Tin tức
Cây lúa trở lại trên đất nuôi tôm
Nguồn tin : báo Cà Mau
Sau nhiều năm vắng bóng, cây lúa đang dần trở lại trên đất nuôi tôm ở huyện Phú Tân. Ðây là tín hiệu cho sự phát triển sản xuất theo hướng bền vững.
Năm 2023, nhiều nông dân xã Phú Mỹ chủ động sản xuất vụ lúa trên đất nuôi tôm. Thực tế đã qua cho thấy, tuy lúa có trúng, có thất nhưng chắc chắn rằng, khi làm được lúa thì tôm nuôi sẽ ổn định và cho năng suất khá. Theo một số nông dân, để làm được vụ lúa trên đất nuôi tôm đòi hỏi nông dân phải quyết tâm, chủ động ngay từ đầu, cần có sự cần cù, chịu khó.
Ông Lâm Văn Tỷ, 54 tuổi, ấp Lung Môn, xã Phú Mỹ làm lúa trên đất nuôi tôm 2 năm nay. Năm 2022, vụ lúa trên đất nuôi tôm của gia đình cho hiệu quả vượt trội, sạ 8 công thu hoạch 70 giạ lúa khô. Ðáng nói là tôm trúng gấp 2 lần so với lúc chưa trồng lúa; tổng thu nhập năm qua trên 200 triệu đồng.
Ông Tỷ tận dụng diện tích đất trước sân nhà khoảng 300 m2 để sạ lúa và chuẩn bị thu hoạch; ước khoảng 10 giạ lúa, ông dùng để nuôi gà, vịt.
Năm nay, ông Tỷ tiếp tục sạ lúa trên đất nuôi tôm, hiện lúa trên 2 tháng, đang phát triển tốt. Ngay từ đầu, ông chủ động rửa mặn để sạ lúa nên đến thời điểm này, lượng nước trong vuông vẫn ngọt để cây lúa phát triển đến khi thu hoạch.
Ông Nguyễn Thanh Bình, 61 tuổi, ấp Phú Thành, xã Phú Mỹ mới làm lúa trên đất nuôi tôm năm nay. Ông gieo mạ trên sân, sau khoảng 1 tháng thì nhổ cấy xuống ruộng. Với 12 kg lúa giống Một bụi đỏ, ông Bình cấy được khoảng 8.000 m2 đất. Hiện lúa đang phát triển tốt, sắp trổ bông.
Bản thân ông Bình hiểu rằng, có cấy lúa thì môi trường nuôi tôm sẽ ổn định và sản lượng thu hoạch tôm sẽ khá. “Từ khi trồng lúa đến giờ, thu hoạch tôm thấy khá hơn. Trước đây đến con nước đặt lú, mỗi đêm chỉ thu được từ 300-500 ngàn đồng, nay tăng lên 3-5 triệu đồng”, ông Bình cho biết.
Năm nay là năm đầu tiên ông Nguyễn Thanh Bình, 61 tuổi, ấp Phú Thành, xã Phú Mỹ, cấy lúa trên đất nuôi tôm. Lúa đang phát triển tốt.
Ông Võ Văn Kiệt, 57 tuổi, ấp Phú Thành, xã Phú Mỹ trồng lúa được 4 năm qua. Trong tổng diện tích đất nuôi tôm của gia đình 12.000 m2, ông cải tạo khoảng 6.000 m2 để trồng lúa. Theo ông Kiệt, trồng lúa tạo môi trường nước sạch, tôm, cua phát triển tốt. Mỗi năm thu nhập từ tôm, cua của gia đình khoảng 100-150 triệu đồng, cao hơn những người dân xung quanh không trồng lúa.
Năm 2023, xã Phú Mỹ có trên 20 hộ dân ở các ấp: Lung Môn, Phú Thành, Thọ Mai… trồng lúa trên đất nuôi tôm, với diện tích trên 15 ha. Lúa hiện đang phát triển tốt. Ông Nguyễn Trường Sơn, Phó chủ tịch UBND xã, cho biết: “Cây lúa không chỉ giúp tăng thu nhập mà còn cải tạo môi trường đất, mang lại thức ăn cho con tôm, giúp nuôi tôm trúng gấp nhiều lần so với bình thường. Chính vì vậy, bà con nơi đây luôn ý thức thực hiện vụ lúa khi điều kiện thời tiết cho phép”./.
Anh Phan
Th1225
Tất bật chuẩn bị vụ bưởi Tết
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Nhà vườn tích cực chăm sóc bưởi để phục vụ thị trường Tết.
Thời điểm này, nhiều nhà vườn tại TX Bình Minh đang tích cực chăm sóc bưởi năm roi để cung ứng phục vụ thị trường Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024. Một số nhà vườn dự báo sản lượng bưởi Tết năm nay giảm mạnh so với năm trước.
Nhiều nhà vườn trồng bưởi năm roi cho hay, năm nay, ngoài chịu ảnh hưởng thời tiết thì có nhiều nguyên nhân khiến bưởi giảm năng suất, sản lượng. Theo đánh giá của nhà vườn, sản lượng bưởi cung cấp ra thị trường Tết năm nay dự báo giảm mạnh.
