức). Hiện HTX có 16 thành viên, vốn điều lệ 300 triệu đồng.
Anh Quốc cho biết: “Nông dân tham gia sản xuất theo hướng hữu cơ đều không sử dụng phân bón, thuốc hóa học, thuốc kích thích tăng trưởng nên hạt gạo giữ nguyên giá trị dinh dưỡng và được kiểm tra bảo đảm an toàn trước khi đưa đến người tiêu dùng. Nông dân tham gia trồng lúa theo hướng hữu cơ đều được bao tiêu sản phẩm với mức giá thu mua tại ruộng 8.000 đồng/kg lúa tươi. Nhờ đó, nông dân có lợi nhuận trên 1,5 triệu đồng/1.000m2, cao nhất lãi 3 triệu đồng, tùy vụ. HTX đã đăng ký nhãn hiệu sản phẩm độc quyền Gạo thơm Tín Phát và đầu tư máy hút chân không để sản phẩm được bảo quản lâu hơn”.
Ngoài các sản phẩm chất lượng cao, chủ lực là gạo ST25, HTX Sản xuất – Thương mại và Dịch vụ Nông nghiệp Thuận Phát còn cung cấp phân bón hữu cơ. Ông Trần Ngọc Thinh (ấp 3, xã Thạnh Đức) chia sẻ: “Tôi trồng 3.000m2 thanh long và ổi nữ hoàng theo hướng hữu cơ. Tôi mua phân bón hữu cơ từ HTX của anh Quốc để bón cho cây trồng. Qua so sánh, tôi thấy nông sản trồng theo hướng hữu cơ bán được giá cao hơn nông sản sử dụng phân bón hóa học”.
Không chỉ đem đến nông sản an toàn cho người tiêu dùng, các thành viên HTX Sản xuất – Thương mại và Dịch vụ Nông nghiệp Thuận Phát còn có điều kiện cải thiện kinh tế gia đình, không lo lắng về đầu ra nông sản, tiết kiệm được thời gian và chi phí sản xuất, góp phần bảo vệ môi trường.
Hiện HTX không ngừng lan tỏa thông điệp sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ đến nông dân trong xã và các địa phương lân cận nhằm mở rộng thị trường sản xuất; nỗ lực đưa nông sản hữu cơ của quê hương ngày càng vươn xa trên thị trường trong và ngoài nước./.
Lê Hạnh
Th814
Vĩnh Long: Hiệu quả mô hình trồng tắc xen cây ăn trái
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Mô hình trồng tắc xen cây ăn trái đem lại hiệu quả, lợi nhuận khá cho nhà vườn.
Với ưu điểm mau cho trái, dễ chăm sóc và ít tốn chi phí, cây tắc được nhiều nhà vườn trồng xen trong các vườn cây ăn trái lâu năm để lấy ngắn nuôi dài. Mô hình này cũng mang lại hiệu quả, lợi nhuận khá cho nhà vườn.
Thời gian qua, nhiều hộ dân đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần cải thiện đời sống. Trong đó, xu hướng trồng cây lấy ngắn nuôi dài ngày càng phổ biến.
Và với những đặc tính dễ trồng, không kén đất, ít sâu bệnh, nhanh cho thu hoạch, trái tắc được thị trường ưa chuộng, cây tắc đã dần trở thành cây trồng cho hiệu quả, đem lại lợi nhuận khá cao cho nhà vườn.
Trồng tắc xen với bưởi trên 5 công đất được hơn 3 năm nay, gia đình chú Lê Văn Muôn (ấp Hiếu Thuận, xã Hòa Bình, huyện Trà Ôn, Vĩnh Long) đã có thu nhập khá. Hiện nay, mỗi tháng chú thu hoạch gần 1 tấn tắc, bán với giá dao động từ 7.000-16.000 đ/kg, thu nhập khoảng 10 triệu đồng/tháng.
Theo chú Muôn, trồng bưởi hơn 3 năm mới cho thu hoạch. Trong thời gian đó, tận dụng khoảng đất trống trên cùng mảnh vườn, giải quyết vấn đề trước mắt, trồng các loại cây cho thu hoạch sớm như xen canh thêm tắc thu hoạch sớm để lấy ngắn nuôi dài.
“Tắc sau khi trồng bén rễ thì chỉ 8 tháng cho bông. Nhưng vụ đầu phải lặt bông hết để dưỡng cho cây cứng cáp, không bị suy khi đeo trái quá sớm.
Tôi thấy cây tắc này dễ hợp thổ nhưỡng, ít tốn công chăm sóc lại không tốn nhiều phân thuốc nên cho lợi nhuận khá. Nhất là khi bưởi giảm giá, hơn 1 năm nay cây tắc lại trở thành thu nhập chính cho gia đình”- chú Muôn chia sẻ.
Đang hái tắc để giao cho thương lái, chị Lê Thị Diễm My- con gái chú Muôn chia sẻ: “Tắc cho trái quanh năm, đều đặn hàng tháng, có thể thu hoạch 100- 200 kg/ngày.
So với trồng cây cam thì trồng tắc khỏe hơn nhiều, không bỏ nhiều vốn mà cây lại nhạy trái. Bên cạnh đó, cũng đỡ tốn công làm cỏ vườn. Lấy công làm lời, trong gia đình thu hoạch tắc hàng ngày nên có lời nhiều hơn”.
