Tin tức
World Bank đặt vấn đề mua thêm 1 triệu tín chỉ các bon
Nguồn tin : Báo nông nghiệp
Lượng tín chỉ mua thêm nằm trong 5,9 triệu tín chỉ vượt trội mà Việt Nam đã thực hiện tại khu vực Bắc Trung bộ, trong giai đoạn từ năm 2018 đến 2019.
Ngân hàng Thế giới (World Bank) xác nhận đã chi trả đầy đủ 51,5 triệu USD cho Việt Nam vì các kết quả giảm phát thải đã được xác minh (tín chỉ các bon) do hạn chế được mất rừng và suy thoái rừng (thường được gọi là REDD+) và tăng cường lưu trữ các bon thông qua trồng và tái tạo rừng.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở khu vực Đông Á Thái Bình Dương nhận được khoản thanh toán dựa trên kết quả giảm phát thải từ Quỹ Đối tác Các bon Lâm nghiệp (FCPF) của World Bank.
Khoản chi trả này đã được chuyển do Việt Nam giảm được 10,3 triệu tấn phát thải các bon trong giai đoạn từ ngày 1/2/2018 đến 31/12/2019. Theo World Bank, đây là khoản chi trả đơn lẻ lớn nhất từ Quỹ FCPF cho các tín chỉ các bon.
Dự kiến khoản tiền này sẽ mang lại lợi ích cho hơn 70.000 chủ rừng và gần 1.500 cộng đồng sống gần rừng, được chia theo kế hoạch chia sẻ lợi ích rộng rãi được xây dựng qua quá trình tham vấn minh bạch với nhiều bên tham gia.
Trên cơ sở những kết quả đạt được, World Bank đã thông báo cho Việt Nam việc thực hiện quyền mua thêm 1 triệu tín chỉ các bon, ngoài số lượng hợp đồng đã thanh toán.
Nguyên nhân là do chương trình thực hiện tại vùng dự án đã tạo ra 16,2 triệu tín chỉ các bon trong giai đoạn 2018 – 2019, cao hơn 5,9 triệu so với khối lượng 10,3 triệu trong thỏa thuận chi trả giảm phát thải mà Việt Nam đã ký với Quỹ FCPF.
Việt Nam có thể bán số lượng tín chỉ các bon vượt trội này cho bên thứ ba thông qua các hiệp định song phương hoặc thị trường các bon. Một phương án khác, là Việt Nam sử dụng các kết quả giảm phát thải vượt trội này cho Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), hoặc giữ lại cho các mục tiêu về khí hậu.
Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia World Bank tại Việt Nam cho biết: “Khoản chi trả mang tính bước ngoặt này đánh dấu một bước nữa để Việt Nam tham gia thị trường tín chỉ các bon toàn cầu và mở ra một cơ hội mới để tài trợ cho các cam kết và mục tiêu khí hậu đầy tham vọng của quốc gia”.
Thống kê của Quỹ FCPF cho thấy, chương trình giảm phát thải của Việt Nam đã bao phủ 3,1 triệu trong số 5,1 triệu ha đất trong khu vực thực hiện chương trình.
Những khu rừng này có tầm quan trọng về sinh thái, bao gồm 5 hành lang bảo tồn đã được quốc tế công nhận. Khu vực này cũng là nơi sinh sống của 12% dân số Việt Nam, bao gồm 13 nhóm dân tộc thiểu số và nhiều cộng đồng sinh sống phụ thuộc vào rừng và gần một phần ba dân số trong khu vực sống dưới mức nghèo của quốc gia.
Thông qua việc cải thiện quản lý rừng, đầu tư vào lĩnh vực lâm nghiệp và tăng cường các chính sách nông nghiệp, chương trình giúp tăng cả phạm vi và chất lượng che phủ rừng với sự hợp tác của cộng đồng địa phương.
Được thành lập năm 2008, Quỹ FCPF đã hỗ trợ cho nhiều chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức xã hội dân sự và các tổ chức của người bản địa tập trung vào việc giảm phát thải do mất rừng và suy thoái rừng, bảo tồn trữ lượng các bon rừng, quản lý rừng bền vững và tăng cường trữ lượng các-bon rừng ở các nước đang phát triển.
Nhóm hoạt động này, thường được gọi là REDD+, đã được Quỹ FCPF triển khai tại 47 quốc gia đang phát triển tại châu Phi, châu Á, Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, cùng 17 nhà tài trợ đã đóng góp và cam kết với tổng trị giá 1,3 tỷ USD.
Việt Nam có tiềm năng lớn về thị trường các bon cũng như khai thác các giá trị về đa dạng sinh học. Một trong số đó là rừng ngập mặn thuộc Vườn quốc gia Xuân Thủy, tỉnh Nam Định.
So với rừng trên cạn, rừng ngập mặn có khả năng hấp thụ các bon cao gấp 4 lần. Không những vậy, vùng đất ngập nước này còn nằm trên đường bay của chim di cư từ phương Bắc. Từ khoảng tháng 10 đến tháng 4 hàng năm, nhiều loài chim quý hiếm như cò mỏ thìa, rẽ mỏ thìa, cò trắng Trung Quốc… lại tìm đến vùng đất nằm trên huyện Giao Thủy.
Vườn quốc gia Xuân Thủy có hơn 10 kiểu sinh cảnh, nhưng có giá trị đa dạng sinh học cao nhất là các bãi bồi và rừng ngập mặn tự nhiên.
Th326
30 lô hàng sầu riêng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc nhiễm cadimi vượt ngưỡng
Nguồn tin: báo tuổi trẻ
Tổng cục Hải quan Trung Quốc cảnh báo và yêu cầu điều tra nguyên nhân 30 lô hàng sầu riêng Việt Nam xuất khẩu sang nước này nhiễm cadimi vượt ngưỡng quy định.
Trao đổi với Tuổi Trẻ Online, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) Huỳnh Tấn Đạt xác nhận đơn vị vừa có công văn gửi một số địa phương, các doanh nghiệp và các chi cục kiểm dịch thực vật về việc truy xuất các lô hàng sầu riêng xuất khẩu sang Trung Quốc.
Theo công văn ngày 18-3, Cục Bảo vệ thực vật đã nhận được thông tin cảnh báo từ Vụ Kiểm dịch động – thực vật, Tổng cục Hải quan Trung Quốc về việc 30 lô hàng sầu riêng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc bị nhiễm kim loại nặng cadimi vượt mức giới hạn quy định an toàn thực phẩm của Trung Quốc.
Theo yêu cầu của Tổng cục Hải quan Trung Quốc và quy định của Việt Nam về truy xuất an toàn thực phẩm đối với các lô hàng bị cảnh báo, Cục Bảo vệ thực vật đề nghị 30 doanh nghiệp vi phạm phải tuân thủ các nội dung quy định tại thông tư số 17-2021 về truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Tổ chức thực hiện các hành động khắc phục và áp dụng các biện pháp ngăn chặn tránh tái diễn vi phạm và gửi báo cáo kết quả thực hiện truy xuất và các biện pháp khắc phục về Cục Bảo vệ thực vật trước ngày 1-4.
Cục Bảo vệ thực vật cũng đề nghị Sở An toàn thực phẩm TP.HCM và sở nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh Tiền Giang, Lạng Sơn, Đồng Nai, Đắk Lắk, TP Hà Nội chỉ đạo cơ quan chuyên môn đôn đốc, giám sát các doanh nghiệp nêu trong danh sách thực hiện truy xuất các lô hàng bị cảnh báo.
Thẩm tra báo cáo về nguyên nhân lô hàng bị cảnh báo và biện pháp khắc phục của doanh nghiệp.
