Th1218
Phát triển lúa gạo bền vững
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Việt Nam là một trong số các nước sản xuất lúa và xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Vị thế của ngành lúa gạo Việt Nam ngày càng được nâng cao không chỉ về sản lượng và giá trị xuất khẩu, mà còn thể hiện ở những phản hồi tích cực của người tiêu dùng thế giới về gạo Việt. Phát triển lúa gạo chất lượng cao, bền vững đang được nước ta đẩy mạnh hiện nay.
Canh tác lúa thông minh, giảm phát thải khí nhà kính đang được thực hiện ở các địa phương ĐBSCL.
Ngành nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long là một trong các vùng sản xuất lúa gạo chính. Sản lượng lúa sản xuất tại vùng những năm gần đây luôn ổn định ở mức 24-25 triệu tấn, chiếm trên 50% sản lượng lúa sản xuất và trên 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước, tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu hộ sản xuất nông nghiệp trong vùng. Với nhiều lợi thế về điều kiện đất đai, khí hậu; người dân cần cù, có truyền thống sản xuất lúa nước lâu đời, cùng với sự mạnh dạn trong áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, ngành lúa gạo của đồng bằng sông Cửu Long đã thu được nhiều thành công và góp phần khẳng định thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thông qua dự án VnSAT, người dân trồng lúa tại đây đã bước đầu quen thuộc với các quy trình canh tác bền vững, hướng tới giảm phát thải, đã bước đầu đo đạc được lượng khí phát thải từ sản xuất lúa.
Bộ NN&PTNT cho biết, trong bối cảnh ba chữ “biến” ngày càng tác động mạnh hơn đối với nông nghiệp, trong đó có ngành hàng lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long là: biến đổi khí hậu, biến động thị trường và biến chuyển xu thế tiêu dùng thế giới. Yêu cầu của thị trường ngày càng cao, quy định của các nước nhập khẩu ngày càng nghiêm ngặt. Đó là chất lượng gạo phải được nâng cao, phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phải tuân thủ trách nhiệm cộng đồng trong bảo vệ môi trường thông qua việc giảm thiểu sử dụng đầu vào sản xuất có nguồn gốc hóa học, sản xuất giảm phát thải; đó là phải nâng cao thu nhập cho người nông dân trồng lúa trên cùng một đơn vị diện tích sản xuất. Tại COP 26, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký cam kết phấn đấu giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Như vậy, có thể thấy ngành lúa gạo Việt Nam đang đứng trước rất nhiều thách thức, khó khăn và yêu cầu phải “chuyển mình”.
Trước những chữ “biến” đó, Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” đã được Chính phủ phê duyệt, ban hành với mục tiêu hình thành được 1 triệu héc-ta vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững nhằm gia tăng giá trị, phát triển bền vững ngành lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người trồng lúa, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các cam kết của Việt Nam với quốc tế.
Ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, cho rằng: Trong quá trình triển khai đề án, chúng ta sẽ thực hiện thí điểm các chính sách mới như: chi trả tín chỉ các-bon dựa trên kết quả; tập trung vào sản xuất phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh; phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng tuần hoàn, tận dụng tối đa phụ phẩm từ sản xuất lúa gạo; khai thác đa giá trị, tạo ra nhiều sản phẩm chế biến từ lúa gạo… Các thí điểm thành công tại ĐBSCL sẽ được mở rộng ra toàn quốc, hướng tới mục tiêu đưa “Phát triển xanh, giảm phát thải, chất lượng cao” trở thành thương hiệu của lúa gạo Việt Nam. Sự thay đổi nhận thức của người sản xuất và kinh doanh lúa gạo; hợp tác công – tư hiệu quả; và sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế như WB, IFC, ADB, IRRI… sẽ là chìa khóa thành công cho đề án.