Cũng trồng tắc xen vườn sầu riêng, anh Phạm Văn Tân (xã Bình Hòa Phước, huyện Long Hồ) cho biết: Mô hình trồng tắc xen sầu riêng rất hiệu quả và hợp lý, vừa tiết kiệm chi phí trong sản xuất, vừa phát triển kinh tế hộ gia đình.
Trong khi chờ sầu riêng cho trái, cây tắc cho thu nhập trước, góp phần giải quyết chi phí sinh hoạt hàng ngày và đầu tư phân bón, tưới tiêu, chăm sóc cây sầu riêng.
Theo anh Tân, việc thiết kế hệ thống ống tưới tự động, vừa giúp tiết kiệm công sức, vườn cây phát triển tốt, cây tắc sẽ “ăn ké” phân thuốc từ cây sầu riêng nên chỉ cần bón phân, tưới nước hợp lý, cây tắc sẽ phát triển tốt.
Qua đó, tạo điều kiện cho cây có mối quan hệ cộng hưởng cùng phát triển, nâng cao năng suất. “Quan trọng khi trồng tắc là phải thu hái đúng thời điểm, thu hái lúc trái còn nhỏ quá sẽ không đạt năng suất, nếu để to quá, quả chuyển chín thành màu vàng thì giá sẽ rất rẻ hoặc không bán được”- anh Tân cho hay.
Theo anh Lê Văn Núi- Chủ tịch Hội Nông dân xã Hòa Bình (huyện Trà Ôn), đẩy mạnh phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”, hội vận động hội viên, nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thực hiện tốt đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hóa, sản phẩm làm ra đảm bảo sạch, an toàn thực phẩm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, cạnh tranh thị trường trong nước cũng như nước ngoài.
Hội viên nông dân cũng tập trung cải tạo vườn kém hiệu quả; đồng thời chăm sóc tốt vườn cây ăn trái hiện có. Theo đó, nhiều mô hình sản xuất đã đạt được hiệu quả.
“Trong đó, các mô hình trồng xen đã tận dụng được diện tích đất của các vườn để cải thiện kinh tế khi các cây trồng chính chưa đến thời gian cho thu hoạch đã đem lại hiệu quả cho nhà vườn.
Việc chăm sóc các loại cây ngắn ngày này không làm ảnh hưởng đến việc trồng và chăm sóc cây ăn trái chính, ngược lại còn có tác dụng giữ đất, đủ nước, nông dân bớt công làm cỏ cho vườn, còn góp phần giải quyết việc làm và từng bước nâng cao thu nhập cho nông dân”- anh Núi cho hay.
Nhiều nhà vườn cho biết, để việc trồng xen canh hiệu quả, người sản xuất phải cần lưu ý về thổ nhưỡng, đặc tính của từng loại cây ăn trái để có sự lựa chọn phù hợp.
Cùng với đó, cần chú trọng đến việc chọn đối tượng trồng xen canh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cây trồng chính. Ngoài ra, khi trồng xen canh, cần chú ý đến khoảng cách giữa các cây trồng, sự phù hợp giữa cây được trồng xen canh với cây trồng chính, tạo điều kiện cho cây phát triển tốt nhất.
Bài, ảnh: PHƯƠNG THẢO
Th718
Xây dựng chuỗi liên kết bền vững cho trái cây tươi
Nguồn tin: Báo Đồng Nai
Thời gian qua, Đồng Nai tăng mạnh diện tích cây ăn trái. Đặc biệt, tỉnh thuộc tốp đầu cả nước về phát triển diện tích của 2 loại cây ăn trái chủ lực đang đứng đầu danh mục xuất khẩu là chuối và sầu riêng.
Phó chủ tịch UBND tỉnh Võ Văn Phi (thứ 3 từ phải sang) thăm vùng trồng sầu riêng xuất khẩu tại P.Xuân Lập, TP.Long Khánh. Ảnh: B.Nguyên
Tuy nhiên, mặt hàng trái cây tươi mang tính mùa vụ, thời gian bảo quản tự nhiên ngắn nên rủi ro về thị trường cao. Tỉnh cần có chiến lược dài hạn phát triển ngành sản xuất trái cây tươi theo chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ bền vững trên cơ sở minh bạch về nguồn gốc, chất lượng.
* Tăng trưởng nhanh, thiếu bền vững
Tính đến cuối năm 2022, tổng diện tích cây ăn trái của Đồng Nai là 76.650ha, tăng hơn 3,2 ngàn ha so với năm trước, chiếm hơn 45% tổng diện tích cây lâu năm trên địa bàn tỉnh. Nông dân tập trung đầu tư vào một số loại cây ăn trái có giá trị kinh tế, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của địa phương như: xoài, bưởi, thanh long, chôm chôm…
Trong đó, với diện tích gần 14 ngàn ha, Đồng Nai đang đứng đầu cả nước về diện tích trồng chuối. Sầu riêng cũng là cây trồng chủ lực phát triển nhanh về diện tích trong thời gian gần đây. Với hơn 11,3 ngàn ha, Đồng Nai vươn lên đứng đầu khu vực Đông Nam bộ và đứng thứ 4 cả nước về diện tích sầu riêng.