Có 1ha trồng bưởi năm roi hơn 20 năm, anh Võ Trung Tính (xã Mỹ Hòa) cho hay: Thời tiết năm nay khó xử lý ra hoa, giữ trái, bên cạnh đó, do vườn bưởi lâu năm, khai thác nhiều nên năng suất bưởi cũng không còn cao. Năm ngoái, 1ha bưởi cho sản lượng 15 tấn trong dịp Tết. Tuy nhiên, theo số lượng bưởi ra hoa, đậu trái năm nay thì dự đoán sản lượng bưởi sẽ giảm mạnh.
“Dự đoán năm nay vườn bưởi chỉ cho năng suất tầm 7-8 tấn/ha. Tuổi thọ bưởi hơn 20 năm rồi, nhiều cây già cỗi, nên năng suất cũng giảm. Tuy vậy, tôi vẫn chú trọng chăm sóc vườn bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP để tăng độ đẹp của trái bưởi, phục vụ thị trường Tết năm nay”.
Xã Mỹ Hòa là địa phương có diện tích trồng bưởi năm roi lớn nhất tỉnh. Tuy nhiên, những năm gần đây vì nhiều nguyên nhân khiến diện tích trồng loại cây ăn trái này giảm mạnh. Hiện diện tích trồng bưởi năm roi ở xã chỉ còn hơn 670ha, giảm hơn 400ha so với năm trước.
Theo một số nhà vườn, nguyên nhân chủ yếu là do một số vườn bưởi già cỗi cho năng suất thấp, giá bưởi bấp bênh, nhiều diện tích được người dân cải tạo, chuyển đổi sang trồng các loại cây ăn trái khác…
Diện tích giảm, giá cả bưởi năm roi không ổn định nên nhà vườn cũng khá dè dặt đầu tư bưởi bán Tết. Một số nhà vườn cho hay, việc sản xuất của nhà vườn cũng không tập trung vào dịp Tết như trước mà được rải vụ quanh năm, phần nào cũng làm giảm sản lượng bưởi Tết. Theo đó, nhà vườn dự đoán sản lượng bưởi năm roi phục vụ thị trường Tết năm nay giảm 40-50% so với năm trước.
Cô Nguyễn Thị Huỳnh Hoa (xã Mỹ Hòa) cho hay: “Tôi có 12 công bưởi, những năm trước thu hoạch được 1-2 tấn/công, tuy nhiên vài năm gần đây sản lượng giảm mạnh, năm nay còn ít hơn năm trước, độ chừng vài trăm ký/công.
Nguyên nhân do bưởi bị dịch hại, côn trùng tấn công, làm cho chất lượng, mẫu mã bưởi bị giảm, ảnh hưởng đến năng suất của bưởi vào dịp Tết. Tôi phải thường xuyên thăm vườn, tỉ mẩn trong khâu chăm sóc, phòng trừ các loại côn trùng chích, bảo vệ trái cho đẹp mới bán chợ Tết được giá cao”.
Mặc dù diện tích trồng bưởi giảm, song địa phương vẫn tuyên truyền, vận động nhà vườn sản xuất sạch theo hướng hữu cơ và các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm để nâng cao chất lượng trái bưởi, cung ứng phục vụ thị trường Tết. Hiện toàn xã Mỹ Hòa có 50ha diện tích bưởi được Viện Cây ăn quả miền Nam hỗ trợ xây dựng theo chương trình VietGAP với gần 60 hộ tham gia.
Ông Ngô Văn Sơn- cán bộ nông nghiệp xã Mỹ Hòa, cho biết: Hiện các hộ dân duy trì sản xuất bưởi năm roi theo hướng GAP, VietGAP, GlobalGAP thường có thị trường tiêu thụ ổn định và giá bán cao hơn so với bưởi trồng theo cách truyền thống.
Ông Nguyễn Văn Mạnh- Phó Chủ tịch UBND xã Mỹ Hòa, cho hay: Địa phương tập trung phối hợp các ngành hướng dẫn, tuyên truyền nông dân thực hiện nhiều mô hình trồng theo hướng bưởi sạch, áp dụng sản xuất theo hướng hữu cơ. Tuy giá bưởi năm nay có giảm nhưng người dân vẫn duy trì áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng chất lượng, mẫu mã trái để cung ứng thị trường Tết.
Theo khuyến cáo của ngành nông nghiệp, để cây bưởi cho năng suất cao, mẫu mã đẹp, chất lượng vào đúng dịp Tết, nông dân cần lưu ý đến cách chăm sóc cây. Theo đó, khi cây bưởi đã cho ra trái hình thành ổn định, nên tiến hành tuyển trái cho cây, chỉ để lại những trái đảm bảo chất lượng nuôi vào dịp Tết.
Cần loại bỏ những trái méo mó, không đồng tâm, tâm bị lệch, trái bị chai sượng, không căng nở tròn đều, trái bị sâu bệnh hại tấn công, chỉ để lại những trái to tròn đều, khoảng cách giữa các trái trên một cành đảm bảo. Trung bình chỉ nên để lại 2-3 trái/cành.
