Cà phê Sơn La được mùa, giá cao chưa từng thấy
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
Tới cuối mùa thu hoạch, giá cà phê chè ở Mai Sơn (Sơn La) đạt đỉnh 15.000 đồng/kg tươi, tăng gần gấp 2 lần so với niên vụ năm 2022 – 2023.
Ông Lò Văn Khánh ở bản Lam, xã Chiềng Chung, huyện Mai Sơn (Sơn La) kể, trồng cà phê từ năm 2008 nhưng chưa thấy khi nào thấy cà phê được mùa, được giá như niên vụ 2023 – 2024 mới đây. Đầu vụ bán được 10.000 – 11.000 đồng/kg cà phê tại vườn, ông Khánh đã rất vui vì giá cao hơn mùa vụ trước 2.000 – 3.000 đồng/kg. Không ngờ, giá cà phê tiếp tục tăng đều đặn, tới cuối mùa thu hoạch (30/1/2024) đạt đỉnh 15.000 đồng/kg tươi, tăng gần gấp 2 lần so với niên vụ năm 2022 – 2023.
Vụ vừa rồi, ông Khánh cũng có 1ha cà phê cho thu hoạch gần 20 tấn quả, bán được 230 triệu đồng, cao hơn vụ cà phê năm trước 7 tấn quả về năng suất và 70.000 triệu đồng về trị giá sản lượng. Nhờ đó, ông có dư tiền sang tận xã Chiềng Nơi cách nhà 50km để thuê đồi trồng thêm 2ha cà phê. Theo ông Khánh, so với cây sắn và cây lúa, trồng cà phê luôn cho thu nhập cao gấp nhiều lần.
Ông Khánh cho biết, để trồng cà phê cho năng suất quả cao, ông phải chọn những khu đồi không quá dốc, tầng canh tác dày, đất có màu vàng đỏ, thuận tiện cho thiết kế đường đồng mức để đi lại trồng, chăm sóc và thu hái cà phê. Đặc biệt, vùng trồng cà phê phải có điều kiện thời tiết tương tự như xã Chiềng Chung và chọn trồng giống cà phê chè TN2 đầu dòng, chăm bón bằng các loại phân tổng hợp giàu canxi (vôi) và magie (MgO) như NPK Văn Điển, vì đất đồi ở đây thường có độ chua khá cao.
Cùng xã Chiềng Chung, ông Lò Văn Khải trồng 1,5ha cà phê, thu hoạch được 36 tấn quả, doanh thu 450 triệu đồng, lãi 230 triệu đồng. Ông Khải cho biết, trồng cà phê cơ bản chỉ tốn công chăm sóc và thu hái, bao tiêu đã có thương lái đến mua tận vườn. Ông Khải cũng rất muốn mở rộng diện tích trồng cà phê, nhưng quỹ đất của gia đình và tại địa phương không còn, đi thuê nơi khác thì chưa sắm được xe ô tô nên phải đẩy mạnh thâm canh vườn cà phê đang có và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm để tăng thu nhập.
Ông Hà Văn Phấn, Trưởng bản Lam (xã Chiềng Chung) cho biết, cây cà phê được trồng ở đây từ hơn nửa thế kỷ trước nên hầu như hộ nào tại địa phương nào cũng có đồi cà phê, tổng diện tích cà phê toàn xã ước đạt trên 700ha. Ngoài ra, các hộ vẫn có ruộng gieo cấy lúa và trồng kinh doanh rau xanh các loại. Nhờ vậy, không ít gia đình trong xã đã mua được ô tô làm dịch vụ vận tải hoặc chở khách du lịch, kết hợp thuê, nhượng thêm đất cho trồng cà phê ở những xã vùng sâu, xa hơn.
Sở dĩ cây cà phê chè (Arabica) trồng ở huyện Mai Sơn có thể cho thu hoạch muộn đến hết tháng 1/2024 ở xã Chiềng Chung và một số địa phương khác có độ cao trung bình khoảng 1.200m so mặt nước biển, địa hình có nhiều núi và khe suối, tạo cho nhiệt độ không khí trung bình ở đây thấp hơn chừng 5 độ C so với những xã nằm trên cao nguyên Nà Sản (ven Quốc lộ 6), do vậy cà phê trồng trong khu vực này thường ra hoa, đậu quả và kết thúc mùa vụ thu hoạch muộn hơn cà phê trồng ở các địa phương khác. Qua đó đã giúp rải vụ, kéo dài thời gian thu hoạch cà phê trên địa bàn, giảm áp lực thị trường, tăng giá trị sản phẩm và hiệu quả sản xuất.
