
Nông dân chật vật trong “cơn bão” vật tư nông nghiệp
Nguồn tin: báo Sài gòn Giải Phóng
Giá vật tư nông nghiệp tăng “phi mã”, thậm chí có nông dân chua xót nói: “Chưa bao giờ thấy vật tư nông nghiệp giảm giá trong suốt năm 2022”. Vụ lúa thu đông vừa qua, trong nhiều lý do nông dân để đất trống có lý do sợ thua lỗ vì giá vật tư tăng quá cao. Nông dân trồng lúa, cây ăn trái, nuôi tôm không thể “bỏ đất trống mãi”.
Mô hình lúa hữu cơ kết hợp nuôi tôm càng xanh của HTX Long Hiệp (huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh) đạt hiệu quả cao. Ảnh: TÍN DI
Chỉ tăng và tăng
Ông Phạm Công Danh (xã Mong Thọ, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) nói như mếu: “Hơn 10 năm trồng 8ha lúa, chưa bao giờ thấy giá phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giảm, chỉ có tăng ít hay nhiều mà thôi. Trước đây, phân urê khoảng 400.000-500.000 đồng/bao (loại 47kg/bao), giờ vọt hơn 1 triệu đồng/bao. Với chi phí sản xuất tăng, vụ lúa thu đông này dù được mùa, nhưng lợi nhuận vẫn không thể nào cao như những vụ trước”.
Theo ông Danh, gần đây giá vật tư nông nghiệp tăng gấp đôi, ảnh hưởng đến sản xuất và lợi nhuận của nông dân. Đặc biệt, tháng trước giá xăng dầu tăng cao, nông dân tăng thêm khoản chi phí trong sản xuất và khâu vận chuyển. Còn bà Nguyễn Thúy Nga (xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp) lo lắng khi giá vật tư nông nghiệp, nhất là phân bón tăng chưa có điểm dừng. “Mỗi hécta lúa phải bón từ 600-700kg phân các loại. Vụ lúa rồi, lợi nhuận đã giảm 40% vì giá phân bón tăng. Hiện nay tất cả các loại phân bón tiếp tục tăng cao, nguy cơ vụ đông xuân 2022-2023 sắp tới sẽ bị lỗ vốn nếu giá lúa không tăng”, bà Nga chia sẻ.
Ngăn chặn tình trạng trục lợi, tăng giá vật tư nông nghiệpTheo Sở NN-PTNT tỉnh Tiền Giang, ngành đang tăng cường tổ chức các cuộc thanh tra chuyên ngành, thanh tra việc chấp hành quy định pháp luật về sản xuất, kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, không để tình trạng trục lợi, tăng giá hoặc vận chuyển, sản xuất, kinh doanh, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ. Cụ thể là tăng cường lấy mẫu kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm phân bón. Thông báo kế hoạch sản xuất, lịch thời vụ, quy mô sản xuất các loại cây trồng đến doanh nghiệp, đại lý, cửa hàng vật tư nông nghiệp để chủ động cân đối, cung ứng giống, phân bón… đáp ứng kịp thời cho sản xuất. |
Trong 6 tháng gần đây, giá phân bón tăng rất cao, có những loại tăng giá trên 100%. Chẳng hạn, giá phân urê là 16.000 đồng/kg, trong khi cùng kỳ các năm chỉ khoảng 6.700 đồng/kg. Nhiều chủ đại lý phân bón cũng than khó vì các loại phân bón tăng gần gấp đôi, khiến việc kinh doanh rất khó khăn. Ông Nguyễn Phước Hưng, chủ đại lý phân bón Hưng Lợi (xã Mỹ Lâm, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang) cho hay, hiện tại giá phân urê khoảng 960.000 đồng/bao, giá kali sản xuất trong nước cũng đã gần 800.000 đồng/bao… So với cùng kỳ năm trước, giá các loại phân bón tăng ít nhất 80% trở lên, trong đó tăng cao nhất là urê trên 125%, phân DAP tăng 150%.

Ông Trần Văn Việt, Giám đốc HTX Nuôi tôm công nghiệp Thành Công (xã Tân Dân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) cho biết: “Nông dân nuôi tôm đối diện với nhiều khó khăn như thời tiết, dịch bệnh và đặc biệt là giá thức ăn tăng cao. Từ khi xảy ra đại dịch Covid-19 đến giờ, giá thức ăn cho tôm đã nhiều lần điều chỉnh tăng. Vì vậy, nông dân thu hoạch rơi vào thời điểm giá tôm thấp thì sẽ thua lỗ”.
