
Hành trình ‘cam Sài Gòn’ bén duyên đất Nam Đông
nguồn tin: Báo nông nghiệp
THỪA THIÊN – HUẾ Bây giờ, ‘cam Sài Gòn’ đã trở thành giống cây trồng chủ lực ở huyện miền núi Nam Đông. Nhưng ít ai biết, để có thành quả hôm nay là cả một chặng đường dài…
Cách đây hơn 40 năm, vùng núi rừng Nam Đông (Thừa Thiên – Huế) là điểm dừng chân của những hộ dân thuộc diện khó khăn sinh sống ở vùng ven đầm phá Cầu Hai (huyện Phú Lộc) và TP Huế di dân đến lập vùng kinh tế mới.
Tại huyện miền núi Nam Đông, vào thời điểm đó, những người đi xây dựng kinh tế mới không chỉ vượt qua khó khăn, phát triển kinh tế gia đình mà còn cùng với địa phương góp phần thay đổi diện mạo vùng đất này, trong số đó có gia đình ông Phan Văn Lâm trú ở xã Hương Xuân, huyện Nam Đông.
Năm nay, người trồng “cam Sài Gòn” ở huyện Nam Đông có một vụ mùa bội thu. Ảnh: Võ Dũng.
Đứng bên vườn “cam Sài Gòn” tiền tỷ rộng 4ha đang vào mùa thu hoạch, ông Lâm tự hào khoe đó là thành quả tích lũy suốt hơn 30 năm quyết tâm làm kinh tế mới của gia đình. Nhiều năm tích góp, đến nay, ông Lâm đã giải quyết được hầu hết các vấn đề kinh tế của gia đình, con cái được học hành, có công việc ổn định và đều có nhà, đất sản xuất. Điều mà theo nhiều người nếu không quyết tâm bám trụ làm kinh tế thì không thể có được.
Ông Lâm chia sẻ, lúc mới cùng gia đình lên định cư làm kinh tế mới ở Nam Đông muỗi nhiều vô kể. Nước cũng không có uống, gia đình ông phải đi tìm suối rất xa để lấy nước về sử dụng và phải dùng tiết kiệm. Đời sống khó khăn và sốt rét rừng khiến nhiều người chịu không nổi phải bỏ về quê. Tuy nhiên, cả nhà ông Lâm động viên nhau, cố gắng vượt khó, bám trụ lại để xây dựng đời sống mới.
Ông Lâm kể, nhiều người đã thắc mắc với ông tại sao cam trồng trên vùng đất Nam Đông lại có tên riêng “cam Sài Gòn” mà không phải tên khác. Đó là vào năm 1980, khi mới lên vùng đất Nam Đông lập nghiệp, bà con lúc đầu chỉ biết trồng mít, dứa, cây cau… Những năm sau, nhà nào có người vào Nam làm ăn cứ đến mỗi dịp lễ Tết về thăm quê đều đem một vài cây cam về tặng.
Vào vụ thu hoạch, người đi hái cam thuê cho các chủ vườn ở huyện Nam Đông có thu nhập từ 250.000 đến 300.000 nghìn đồng/ngày công. Ảnh: Võ Dũng.
Nhận thấy cây cam dễ trồng, thích hợp thổ dưỡng, lại cho quả ngọt và có mùi thơm rất đặc biệt nên người dân ở địa phương thay nhau trồng trên rẫy, vườn, rồi chiết cành, nhân giống, sau đó cam được trồng khắp tất cả các xã trong huyện miền núi Nam Đông. Cũng từ đó, bà con gọi giống cam đó là “cam Sài Gòn” cho đến tận hôm nay.
“Lúc đầu nhiều người chưa quen, bây giờ nhà vườn nào trồng cam ở huyện Nam Đông điều gọi giống cam địa phương là “cam Sài Gòn” để phân biệt với các loại cam khác có nguồn gốc từ xã Đoài (cam Vinh) hay cam Cao Phong”, ông Phan Văn Lâm giải thích cặn kẽ.
Còn với ông Phan Thế Xê, 61 tuổi, trú thôn 9 xã Hương Hòa (huyện Nam Đông), chính nhờ giữ giống “cam Sài Gòn” mà đến nay ông được các chủ vườn đặt cho biệt danh “tỷ phú cam”. Hơn 30 năm, ký ức của những ngày đầu theo gia đình lên vùng đất mới lập nghiệp vẫn còn vẹn nguyên.
5 năm đầu khi bắt tay vào khai hoang là quãng thời gian khó khăn bộn bề đối với gia đình ông Xê. Giải quyết xong vấn đề sốt rét thì việc trồng cây lương thực ngắn ngày không còn cho năng suất. Cái đói, nghèo luôn hiện hữu, bệnh tật rình rập, nhiều lúc ông muốn buông xuôi để trở về quê cũ. Tuy nhiên, sự động viên, chia sẻ của những người cùng chí hướng và với quyết tâm chiến thắng đói nghèo, đến nay, gia đình ông Xê đã có hơn 7ha cam, trong đó chủ yếu vẫn là giống “cam Sài Gòn” đặc trưng.