Rà soát điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có lô hàng bị cảnh báo theo quy định của pháp luật và gửi kết quả kèm theo hồ sơ liên quan về Cục Bảo vệ thực vật để có cơ sở phản hồi tới Tổng cục Hải quan Trung Quốc trước ngày 3-4, tránh việc nước nhập khẩu có các kết luận ảnh hưởng tới xuất khẩu nông sản.
Nhiều lô hàng sầu riêng không đáp ứng đúng theo yêu cầu
Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng Việt Nam sang Trung Quốc đạt hơn 2 tỉ USD nhưng nước này cũng cảnh báo nhiều lô hàng sầu riêng vẫn còn sinh vật gây hại, chưa được làm sạch sâu bệnh, không đáp ứng đúng theo yêu cầu của nghị định thư đã ký.
Sau đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải tổ chức hội nghị để chấn chỉnh vấn đề vi phạm quy định trong xuất khẩu trái cây nói chung và sầu riêng nói riêng.
Chí Tuệ
Th318
Trung Quốc sử dụng công nghệ cải tiến nhân giống sinh học, giống cây trồng
Nguồn tin: báo nông nghiệp
Trung Quốc đẩy mạnh ngành công nghiệp nhân giống sinh học thông qua các phương pháp khoa học công nghệ vào các sản phẩm nông nghiệp, mang lại ổn định cho nước này.
Trung Quốc đẩy mạnh ngành công nghiệp nhân giống sinh học thông qua các phương pháp khoa học và công nghệ, đóng góp to lớn vào nguồn cung ngũ cốc và các sản phẩm nông nghiệp quan trọng khác, mang lại ổn định cho đất nước.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc kiên quyết thúc đẩy quá trình hồi sinh ngành hạt giống và đạt được một số bước đột phá.
Theo số liệu thống kê mới nhất của Bộ Nông nghiệp và Nông thôn cùng Viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, quốc gia này đã độc lập nhân giống ba giống gà thịt lông trắng mới, qua đó chấm dứt sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Thị phần của những giống mới này đạt 25,1% vào năm 2023 và chúng được xuất khẩu ra nước ngoài lần đầu tiên vào năm ngoái.
Trung Quốc năm ngoái cũng đã trồng thành công giống cải dầu mới với thời gian sinh trưởng chỉ 169 ngày. Chu kỳ tăng trưởng ngắn này cho phép nông dân tận dụng triệt để các cánh đồng bỏ hoang mùa đông ở miền Nam Trung Quốc bằng cách trồng cải dầu mà không làm trì hoãn việc trồng lúa đầu vụ vào năm sau.
Ngoài ra, Trung Quốc đã thiết lập một hệ thống nghiên cứu và phát triển nhân giống sinh học độc lập, hoàn chỉnh, đồng thời bảo đảm quyền sở hữu công nghệ độc lập và các công nghệ cốt lõi liên quan đến các gen và đặc tính di truyền quan trọng, như khả năng kháng côn trùng, khả năng chịu thuốc diệt cỏ, khả năng chịu hạn, chịu mặn và chất lượng hấp thụ dinh dưỡng được cải thiện.
Theo Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc, gần đây, 37 giống ngô biến đổi gen và 14 giống đậu nành biến đổi gen của nước này đã vượt qua kiểm tra sơ bộ. Đây là bước đi tiên phong trong công nghiệp hóa chăn nuôi sinh học.
Những cây trồng biến đổi gen này cho thấy cả đặc tính kháng thuốc diệt cỏ và kháng côn trùng vượt trội. Ngoài ra, sản lượng của chúng cũng tăng 10%, chứng tỏ tiềm năng phát triển lớn.
Là “con chip” của nông nghiệp, hạt giống có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển của ngành. Đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ chuyển gen là lựa chọn tất yếu để tăng khả năng cạnh tranh quốc tế trong tương lai và tối ưu hóa phân công công nghiệp, đồng thời cũng là giải pháp then chốt để đảm bảo an ninh lương thực đất nước và thúc đẩy sự phát triển bền vững của khoa học và công nghệ trong nông nghiệp.
Ông Li Jiayang, một học giả của Viện Khoa học Trung Quốc cho biết: “Mục tiêu cốt lõi trong tương lai là tăng sản lượng và cải thiện chất lượng hạt giống, giảm sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu cũng như giảm tổn thất do thiên tai gây ra”.
Theo số liệu thống kê chính thức, tỷ lệ đóng góp của các giống cải tiến vào việc tăng năng suất ngũ cốc hiện vượt quá 45%. Đây được coi là lĩnh vực trọng tâm cốt lõi để phát triển ngành hạt giống, đổi mới khoa học công nghệ, giúp nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong nông nghiệp Trung Quốc, qua đó thu hẹp khoảng cách về năng lực sản xuất giữa Trung Quốc và một số nước hàng đầu thế giới.
Th318
Sầu riêng và những tín hiệu ‘tăng’ từ thị trường
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
Sầu riêng Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội khi nhu cầu đối với loại quả này lớn, không chỉ thị trường Trung Quốc mà nhiều nơi khác.
Vẫn còn tình trạng tranh mua, tranh bán
Trong những năm gần đây, sầu riêng tiêu thụ thuận lợi, giá luôn ở mức cao, người trồng có lãi lớn, quy mô sản xuất sầu riêng tăng nhanh, nhất là tại các vùng tập trung Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và đặc biệt là vùng Tây Nguyên với phương thức trồng xen sầu riêng trong vườn cà phê.
Theo Bộ NN-PTNT, từ năm 2016 đến 2022, tổng diện tích sầu riêng cả nước tăng từ 32.000ha lên hơn 112.200ha; năng suất bình quân sầu riêng có xu hướng tăng nhẹ trong khoảng 14,7 – 15,7 tấn/ha; đặc biệt sản lượng sầu riêng tăng cao, từ 366.000 tấn lên hơn 863.000 tấn (tăng 11,7%/năm).
Năm 2023, diện tích sầu riêng cả nước đạt khoảng 131.000ha, tăng 20% so với năm 2022, sản lượng đạt khoảng gần 1,2 triệu tấn, tăng 3,5% so với năm 2022.
Hiện cả nước có 34 tỉnh thành trồng sầu riêng. Trong đó, tập trung tại 4 vùng: Tây Nguyên (chiếm 47% diện tích cả nước), ĐBSCL (30%), Đông Nam bộ (19%), duyên hải Nam Trung bộ (4,2%). 4 tỉnh có diện tích trên 10.000ha và sản lượng trên 50.000tấn/năm gồm Đắk Lắk, Lâm Đồng, Tiền Giang, Đồng Nai.
Hai giống chủ lực gồm Ri6 và Dona. Trong đó, giống Ri6 phổ biến tại các tỉnh vùng ĐBSCL, giống Dona sử dụng nhiều hơn tại vùng Tây Nguyên (chiếm 60 – 70% trong cơ cấu diện tích).
Việt Nam có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi trồng sầu riêng. Thời vụ thu hoạch sầu riêng quanh năm, giúp sầu riêng Việt Nam cạnh tranh hơn so với Thái Lan (thu hoạch từ tháng 5 đến tháng 8). Sầu riêng chính vụ tại vùng ĐBSCL thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 8; vùng Tây Nguyên thu hoạch từ tháng 7 đến tháng 10; vùng Đông Nam bộ từ tháng 4 đến tháng 7 và vụ nghịch vụ tại ĐBSCL từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
Theo số liệu Bộ Công thương, giá sầu riêng có sự biến động lớn theo nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu thuận lợi. Đối với sầu riêng chính vụ từ tháng 4 – 9, giá cả có sự biến động không lớn. Tuy nhiên, vào các tháng nghịch vụ từ tháng 1 – 3 thì giá sầu riêng có sự biến động mạnh.