Tìm giải pháp thích ứng
ĐBSCL có gần 3 triệu hécta trồng lúa, cây ăn trái và nuôi thủy sản, nhu cầu sử dụng hàng triệu tấn vật tư nông nghiệp trong năm. Riêng vụ lúa đông xuân 2022-2023, ĐBSCL xuống giống hơn 1,5 triệu ha lúa. Tính toán sơ bộ của các sở NN-PTNT trong vùng, cần khoảng 1 triệu tấn phân và khoảng 10.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật. Cùng với giá vật tư tăng vọt, diễn biến giá xăng dầu càng làm nông dân thêm lo lắng. Trong bối cảnh đó, ngành nông nghiệp và các địa phương trong vùng đang nỗ lực giúp nông dân áp dụng đồng bộ các giải pháp sản xuất tiến bộ để giảm lượng giống và lượng phân bón.
Ngay khi giá vật tư nông nghiệp tăng vọt, Bộ NN-PTNT và các tỉnh, thành vùng ĐBSCL đã khẩn trương tăng cường tập huấn, hướng dẫn nông dân sử dụng phân bón cân đối, tiết kiệm; tăng cường sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ nhằm giảm dần hoặc thay thế phân bón vô cơ…
Theo Bộ NN-PTNT, có 40.000-60.000ha lúa/vụ ở ĐBSCL đã áp dụng các mô hình sản xuất theo hướng tiết kiệm vật tư nông nghiệp, thân thiện với môi trường như: sản xuất lúa hữu cơ, sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP, canh tác lúa thông minh, sản xuất lúa an toàn sử dụng khoáng tự nhiên không phun thuốc thuốc bảo vệ thực vật… Hầu hết các mô hình sản xuất lúa đều giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Sản phẩm từ các mô hình này có đầu ra ổn định, tăng thu nhập, tạo được vùng nguyên liệu, đảm bảo sức khỏe người sản xuất, giảm ô nhiễm môi trường, hướng đến sản xuất bền vững. So với ruộng không áp dụng theo quy trình, các mô hình này đã giúp nông dân đạt lợi nhuận cao hơn ruộng không áp dụng mô hình từ 3-8 triệu đồng/ha. Đây được xem là giải pháp thiết thực giúp nông dân thích nghi và duy trì lợi nhuận tối thiểu từ sản xuất lúa. Tuy nhiên, diện tích áp dụng các mô hình này vẫn còn ở mức khiêm tốn, cần nhanh chóng nhân rộng các mô hình này là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Theo ý kiến của các nhà khoa học và nhiều nông dân, các địa phương cần tăng cường kiểm soát giá phân bón bán buôn ở các đại lý vật tư, nhất là kiểm soát chặt mức “hoa hồng” ở mức vừa phải, không để tăng quá cao. Ngoài ra, hiện hàng ngàn nông dân trồng lúa, trồng cây ăn trái có hợp tác với doanh nghiệp (bao tiêu sản phẩm), thì giá vật tư do doanh nghiệp cung cấp thường thấp hơn mua ở các đại lý 5%-15%. Đây là cách làm hay cần nhân rộng để giảm trung gian ở các đại lý, giúp giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận cho nông dân.