Cần chú ý phòng trừ các loại dịch hại và côn trùng tấn công như ruồi đục trái, bọ xít muỗi, nhện đỏ, bọ trĩ, bọ xít xanh,… Ngoài ra, cũng cần phải chú ý đến các loại nấm bệnh như bồ hóng, phấn trắng…
Sản lượng giảm mạnh, nhiều nhà vườn dự báo giá bưởi Tết có thể tăng cao hơn so với mọi năm. Nhà vườn đang tất bật, tập trung chăm sóc, dưỡng trái để tạo mẫu mã đẹp, có chất lượng, cung ứng ra thị trường với hy vọng sẽ có vụ mùa bưởi Tết giá tốt.
Bài, ảnh: NGUYÊN KHANG
Th1219
Chống chanh leo giả bằng QR Code
Nguồn tin : Báo nông nghiệp
Giống chanh leo giá rẻ là chiêu bài mà nhiều cá nhân sử dụng để làm mồi nhử nông dân, khiến người trồng lao đao vì cây năng suất thấp, thậm chí chết yểu.
Nafoods luôn chú trọng vào chất lượng giống cây trồng bên cạnh việc không ngừng tìm hiểu xu hướng thị trường. Sau nhiều năm miệt mài nghiên cứu, trồng thử nghiệm của đội ngũ chuyên gia, cây giống chanh leo tím ngọt Nafoods 1 được ra đời, đáp ứng nhu cầu dùng quả chanh tươi có vị ngọt, không cần pha chế. Ảnh: Thu Hải.
Doanh nghiệp lao đao, nông dân khốn đốn
Ông Hồ Hải Quân, Giám đốc vùng trồng Tây Nguyên thuộc Công ty Cổ phần Nafoods Group, cho biết một trong những điều khiến doanh nghiệp lao đao, nông dân khốn đốn là việc giống giả, giống kém chất lượng được bán tràn lan trên thị trường.
Theo ông Quân, sau gần ba thập kỷ xuất hiện trên thị trường, Nafoods đã tạo dựng được lòng tin với đối tác, khách hàng, bà con nông dân. Tuy nhiên, thời gian gần đây, Nafoods đang phải đối mặt với vấn nạn hàng nhái, hàng giả thương hiệu công ty gây ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín.
Khi bước vào giai đoạn cao điểm xuống giống chanh leo, Nafoods đã phát hiện một số đơn vị cung cấp hàng giả, hàng nhái sản phẩm cây giống chanh leo thương hiệu Nafoods. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến năng suất của nhà vườn khi mua phải cây giống kém chất lượng, không được đảm bảo quyền lợi và làm giảm uy tín của chanh leo Nafoods.
Nhằm hạn chế rủi ro cho khách hàng, công ty đã nhanh chóng thực hiện các chương trình khuyến cáo bà con nông dân khi mua hàng, đồng thời đưa ra cách thức để phân biệt hàng chính hãng Nafoods với hàng giả, hàng nhái.
Một trong số những biện pháp rốt ráo mà Nafoods nhanh chóng đưa ra và thực hiện khá hiệu quả để hỗ trợ bà con dễ dàng phân biệt đó là: Xác thực qua quét mã QR Code trên thùng, Xác thực mã an ninh qua tin nhắn tổng đài. “Quý khách hàng, nhà nông quét mã QR Code để liên kết với kênh Zalo, tổng đài của Nafoods sẵn sàng hỗ trợ và trang khuyến nông này cũng cập nhật thông tin nhanh chóng nhất”, ông Quân nói.
Triết lý được Nafoods đưa ra là phát triển bền vững. Nafoods là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm chanh leo lớn nhất châu Á, sản phẩm của doanh nghiệp này đã có mặt tại hơn 70 thị trường xuất khẩu với phân khúc linh hoạt.
Về trách nhiệm với sản phẩm, Công ty luôn đảm bảo an toàn thực phẩm là ưu tiên hàng đầu. Nafoods cam kết mỗi sản phẩm của mình đều là kết quả của một chu trình sản xuất khép kín, đáp ứng một trong những yêu cầu khắt khe nhất về chất lượng, công ty tiến hành kiểm soát nghiêm ngặt chất lượng từ đầu vào đến đầu ra sản phẩm và đạt chuẩn quốc tế về quy trình sản xuất.
Trải qua gần 30 năm xây dựng và phát triển, Nafoods đang hướng đến tầm nhìn trở thành tập đoàn tiên phong phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp số hóa, xanh và bền vững; thực hiện sứ mệnh cung cấp cho thế giới các sản phẩm nông nghiệp tự nhiên, an toàn và đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người.
Hiện nay, một mặt Nafoods nghiên cứu, sản xuất các giống chanh dây đạt chất lượng; Quá trình liên kết với các hợp tác xã, nông hộ trong trồng, chăm sóc vườn cây, đơn vị thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về trồng chanh dây sạch cho người dân, trong đó, chú trọng hướng dẫn sử dụng các phân bón hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật sinh học để đảm bảo an toàn thực phẩm, an toàn cho người lao động và giảm thiểu tác động đến môi trường. Mặt khác, công ty tập trung đầu tư tối ưu hóa nâng cấp dây chuyền sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đem đến tận tay người tiêu dùng những sản phẩm “Tròn tự nhiên, trọn hương vị”.