Từ tháng 11/2023 đến tháng 2/2024, giá sầu riêng tăng cao vì chỉ có sầu riêng các tỉnh ĐBSCL. Sầu riêng Ri6 từ 120.000 – 150.000 đồng/kg; sầu riêng Dona từ 140.000 – 190.000 đồng/kg. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Ông Vũ Đức Côn, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đắk Lắk, Chủ tịch Hiệp hội Sầu riêng Đắk Lắk cho rằng, thời gian qua, Bộ NN-PTNT, các cơ quan Trung ương, địa phương đã tập trung chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển ngành hàng sầu riêng. Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp, bà con nông dân có trách nhiệm trong việc xây dựng quy trình kỹ thuật, nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, uy tín sầu riêng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Qua đó, giá sầu riêng trên thị trường năm qua tăng cao, giúp nông dân, doanh nghiệp tăng thu nhập, ổn định sản xuất.
Tuy nhiên, ông Côn nhìn nhận, ngành hàng sầu riêng vẫn đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Đơn cử như, vùng sản xuất sầu riêng còn nhỏ lẻ, chưa có vùng nguyên liệu rộng lớn, trình độ kỹ thuật của nông dân còn thiếu và yếu cả về tư duy sản xuất hàng hóa chuyên nghiệp theo quy định của nước nhập khẩu. Việc liên kết giữa đại diện vùng trồng, các đơn vị xuất khẩu với người dân chưa thực sự công khai, minh bạch, rõ ràng, chưa bền vững.
“Nhiều cơ sở sau khi được cấp mã số vùng trồng, đóng gói thiếu sự duy trì chất lượng, chưa tuân thủ đầy đủ các quy định kiểm dịch thực vật của nước nhập khẩu, chưa thực hiện đầy đủ các biện pháp kỹ thuật làm sạch sinh vật gây hại trên hàng hóa trước khi xuất khẩu…
“Tình trạng gian dối, đánh cắp mã số vùng trồng; tranh mua, tranh bán; tình trạng chốt giá sớm, nông dân sẵn sàng bẻ cọc hợp đồng… dẫn đến khó phát triển ngành hàng bền vững”, ông Côn nêu.
Ngoài ra, hiện nay, chưa có Nghị định hoặc Thông tư hướng dẫn cụ thể về công tác cấp và quản lý mã số vùng trồng; chưa có chế tài xử lý các hành vi vi phạm… Công tác ứng dụng thông tin chưa được thông suốt quá trình từ sản xuất, đến thu hoạch, sơ chế, đóng gói và xuất khẩu.
Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đắk Lắk cho biết, trong thời gian tới, địa phương sẽ hoàn thiện Đề án phát triển ngành hàng sầu riêng, bơ giai đoạn 2025 tầm nhìn 2030 trình UBND tỉnh phê duyệt và tổ chức triển khai. Trong đó, ưu tiên phát triển thành vùng chuyên canh để thuận lợi cho áp dụng cơ giới hóa và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, phổ biến các thông tin về quy hoạch trồng sầu riêng thông qua các kênh truyền thông cho nông dân cập nhật.
Sản lượng tăng ít nhất 20%
Dù mới tham gia vào thị trường xuất khẩu chính ngạch, nhưng sầu riêng Việt Nam đã lập kỷ lục tăng trưởng đột phá, trở thành “vua trái cây” của Việt Nam, với giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,2 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu chính là Trung Quốc, Nhật, Úc… chủ yếu là quả tươi và cấp đông.
Đặc biệt, lợi thế gần thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới – Trung Quốc giúp chi phí logistic giảm. Bên cạnh đó, tác động của khủng hoảng Biển Đỏ làm cho hàng hóa các nước đi vào thị trường Trung Quốc gặp nhiều khó khăn về thời gian, vận chuyển, chi phí. Việt Nam đã ký kết 17 Hiệp định thương mại tự do, với nhiều ưu đãi về thuế suất. Đây là lợi thế cạnh tranh cho sầu riêng nói riêng và rau quả Việt Nam nói chung khi xuất sang thị trường Trung Quốc.
Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan, năm 2023, Trung Quốc chi trên 6,7 tỷ USD (trên 1,4 tấn) để nhập sầu riêng. Trong đó, sầu riêng Thái Lan khoảng 928.000 tấn (trên 4,5 tỷ USD); Việt Nam gần 494.000 tấn (trên 2,1 tỷ USD); Philippines trên 3.700 tấn (13,2 triệu USD).
“Phía Trung Quốc đã cấp hơn 700 mã số vùng trồng sầu riêng của Việt Nam (năm 2023 hơn 400 mã). Và hiện Bộ NN-PTNT cũng đang tiếp tục đàm phán với phía bạn về cấp mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói sầu riêng, cũng như việc cho phép xuất khẩu chính ngạch sầu riêng cấp đông. Dự báo, năm nay sản lượng sầu riêng tăng hơn năm ngoái ít nhất khoảng 20%. Sầu riêng Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng cao, nhất là tại thị trường Trung Quốc và ASEAN”, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp Hội Rau quả Việt Nam nhận định.
Theo dự báo của nhiều chuyên gia, sẽ có thêm nhiều cơ hội cho nông sản Việt Nam nói chung, sầu riêng nói riêng. Năm 2024 và những năm tiếp, dự báo xuất khẩu sầu riêng tiếp tục có những thuận lợi. Thị trường truyền thống Trung Quốc tiếp tục có xu hướng tăng về nhu cầu nhập khẩu sầu riêng. Ngoài ra, nhiều thị trường khác đã và đang quan tâm nhập khẩu sầu riêng Việt Nam, trong đó có Thái Lan..
Hiện Bộ NN-PTNT đang đàm phán với Ấn Độ để xuất khẩu sầu riêng chính ngạch và đang đàm phán xuất sầu riêng cấp đông vào Trung Quốc, như vậy, dư địa xuất khẩu sầu riêng là rất lớn. Tuy nhiên, để chiếm lĩnh thị trường thì chất lượng vẫn là yếu tố quyết định.
Đồng Nai là tỉnh đứng thứ 4 trong cả nước về diện tích trồng sầu riêng với gần 11.350ha. Cây sầu riêng đã giúp nhiều nông dân ở Đồng Nai thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Năm 2024, tỉnh Đồng Nai tiếp tục mở rộng mã số vùng trồng, nâng cao chất lượng của các mã số vùng trồng được cấp, áp dụng công nghệ canh tác, đảm bảo truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Để chuỗi ngành hàng sầu riêng phát triển bền vững trong thời gian tới, tỉnh đẩy mạnh khuyến khích nông dân, HTX, doanh nghiệp thực hiện theo đúng, đủ theo các quy chuẩn của thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cũng như thu hút đầu tư vào chế biến sâu, nhằm nâng cao chất lượng sầu riêng của Đồng Nai nói riêng và Việt Nam nói chung.
Th307
Chủ động thích ứng với mùa khô Tây Nguyên
Nguồn tin: báo Đăk Lăk
Cà phê là cây trồng có nhu cầu nước rất lớn vào mùa khô. Để thích ứng với biến đổi khí hậu, ngoài việc cung cấp đủ nước thì cần nhiều giải pháp phát triển xanh cho các vùng nguyên liệu cà phê của tỉnh.
Chủ động nguồn nước tưới
Ông Y Phông (buôn Ea Ktur, xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin) cho hay, gia đình ông có khoảng 7 sào đất trồng xen canh cà phê và hồ tiêu. Gắn bó với cây cà phê hơn 10 năm nay, ông Y Phông nhận định, việc chăm sóc cây cà phê quan trọng nhất là thời điểm tưới nước.
Nếu tưới muộn, cây sẽ bị rụng lá, khô cành, còn tưới sớm khi cây chưa phân hóa mầm hoa sẽ làm cho cà phê nở hoa không đều, khó khăn trong thu hoạch và ảnh hưởng đến năng suất. Do đó, nguyên tắc tưới cho cây cà phê là phải đúng lúc, đủ nước.