Theo Chủ tịch UBND tỉnh CAO TIẾN DŨNG, Đồng Nai có nhiều lợi thế xây dựng, phát triển ngành Nông nghiệp hiện đại, quy mô lớn. Để khắc phục những điểm yếu còn tồn tại, ngành Nông nghiệp cần xây dựng lại chiến lược phát triển, nhất là ưu tiên xây dựng sàn giao địch nông sản điện tử, đầu tư cho sơ chế, chế biến. |
Tỉnh đã hình thành được những vùng chuyên canh trồng các loại cây ăn trái chủ lực với quy mô lớn, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất và cho năng suất, chất lượng cao. Cây ăn trái vẫn tiếp tục giữ đà tăng trưởng cao cả về diện tích và sản lượng. Trong 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng chuối đạt hơn 90,4 ngàn tấn, tăng hơn 16,6%; sầu riêng đạt gần 12,9 ngàn tấn, tăng hơn 15,3%; bưởi đạt gần 29,3 ngàn tấn, tăng 17,5%…
Trái sầu riêng đang lên ngôi trên thị trường xuất khẩu. Từ đầu vụ đến nay, giá sầu riêng luôn ổn định ở mức cao. Ngay cả thời điểm rộ vụ như hiện nay, sầu riêng đạt chuẩn xuất khẩu bán tại vườn vẫn ở mức từ 45-50 ngàn đồng/kg. Nhờ đó, vụ thu hoạch năm nay, nông dân trồng sầu riêng thu lợi nhuận từ 15-20 ngàn đồng/kg so với mọi năm. Theo Sở NN-PTNT, năm 2023, Đồng Nai xuất khẩu được khoảng 20 ngàn tấn sầu riêng, với giá trị mang lại khoảng 50 triệu USD.
Tuy nhiên, trái cây tươi mang tính mùa vụ, thời gian bảo quản tự nhiên ngắn nên rủi ro lớn. Đây cũng là nguyên nhân trái thanh long từng là mặt hàng xuất khẩu tỷ USD nhưng từ sau đại dịch Covid-19 đến nay, nông dân trồng thanh long liên tục “kêu cứu” vì xuất khẩu khó khăn, nhất là quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Thời gian qua, nông dân trên địa bàn tỉnh đua nhau chặt bỏ cây thanh long, chuyển sang trồng sầu riêng. Và rủi ro có thể sẽ xảy ra với cây sầu riêng và nhiều loại cây ăn trái khác nếu không có chiến lược phát triển lâu dài và bền vững hơn.
* Xây dựng chuỗi liên kết bền vững
Tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn về lĩnh vực nông nghiệp tại Kỳ họp thứ 12, HĐND tỉnh khóa X, đại biểu Phạm Ngọc Hà, Tổ đại biểu HĐND H.Tân Phú đặt vấn đề, Đồng Nai có diện tích cây ăn trái lớn, tình trạng được mùa mất giá thường xuyên xảy ra. Năm 2023, xuất khẩu trái cây tươi tăng trưởng tốt nhưng yêu cầu phải có mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc rõ ràng, nhất là đảm bảo về chất lượng. Đại biểu yêu cầu Sở NN-PTNT cho biết kết quả thực hiện xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, xuất xứ, quy trình sản xuất tập trung nông sản sạch, sản phẩm OCOP (chương trình Mỗi xã một sản phẩm) của tỉnh thời gian qua như thế nào? Các giải pháp trong thời gian tới nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho người dân, doanh nghiệp trong việc tiêu thụ nông sản?
Trả lời ý kiến của đại biểu, Giám đốc Sở NN-PTNT Cao Tiến Sỹ cho biết, tồn tại mang tính cố hữu của nền nông nghiệp Việt Nam nói chung, của Đồng Nai nói riêng là sản xuất còn mang tính manh mún, nhỏ lẻ. Hiện chỉ khoảng 20% diện tích cây trồng trên địa bàn tỉnh sản xuất tập trung và nằm trong các chuỗi liên kết. Còn 80% vẫn sản xuất nhỏ lẻ và hệ lụy là các nhà vườn khó áp dụng khoa học kỹ thuật, khó kiểm soát được quy trình chất lượng và không chuyên nghiệp trong tiếp cận thị trường. Đầu ra của trái cây tươi chủ yếu dựa vào thương lái và tình trạng được mùa, mất giá chủ yếu tập trung ở khu vực này.
Vùng chuyên canh sầu riêng đạt chuẩn VietGAP, được cấp mã số vùng trồng xuất khẩu tại xã Xuân Thiện, H.Thống Nhất. Ảnh: B.Nguyên
Ở tầm vĩ mô, đòi hỏi nhiều chính sách đồng bộ. Tuy nhiên, ở cấp độ địa phương, ngành trồng trọt của tỉnh đã hướng đến giải quyết các vấn đề về thị trường, tổ chức sản xuất tạo điều kiện đảm bảo cuộc sống và thu nhập cho nhà nông.
Đông Nam bộ không có lợi thế về cây lương thực mà là cây ăn trái. Theo đó, Đồng Nai tập trung chuyển đổi sang các loại hình cây ăn trái có giá trị cao; chuyển hướng sản xuất tập trung để đủ sản lượng cung cấp cho thị trường trong nước, xuất khẩu và có điều kiện để ứng dụng khoa học kỹ thuật, giảm giá thành sản xuất.