Giống chanh leo được bảo hộ
Tính đến nay, Nafoods đã nghiên cứu thành công 3 giống chanh leo mới và đã được cấp bằng bảo hộ độc quyền theo quyết định số 192/QĐ-TT-VPBH ngày 21/6/2019; số 193/QĐ-TT-VPBH ngày 24/6/2019; số 195/QĐ-TT-VPBH ngày 25/6/2019 của Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN-PTNT cho giống chanh leo Quế Phong 1, Bách Hương 1, Nafoods 1 với thời hạn bảo hộ kéo dài 20 năm.
Công ty xác định hướng đi lâu dài, gắn bó với cây chanh leo và đồng hành cùng nhà nông, nên việc đầu tư cơ sở vật chất và tạo ra những cây giống tốt là điều cốt lõi mà công ty hướng đến.
Bên cạnh đó, Nafoods luôn trăn trở tìm ra hướng đi mới, mở rộng sản xuất chế biến từ nguồn nguyên liệu quả tươi để nhà nông yên tâm đầu ra sản phẩm. Chính vì vậy, các hợp tác xã liên kết với Nafoods vẫn hoạt động ổn định trước tình hình nhiều vườn đã bỏ hoang.
Tại Tây Nguyên hiện nay, rất nhiều nhà nông không còn tha thiết với cây chanh leo, khiến các nhà vườn ghép cây giống nhỏ lẻ không còn “hô mưa gọi gió” như thời gian trước. Thực tế này khiến Nafoods càng tin tưởng vào quyết định xây dựng chuỗi liên kết 3 nhà giữa Doanh nghiệp – HTX – Nhà nông.
Ông Hồ Hải Quân, Giám đốc vùng trồng Tây Nguyên thuộc Công ty Cổ phần Nafoods Group đã chia sẻ trong lễ ký kết hợp tác với Hợp tác xã và bà con nông dân về việc thông qua chính sách liên kết hợp tác phát triển vùng trồng và chính sách thu mua nông sản của công ty để nông dân an tâm sản xuất. Ông Quân khẳng định mấu chốt vấn đề là phát triển bền vững, có quy hoạch đối với việc canh tác của bà con nông dân, cũng như việc tiêu thụ sản phẩm quả tươi.
“Nafoods không bao giờ bỏ rơi những người nông dân một nắng hai sương, đồng hành cùng chúng tôi trong việc định vị chanh leo Việt Nam trên bản đồ thế giới”, ông Quân nói.
Tính hết năm 2023, Nafoods đã liên kết trồng chanh leo cùng 28 hợp tác xã, 2.000 nông hộ với hơn 2.200ha. Mục tiêu đến năm 2028, Nafoods sẽ mở rộng vùng chanh leo tại 4 tỉnh trọng điểm ở Tây Nguyên là Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng với diện tích hơn 10.000ha để nhà nông trồng chanh leo có thông tin thị trường, kỹ thuật canh tác chuẩn cũng như đầu ra ổn định.
Công ty cổ phần Nafoods Group được thành lập vào năm 1995; là doanh nghiệp hàng đầu tại Việt Nam trong việc phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp từ khâu giống, trồng, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nước ép trái cây, rau củ quả đông lạnh, trái cây sấy, các loại hạt và hoa quả tươi.
Th1218
Đưa rau sạch đến với người tiêu dùng
Nguồn tin : Báo Long An
Hiểu được giá trị của sản phẩm sạch đối với sức khỏe người tiêu dùng (NTD), Hợp tác xã (HTX) Rau an toàn Việt (hay gọi VietRAT, xã Long Trạch, huyện Cần Đước, tỉnh Long An) quyết định hướng dẫn thành viên trồng rau theo quy trình hữu cơ 100%.
Chị Nguyễn Thị Lan (giữa) tâm huyết với việc đưa rau sạch đến với người tiêu dùng
Trước đây, hàng tuần, chị Nguyễn Thị Lan (Giám đốc HTX VietRAT) thường về huyện Cần Đước đem những món nhà quê như rau, củ, quả do gia đình tự trồng để dùng hoặc gửi tặng bạn bè, người thân. Chị ít khi mua ở ngoài vì sợ rau, củ tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, ảnh hưởng đến sức khỏe. Bạn bè, đồng nghiệp nhận quà của chị Lan nhiều lần cũng ngại nên bảo chị hàng tuần mang rau lên bán bởi họ cũng có nhu cầu sử dụng rau sạch.
Chị Lan quen những người bạn trồng rau hữu cơ nên có cơ hội học hỏi, áp dụng quy trình trồng một cách bài bản, khoa học. Chị bàn bạc với gia đình và những nông hộ xung quanh chuyển từ trồng rau chạy theo năng suất, sản lượng sang chú trọng chất lượng sản phẩm, sức khỏe NTD.