Chính vì vậy, trước Tết Nguyên đán Giáp Thìn khoảng một tuần, gia đình ông đã tiến hành cắt tỉa cành và tranh thủ tưới nước đợt một cho cây cà phê. Đến ngày mùng 10 Tết, gia đình lại tiếp tục tưới đợt hai nhằm bảo đảm cung cấp đủ nước cho cây trong thời kỳ ra hoa, đậu trái.
Bà Lê Thị Thảo (thôn 9, xã Ea Ning, huyện Cư Kuin) tưới đợt hai cho vườn cà phê của gia đình. |
Giống như nhiều hộ trồng cà phê, những ngày này, bà Lê Thị Thảo (thôn 9, xã Ea Ning, huyện Cư Kuin) cũng đang tập trung tưới nước đợt hai cho vườn cà phê của gia đình.
Theo bà Thảo, sau khi thu hoạch, cây cà phê đã suy kiệt, nên người trồng phải cung cấp chất dinh dưỡng kịp thời cho cây bằng cách bón phân, tưới nước. Bình quân mỗi năm người trồng cà phê phải tưới 3 đợt cho cây, còn năm nào thời tiết nắng nóng kéo dài phải tưới 4 – 5 đợt mới đảm bảo cây đủ nước. Hiện gia đình đang sử dụng phương pháp tưới dí từ nguồn nước giếng khoan để tưới cho cây cà phê.
Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cư Kuin Y Tong Bkrông cho biết, trên địa bàn huyện có 39 hồ, đập và một số suối cạn, giếng khoan… phục vụ tưới cho 12.072 ha cà phê. Tình hình nguồn nước cơ bản đáp ứng được nhu cầu tưới cho cây trồng trong mùa khô.
Tuy nhiên, trước diễn biến thất thường của khí hậu trong năm 2024, đơn vị đã chủ động tham mưu cho UBND huyện về phương án phòng, chống hạn trên địa bàn nhằm đảm bảo vụ sản xuất hiệu quả, hạn chế thấp nhất thiệt hại do hạn hán gây ra.
Tại xã Ea Kao (TP. Buôn Ma Thuột), hiện các hộ dân trồng cà phê cũng đang tập trung tưới đợt hai. Theo cán bộ phụ trách nông nghiệp của địa phương, toàn xã có 1.600 ha cà phê, trong đó có 80% diện tích đang thời kỳ kinh doanh.
Hiện nay đang bắt đầu bước vào cao điểm mùa khô của Tây Nguyên, theo dự báo thì khả năng mùa khô năm nay sẽ diễn ra gay gắt hơn mọi năm nên nguy cơ diện tích cà phê bị thiếu nước rơi vào khoảng 10% (160 ha).
Do đó, xã đã phối hợp với Công ty TNHH MTV Quản lý công trình thủy lợi (Chi nhánh Buôn Ma Thuột) thực hiện tích nước ở hồ Ea Kao, điều tiết nước hợp lý ở các cánh đồng lúa để bảo đảm nước tưới cho cây cà phê trong mùa khô cạn.
Thích ứng trong dài hạn
Theo số liệu năm 2023, Đắk Lắk hiện có trên 200.000 ha cà phê, trong đó diện tích tưới từ công trình thủy lợi là 58.806 ha; diện tích còn lại được tưới từ các sông, suối, ao, hồ, giếng…
Để bảo đảm nguồn nước tưới cũng như việc phát triển bền vững cho cây cà phê trong mùa khô, ngoài đầu tư xây dựng hệ thống các công trình thủy lợi thì việc phát triển sản xuất xanh được nhiều hộ nông dân chú trọng ứng dụng.
Ông Lê Văn Tâm (thôn Cao Thắng, xã Ea Kao, TP. Buôn Ma Thuột) cho biết, gia đình ông có 4,5 ha cà phê, trong đó có 2 ha đang tái canh. Những năm trước, cứ vào mùa khô là gia đình rất lo lắng về nước tưới vì vườn không có cây che bóng, cỏ được làm sạch, nên khi trời nắng kéo dài khoảng chục ngày là vườn cây khô héo rất nhanh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất nếu không kịp tưới.
Sau này, các hộ dân liên kết sản xuất với doanh nghiệp, được hướng dẫn các phương pháp canh tác bền vững bằng cách trồng cây che bóng, trồng xen canh các loại cây (hồ tiêu, cây ăn trái…), trồng thảm cỏ phủ dưới đất nhằm xây dựng đa tầng tán trên vườn cà phê. Nhờ đó, khi vào mùa khô, vườn cây vẫn tươi tốt, lượng nước, phân bón, thuốc bảo vệ cũng được nông dân dùng ít lại.
Hơn thế, sản phẩm được nâng cao giá trị vì đáp ứng được xu hướng tiêu dùng xanh của thị trường thế giới. Bên cạnh đó, để tiết kiệm nước tưới, hộ ông Tâm còn đầu tư hệ thống tưới phun mưa cho 3 ha.
“Mặc dù chi phí ban đầu hơi nhiều, nhưng về lâu dài thì nông dân rất khỏe. Chỉ cần mở van tưới và căn thời gian tưới phù hợp, sau đó nông dân sẽ tranh thủ làm việc khác, không phải tốn lao động cho công việc tưới như trước đây”, ông Tâm chia sẻ.
Nông dân xã Ea Drông, TX. Buôn Hồ tưới đợt hai cho vườn cà phê. |
Theo Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI), trên thực tế, cây cà phê chỉ cần lượng nước từ 340 – 400 lít/cây/lần. Nếu tưới mức như vậy, nông dân có thể tiết kiệm được hơn 50% lượng nước so với cách tưới dí như hiện nay. Đặc biệt, tưới nước vừa đủ sẽ giúp người dân giảm đáng kể lượng phân bón cho cây do không bị nước dư thừa cuốn trôi.
Ngoài ra, trong cơ cấu giống, hiện WASI đã nghiên cứu và sản suất thành công 4 dòng cà phê vối chín muộn (TR9, TR11, TR12, TR13) nhằm chuyển dần thời gian thu hoạch cà phê vào đúng mùa khô và giảm được lượng nước tưới cho cây khi không phải trải qua mùa khô kéo dài như những giống khác.
Hiện toàn tỉnh có trên 45.670 ha áp dụng quy trình sản xuất bền vững, chiếm khoảng 22,12% diện tích cà phê toàn tỉnh. Ngành nông nghiệp đã chủ động, tích cực tham gia vào việc thúc đẩy liên kết sản xuất theo chuỗi, phát triển kinh tế xanh và tiếp tục thực hiện công tác tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới cho người dân trồng cà phê để thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu và xu hướng tiêu dùng của thị trường thế giới.
Minh Thuận – Thúy Nga
Th226
Giá sầu riêng tiếp tục tăng cao
Nguồn tin: Báo Long An
Những ngày qua, giá sầu riêng liên tục tăng cao, nhiều nhà vườn không có sầu riêng để bán cho thương lái. Nguyên nhân khiến sầu riêng tăng giá là do thiếu hụt nguồn cung.
Ngành Nông nghiệp tỉnh thường xuyên tuyên truyền, vận động người trồng sầu riêng xây dựng mã số vùng trồng để phục vụ nhu cầu xuất khẩu
Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sầu riêng là một trong những loại cây trồng mang lại giá trị kinh tế cao. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh, diện tích sầu riêng tăng khá nhanh với hơn 500ha, tập trung nhiều ở các huyện: Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng,…
Ngay từ đầu năm 2024, nhà vườn trồng sầu riêng trái vụ trên địa bàn tỉnh đã phấn khởi khi giá bán tại vườn ở mức cao. Với mức giá sầu riêng như hiện tại, theo tính toán của các nhà vườn, dù phải đầu tư lớn để xử lý ra quả trái vụ nhưng lợi nhuận mang về lên đến 1 tỉ đồng/ha.