Hiện ngành Nông nghiệp cùng các địa phương đã xác định quy hoạch được 98 vùng sản xuất nông nghiệp tập trung với diện tích khoảng 19 ngàn ha. Khi có quy hoạch, các địa phương có điều kiện đầu tư hạ tầng như: điện, thủy lợi, giao thông cho các vùng sản xuất tập trung này và tạo điều kiện cho sản xuất bền vững hơn và cũng là điều kiện để kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.
Đồng Nai hiện có 144 chuỗi liên kết, 109 HTX, 529 tổ hợp tác. Các lực lượng này đã đóng vai trò rất quan trọng làm kênh dẫn, cầu nối từ người sản xuất đến tiêu thụ. Thời gian tới, Đồng Nai tập trung xây dựng, phát huy vai trò của các HTX, các chuỗi liên kết để cùng xây dựng ngành hàng, khắc phục được tình trạng được mùa mất giá. Ngoài ra, việc tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật mới giảm được giá thành, tăng được chất lượng cũng như kiểm soát được đầu ra khi tổ chức sản xuất rải vụ hạn chế sự phụ thuộc vào mùa vụ, thời tiết.
Phó chủ tịch HĐND tỉnh HOÀNG THỊ BÍCH HẰNG: Cần triển khai quyết liệt các giải pháp để phát triển nông nghiệp bền vững
Đồng Nai đứng đầu cả nước về diện tích một số cây ăn trái; hình thành được nhiều chuỗi liên kết với diện tích được xây dựng mã số vùng trồng tương đối lớn. Tuy nhiên, các chuỗi liên kết đã hình thành nhưng hoạt động chưa bền vững. Việc kêu gọi, thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp có năng lực về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế.
Qua nhiều đợt tiếp xúc cử tri, đại biểu nhiều lần ghi nhận ý kiến về tình trạng được mùa mất giá. Đề nghị trong thời gian tới, UBND tỉnh có sự chỉ đạo quyết liệt hơn, trọng tâm hơn cho ngành Nông nghiệp, các địa phương triển khai các nhóm giải pháp của ngành để giảm thiệt hại cho nông dân trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh CAO TIẾN SỸ: Đẩy nhanh chuyển đổi số để thị trường nông sản minh bạch, thông suốt
Muốn sản xuất và bán được hàng phải có thông tin thị trường. Nhưng đối với ngành Nông nghiệp, thông tin thị trường hiện chỉ dừng lại ở con số thống kê, chưa đáp ứng kịp thời đối với thị trường nông sản lên xuống hàng ngày. Thị trường nông sản còn tù mù nên chưa tạo sự thông suốt trong lưu thông hàng hóa nông sản.
Để giải quyết vướng mắc này phải gắn với việc thực hiện chuyển đổi số của ngành Nông nghiệp. Bộ NN-PTNT đang thực hiện việc này, cập nhật thông tin nguồn cung, nhu cầu tiêu thụ, từ đó sẽ có công cụ tốt hơn giúp thị trường nông sản minh bạch hơn, thông suốt hơn.
Lê Quyên (ghi)
Bình Nguyên
Th710
Phong Ðiền phát triển bền vững vườn cây ăn trái
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Bài, ảnh: KIM PHÚC
Phong Ðiền là huyện có nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc trưng và có thế mạnh vườn cây ăn trái. Phát triển hiệu quả và bền vững vườn cây ăn trái, huyện xây dựng các mô hình sản xuất theo quy trình VietGAP, Global GAP để hướng đến sản xuất nông nghiệp chất lượng cao. Ðồng thời, chú trọng tìm đầu ra cho hàng nông sản tiếp cận các thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài…
Ký kết tiêu thụ vú sữa của doanh nghiệp và Hợp tác xã Vườn cây ăn trái Trường Khương A.
Nâng giá trị sản phẩm
Phong Ðiền hiện có hơn 8.789ha diện tích cây ăn trái, với nhiều loại có giá trị kinh tế cao như sầu riêng, dâu Hạ Châu, vú sữa, nhãn Ido, chanh không hạt, măng cụt, cam mật… được nhiều người biết đến, tiêu thụ thị trường trong và ngoài nước. Phát huy thế mạnh vườn cây ăn trái, thời gian qua, ngành Nông nghiệp huyện Phong Ðiền tích cực hỗ trợ, khuyến khích nông dân cải tạo vườn tạp, vườn kém hiệu quả sang trồng các loại cây ăn trái ngon, đặc sản để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tính riêng trong nửa đầu năm 2023, nông dân trên địa bàn huyện đã cải tạo được 51ha vườn cây ăn trái và 186ha đất trồng lúa kém hiệu quả, chuyển sang vườn cây ăn trái có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó, huyện thường xuyên phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân.
Phong Ðiền quan tâm, chú trọng việc xây dựng các mô hình sản xuất theo quy trình VietGAP và Global GAP để giúp tăng năng suất, chất lượng, đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp. Huyện đang triển khai 9 mô hình sản xuất theo quy trình VietGAP, trong đó có 8 mô hình VietGAP trên cây ăn trái. Ðến nay toàn huyện có có 23 mô hình sản xuất đạt tiêu chuẩn VietGAP, tổng diện tích 285,8ha, với 422 hộ tham gia; 1 mô hình Global GAP trồng cây vú sữa ở xã Trường Long, diện tích 16,1ha với 12 hộ tham gia. Huyện còn xây dựng mã số vùng trồng cây ăn trái trên địa bàn; hỗ trợ tham gia chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”…
Theo ông Lê Hoàng Thông, Tổ trưởng Tổ hợp tác Sầu riêng Tân Thới, huyện Phong Ðiền, sầu riêng của tổ hợp tác sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP được thành phố công nhận là sản phẩm OCOP đạt 4 sao. Qua đó, sầu riêng Tân Thới được nhiều người tiêu dùng và doanh nghiệp biết đến và ký hợp đồng tiêu thụ. Sắp tới, tổ hợp tác sẽ xây dựng sản phẩm theo tiêu chuẩn Global GAP, chinh phục các thị trường “khó” tính, góp phần nâng cao thu nhập cho bà con.