Chị Lan bộc bạch: “Năm 2016, HTX VietRAT được thành lập với 11 thành viên, sản xuất 1ha. Khi mới chuyển sang trồng rau hữu cơ thì năng suất rất thấp, trong khi đó phải tốn công lao động gấp 3 lần so với trồng bằng phương pháp hóa học. Một khó khăn khác, sản phẩm của HTX chưa có đầu ra ổn định, chủ yếu bán cho người quen. Những điều này làm các thành viên HTX nản lòng. Nhiều lần, tôi cũng muốn bỏ cuộc nhưng nhận được sự chia sẻ của gia đình, nhất là phản hồi tích cực của NTD, tôi mới có động lực duy trì, phát triển mô hình đến nay”.
Trồng rau hữu cơ phải hơn 1 năm mới cải tạo được đất tơi xốp, thu hút nhiều thiên địch. Đến năm thứ 2, năng suất cũng đạt. Chị Tô Thị Thu Hà (thành viên HTX VietRAT) chia sẻ: “Gia đình tôi trồng 400m2 rau hữu cơ. Trồng rau hữu cơ tốn nhiều thời gian bởi chủ yếu sử dụng men vi sinh nên phải xịt nhiều lần và nhổ cỏ bằng tay. Sau thời gian trồng theo hướng hữu cơ, rau bán được giá, năng suất không thua so với trồng theo hướng hóa học, thậm chí có thời điểm còn cao hơn”.
Bằng sự nỗ lực, trách nhiệm của chị Lan và các thành viên, đến nay, các sản phẩm rau của HTX đã vào được các chuỗi cửa hàng rau sạch, Winmart, Lotte mart, Go, Co.opXtra,… tại TP.HCM. Bình quân, hàng ngày, HTX cung cấp cho thị trường 500kg rau sạch các loại với giá bán cao hơn 30% so với rau trồng theo phương pháp hóa học.
Chị Lan cho biết thêm: “Hiện nay, HTX mở rộng diện tích sản xuất 7,2ha rau hữu cơ. Thế mạnh của HTX là các loại rau ăn lá và rau mùi. Từ năm 2018 đến nay, HTX chưa tăng giá lần nào. Bán với giá này, các thành viên HTX vẫn có lợi nhuận. Nhờ sản xuất ổn định, HTX giải quyết việc làm thường xuyên cho 20 lao động với thu nhập từ 6-12 triệu đồng/người/tháng”
Sản xuất sạch, hữu cơ là hướng đi tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại. Thực tế hiện nay, NTD rất quan tâm chất lượng sản phẩm. Điều này càng khẳng định. HTX VietRAT đang đi đúng hướng, góp phần đưa sản phẩm sạch đến tay NTD./.
Minh Thư
Th1218
Phát triển lúa gạo bền vững
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Việt Nam là một trong số các nước sản xuất lúa và xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Vị thế của ngành lúa gạo Việt Nam ngày càng được nâng cao không chỉ về sản lượng và giá trị xuất khẩu, mà còn thể hiện ở những phản hồi tích cực của người tiêu dùng thế giới về gạo Việt. Phát triển lúa gạo chất lượng cao, bền vững đang được nước ta đẩy mạnh hiện nay.
Canh tác lúa thông minh, giảm phát thải khí nhà kính đang được thực hiện ở các địa phương ĐBSCL.
Ngành nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long là một trong các vùng sản xuất lúa gạo chính. Sản lượng lúa sản xuất tại vùng những năm gần đây luôn ổn định ở mức 24-25 triệu tấn, chiếm trên 50% sản lượng lúa sản xuất và trên 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước, tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu hộ sản xuất nông nghiệp trong vùng. Với nhiều lợi thế về điều kiện đất đai, khí hậu; người dân cần cù, có truyền thống sản xuất lúa nước lâu đời, cùng với sự mạnh dạn trong áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, ngành lúa gạo của đồng bằng sông Cửu Long đã thu được nhiều thành công và góp phần khẳng định thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thông qua dự án VnSAT, người dân trồng lúa tại đây đã bước đầu quen thuộc với các quy trình canh tác bền vững, hướng tới giảm phát thải, đã bước đầu đo đạc được lượng khí phát thải từ sản xuất lúa.
Bộ NN&PTNT cho biết, trong bối cảnh ba chữ “biến” ngày càng tác động mạnh hơn đối với nông nghiệp, trong đó có ngành hàng lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long là: biến đổi khí hậu, biến động thị trường và biến chuyển xu thế tiêu dùng thế giới. Yêu cầu của thị trường ngày càng cao, quy định của các nước nhập khẩu ngày càng nghiêm ngặt. Đó là chất lượng gạo phải được nâng cao, phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phải tuân thủ trách nhiệm cộng đồng trong bảo vệ môi trường thông qua việc giảm thiểu sử dụng đầu vào sản xuất có nguồn gốc hóa học, sản xuất giảm phát thải; đó là phải nâng cao thu nhập cho người nông dân trồng lúa trên cùng một đơn vị diện tích sản xuất. Tại COP 26, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký cam kết phấn đấu giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Như vậy, có thể thấy ngành lúa gạo Việt Nam đang đứng trước rất nhiều thách thức, khó khăn và yêu cầu phải “chuyển mình”.
Trước những chữ “biến” đó, Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” đã được Chính phủ phê duyệt, ban hành với mục tiêu hình thành được 1 triệu héc-ta vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững nhằm gia tăng giá trị, phát triển bền vững ngành lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người trồng lúa, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các cam kết của Việt Nam với quốc tế.
Ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, cho rằng: Trong quá trình triển khai đề án, chúng ta sẽ thực hiện thí điểm các chính sách mới như: chi trả tín chỉ các-bon dựa trên kết quả; tập trung vào sản xuất phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh; phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng tuần hoàn, tận dụng tối đa phụ phẩm từ sản xuất lúa gạo; khai thác đa giá trị, tạo ra nhiều sản phẩm chế biến từ lúa gạo… Các thí điểm thành công tại ĐBSCL sẽ được mở rộng ra toàn quốc, hướng tới mục tiêu đưa “Phát triển xanh, giảm phát thải, chất lượng cao” trở thành thương hiệu của lúa gạo Việt Nam. Sự thay đổi nhận thức của người sản xuất và kinh doanh lúa gạo; hợp tác công – tư hiệu quả; và sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế như WB, IFC, ADB, IRRI… sẽ là chìa khóa thành công cho đề án.
Ông Cao Đức Phát, Chủ tịch HĐQT Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI), cho rằng: Dự án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh tại ĐBSCL tới năm 2030” là dự án đầu tiên trên thế giới có quy mô lớn theo hướng này. Dự án hết sức cần thiết, cho phép giải quyết đồng thời 3 vấn đề lớn đang đặt ra đối với ngành lúa gạo thế giới và Việt Nam nói riêng. Đó là tăng sản lượng lúa gạo, tăng thu nhập cho nông dân trồng lúa, thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
“Trên thế giới, gạo là lương thực chính của trên 3 tỉ người. Sản xuất lúa gạo là việc làm và thu nhập chính của khoảng 140 triệu hộ nông dân nhỏ, sử dụng 11% đất canh tác toàn cầu. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nhiều nước vẫn thiếu gạo. Thế giới vẫn phải nỗ lực gia tăng sản lượng. Đồng thời, phải bằng nhiều cách nâng cao nhanh hơn thu nhập của nông dân để khuyến khích họ gia tăng sản xuất. Mặt khác, sản xuất lúa gạo là ngành dễ tổn thương trước biến đổi khí hậu nhưng lại cũng là ngành gây phát thải khí nhà kính lớn, đóng góp khoảng 10% phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp, 1,3-1,8% phát thải khí nhà kính toàn cầu. Ở Việt Nam, các tỷ lệ này lớn hơn nhiều. Do vậy, cần sớm có giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính”, ông Cao Đức Phát cho biết.
Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, cho rằng: Để có thể thúc đẩy phát triển ngành lúa gạo, chúng ta sẽ phải đạt được rất nhiều yếu tố, vì ngành lúa gạo sẽ không chỉ đem lại lợi ích cho nông nghiệp, cho nền kinh tế của đất nước, còn phải mang lại sự sống, mang lại thu nhập cho người nông dân và mang lại những đóng góp thiết thực cho hành tinh này. Và Ngân hàng thế giới đồng hành với Bộ NN&PTNT xây dựng Đề án phát triển 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao. Tin tưởng với đề án 1 triệu héc-ta lúa này sẽ hỗ trợ đắc lực cho nông dân Việt Nam, cho nền nông nghiệp của Việt Nam, đóng góp trực tiếp cho nền kinh tế, cũng như cải thiện đời sống của người dân.
Theo bà Carolyn Turk, với sự ứng dụng của khoa học công nghệ, người nông dân ngày nay có thể sử dụng những công nghệ này để sản xuất tốt hơn và thân thiện hơn với môi trường. Khi chúng ta giảm được 25% chi phí sản xuất thì cũng giúp đồng thời tăng sản lượng 10% và điều này sẽ mang lại lợi nhuận tăng lên 30% cho nông dân đạt được đồng thời rất nhiều mục tiêu tốt cho môi trường, cho đời sống của người nông dân và góp phần đảm bảo an ninh lương thực. Chính phủ Việt Nam đã đi rất đúng hướng thông qua những kinh nghiệm mà các nước khác trên thế giới đã trải qua. Ngân hàng thế giới sẽ cam kết đồng hành và hỗ trợ cho đề án 1 triệu héc-ta lúa cho các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, Ngân hàng thế giới sẽ hỗ trợ Việt Nam các cơ chế để có thể tham gia thị trường các-bon tự nguyện, từ đó trong tương lai chúng ta có thể sử dụng được một nguồn tài chính bền vững để chúng ta tiếp tục các hoạt động phát triển và sinh kế.