GS-TS VÕ TÒNG XUÂN:Sử dụng phân bón thân thiện với môi trườngCần phân định rõ ĐBSCL có 3 vùng nông nghiệp chính: Vùng thượng nguồn – nước ngọt quanh năm; vùng giữa – ngập sâu trong mùa mưa, khô hạn trong mùa nắng, nước mặn có thể xâm nhập; vùng ven biển – nước ngọt trong mùa mưa, nước mặn-lợ trong mùa nắng. Theo đó, sản xuất lúa ở vùng thượng nguồn có hệ thống thủy lợi cần áp dụng kỹ thuật canh tác an toàn thực phẩm chất lượng cao, bón lót phân hữu cơ vi sinh có pha ít phân khoáng NPK, bón thúc và nuôi đòng với lượng phân khoáng vừa phải. Vùng giữa đồng bằng gồm lúa, thủy sản, mương liếp trồng cây ăn trái, cần tăng cường áp dụng phân bón hữu cơ vi sinh kết hợp ít phân khoáng và thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Vùng ven biển, là vùng sản xuất bền vững nhất: lúa chất lượng cao xen nuôi tôm càng xanh trong mùa mưa và nuôi thủy sản nước lợ/mặn trong mùa nắng. Vùng này cần sản xuất giống lúa chất lượng cao và ngon cơm được sản xuất theo phương pháp an toàn thực phẩm gắn với sử dụng phân hữu cơ vi sinh kèm một ít phân khoáng. |
PGS-TS DƯƠNG VĂN CHÍN, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL:Sản xuất hữu cơ nên tính đến yếu tố thị trườngCác bộ, ngành cần có các giải pháp phù hợp để thích ứng với vật tư nông nghiệp tăng giá trên thế giới. Vùng ĐBSCL cần tập hợp các HTX trong vùng và thuyết phục các nông dân xã viên áp dụng mô hình: Giảm 50% lượng phân bón sử dụng bằng cách chôn vùi phân bón xuống sình nhưng năng suất lúa vẫn không giảm theo nhiều kết quả nghiên cứu khoa học trên thế giới và trong nước. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là một phong trào rộng khắp thế giới. Nhiều nước trên thế giới cũng ưu tiên phát triển nông nghiệp hữu cơ. Việt Nam đã có những thành tựu bước đầu. Diện tích nuôi trồng hữu cơ gia tăng qua từng năm, các ngành hữu quan đã xây dựng tiêu chuẩn để đạt sản phẩm hữu cơ, nhiều công ty dịch vụ trong nước cũng như quốc tế đang làm dịch vụ chứng nhận hữu cơ tại Việt Nam. Nông nghiệp hữu cơ là một chân trời rộng mở. Tuy nhiên nên lưu ý, muốn phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững nên tính đến yếu tố thị trường. |
Ông NGUYỄN THANH TRUYỀN, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnhLong An: Hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vậtĐiều cần thiết hiện nay là tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng phân bón tiết kiệm, tận dụng phân chuồng, phân hữu cơ vi sinh…, bón phân phù hợp theo nguyên tắc 4 đúng: Đúng loại, đúng lúc, đúng liều lượng và đúng cách sử dụng. Theo đó, ngành nông nghiệp địa phương đã tăng cường hướng dẫn nông dân quy trình quản lý dịch hại tổng hợp ngay trên đồng ruộng theo vòng đời phát triển của cây lúa. Nông dân được thấy, hiểu và áp dụng, từ đó hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, bảo vệ được số lượng thiên địch cần thiết, bảo vệ môi trường, sức khỏe con người và giảm chi phí sản xuất. Ngoài ra, ngành tiếp tục tuyên truyền cho người dân nguyên tắc 4 đúng khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật: đúng chủng loại, đúng liều lượng và nồng độ, đúng thời điểm, đúng kỹ thuật. |
Th1129

Xuất bưởi sang Hoa Kỳ cần đáp ứng tiêu chuẩn nào?
Nguồn tin: Báo Nông Nghiệp
Cả nước có 36 vùng trồng bưởi được cấp mã số vùng trồng bưởi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Tổng diện tích được cấp đạt 752 ha. Sản lượng dự kiến đạt trên 13.100 tấn.
Hoa Kỳ là thị trường lớn đầy tiềm năng đối với các loại hoa qua tươi xuất khẩu của Việt Nam. Mỗi năm, nhu cầu tiêu thụ trái cây tại Hoa Kỳ lên tới 12 triệu tấn. Sản xuất trái cây tươi nội địa của nước này hiện chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu, 30% còn lại (tương đương với khoảng 3,6 triệu tấn) phải nhập khẩu.
Theo Cục Bảo vệ thực vật, cả nước hiện có 105.400 sản lượng trên 175.000 tấn, Trung du miền núi phía Bắc có hơn 30.000 ha với sản lượng 253.000 tấn. Riêng ĐBSCL có khoảng 32.000ha với sản lượng khoảng 369.000 tấn… Đây là dư địa và cơ hội rất lớn cho trái cây Việt Nam nói chung và quả bưởi tươi nói riêng để tiếp cận thị trường Hoa Kỳ.
Đoàn công tác của Bộ NN-PTNT và UBND tỉnh Bến Tre thăm nhà đóng gói bưởi da xanh của doanh nghiệp Chánh Thu. Ảnh: Minh Đảm.