Hiện tại, sầu riêng Monthong loại 1 có giá từ 190.000-202.000 đồng/kg, loại 2 khoảng 175.000 đồng/kg. Sầu riêng Ri6 loại 1 có giá 120.000-126.000 đồng/kg, loại 2 có giá 100.000 đồng/kg.
Ông Nguyễn Văn Chính (xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh) cho biết: “Hiện sầu riêng Ri6 được thương lái thu mua tại vườn với giá khoảng 100.000-120.000 đồng/kg. Sầu riêng tăng giá do đang vào mùa nghịch nên nguồn cung giảm. Hiện tại, vườn nhà tôi cũng không còn nhiều do đã thu hoạch 2 đợt trước tết”.
Hiện nay, ngành Nông nghiệp tỉnh tích cực tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt các khâu an toàn trong sản xuất, đóng gói sầu riêng; đồng thời, tăng cường tập huấn, truyền thông các quy định về mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, trong đó, chú trọng hướng dẫn các tổ chức, cá nhân áp dụng đúng quy trình canh tác, ghi chép hồ sơ, nhật ký trong quá trình sản xuất để phục vụ truy xuất nguồn gốc theo yêu cầu của nước nhập khẩu.
Cùng với đó, ngành Nông nghiệp tỉnh cũng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp trong tổ chức sản xuất, hình thành các vùng trồng sầu riêng tập trung, quy mô lớn, bảo đảm tiêu chuẩn để cấp mã số vùng trồng, cấp mã số cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu./.
Minh Tuệ
Th226
Cà phê Sơn La được mùa, giá cao chưa từng thấy
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
Tới cuối mùa thu hoạch, giá cà phê chè ở Mai Sơn (Sơn La) đạt đỉnh 15.000 đồng/kg tươi, tăng gần gấp 2 lần so với niên vụ năm 2022 – 2023.
Ông Lò Văn Khánh ở bản Lam, xã Chiềng Chung, huyện Mai Sơn (Sơn La) kể, trồng cà phê từ năm 2008 nhưng chưa thấy khi nào thấy cà phê được mùa, được giá như niên vụ 2023 – 2024 mới đây. Đầu vụ bán được 10.000 – 11.000 đồng/kg cà phê tại vườn, ông Khánh đã rất vui vì giá cao hơn mùa vụ trước 2.000 – 3.000 đồng/kg. Không ngờ, giá cà phê tiếp tục tăng đều đặn, tới cuối mùa thu hoạch (30/1/2024) đạt đỉnh 15.000 đồng/kg tươi, tăng gần gấp 2 lần so với niên vụ năm 2022 – 2023.
Vụ vừa rồi, ông Khánh cũng có 1ha cà phê cho thu hoạch gần 20 tấn quả, bán được 230 triệu đồng, cao hơn vụ cà phê năm trước 7 tấn quả về năng suất và 70.000 triệu đồng về trị giá sản lượng. Nhờ đó, ông có dư tiền sang tận xã Chiềng Nơi cách nhà 50km để thuê đồi trồng thêm 2ha cà phê. Theo ông Khánh, so với cây sắn và cây lúa, trồng cà phê luôn cho thu nhập cao gấp nhiều lần.
Ông Khánh cho biết, để trồng cà phê cho năng suất quả cao, ông phải chọn những khu đồi không quá dốc, tầng canh tác dày, đất có màu vàng đỏ, thuận tiện cho thiết kế đường đồng mức để đi lại trồng, chăm sóc và thu hái cà phê. Đặc biệt, vùng trồng cà phê phải có điều kiện thời tiết tương tự như xã Chiềng Chung và chọn trồng giống cà phê chè TN2 đầu dòng, chăm bón bằng các loại phân tổng hợp giàu canxi (vôi) và magie (MgO) như NPK Văn Điển, vì đất đồi ở đây thường có độ chua khá cao.
Cùng xã Chiềng Chung, ông Lò Văn Khải trồng 1,5ha cà phê, thu hoạch được 36 tấn quả, doanh thu 450 triệu đồng, lãi 230 triệu đồng. Ông Khải cho biết, trồng cà phê cơ bản chỉ tốn công chăm sóc và thu hái, bao tiêu đã có thương lái đến mua tận vườn. Ông Khải cũng rất muốn mở rộng diện tích trồng cà phê, nhưng quỹ đất của gia đình và tại địa phương không còn, đi thuê nơi khác thì chưa sắm được xe ô tô nên phải đẩy mạnh thâm canh vườn cà phê đang có và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm để tăng thu nhập.
Ông Hà Văn Phấn, Trưởng bản Lam (xã Chiềng Chung) cho biết, cây cà phê được trồng ở đây từ hơn nửa thế kỷ trước nên hầu như hộ nào tại địa phương nào cũng có đồi cà phê, tổng diện tích cà phê toàn xã ước đạt trên 700ha. Ngoài ra, các hộ vẫn có ruộng gieo cấy lúa và trồng kinh doanh rau xanh các loại. Nhờ vậy, không ít gia đình trong xã đã mua được ô tô làm dịch vụ vận tải hoặc chở khách du lịch, kết hợp thuê, nhượng thêm đất cho trồng cà phê ở những xã vùng sâu, xa hơn.
Sở dĩ cây cà phê chè (Arabica) trồng ở huyện Mai Sơn có thể cho thu hoạch muộn đến hết tháng 1/2024 ở xã Chiềng Chung và một số địa phương khác có độ cao trung bình khoảng 1.200m so mặt nước biển, địa hình có nhiều núi và khe suối, tạo cho nhiệt độ không khí trung bình ở đây thấp hơn chừng 5 độ C so với những xã nằm trên cao nguyên Nà Sản (ven Quốc lộ 6), do vậy cà phê trồng trong khu vực này thường ra hoa, đậu quả và kết thúc mùa vụ thu hoạch muộn hơn cà phê trồng ở các địa phương khác. Qua đó đã giúp rải vụ, kéo dài thời gian thu hoạch cà phê trên địa bàn, giảm áp lực thị trường, tăng giá trị sản phẩm và hiệu quả sản xuất.
Mặt khác, mặc dù có đặc điểm khí hậu nhiệt đới và thời tiết 4 mùa, nhưng lượng mưa ở Chiềng Chung và một số xã trong khu vực lại chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 đến 9, mùa khô tháng 10 đến tháng 3 năm sau, chênh lệch nhiệt độ không khí ngày đêm cũng khá cao (khoảng 12 – 15 độ C) nên cây cà phê thường tăng trọng quả vào mùa mưa, không cần tưới nước trái vẫn to, hạt mẩy đều, tỷ lệ hạt khô/quả tươi đạt 30%, tỷ lệ này ở các xã trồng cà phê ở khu vực cao nguyên Nà Sản chỉ đạt 23%.
Cùng với đó, việc thu hoạch cà phê vào mùa khô rất thuận lợi cho thu hái và phơi sấy. Đây là những lợi thế riêng cho cây cà phê chè trồng ở những khu vùng đồi cao như xã Chiềng Chung nói riêng, tỉnh Sơn La nói chung. Đó cũng là lý do ông Khánh phải kén chọn những khu vực có đặc điểm thời tiết như Chiềng Chung để thuê đất mở rộng diện tích trồng thâm canh cây cà phê.
Theo Sở NN-PTNT Sơn La, toàn tỉnh hiện có gần 21.000ha cà phê chè trồng tại huyện Mai Sơn (hơn 8.500ha), Thuận Châu (gần 6.000ha), còn lại ở các huyện Yên Châu, Sốp Cộp và TP Sơn La. Trong đó có khoảng 19.000ha cà phê đang thời kỳ khai thác kinh doanh, sản lượng cà phê nhân đạt 34.345 tấn.