Mặt khác, mặc dù có đặc điểm khí hậu nhiệt đới và thời tiết 4 mùa, nhưng lượng mưa ở Chiềng Chung và một số xã trong khu vực lại chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 đến 9, mùa khô tháng 10 đến tháng 3 năm sau, chênh lệch nhiệt độ không khí ngày đêm cũng khá cao (khoảng 12 – 15 độ C) nên cây cà phê thường tăng trọng quả vào mùa mưa, không cần tưới nước trái vẫn to, hạt mẩy đều, tỷ lệ hạt khô/quả tươi đạt 30%, tỷ lệ này ở các xã trồng cà phê ở khu vực cao nguyên Nà Sản chỉ đạt 23%.
Cùng với đó, việc thu hoạch cà phê vào mùa khô rất thuận lợi cho thu hái và phơi sấy. Đây là những lợi thế riêng cho cây cà phê chè trồng ở những khu vùng đồi cao như xã Chiềng Chung nói riêng, tỉnh Sơn La nói chung. Đó cũng là lý do ông Khánh phải kén chọn những khu vực có đặc điểm thời tiết như Chiềng Chung để thuê đất mở rộng diện tích trồng thâm canh cây cà phê.
Theo Sở NN-PTNT Sơn La, toàn tỉnh hiện có gần 21.000ha cà phê chè trồng tại huyện Mai Sơn (hơn 8.500ha), Thuận Châu (gần 6.000ha), còn lại ở các huyện Yên Châu, Sốp Cộp và TP Sơn La. Trong đó có khoảng 19.000ha cà phê đang thời kỳ khai thác kinh doanh, sản lượng cà phê nhân đạt 34.345 tấn.
Từ nhiều năm nay, Sơn La đã hình thành được các mô hình liên kết sản xuất và chế biến cà phê tinh chất. Có 4 sản phẩm cà phê đã được UBND tỉnh Sơn La cấp chứng nhận OCOP (1 sản phẩm cà phê bột nguyên chất 5 sao, 3 sản phẩm 4 sao là Aratay Coffee, Coffee Arabica Minh Trí và Trà quả cà phê.
Tỉnh Sơn La đã được Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ KH-CN) bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cà phê từ năm 2017. Cà phê chè Sơn La có vị chua nhẹ, không hợp thị hiếu người tiêu dùng trong nước, nhưng có giá trị xuất khẩu rất cao sang các quốc gia châu Âu vì phù hợp khẩu vị.
Tới đây, cà phê Sơn La sẽ cho năng suất, chất lượng cao hơn nữa nhờ các ngành chuyên môn tỉnh này đang cùng các nhà nông trên địa bàn đẩy nhanh tốc độ cải tạo, tái canh bằng các giống mới thay thế giống cà phê chè Catimor đã già cỗi, chất lượng thành phẩm không cao sang trồng cây cà phê chè đầu dòng Arabica L, kết hợp với tăng cường thâm canh theo hướng bền vững,
Th1129
Sản xuất an toàn, hữu cơ và kết nối tiêu thụ cho 300 hợp tác xã
Nguồn tin: báo Nông Nghiệp
SƠN LA 300 HTX với khoảng 800 sản phẩm nông sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc sản xuất theo quy trình an toàn, hữu cơ và được liên kết, kết nối tiêu thụ bền vững.
Ngày 22/11 tại Vân Hồ (tỉnh Sơn La), Trung tâm Kiểm nghiệm – Kiểm chứng và Tư vấn chất lượng Nông lâm thủy sản (RETAQ, thuộc Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và Thủy sản (Bộ NN-PTNT) đã ký kết chương trình phối hợp với Trung tâm hỗ trợ Khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo Quốc gia (Cục Quản lý doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ, Bộ KH-CN) và Làng Nông nghiệp khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo quốc gia Techfest.
Mô hình Trạm xanh xử lý phụ phẩm nông nghiệp tại Vân Hồ, Sơn La. Ảnh: Anh Cường.