Giải pháp thực hiện đề án là nông dân giảm lượng lúa giống gieo sạ xuống dưới 70kg/ha, giảm 30% lượng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, giảm 20% lượng nước tưới so với canh tác truyền thống. 100% diện tích áp dụng ít nhất một quy trình canh tác bền vững như 1 phải 5 giảm, tiêu chuẩn sản xuất lúa bền vững, tưới khô xen kẽ và các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt được chứng nhận và được cấp mã số vùng trồng. Bên cạnh đó, 100% diện tích sản xuất vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp có liên kết giữa doanh nghiệp với tổ hợp tác, hợp tác xã hoặc các tổ chức của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; tỷ lệ cơ giới hóa đồng bộ đạt trên 70% diện tích; tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch dưới 8%; 100% rơm được thu gom khỏi đồng ruộng và được chế biến tái sử dụng; giảm trên 10% lượng phát thải khí nhà kính so với canh tác lúa truyền thống. Đặc biệt, giá trị gia tăng trong chuỗi lúa gạo tăng 40%, trong đó tỷ suất lợi nhuận người trồng lúa đạt trên 50%; lượng gạo xuất khẩu mang thương hiệu chất lượng cao, phát thải thấp chiếm trên 20% tổng lượng gạo xuất khẩu của toàn vùng chuyên canh.
HOÀI THANH – HỮU PHƯỚC
Th1215
‘Đắng – ngọt’… với cà phê
Nguồn tin: Kinh tế sài gòn online
(KTSG Online) – Người trồng cà phê ở nhiều địa phương năm nay rất phấn khởi khi thu hoạch được giá cao và có lúc lên tới 70.000 đồng/kg. Giá hạt cà phê lên cao nhất suốt hàng chục năm qua cũng khiến doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này vui lây vì phần nào sẽ giúp người trồng có hy vọng để gắn bó sau nhiều năm giá tuột dốc mạnh.
Dù vậy, vẫn có không ít doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này buồn bã với kết quả sau thuế bị sụt giảm, thậm chí là thua lỗ, đặc biệt là một số doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Niên vụ 2022-2023, người trồng cà phê ở nhiều địa phương năm nay rất phấn khởi khi thu hoạch được giá cao và có lúc lên tới 70.000 đồng/kg.
“Vị ngọt” đến với người trồng cà phê
Sau rất nhiều năm cầm cự với giá từ trung bình đến thấp, hiện nông dân trồng cà phê lại nhiều tỉnh thành như Lâm Đồng, Đăk Lăk, Đắc Nông, Bình Phước… phần nào đã thấy được hy vọng từ loại cây trồng này.
Bởi lẽ, niên vụ thu hoạch cà phê 2022-2023 vừa qua, nhiều người trồng cà phê rất phấn khởi khi cà phê được giá rất cao. Giá cà phê có lúc lên tới 70.000 đồng/kg, mức giá cao nhất suốt hàng chục năm qua.
Gia đình chị Ánh Mai, hộ nông dân trồng cà phê ở Buôn Hồ (Đắk Lắk) mùa vụ vừa qua thu hoạch được 3 tấn cà phê nhân đầy phấn khởi khi lần đầu tiên bán được giá trên dưới 55.000 đồng/kg.
“Mười mấy năm rồi, năm nay cà phê có giá cao nhất”, chị Ánh Mai nói, và cho biết: “Cũng thật là may mắn khi gia đình tôi vẫn duy trì trồng cây cà phê đến hiện nay. Bởi có thời điểm giá cà phê chỉ trên dưới 25.000 đồng/kg. Không đủ vốn và công sức bỏ ra nên gia đình tôi từng có ý định chặt bỏ cây cà phê chuyển sang trồng loại cây khác”.
Còn gia đình anh Lê Văn Dũng ở Bình Phước có hơn 2 héc ta cà phê cho thu hoạch gần 38 tấn quả tươi. Sau nhiều năm chán nản vì giá cà phê hạt xuống thấp, năm nay, giá thu mua đã tăng bật trở lại, khiến người trồng cà phê rất vui. Hơn 10 năm trồng cà phê, chưa khi nào ông Dũng chứng kiến giá cà phê “đạt đỉnh” như năm nay. Giá thu mua cà phê tươi hiện nay khoảng 12.000 đồng/kg cao so với 9.000 đồng/kg năm ngoái.
Niềm vui không chỉ riêng với hộ chị Ánh Mai hay gia đình anh Văn Dũng mà nhiều người nông dân trồng cà phê trong niên vụ thu hoạch vừa qua đã gặt hái được “trái ngọt” sau nhiều năm phải “ngậm vị đắng” vì giá cà phê thấp kéo dài, không đủ tiền vốn và công sức bỏ ra… Nhiều người vì thấy trồng cây cà phê không hiệu quả nên cũng đã chặt bỏ chuyển sang trồng cây khác như tiêu, sầu riêng, chuối, bơ…
Người trồng cà phê ở nhiều địa phương năm nay rất phấn khởi khi thu hoạch được giá cao và có lúc lên tới hơn 70.000 đồng/kg. Ảnh minh họa: N.K
Nhiều năm qua, nông dân trồng cà phê vẫn luôn cầm cự trong mức giá từ rất thấp đến trung bình và không thể đảm bảo cuộc sống nếu chỉ trông chờ vào cà phê.
Dù vậy, đa số các hộ trồng cà phê lâu năm vẫn duy trì diện tích cây trồng này. Cà phê mất mùa – mất giá hoặc được mùa – mất giá, được giá – mất mùa là câu chuyện thường xuyên lặp lại nhiều năm qua khiến không nhiều nông dân còn giữ được niềm tin để tiếp tục tái canh loại cây này. Còn với những nông hộ đã gắn bó, kiên trì với cây cà phê suốt nhiều năm qua, giờ đây được xem là lúc họ tận hưởng thành quả “ngọt ngào” khi thu hoạch.