Từ nhiều năm nay, Sơn La đã hình thành được các mô hình liên kết sản xuất và chế biến cà phê tinh chất. Có 4 sản phẩm cà phê đã được UBND tỉnh Sơn La cấp chứng nhận OCOP (1 sản phẩm cà phê bột nguyên chất 5 sao, 3 sản phẩm 4 sao là Aratay Coffee, Coffee Arabica Minh Trí và Trà quả cà phê.
Tỉnh Sơn La đã được Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ KH-CN) bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cà phê từ năm 2017. Cà phê chè Sơn La có vị chua nhẹ, không hợp thị hiếu người tiêu dùng trong nước, nhưng có giá trị xuất khẩu rất cao sang các quốc gia châu Âu vì phù hợp khẩu vị.
Tới đây, cà phê Sơn La sẽ cho năng suất, chất lượng cao hơn nữa nhờ các ngành chuyên môn tỉnh này đang cùng các nhà nông trên địa bàn đẩy nhanh tốc độ cải tạo, tái canh bằng các giống mới thay thế giống cà phê chè Catimor đã già cỗi, chất lượng thành phẩm không cao sang trồng cây cà phê chè đầu dòng Arabica L, kết hợp với tăng cường thâm canh theo hướng bền vững,
Th219
Nhiều diện tích lúa đông xuân bị nhiễm sâu bệnh
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
ĐBSCL Sở NN-PTNT Vĩnh Long cho biết, từ đầu tháng 2 trên địa bàn tỉnh có 4.994ha lúa đông xuân bị nhiễm sâu bệnh, chủ yếu gây hại trên trà lúa làm đòng đến chắc xanh.
Theo nông dân tại các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Hậu Giang, Sóc Trăng…, thời điểm này, do thời tiết nắng nóng, ẩm độ không khí khá cao, kết hợp các trà lúa đang bước vào giai đoạn đòng đến trổ nên tạo điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh gây hại trên lúa đông xuân.
Sở NN-PTNT tỉnh Vĩnh Long cho biết, từ đầu tháng 2, trên địa bàn tỉnh có 4.994ha lúa đông xuân bị nhiễm sâu bệnh, chủ yếu gây hại trên trà lúa làm đòng đến chắc xanh.
Diện tích lúa bị đối tượng gây hại nhiều nhất là rầy nâu (1.453ha, mật số rầy từ 500 – 650 con/m2), tập trung nhiều ở huyện Tam Bình (1.147ha); kế đến là bệnh đạo ôn 989ha (tỷ lệ nhiễm 5 – 10%) và sâu cuốn lá 738ha (mật số 5 – 10 con/m2).
Tại Trà Vinh trong tuần qua, hệ thống giám sát côn trùng thông minh trong tỉnh cũng đã phát hiện rầy nâu, rầy lưng trắng và sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục thân hai chấm, rầy xanh đuôi đen, muỗi hành… xuất hiện với mật độ cao nhất 216 con/bẫy đèn.
Theo Sở NN-PTNT tỉnh Trà Vinh, dự báo thời gian tới, sâu cuốn lá nhỏ xuất hiện gây hại trên trà lúa giai đoạn đẻ nhánh đến làm đòng; bệnh đạo ôn lá, chuột sẽ xuất hiện rải rác trên trà lúa đẻ nhánh và bệnh bạc lá, vàng lá sinh lý do thời tiết sẽ xuất hiện, gây hại trên trà lúa đòng đến trổ.
Ông Lê Trường Sơn, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Trà Vinh khuyến cáo bà con nông dân thăm đồng thường xuyên để phát hiện sâu, bệnh và phòng trừ kịp thời, đặc biệt chú ý sâu cuốn lá nhỏ nở và gây hại.
Đối với vụ đông xuân, cây lúa rất dễ mẫn cảm với điều kiện thay đổi của thời tiết, thường có hiện tượng vàng lá sinh lý và ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây lúa, nhất là trong điều kiện thời tiết ngày nắng nóng, đêm lạnh và gió mạnh như hiện nay.
Ông Sơn đề nghị bà con nông dân bón phân cân đối, không bón thừa phân đạm, tăng cường phun phân bón lá chứa hàm lượng canxi, silic… giúp lá lúa dày và cứng, hạn chế tối thiểu tổn thương do gió. Đặc biệt lưu ý trên những chân ruộng thiếu nước, sạ dày, bón thừa phân và ruộng canh tác giống nhiễm có thể bị thiệt hại nặng hơn.
Th130
Nông nghiệp và Niềm tin
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
ĐỒNG THÁP Thách thức lớn nhất hiện nay trong chuỗi giá trị nông sản đó là liên kết sản xuất, hợp tác tiêu thụ giữa doanh nghiệp và nông dân do chưa tìm được tiếng nói chung.
Ngày 26/1, UBND huyện Lai Vung (Đồng Tháp) phối hợp với Văn phòng đại diện Báo Nông nghiệp Việt Nam khu vực ĐBSCL tổ chức tọa đàm “Nông nghiệp và Niềm tin”, với sự tham dự của đại diện lãnh đạo sở, ngành của tỉnh và các chuyên gia ngành nông nghiệp.
Theo đó, thách thức lớn nhất hiện nay trong chuỗi giá trị nông sản đó là vấn đề liên kết sản xuất, hợp tác tiêu thụ giữa doanh nghiệp và bà con nông dân do chưa tìm được tiếng nói chung. Đa số các doanh nghiệp hiện nay thu mua nông sản qua thương lái, ngược lại nông dân cũng chỉ có thể thông qua thương lái để tiêu thụ sản phẩm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do thiếu niềm tin và chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa người sản xuất và doanh nghiệp. Với mong muốn tháo gỡ những mắt xích vừa nêu, các chuyên gia đã mổ sẻ vấn đề.
Theo quan điểm của GS Nguyễn Thơ, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ thực vật Việt Nam kiêm Phó Chủ tịch Hội bệnh lý cây trồng Việt Nam nhận định, giá trị của nông sản chính là sự kết tinh những thành quả phát triển và thúc đẩy quá trình liên kết hợp tác. Không có con đường nào khác là phải sản xuất an toàn để tạo niềm tin cho tất cả chủ thể trong chuỗi ngành hàng.
Vì thế, hiện nay, các địa phương và cả bộ ngành Trung ương khuyến cáo sản xuất nông nghiệp theo hướng xanh, an toàn và bền vững. Người sản xuất cần phải nắm chắc, thành thạo những vấn đề cho ra sản phẩm an toàn, bán giá cao và giúp nông dân giảm giá thành, tăng thêm thu nhập.
Ông Lê Quốc Điền, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Tháp cho rằng: Đồng Tháp có thế mạnh phát triển mô hình kinh tế tập thể. Các HTX, Tổ hợp tác và Hội quán đã giúp việc liên kết tiêu thụ nông sản thuận lợi hơn. Riêng đối với huyện Lai Vung có nhiều chủng loại cây ăn trái đặc sản như: quýt hồng, quýt đường, cam xoàn, bưởi, mận, sầu riêng, mãng cầu, nhãn, thanh long… đang phục vụ xuất khẩu đòi hỏi người nông dân cần nắm vững kỹ thuật canh tác tốt hơn.
Hiện nay, ngành nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp đang hỗ trợ huyện Lai Vung phát triển HTX và xây dựng nông dân chuyên nghiệp để tạo ra vùng nguyên liệu chất lượng cao cho xuất khẩu. Nếu không làm tốt các vấn đề của các nhà nhập khẩu đưa ra thì nông dân chúng ta sẽ bị bỏ lại phía sau và nông sản bán giá thấp.
Tại buổi tọa đàm, các chuyên gia chia sẻ thông tin tổng quan về kết quả thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng; Đẩy mạnh phát triển các mô hình nông nghiệp hữu cơ, bền vững, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao gắn với liên kết; Xây dựng các mô hình nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào khởi nghiệp từ các sản vật nông nghiệp địa phương.