Ông Cao Đức Phát, Chủ tịch HĐQT Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI), cho rằng: Dự án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh tại ĐBSCL tới năm 2030” là dự án đầu tiên trên thế giới có quy mô lớn theo hướng này. Dự án hết sức cần thiết, cho phép giải quyết đồng thời 3 vấn đề lớn đang đặt ra đối với ngành lúa gạo thế giới và Việt Nam nói riêng. Đó là tăng sản lượng lúa gạo, tăng thu nhập cho nông dân trồng lúa, thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
“Trên thế giới, gạo là lương thực chính của trên 3 tỉ người. Sản xuất lúa gạo là việc làm và thu nhập chính của khoảng 140 triệu hộ nông dân nhỏ, sử dụng 11% đất canh tác toàn cầu. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nhiều nước vẫn thiếu gạo. Thế giới vẫn phải nỗ lực gia tăng sản lượng. Đồng thời, phải bằng nhiều cách nâng cao nhanh hơn thu nhập của nông dân để khuyến khích họ gia tăng sản xuất. Mặt khác, sản xuất lúa gạo là ngành dễ tổn thương trước biến đổi khí hậu nhưng lại cũng là ngành gây phát thải khí nhà kính lớn, đóng góp khoảng 10% phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp, 1,3-1,8% phát thải khí nhà kính toàn cầu. Ở Việt Nam, các tỷ lệ này lớn hơn nhiều. Do vậy, cần sớm có giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính”, ông Cao Đức Phát cho biết.
Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, cho rằng: Để có thể thúc đẩy phát triển ngành lúa gạo, chúng ta sẽ phải đạt được rất nhiều yếu tố, vì ngành lúa gạo sẽ không chỉ đem lại lợi ích cho nông nghiệp, cho nền kinh tế của đất nước, còn phải mang lại sự sống, mang lại thu nhập cho người nông dân và mang lại những đóng góp thiết thực cho hành tinh này. Và Ngân hàng thế giới đồng hành với Bộ NN&PTNT xây dựng Đề án phát triển 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao. Tin tưởng với đề án 1 triệu héc-ta lúa này sẽ hỗ trợ đắc lực cho nông dân Việt Nam, cho nền nông nghiệp của Việt Nam, đóng góp trực tiếp cho nền kinh tế, cũng như cải thiện đời sống của người dân.
Theo bà Carolyn Turk, với sự ứng dụng của khoa học công nghệ, người nông dân ngày nay có thể sử dụng những công nghệ này để sản xuất tốt hơn và thân thiện hơn với môi trường. Khi chúng ta giảm được 25% chi phí sản xuất thì cũng giúp đồng thời tăng sản lượng 10% và điều này sẽ mang lại lợi nhuận tăng lên 30% cho nông dân đạt được đồng thời rất nhiều mục tiêu tốt cho môi trường, cho đời sống của người nông dân và góp phần đảm bảo an ninh lương thực. Chính phủ Việt Nam đã đi rất đúng hướng thông qua những kinh nghiệm mà các nước khác trên thế giới đã trải qua. Ngân hàng thế giới sẽ cam kết đồng hành và hỗ trợ cho đề án 1 triệu héc-ta lúa cho các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, Ngân hàng thế giới sẽ hỗ trợ Việt Nam các cơ chế để có thể tham gia thị trường các-bon tự nguyện, từ đó trong tương lai chúng ta có thể sử dụng được một nguồn tài chính bền vững để chúng ta tiếp tục các hoạt động phát triển và sinh kế.
Giải pháp thực hiện đề án là nông dân giảm lượng lúa giống gieo sạ xuống dưới 70kg/ha, giảm 30% lượng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, giảm 20% lượng nước tưới so với canh tác truyền thống. 100% diện tích áp dụng ít nhất một quy trình canh tác bền vững như 1 phải 5 giảm, tiêu chuẩn sản xuất lúa bền vững, tưới khô xen kẽ và các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt được chứng nhận và được cấp mã số vùng trồng. Bên cạnh đó, 100% diện tích sản xuất vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp có liên kết giữa doanh nghiệp với tổ hợp tác, hợp tác xã hoặc các tổ chức của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; tỷ lệ cơ giới hóa đồng bộ đạt trên 70% diện tích; tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch dưới 8%; 100% rơm được thu gom khỏi đồng ruộng và được chế biến tái sử dụng; giảm trên 10% lượng phát thải khí nhà kính so với canh tác lúa truyền thống. Đặc biệt, giá trị gia tăng trong chuỗi lúa gạo tăng 40%, trong đó tỷ suất lợi nhuận người trồng lúa đạt trên 50%; lượng gạo xuất khẩu mang thương hiệu chất lượng cao, phát thải thấp chiếm trên 20% tổng lượng gạo xuất khẩu của toàn vùng chuyên canh.
HOÀI THANH – HỮU PHƯỚC