Ông Phạm Văn Lơ, Giám đốc Hợp tác xã nhãn Ido Nhơn Nghĩa, huyện Phong Ðiền, cho biết: Năm nay, hợp tác xã sản xuất nhãn theo tiêu chuẩn VietGAP, đăng ký mã số vùng trồng để liên kết với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu…
Để đầu ra ổn định
Hằng năm, sản lượng thu hoạch cây ăn trái trên địa bàn huyện Phong Ðiền đạt khoảng 100.000 tấn. Trong đó, dâu Hạ Châu trên 297ha, sản lượng khoảng 4.300 tấn/năm; sầu riêng 3.284ha, sản lượng khoảng 27.200 tấn/năm, nhãn Ido gần 496ha, sản lượng khoảng 4.550 tấn/năm… Trong 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng thu hoạch cây ăn trái của huyện đạt 96.634 tấn, đạt 97,34% kế hoạch năm. Tạo đầu ra ổn định, giúp bà con yên tâm sản xuất, huyện Phong Ðiền đẩy mạnh kết nối tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của địa phương.
Theo đó, huyện đã phối hợp với các sở, ngành hỗ trợ nhà vườn ký kết với các thương lái, doanh nghiệp, chuỗi bán lẻ bao tiêu cây ăn trái. Cuối tháng 3 vừa qua, Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Xuất nhập khẩu Vina T&T đã ký kết với Hợp tác xã Vườn cây ăn trái Trường Khương A tiêu thụ sản phẩm vú sữa. Ông Trần Văn Chiến, Giám đốc Hợp tác xã Vườn cây ăn trái Trường Khương A, huyện Phong Ðiền, chia sẻ: Các cơ quan chức năng hỗ trợ, giúp đỡ hợp tác xã xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, chứng nhận VietGAP, Global GAP góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhờ đó, đầu ra sản phẩm luôn ổn định, ký kết với siêu thị và các công ty xuất nhập khẩu. Hợp tác xã sẽ tiếp tục ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để mang sản phẩm chất lượng ra thị trường…
Bắt kịp xu hướng thương mại điện tử, Phong Ðiền thúc đẩy phát triển kinh tế số nông nghiệp, giúp nông dân, hộ sản xuất nông nghiệp và các hợp tác xã, tổ hợp tác quảng bá, giới thiệu qua các sàn thương mại điện tử. Ðây cũng là cầu nối trung gian đưa các loại trái cây đặc sản của Phong Ðiền đến thị trường trong và ngoài nước. Huyện cũng tổ chức các lễ hội, hội chợ nhằm quảng bá, giới thiệu các loại trái cây đặc sản, chất lượng cao do nông dân Phong Ðiền sản xuất. Ðồng thời giúp nhà nông có điều kiện tiếp cận thị trường, tiêu thụ nông sản, nâng cao thu nhập, thu hút khách đến tham quan, thưởng thức các loại trái cây Phong Ðiền… Mới đây, UBND huyện Phong Ðiền tổ chức Hội chợ trái cây nhà nông lần thứ 2 với 45 gian hàng, có sự tham gia của các hợp tác xã, tổ hợp tác và nông dân trên địa bàn huyện sản xuất trái cây theo hướng VietGAP. Qua 4 ngày diễn ra hội chợ (từ ngày 21 đến 24-6-2023), đã tiêu thụ 12 tấn trái cây với doanh thu khoảng 300 triệu đồng.
Ðể phát triển bền vững cây ăn trái, nâng giá trị và thu nhập của nông dân, ông Nguyễn Văn Thắng, Phó Chủ tịch UBND huyện Phong Ðiền, cho biết: Huyện quan tâm xây dựng vùng chuyên canh sản xuất cây ăn trái tập trung để thuận tiện ứng dụng khoa học và kỹ thuật nhằm nâng cao giá trị sản phẩm. Ðồng thời, chỉ đạo ngành Nông nghiệp huyện thường xuyên theo dõi dịch bệnh trên cây trồng, hướng dẫn nông dân cách chăm sóc cây ăn trái; củng cố các hợp tác xã, tổ hợp tác trong sản xuất cây ăn trái. Ðẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động bà con nông dân sản xuất theo đúng quy trình, tiêu chuẩn đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Huyện chú trọng kết nối, hỗ trợ nhà vườn ký kết với các công ty, doanh nghiệp, đơn vị thu mua để bao tiêu trái cây, tạo đầu ra ổn định cho cây ăn trái…
Th708
Giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững ở Đà Lạt
Nguồn tin: báo Lâm Đồng
Nông nghiệp Đà Lạt với nhiều giải pháp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông minh, từng bước hoàn chỉnh và nhân rộng quy trình sản xuất hữu cơ, tuần hoàn, đã tập trung xây dựng các vùng cây trồng chủ lực phát triển bền vững theo quy hoạch.