Mục tiêu của chương trình phối hợp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX và các hộ sản xuất nông sản trong mạng lưới Techfest nâng cao chất lượng sản phẩm, tập huấn và tư vấn cho các chủ thể thực hiện quy trình trồng trọt và chế biến tiên tiến (VietGAP, hữu cơ, sản phẩm thiên nhiên, OCOP…) nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp, hướng đến sản xuất nông nghiệp “thuận thiên”, bền vững.
Tại mô hình Trạm xanh xử lý phụ phẩm nông nghiệp tại Vân Hồ, Sơn La, nông dân mang phụ phẩm đến Trạm để đổi lấy phân hữu cơ, bón lại chính vườn cam của họ. Đây là giải pháp hợp tác hiệu quả để xử lý gần 160 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp của Việt Nam.
Sau gần 2 năm triển khai, đến nay, Hệ sinh thái Làng nông nghiệp Techfest quốc gia đã kết nối 300 HTX sản xuất nông sản với nhiều nguồn lực khác nhau. Qua đó, khoảng 800 sản phẩm nông sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã được sản xuất theo quy trình an toàn, hữu cơ và được kết nối, liên kết tiêu thụ bền vững.
Đối với riêng tỉnh Sơn La, hiện có hơn 3.000 doanh nghiệp và 700 HTX với 84 nghìn ha cây ăn quả, đứng thứ 2 toàn quốc về diện tích; tổng sản lượng trái cây hàng năm của tỉnh hơn 400 nghìn tấn. Với mục tiêu đẩy mạnh phát triển, liên kết chuỗi và mở rộng thị trường, tỉnh rất cần sự hợp tác, hỗ trợ để phát triển, chế biến sâu và tiêu thụ nông sản địa phương, hướng đến xuất khẩu.
Bà Nguyễn Thị Thu, Trưởng Làng Nông nghiệp Techfest quốc gia cho hay: “Kết nối đầu ra thành chuỗi phân phối nông sản an toàn bền vững là một nhiệm vụ trọng tâm của chúng tôi. Đến nay, 300 HTX, doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng, Quảng Ninh… đã được kết nối với 30 cửa hàng và 400 đại lý tiêu thụ nông sản tại các thành phố lớn. Qua đó, hơn 800 sản phẩm nông sản ở nhiều tỉnh, thành phố đã tạo được đầu ra”.
Tuy nhiên, vấn đề được cả cơ quan quản lý và các chủ thể quan tâm là tính thực chất của các chứng nhận chất lượng nông sản để hướng tới nông nghiệp “thuận thiên”, an toàn.
TS Đặng Văn Cường, Trung tâm RETAG cho rằng: Chúng ta đang đẩy mạnh nhiều giải pháp giúp các chủ thể thực hiện sản xuất, trồng trọt, chế biến theo quy trình chất lượng tiên tiến như VietGAP, HACCP, hữu cơ, thiên nhiên, OCOP… Tuy nhiên, việc cấp được chứng nhận này mới chỉ đi được phân nửa chuỗi. Sau đó là phải kiểm tra, giám sát các chủ thể có tiếp tục làm đúng quy trình hay không, có tiếp tục đào tạo nâng cao năng lực cho họ để họ tự biết cách quản trị tốt, biết mở rộng thị trường, biết bảo vệ nhau để giữ uy tín sản phẩm hay không thì hầu như chưa làm được nhiều.
Bản thân việc cấp chứng nhận cho các chủ thể cũng cần đánh giá lại toàn diện và quản lý chặt. Ví dụ huyện Hàm Yên (Tuyên Quang) vừa rồi, gần 6.800ha cam, bưởi, trong đó đặc biệt là dòng cam sành đặc sản đang có nguy cơ chết hàng loạt do việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu không đúng quy trình. Do đó, bản thân các đơn vị đánh giá, cấp chứng nhận sản xuất tiên tiến cần làm chặt chẽ, giám sát định kỳ.
Với sản phẩm OCOP, Bộ NN-PTNT quản lý 16/26 nhóm ngành hàng, do đó cần có hoạt động cụ thể về công tác kiểm nghiệm, đánh giá chất lượng các sản phẩm đã được gắn sao OCOP, đặc biệt là các sản phẩm 4 – 5 sao để giữ uy tín các chứng nhận, giúp các chủ thể yên tâm, tiếp tục đầu tư vào sản xuất an toàn, “thuận thiên”.
Th226