Ông Nguyễn Hữu Hiền, Phó Chủ tịch UBND huyện Lai Vung cho rằng: Thách thức lớn nhất hiện nay trong chuỗi giá trị nông sản là vấn đề liên kết sản xuất, hợp tác tiêu thụ giữa doanh nghiệp và bà con nông dân, do chưa tìm được tiếng nói chung.
Giá trị của mặt hàng nông sản được xem là kết tinh những thành quả phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tư duy kinh tế nông nghiệp của bà con nông dân và thúc đẩy quá trình liên kết hợp tác.
Không có con đường nào khác là phải tạo được niềm tin cho tất cả các chủ thể trong chuỗi sản xuất. Niềm tin giữa những người sản xuất, doanh nghiệp, đối tác, nhà lãnh đạo để dẫn dắt con đường phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ, có như thế mới tạo ra được niềm tin của người tiêu dùng đối với mặt hàng nông sản, thúc đẩy việc gắn kết phát triển du lịch thành công.
Thông qua tọa đàm, từ chia sẻ của các nhà khoa học, nhà quản lý, các doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân trên địa bàn huyện sẽ có thêm niềm tin vào nông nghiệp.
Trong đó, thể hiện niềm tin của người dân vào chủ trương của Đảng, sự kiến tạo của chính quyền các cấp, vào ứng dụng khoa học, công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp, tự tin về năng lực sản xuất của mình, tin vào giá trị và sức mạnh của quá trình liên kết, hợp tác sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu thụ.
Theo ông Huỳnh Minh Trí, Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Lai Vung, thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, huyện tập trung phát triển các ngành chủ lực lúa, rau màu, cây ăn trái (trong đó, chủ lực là cây có múi) và hoa kiểng theo hướng sản xuất quy mô lớn, tập trung, theo chuỗi giá trị và từng bước tiêu chuẩn hóa hệ thống nuôi trồng gắn với mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc.
Diện tích sản xuất cây ăn trái, rau màu theo quy trình VietGAP, diện tích sản xuất đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, đã được cấp giấy chứng nhận trên 366ha, có 124 vùng trồng được cấp mã số với diện tích 5.750ha. Huyện đã xây dựng được 3 nhãn hiệu nông sản cụ thể gồm: quýt hồng Lai Vung, cam xoàn Lai Vung và quýt đường Lai Vung.
Nhìn chung, nông nghiệp Lai Vung hằng năm duy trì được tăng trưởng, năm 2023, giá trị sản xuất ngành nông, thủy sản của huyện khoảng 4.123 tỷ đồng, tăng 3,95% so năm 2022, các mô hình sản xuất hiệu quả, sản xuất hữu cơ, an toàn, truy xuất nguồn gốc dân được quan tâm.
Tuy nhiên, tình trạng sản xuất theo phong trào, sản xuất theo kinh nghiệm còn diễn ra, sản xuất manh mún, thiếu hợp tác còn nhiều, chưa kêu gọi được doanh nghiệp lớn đầu tư vào nông nghiệp theo chuỗi giá trị tại địa phương. Nhiều HTX nông nghiệp chưa phát huy hết vai trò liên kết, hợp tác giữa thành viên với nhau và liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm. Các mô hình liên kết hiện có chưa vững chắc, bảo quản sau thu hoạch còn hạn chế, các sản phẩm chế biến từ nông sản địa phương chưa nhiều. Vì vậy, cần tiếp tục quan tâm thực hiện nhiều giải pháp phù hợp trong thời gian tới.
Ông Võ Hoàng Cương, Bí thư Huyện ủy Lai Vung cho rằng: Trong chuỗi giá trị nông sản, niềm tin rất quan trọng. Bà con nông dân tin tưởng vào chất lượng sản phẩm mình làm ra, doanh nghiệp và nông dân tin tưởng lẫn nhau để xây dựng mối liên kết bền chặt. Doanh nghiệp lại phải xây dựng được niềm tin với đối tác và người tiêu dùng. Và người dân tin tưởng vào cơ quan quản lý Nhà nước trong việc truyền tải, dẫn dắt, phát triển kỹ thuật, khoa học công nghệ.
Để xây dựng được những niềm tin này là cả một quá trình dài với sự nỗ lực của nhiều bên, từ người sản xuất, cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp, hệ thống phân phối và chính người tiêu dùng. Từ đó tạo thành chiến lược quyết định cho sự thành bại của ngành nông nghiệp.
Và cuối cùng, người tiêu dùng bỏ tiền ra không phải để mua mặt hàng nông sản và mua niềm tin, giá trị kết tinh trong mặt hàng nông sản đó. Một khi đã tạo dựng thành công niềm tin, sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác trong đó có du lịch. Tiêu biểu là du lịch nông thôn, một loại hình đang phát triển mạnh tại huyện Lai Vung và khu vực ĐBSCL.
Th130
Miền Tây chống mặn: Vựa trái cây ‘tung nhiều chiêu’ ứng phó hạn mặn
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
ĐBSCL Bên cạnh các giải pháp công trình, ngành chức năng đã hướng dẫn, tuyên truyền người dân nhiều giải pháp để đảm bảo nguồn nước, ứng phó xâm nhập mặn.
Đa dạng giải pháp giữ nước ngọt
Tiền Giang là địa phương có diện tích cây ăn trái lớn nhất ĐBSCL với diện tích trên 86.000ha. Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, năm nay địa phương còn khoảng 35.000ha cây ăn trái chịu ảnh hưởng trực tiếp của hạn, mặn, bao gồm sầu riêng, cây có múi, vú sữa…
Có nguy cơ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do mặn và cần được bảo vệ là khu vực thuộc các xã cặp sông Tiền từ xã Phước Thạnh (TP Mỹ Tho) đến xã Hòa Hưng (huyện Cái Bè), chủ yếu là cây sầu riêng với diện tích 22.000ha.
Bên cạnh các giải pháp công trình, ngành chức năng đã hướng dẫn, tuyên truyền người dân nhiều giải pháp để đảm bảo nguồn nước, ứng phó xâm nhập mặn cũng như thực hiện các giải pháp kỹ thuật đã đúc kết từ những năm qua.
Cù lao Ngũ Hiệp thuộc huyện Cai Lậy là địa phương trồng chuyên canh cây sầu riêng sớm nhất của tỉnh với diện tích gần 1.500ha, 100% diện tích này đang trong thời kỳ kinh doanh.
Những năm xâm nhập mặn diễn ra gay gắt, địa phương này thường xuyên bị nước mặn tấn công từ sông Tiền và cả sông Hàm Luông (tỉnh Bến Tre). Đáng quan tâm là hiện nay, xã Ngũ Hiệp chỉ mới xây dựng được 3/8 cống ngăn mặn, chống triều cường.
Thời điểm này, dù nước mặn chưa xâm nhập đến địa bàn nhưng chính quyền và nhân dân cù lao Ngũ Hiệp đang khẩn trương thực hiện các biện pháp phòng chống hạn mặn có thể xảy ra trong mùa khô đang cận kề.
Theo khuyến cáo của ngành chức năng, bên cạnh thực hiện các giải pháp công trình là đắp các đập tạm, nhiều giải pháp phi công trình cũng được nông dân cù lao đẩy mạnh ứng dụng như nạo vét kênh mương, đào ao, lót bạt tích trữ nước ngọt, không để cây mang trái vào mùa khô hạn, dùng cỏ khô che phủ gốc cây để giảm thất thoát hơi nước…, nhất là chú trọng tiết kiệm nước tưới tiêu.