Theo quy định của Hoa Kỳ, vùng trồng và cơ sở xử lý trái bưởi tươi của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ phải được đăng ký với Cục Bảo vệ thực vật và Cơ quan kiểm dịch động thực vật Hoa Kỳ (APHIS) và phải được kiểm tra giám sát định kỳ trong suốt vụ bưởi.
Theo đó, các vùng trồng, cơ sở đóng gói bưởi phải có biện pháp quản lý phù hợp để loại bỏ các đối tượng dịch hại mà phía bạn quan tâm. Các loại ruồi đục quả như: Bactrocera dorsalis, Zeugodacus cucurbitae; sâu đục quả Prays endocarpa và các loại nấm Cylindrocarpon lichenicola, Phyllosticta citriasiana.
Đặc biệt, cần lưu ý áp dụng các biện pháp quản lý đối với nấm Cylindrocarpon lichenicola và Phyllosticta citriasiana như: loại bỏ tất cả quả rụng trước khi đưa vào nhà đóng gói; làm sạch, xử lý nấm và phủ sáp toàn bộ quả; loại bỏ hết lá, cuống và các bộ phận khác của cây (trừ cuống ngắn hơn 2,5cm và vẫn còn gắn vào quả).
Bên cạnh đó, các lô hàng bưởi tươi xuất khẩu sang Hoa Kỳ phải được xử lý chiếu xạ với với liều tối thiểu là 150 Gy, kèm theo Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật, trong đó phần khai báo bổ sung phải ghi rõ lô hàng không nhiễm đối tượng kiểm dịch thực vật và được sản xuất theo phương pháp tiếp cận hệ thống.
Đến nay, Cục Bảo vệ thực vật đã và đang phối hợp với các bên liên quan triển khai đồng bộ các giải pháp, đặc biệt là tập trung tập huấn cho người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu bưởi về yêu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Cả nước đã có 36 vùng trồng bưởi của 10 tỉnh gồm: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Phú Thọ, Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương và Đăk Nông được cấp mã số vùng trồng bưởi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Tổng diện tích được cấp đạt 752 ha (chiếm 0,71% diện tích trồng bưởi của cả nước. Sản lượng dự kiến đạt trên 13.100 tấn (chiếm 1,4 % tổng sản lượng bưởi của cả nước).
Tại buổi lễ công bố lô bưởi đầu tiên của Việt Nam được chính thức xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, bà Sarah Gilleski, Tuỳ viên nông nghiệp của Đại sứ quán Hoa Kỳ, lưu ý Cục Kiểm dịch động thực vật Hoa Kỳ sẽ kiểm tra, giám sát tất cả các lô hàng trái cây của Việt Nam vào Hoa Kỳ để đảm bảo rằng không có bất kỳ dịch hại nào đi kèm với cây.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đánh giá thị trường Hoa Kỳ là một thị trường khó tính vào bậc nhất, tuy nhiên nhu cầu về nhập khẩu các loại trái cây tươi vẫn rất lớn. Thời gian tới, Thứ trưởng cũng kêu gọi mọi thành phần tham gia trong chuỗi giá trị nông sản cần phải chung sức, hợp tác để xây dựng thương hiệu bưởi Việt Nam trở nên nổi bật trên thị trường quốc tế.
Ngoài thị trường Hoa Kỳ, thời gian tới Bộ NN-PTNT tiếp tục đàm phán với nhiều nước trên thế giới để đưa các mặt hàng nông sản của nước ta, trong đó có trái cây mở rộng thị trường xuất khẩu.
Bộ NN-PTNT đang giao cho Cục Bảo vệ thực vật tiến hành mở cửa thị trường bưởi sang các thị trường New zealand, Trung Quốc, Hàn Quốc… Do đó, Thứ trưởng đề nghị người dân các tỉnh thành tiếp tục, tập trung đầu tư nâng cao chất lượng, quy trình sản xuất bưởi để đảm bảo xuất khẩu. Bên cạnh đó, ông đề nghị Cục Bảo vệ thực vật triển khai chương trình cấp mã số vùng trồng cho các loại cây ăn quả đảm bảo yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Trong 10 tháng đầu năm 2022 tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả cả nước đạt 2,76 tỷ USD. Riêng trái bưởi tươi xuất khẩu đạt 3.250 tấn, với thị trường xuất khẩu chủ yếu là Hà Lan, Đức, Trung Quốc, Canada…
Th1205