“Cam Sài Gòn” đã giúp nhiều người dân Thừa Thiên – Huế đổi đời trên quê hương mới. Ảnh: Võ Dũng.
Ông Phan Thế Xê nhớ lại: Hồi đó bà con trồng theo phong trào. Ông cũng vậy, cho nên năm 2005, ông bắt đầu trồng giống cam địa phương mà người dân ở đây vẫn quen gọi là cam Sài Gòn. Vụ đầu, ông trồng 300 gốc, vụ bói thu được 25 triệu đồng. Thời điểm đó, với vợ chồng ông 25 triệu đồng là rất lớn, có ngủ mơ cũng không thấy được.
Thắng lợi, ông mạnh dạn đầu tư thêm. Đến mùa “cam Sài Gòn” đơm hoa, cả gia đình mừng, hoa cam trắng cây, tưởng sẽ được mùa lớn, nhưng chẳng may năm đó thời tiết không thuận, trời mưa to, cam hỏng hết, nhà ông chặt bỏ cây, ôm một món nợ. Nhiều anh em kỹ sư thấy ông buồn, mới dành thời gian để chia sẻ. Nghe chuyện của ông, anh em đã tìm hiểu, chỉ nguyên nhân của sự thất bại. Không ngại khó, ông chuyển sang trồng cam trái vụ. Dành hết vốn liếng, cộng thêm số tiền vay mượn từ người thân, vợ chồng ông mua 4ha đất đồi để trồng thử. Chưa yên tâm, ông mua hẳn một dàn máy vi tính, nối mạng, mày mò học thêm kỹ thuật chăm sóc… Sau 3 năm “ăn cam, ngủ cam”, ông đã bán được lứa cam bói đầu tiên. Năm tiếp theo, thương lái đã bắt đầu tìm đến vườn.
Số tiền bán cam được ông quay vòng, tái đầu tư nên đến nay, gia đình ông đã có hơn 1.000 gốc cam. Vụ cam đầu tiên năm 2015, ông thu hoạch được 48 tấn, trung bình 1,2 tạ/cây, giá bán từ 18 đến 25 nghìn đồng/kg, doanh thu đạt khoảng một tỷ đồng.
Th1107

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ: Tìm hướng đi đúng để tạo đà
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
Thời gian qua, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, nông nghiệp tỉnh nhà đã và đang được thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững, từng bước khắc phục tình trạng quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu ổn định và dễ bị tổn thương do thiên tai, dịch bệnh.
Trồng cây ăn quả theo hướng hữu cơ tại Quang Mỹ Farm ở Hương Hồ (TP. Huế). Ảnh: Đăng Tuyên
Hiện nay, sản xuất nông nghiệp của Thừa Thiên Huế đã định hình và từng bước đi vào ổn định đối với một số loại cây trồng chủ lực như lúa, rau màu các loại, cây ăn quả… Các chính sách tích cực như Nghị quyết 20/2020/NQ-HĐND, Nghị quyết 30/2021/NQ-HĐND của HĐND tỉnh đã dành ngân sách hỗ trợ sau đầu tư từ 15-20 tỷ đồng/năm giúp phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ.
Gian nan tìm cách chứng nhận sản phẩm hữu cơ
Thực tế có 2 phương thức để có chứng nhận sản phẩm hữu cơ: Một là thuê các tổ chức chứng nhận bên thứ 3 trong và ngoài nước đánh giá, chứng nhận với chi phí rất cao. Qua khảo sát, cần 10 triệu đồng/ha chi phí chứng nhận đối với các tổ chức chứng nhận trong nước theo TCVN:11041- 2017. Vấn đề này là bất khả thi đối các mô hình hữu cơ quy mô nông hộ, tổ, nhóm vốn yếu thế; chỉ phù hợp với các tập đoàn lớn cũng như doanh nghiệp quy mô sản xuất lớn, hướng đến thị trường xuất khẩu.
Hai là, chứng nhận hữu cơ theo Hệ thống cùng tham gia đảm bảo chất lượng (Participatory Guarantee System -PGS) là một cơ chế đảm bảo chất lượng với chi phí thấp, giúp bảo đảm chất lượng nông sản và có thể khôi phục lòng tin của người tiêu dùng. Theo Liên đoàn các phong trào Nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (IFOAM) năm 2008, PGS là một hệ thống ở đó có sự tham gia của các bên liên quan vào đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm hướng vào thị trường địa phương. Người sản xuất được xác nhận sự tuân thủ dựa vào sự tham gia tích cực của các bên liên quan, bao gồm cả người sản xuất và người tiêu dùng trong hệ thống. Chi phí chứng nhận thấp, thậm chí không tốn chi phí phù hợp với quy mô sản xuất hữu cơ nông hộ, tổ, nhóm.
Theo Điều 17, Nghị định 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 của Chính phủ về Nông nghiệp hữu cơ: Khuyến khích nông dân, tổ chức, cá nhân tham gia Hệ thống bảo đảm cùng tham gia PGS. Tuy nhiên, vướng mắc theo Nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan không có hướng dẫn cách thức tổ chức, xây dựng hệ thống PGS cũng như phương thức chứng nhận PGS, gây lúng túng cho việc hình thành PGS tại các địa phương.