Giá trị thu nhập bình quân cây hoa Đà Lạt hiện đạt 970 triệu đồng/ha/năm
ĐẠT VÀ VƯỢT PHẦN LỚN CÁC CHỈ TIÊU
Thống kê trong năm vừa qua, toàn TP Đà Lạt sản xuất theo quy hoạch 1.900 ha rau tại các Phường 7, 8, 9, 11, 12, xã Xuân Thọ; 480 ha chè xã Xuân Trường và xã Trạm Hành; gần 3.950 ha cà phê ở các xã Xuân Trường, Trạm Hành, Xuân Thọ và Tà Nung. Riêng làng hoa Vạn Thành, Phường 5 và làng hoa Xuân Thành, xã Xuân Thọ sản xuất theo quy hoạch với quy mô lần lượt 27 ha và hơn 20 ha gắn với bảo tồn làng nghề truyền thống kết hợp với dịch vụ, du lịch.
Đáng kể, toàn TP Đà Lạt đã xây dựng 7 mô hình cải tạo chất lượng cây giống khoai lang mật; 5 mô hình nông nghiệp thông minh; 3 mô hình dâu tây công nghệ cao; 1 mô hình trồng ớt ngọt trên giá thể; 3 mô hình trồng cây trà hoa vàng… Đến nay, toàn TP Đà Lạt đạt 60 ha canh tác rau, hoa, cây ăn quả ứng dụng công nghệ cảm biến tự động đo nhiệt độ, độ ẩm, CO2, cường độ ánh sáng từ Israel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ; áp dụng công nghệ canh tác thủy canh, khí canh (30 ha), công nghệ IoT (300 ha)…
Kết quả, toàn TP Đà Lạt đều đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu phát triển nông nghiệp toàn diện, hiện đại, bền vững. Theo đó, tổng diện tích canh tác cây trồng các loại tương ứng với sản lượng đối với hoa (5.926 ha, 2,4 tỷ cành); rau (10.548 ha, 441.961 tấn); chè (236,8 ha, 3.032 tấn); cà phê (5.156,6 ha, 9.660 tấn nhân); dâu tây 160 ha, trong đó 140 ha sử dụng giống mới, canh tác trong nhà kính, tưới nước, bón phân qua hệ thống tưới nhỏ giọt… Tỷ lệ nông sản được tiêu thụ thông qua các hình thức liên kết và thông qua hợp đồng đạt trên 48%/tổng sản lượng. Giá trị thu nhập bình quân cây hoa đạt 970 triệu đồng/ha/năm; đặc biệt, một số mô hình canh tác hoa lily, địa lan thu nhập từ 2,5 – 3 tỷ đồng/ha/năm; cây rau đạt 830 triệu đồng/ha/năm; dâu tây đạt 3 – 4 tỷ đồng/ha/năm…
Tính chung, tổng diện tích sản xuất nông nghiệp công nghệ cao toàn TP Đà Lạt đạt 7.050 ha, tăng 100 ha so với cùng kỳ năm trước, chiếm trên 65% diện tích đất canh tác. Trong đó, diện tích rau, hoa và cây đặc sản ứng dụng công nghệ cao 5.009 ha (rau: 2.773 ha, dâu tây: 140 ha, atisô: 110 ha; hoa 1.986 ha); diện tích cây chè 230 ha; cà phê 1.811 ha. Riêng diện tích rau sản xuất theo quy trình Chứng nhận VietGAP 1.020 ha; cây hàng năm áp dụng công nghệ tưới tự động, tưới nhỏ giọt đạt 95% trên tổng diện tích đất canh tác. Ngoài ra, ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất giống cây trồng với 48 cơ sở nuôi cấy mô thực vật, sản lượng 31,8 triệu cây giống các loại phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu. Hiện nay, TP Đà Lạt có 2 làng hoa Vạn Thành và Thái Phiên được công nhận vùng nông nghiệp công nghệ cao. Bên cạnh đó còn có các đơn vị được công nhận doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao với tổng quy mô 374,1 ha gồm: Công ty Cổ phần CNSH Rừng Hoa Đà Lạt; Công ty TNHH Dalat Hasfarm; Công ty TNHH Đà Lạt G.A.P; Công ty TNHH Trang trại Langbiang; Công ty TNHH Sinh Học Sạch; Công ty TNHH Công nghệ sinh học F1; Công ty TNHH Quang Nguyên Đà Lạt. Và 2 đơn vị được cấp Giấy chứng nhận sản xuất theo quy trình hữu cơ là Công ty TNHH Liên doanh Organik Đà Lạt 4,5 ha, Chi nhánh Công ty TNHH trồng trọt thương mại Kim Bằng 1 ha.
Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại Đà Lạt. Ảnh: Văn Báu
HOÀN THIỆN CHUỖI GIÁ TRỊ CÁC SẢN PHẨM LỢI THẾ CẠNH TRANH
Đến nay, TP Đà Lạt có 62 chuỗi liên kết giá trị từ sản xuất, sơ chế, chế biến đến tiêu thụ giữa các doanh nghiệp với hợp tác xã và 2.264 các hộ nông dân, quy mô diện tích 2.319 ha, chiếm 22,1% diện tích canh tác. Cụ thể gồm 39 chuỗi liên kết với 1.232 ha rau, sản lượng 117.009 tấn; 8 chuỗi liên kết với 107 ha hoa, sản lượng 102 triệu cành; 7 chuỗi liên kết với 805 ha cà phê, sản lượng 2.310 tấn; 4 chuỗi liên kết với 144 ha chè, sản lượng 1.146 tấn…
Mục tiêu trong những năm tới gắn chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao với xây dựng Đà Lạt trở thành thành phố thông minh, tập trung nghiên cứu, chuyển giao công nghệ số trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người nông dân. Đồng thời, tiếp tục phát triển nông nghiệp thông minh, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn đối với các sản phẩm chủ lực như rau, hoa, chè, cà phê, cây đặc sản, dược liệu; xây dựng Mô hình Làng đô thị xanh tại xã Xuân Thọ. Đặc biệt, “tập trung hoàn thiện chuỗi giá trị các sản phẩm lợi thế cạnh tranh trên thị trường như: rau, hoa, chè, cà phê, đặc sản, dược liệu; mở rộng liên kết sản xuất theo tiêu chí doanh nghiệp là nòng cốt, kinh tế tập thể, hợp tác xã là trung tâm, nông dân là chủ thể…”.
VĂN VIỆT
Th708
Hợp tác xã cây ăn quả Tân Mỹ: Cung cấp sản phẩm sạch, hướng tới xuất khẩu
Nguồn tin: báo Bình Dương
Với sản phẩm chủ lực là bưởi, Hợp tác xã (HTX) Cây ăn quả Tân Mỹ (xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên) do anh Lê Minh Sang làm giám đốc là một trong những mô hình kinh tế tập thể hiệu quả và điển hình của tỉnh.
Từ nguồn vốn vay hỗ trợ, HTX Cây ăn quả Tân Mỹ có điều kiện đầu tư máy rửa bưởi tự động
Theo anh Lê Minh Sang, năm 2006 anh bắt đầu trồng bưởi với diện tích 10 ha, đến năm 2013, sản phẩm bưởi của anh bắt đầu vào siêu thị. Cũng vào thời điểm này, Nhà nước có chủ trương mỗi xã phải có một đơn vị kinh tế hợp tác. Anh Sang và nhiều nông hộ xung quanh thành lập tổ hợp tác đầu tiên ở địa phương. Được chính quyền địa phương hỗ trợ từ thủ tục pháp lý đến phương hướng hoạt động, năm 2015, HTX Cây ăn quả Tân Mỹ chính thức ra đời với 7 thành viên.
Học hỏi kinh nghiệm từ các đơn vị bạn, tích cực tìm kiếm thị trường và mạnh dạn áp dụng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP cùng sự hỗ trợ của các ngành, các cấp, HTX Cây ăn quả Tân Mỹ không những duy trì hoạt động mà còn gắn kết được với doanh nghiệp, sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả. Đến nay, HTX Cây ăn quả Tân Mỹ có 22 thành viên, với tổng diện tích trên 60 ha, trồng các loại bưởi da xanh, bưởi đường lá cam, các loại cam và dưa lưới. Tổng sản lượng sản xuất trên 300 tấn/ năm, lợi nhuận bình quân hàng năm đạt 15 tỷ đồng/năm. Tạo việc làm cho các thành viên và khoảng 20 lao động, thu nhập bình quân của thành viên và người lao động từ 8-10 triệu đồng/tháng/người.
Anh Lê Minh Sang cho biết từ khi thành lập cho đến nay, HTX luôn nhận được nhiều chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để phát triển. HTX đã tham gia đề án hỗ trợ xây dựng HTX sản xuất, kinh doanh gắn với chuỗi giá trị, giúp giảm chi phí đầu tư 18-22%. Anh Sang cho rằng để tiếp cận nguồn vốn vay, nông dân phải có phương án kinh doanh hiệu quả, đây là bài toán khó với các nông hộ nhỏ lẻ. Thông qua HTX, việc tổ chức sản xuất theo phương thức hợp tác sẽ giúp các thành viên giải quyết nhu cầu vốn từ chính sách hỗ trợ tốt hơn.
Bên cạnh đó, Chi cục Phát triển nông thôn tổ chức lớp đào tạo, tập huấn ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mặt khác, với sự hướng dẫn của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật về quy trình áp dụng thực hành nông nghiệp tốt VietGAP, tập huấn quản lý dịch hại, giúp giảm tối đa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, bảo đảm nông sản an toàn để cung cấp cho thị trường nội địa và xuất khẩu.
Có thể thấy, hiệu quả từ chính sách đúng, HTX Cây ăn quả Tân Mỹ đã mạnh dạn đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp. HTX đã xây dựng và đăng ký nhãn mác, sử dụng tem điện tử mã cod QR để truy xuất nguồn gốc. Với những nỗ lực đó, hiện nay sản phẩm của HTX được khách hàng trong và ngoài tỉnh tin dùng. Ngoài thị trường trong nước, sản phẩm bưởi của HTX còn đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc và Singapore.
PHƯƠNG ANH
Th703
Chanh không hạt Trà Vinh chinh phục châu Âu
Nguồn tin: báo Nông Nghiệp
TRÀ VINH Hợp tác xã trồng chanh không hạt tại Trà Vinh góp phần cải thiện cho đời sống người dân địa phương thông qua việc mở rộng xuất khẩu sang thị trường châu Âu.