Về giải pháp kỹ thuật, bà con nông dân cần chú trọng xử lý cây ra hoa, cho trái nghịch vụ với tỷ lệ thực hiện chiếm khoảng 70%. Theo kinh nghiệm, hàng năm bà con thường lựa chọn xử lý ra hoa một trong hai vụ sầu riêng. Vụ thuận thường có thời điểm thu hoạch vào khoảng tháng 3 – 5 âm lịch. Vụ nghịch thường kết thúc thu hoạch trước Tết Nguyên đán.
Năm nay, các nhà khoa học dự báo hạn mặn xâm nhập sâu nên đa số bà con chuyển hướng sang mùa nghịch, thu hoạch xong vào khoảng tháng Chạp. Khi nước mặn tới, cây đã ra được 1 – 2 cơi đọt nên đã khỏe mạnh hơn. Còn nếu để ra trái mùa thuận, bà con sẽ xử lý ra hoa vào khoảng tháng 11 – 12, ra giêng cây mang trái ngay mùa hạn mặn sẽ dễ suy kiệt dẫn đến chết cây. Nếu tình hình hạn mặn gay gắt, bà con sẽ cân nhắc bỏ vụ 1 năm.
Ông Nguyễn Văn Minh, nhà vườn có 8 công sầu riêng đang cho thu hoạch tại ấp Tân Sơn, xã Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy) chia sẻ, rút kinh nghiệm từ các năm trước đây nên công tác chủ động trữ nước chống hạn được ông rất quan tâm.
Sau khi thu hoạch xong lứa sầu riêng này, ông tiến hành các bước phục hồi cho cây nhằm tăng cường sức chống chịu nếu không may nước mặn xâm nhập sâu.
Đặc biệt, ông đã gia cố đê bao, kiểm tra kỹ cống bọng và theo dõi sát sao tình hình dự báo xâm nhập mặn để nhanh chóng tích đầy nước trong mương vườn khi độ mặn tăng cao.
“Vườn của mình có ống bọng đậy kỹ càng, nếu có mặn mình canh lúc nước ròng, mặn bị đẩy về phía hạ nguồn, độ mặn giảm mới lấy nước bổ sung. Thứ hai nữa là sử dụng nước giếng pha để giảm độ mặn. Những năm trước sầu riêng chết là do gia đình chủ quan, còn bây giờ biết rồi thì không sợ đâu”, ông Nguyễn Văn Minh nói.
Còn ông Trình Văn Sỹ, nhà vườn trồng 1ha sầu riêng tại ấp Tân Đông cũng cho biết, từ đầu năm ông đã đào ao trữ nước và lắp đặt các mô tơ để bơm tưới tiết kiệm phục vụ trong mùa khô này.
Nếu mặn lên, ông chỉ cần đóng bọng lại, lượng nước tích trữ trong ao, mương sẽ cầm cự được trong 1 tháng. Khi sử dụng hết lượng nước trữ mà mặn chưa rút thì ông sẽ thuê ghe chở nước ngọt về cấp bổ sung vào các mương, không để khô đáy mương, tránh xì phèn.
Theo ghi nhận tại vườn ông Sỹ, hầu hết các hệ thống phục vụ việc trữ nước đã được áp dụng. Qua theo dõi các thông tin dự báo, ông Sỹ đã chuẩn bị khá kỹ lưỡng để bảo vệ vườn, bởi nếu sơ suất, nước mặn tràn vào vườn, thiệt hại không thể tránh khỏi.
Đầu tư các giải pháp công trình
Về giải pháp công trình ngăn mặn cho xã Ngũ Hiệp, trước mắt, chính quyền địa phương đã có văn bản đề nghị huyện, tỉnh cho xây dựng 5 cống ngăn mặn dã chiến với kinh phí khoảng 6 tỷ đồng và khoan thêm 2 giếng tầng sâu để giúp địa phương ứng phó với hạn mặn mùa khô sắp tới.
Ngoài ra, chính quyền, đoàn thể xã cũng tuyên truyền, vận động người dân áp dụng các biện pháp công trình, phi công trình để bảo vệ vườn cây đặc sản, cũng là kinh tế chính của gần 100% hộ dân nơi đây.
Bà Nguyễn Hồng Thương, Chủ tịch UBND xã Ngũ Hiệp cho biết, xã đã tuyên truyền người dân tích trữ nước, che phủ cỏ để giữ ẩm gốc cây, tưới tiết kiệm nước. Ngoài ra, tiến hành sửa chữa các tuyến đê, các nắp cống bị hư hỏng để khi có thông báo hạn mặn xảy ra thì đóng các cống, đê lại để khép kín. Hiện nay, người dân trong xã đã áp dụng giải pháp xử lý cây sầu riêng nghịch vụ nên sẽ né được các tháng hạn mặn sắp tới.
Theo bà Võ Thị Kim Phương, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Tiền Giang, qua thực tế sản xuất và kinh nghiệm phòng chống hạn mặn trong mùa khô 2019 – 2020, các kỹ thuật đặc biệt quan trọng, cần phải được tuân thủ áp dụng để bảo vệ cây ăn trái trong mùa khô gồm: Ngăn mặn, trữ ngọt; tăng cường khả năng chống chịu của cây; luôn giữ mực nước trong mương vườn khoảng 20 – 30cm; không để cây mang trái quá nhiều; giữ ẩm cho đất, giảm lượng nước tưới và các giải pháp khác như tỉa cành tạo tán, phòng trừ bệnh cho cây…
Ngành nông nghiệp địa phương cũng khuyến cáo bà con nông dân theo dõi, cập nhật các thông tin, dự báo về diễn biến hạn, xâm nhập mặn để có biện pháp ứng phó kịp thời. Bên cạnh đó, giữ vệ sinh nguồn nước, không xả rác và nước nhiễm bẩn vào nguồn cung cấp nước nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong mùa khô.
Ngoài ra, cần tập trung giải phóng các chướng ngại vật lòng kênh, khai thông dòng chảy trên các tuyến kênh trục, kênh cấp 1, cấp 2, cấp 3; thường xuyên tổ chức trục vớt, trục đẩy lục bình, duy trì thông thoáng lòng kênh, rạch.
“Theo dõi độ mặn để lấy nước ngọt phải kiểm tra độ mặn trước khi lấy nước để tưới cho cây phù hợp với khả năng chịu mặn của từng loại cây trồng. Đồng thời, chọn thời điểm thích hợp để lấy nước ngọt theo khuyến cáo, không để mương vườn bị khô kiệt, không cho phèn có điều kiện hoạt động ảnh hưởng đến cây trồng”, bà Phương khuyến cáo.
Sầu riêng là cây trồng chủ lực của nhà vườn xã Ngũ Hiệp nói riêng và tỉnh Tiền Giang nói chung. Do đó, cùng với sự nỗ lực của chính quyền và người dân địa phương, các ngành chức năng tỉnh Tiền Giang cần quan tâm, hỗ trợ trong công tác phòng chống hạn mặn để bảo vệ an toàn vườn cây đặc sản nơi đây.
Ngày 15/1, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Công điện số 04/CĐ-TTg về việc chủ động ứng phó với nguy cơ hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Công điện nêu rõ, trong thời kỳ cao điểm (khoảng tháng 2 – 4) có thể xảy ra thiếu nước ngọt cục bộ, xâm nhập mặn vào sâu các cửa sông. Để chủ động ứng phó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ NN-PTNT tổ chức theo dõi sát diễn biến và có dự báo chuyên ngành về nguồn nước, chất lượng nước và nguy cơ thiếu nước, xâm nhập mặn để cung cấp thông tin cho các địa phương và người dân.
Đồng thời, hướng dẫn các địa phương tổ chức sản xuất, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương và UBND cấp tỉnh có liên quan chỉ đạo vận hành linh hoạt, hiệu quả các hệ thống thủy lợi nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả, tối ưu tài nguyên nước, bảo đảm nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp…
Th326