Trên địa bàn tỉnh đã thành lập ra liên nhóm PGS tại 3 huyện Phú Lộc, Quảng Điền và Phú Vang từ Dự án VIE433. Thế nhưng, những sản phẩm hữu cơ trên được bán theo giá nông sản thông thường do sản phẩm chưa được chứng nhận sản phẩm hữu cơ. Một số doanh nghiệp kinh doanh lại yêu cầu phải có chứng nhận sản phẩm hữu cơ để tiêu thụ trên thị trường có hiệu quả hơn. Vấn đề đặt ra là, phải thành lập Ban điều phối PGS cấp tỉnh tại Thừa Thiên Huế để tập hợp các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, các tổ hợp tác và nông hộ ở địa phương có tâm huyết tham gia vào phát triển nền nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh và chứng nhận sản phẩm hữu cơ.
Tạo sức lan tỏa nông nghiệp hữu cơ
Với sự hỗ trợ từ Dự án Thích ứng và chống chịu với biến đổi khí hậu VIE/433 của Chính phủ Luxembourg (2019) đã hình thành nên các tổ, nhóm nông dân PGS sản xuất rau hữu cơ liên kết nông hộ với diện tích 16,3ha (20 nhóm/181 hộ tham gia) tại các huyện Phú Vang, Phú Lộc, Quảng Điền. Cụ thể: sản phẩm rau má hữu cơ Quảng Thọ, rau hữu cơ Quảng Thành, Mỹ Lợi; gà Quảng Phước; lúa hữu cơ Phú Mỹ, Lộc An; dầu lạc Mỹ Á; góp phần thay đổi nhận thức của người dân về phương pháp canh tác từ vô cơ sang hữu cơ.
Hiện nay, toàn tỉnh đã có 42 hộ dân và 2 HTX đang hợp tác về phát triển chăn nuôi lợn hữu cơ an toàn sinh học (ATSH), liên kết theo chuỗi giá trị với hơn 300 lợn nái và 6.000 con lợn thịt tại các địa phương. Ngoài ra, khoảng 500ha diện tích lúa, ngô, đậu tương sản xuất hữu cơ theo chuỗi giá trị.
Cơ hội mở ra đối với sản xuất nông nghiệp hữu cơ Thừa Thiên Huế là khi Tập đoàn Quế Lâm, một công ty hàng đầu trong sản xuất, kinh doanh phân bón hữu cơ trên phạm vi cả nước mạnh dạn đầu tư nhiều dự án trong lĩnh vực hữu cơ tại tỉnh từ năm 2016: Hệ thống cửa hàng cung ứng sản phẩm nông sản hữu cơ (200 tỷ đồng); Nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, Dự án Tổ hợp chăn nuôi lợn an toàn sinh học 4F (Farm-Food-Feed-Fertilizer) tại xã Phong Thu, huyện Phong Điền với tổng vốn đầu tư 700 tỷ đồng; vùng sản xuất lúa hữu cơ và bao tiêu sản phẩm với diện tích 70ha tại Hợp tác xã nông nghiệp Phù Bài, thị xã Hương Thủy; mô hình hộ chăn nuôi an toàn sinh học 10-30 lợn thịt…
Cần nhiều giải pháp, vai trò
Cần có Đề án nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2026 và định hướng đến năm 2030. Đây là một lợi thế để giúp tỉnh xây dựng một nền nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái, góp phần ổn định đời sống cho người dân trên địa bàn tỉnh gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn và tái cơ cấu toàn diện ngành nông nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, nâng cao năng lực, khả năng tổ chức sản xuất, sức cạnh tranh trong chế biến, tiêu thụ nông sản của tỉnh.
Tiếp đến là phát huy vai trò của Hội Nông nghiệp hữu cơ tỉnh; tiến hành thành lập Ban điều phối PGS Huế cấp tỉnh chịu trách nhiệm thẩm định, chứng nhận PGS các sản phẩm nông sản hữu cơ theo TCVN:11041-2017, góp phần giải quyết vấn đề Chứng nhận hữu cơ ở quy mô nông hộ, tổ, nhóm sản xuất nông nghiệp hữu cơ lâu dài. Phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam để tranh thủ nguồn lực; giúp đào tạo, tập huấn về kiến thức nông nghiệp hữu cơ; chia sẻ kinh nghiệm, chứng nhận PGS và kết nối doanh nghiệp, chuỗi ngành hàng tiêu thụ; xây dựng mô hình liên kết… Bên cạnh đó, cần tích cực tìm kiếm hỗ trợ từ các dự án trong và ngoài nước (ADDA,VIE433), từ doanh nghiệp để có thêm nguồn lực phát triển và lan tỏa phong trào sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn rộng khắp. Công tác truyền thông giới thiệu, quảng bá các sản phẩm, mô hình hữu cơ để người tiêu dùng thấy được giá trị và hiệu quả của sản phẩm mang lại sức khỏe cho cộng đồng cũng cần được tăng cường…
Quang Hòa
Th1114