Chanh không hạt trồng giúp nhiều nông dân Trà Vinh cải thiện kinh tế. Ảnh: Hồ Thảo.
Khi đặt chân đến xã Huyền Hội, huyện Càng Long, chúng tôi không thể bỏ qua cảnh vườn chanh xanh mướt, trĩu quả bên những ngôi nhà mới khang trang của người dân. Theo lời kể trước kia trồng lúa và dừa từng là hoạt động chủ yếu của cư dân địa phương, nhưng lại không mang lại lợi nhuận đáng kể. Điều này đã thúc đẩy họ tìm kiếm giải pháp mới và cây chanh không hạt đã nổi lên như một lựa chọn vượt trội.
Ông Phan Đức Tài, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) trồng chanh không hạt Thành Trí, là người tiên phong trong việc trồng loại cây này. Ông đã nghiên cứu rất kỹ về chanh không hạt và khám phá cơ hội xuất khẩu sang châu Âu. Qua việc canh tác tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, HTX trồng chanh không hạt Thành Trí đã thiết lập mối liên kết giữa các nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu. HTX đã ký hợp đồng xuất khẩu chanh không hạt với một công ty ở Hà Lan, thị trường quan trọng của châu Âu, với số lượng hàng hóa lên đến 100 tấn mỗi năm.
HTX trồng chanh không hạt Thành Trí tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế GlobalGAP và các nông dân tham gia HTX được hưởng giá từ 10 nghìn đồng trở lên cho mỗi kg chanh. Hơn nữa, họ còn được hưởng ưu đãi khi mua phân bón và thuốc trừ sâu với giá ưu đãi, không qua trung gian.
Ông Phan Đức Tài cho hay: “Chanh không hạt có quả tạo thành chùm, vỏ mỏng, nước ít chua hơn và không có vị đắng. Chanh không hạt được sử dụng làm nước giải khát có mùi thơm ngon và tác dụng giải nhiệt tuyệt vời, do đó, thị trường rất ưa chuộng. Để nâng cao hiệu suất kinh doanh, HTX đang có kế hoạch mở rộng hoạt động kinh tế bằng cách kết hợp mô hình vườn, ao, chuồng. Bên cạnh đó, chúng tôi đã hợp tác với các doanh nghiệp lớn để mở rộng hoạt động trồng đậu bắp và đu đủ, nhằm tạo thêm nguồn thu nhập cho các thành viên trong HTX”.
Sự thành công của HTX trồng chanh không hạt Thành Trí đã truyền cảm hứng cho những nông dân khác. Gần đây, nhiều hộ gia đình tại xã Huyền Hội đã chuyển từ trồng dừa sang trồng cây chanh không hạt. Một trong số đó là ông Nguyễn Văn Danh ở ấp Sóc, người đã mua giống từ HTX và trồng trên một diện tích 4.000m2 đất nhà.
Ông Danh cho biết, cây chanh không hạt chỉ cần chăm sóc đúng cách khoảng 17 tháng bắt đầu cho trái, kỹ thuật trồng cũng đơn giản hơn so với loại cây khác. Giá bán ổn định từ 20 – 30 nghìn đồng/kg vào những tháng cao điểm, trong khi thời điểm giá rẻ cũng từ 15 – 20 nghìn đồng/kg. Hai tuần, ông có thể thu hoạch một lần và thu nhập hàng năm của ông đạt khoảng 400 triệu đồng từ 4 công đất trồng chanh (1 công = 1.000m2). Trồng chanh chỉ khó nhất là thu hoạch, phải thuê nhân công hái trái với giá 200 nghìn đồng/người/ngày.
Sự thành công của việc trồng cây chanh không hạt tại xã Huyền Hội, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh, là một ví dụ điển hình về sự sáng tạo và tận dụng cơ hội của người nông dân Việt Nam. Thông qua việc hợp tác, tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế và mở rộng thị trường xuất khẩu, họ đã đạt được thành công và tạo ra lợi ích kinh tế cho cộng đồng. Câu chuyện này không chỉ chứng minh tiềm năng phát triển của nông nghiệp Việt Nam mà còn đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Chanh không hạt được HTX thu mua với giá ổn định từ 10 nghìn đồng/kg trở lên. Ảnh: Hồ Thảo.
Ông Nguyễn Thanh Tùng, một cán bộ nông nghiệp tại xã Huyền Hội, cũng chia sẻ rằng HTX ban đầu đã gặp khó khăn tài chính và may mắn nhận được sự hỗ trợ từ UBND xã với khoản tiền là 30 triệu đồng. Điều này đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của HTX. Hiện nay, thị trường chính của HTX là châu Âu, và thành công này đã làm tăng số lượng thành viên của HTX trồng chanh không hạt Thành Trí từ 10 hộ ban đầu lên trên 100 hộ.
Đồng thời, diện tích trồng cây đã được mở rộng và cơ hội việc làm mới đã được tạo ra cho người lao động trong địa phương. Mô hình trồng chanh thành công không chỉ mang lại thu nhập cao cho nhiều hộ gia đình mà còn đóng góp vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Nông dân trong khu vực đã chứng tỏ khả năng thích nghi với những thay đổi và tận dụng những cơ hội mới để cải thiện cuộc sống của mình. Qua việc mở rộng xuất khẩu sang châu Âu, chanh không hạt Trà Vinh đã khẳng định được chất lượng và uy tín trên thị trường quốc tế.
Th818