Có thể thấy giá cà phê năm nay đã giúp người trồng giải quyết được nhiều vấn đề cũng như tái đầu tư cho mùa vụ sau. Chị Ánh và anh Dũng cũng thể hiện niềm vui hạnh phúc và cho rằng với giá cà phê như hiện nay giúp người trồng như anh chị được niềm tin và hy vọng để tiếp tục theo đuổi canh tác trồng cây cà phê. Cả hai người cũng tin rằng cái Tết sắp đến, gia đình sẽ sung túc và nhà cửa sẽ đủ đầy hơn mọi năm.
… và “vị đắng” với các nhà chế biến xuất khẩu
Nhờ giá cà phê tăng rất cao mà dù niên vụ cà phê 2022-2023 (từ tháng 10-2022 đến tháng 9-2023) có sản lượng thấp hơn niên vụ trước đó, nhưng giá trị xuất khẩu vẫn tăng cao.
Theo số liệu của Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam (Vicofa), niên vụ cà phê 2022-2023 (từ tháng 10-2022 đến tháng 9-2023), xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 1,66 triệu tấn, giảm 4,5% so với niên vụ 2021-2022. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu vẫn tăng 3,4% lên mức kỷ lục 4,08 tỉ đô la Mỹ nhờ giá tăng cao.
Đây cũng là mức kim ngạch cao nhất trong các niên vụ từ trước đến nay. Giá xuất khẩu cà phê trung bình của Việt Nam đạt 2.451 đô la/tấn, tăng 5,5% so với niên vụ trước.
Ông Nguyễn Nam Hải, Chủ tịch Vicofa, cho biết trong gần 30 năm của ngành cà phê xuất khẩu, chưa bao giờ giá cao như năm nay khi giá nội địa từng ghi nhận mốc 71.000 đồng/kg (năm 2011 – thời hoàng kim của cà phê, giá chỉ 50.000 đồng/kg).
Dù giá cà phê năm 2023 tăng cao, nhưng trước đó, nhiều diện tích cà phê đã chuyển đổi để trồng sầu riêng, cây ăn trái… do những năm trước giá cà phê xuống quá thấp, nông dân chưa đầu tư nhiều cho cây cà phê (trừ các công ty cà phê và một số hợp tác xã).
Mặt khác, yếu tố biến đổi khí hậu, nhất là hiện tượng El Nino gây khô hạn, ảnh hưởng lớn đến sản lượng cà phê robusta cả nước. Điều này dẫn đến lượng cà phê đến tay các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này có thời điểm trở nên khan hiếm. Trong những năm qua, cũng chưa bao giờ tháng 8 mà lượng cà phê của Việt Nam đã cạn, nhưng trong năm đã xảy ra.
“Doanh nghiệp kinh doanh cà phê lâu năm cũng bất ngờ vì sản lượng cà phê thực tế của Việt Nam năm nay ít hơn hẳn so với dự báo. Điều này khiến cho lượng cà phê xuất khẩu cuối vụ thiếu hụt so với mọi năm”, một vị đại diện của Vicofa chia sẻ.
Điều này dẫn đến có thời điểm khi nhiều doanh nghiệp đã bán trước vào đầu vụ lúc giá còn thấp, hoặc có doanh nghiệp ký hợp đồng bán trước với giá thấp, khi thu mua hàng thì thị trường tăng giá dẫn đến thua lỗ. Đáng chú ý, cà phê tăng giá cũng khiến các doanh nghiệp phải bỏ vốn nhiều hơn trong khi vốn là điểm yếu của doanh nghiệp Việt, nhất là khi so sánh với các tập đoàn nước ngoài.
Tại Hội nghị Cà phê Quốc tế châu Á diễn ra ở TPHCM gần đây, ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch HĐQT Intimex Group và là Phó Chủ tịch Vicofa, cũng cho biết giá tăng cao và nhu cầu nhập hàng lớn khiến cho cà phê Việt Nam bị khan hiếm kéo dài, điều mà chưa từng thấy trong lịch sử ngành cà phê trong 30 năm nay.
“Bản thân nhà cung ứng nội địa không mua được hàng theo hợp đồng đã ký, hoặc họ cũng bị hủy hợp đồng. Do đó, các nhà cung ứng nội địa không giao cà phê đúng theo hợp đồng, dẫn đến rất nhiều khó khăn với nhà xuất khẩu”, ông Nam nói, và cho biết: “Thời điểm từ cuối tháng 5 đến tháng 10 vừa qua, các doanh nghiệp như bị bị vỡ trận… Lâu lắm rồi, kinh doanh cà phê chưa gặp phải tình trạng như thế này”.
Theo ông Nam, từ 30 năm trở lại đây, chưa bao giờ ngành cà phê Việt Nam thiếu hàng như năm nay, bởi lẽ thông thường các doanh nghiệp chỉ bán 50%, lượng tồn kho còn lại 50%. Nhưng năm nay, kho trữ hàng hết sạch, dẫn đến niên vụ 2022-2023, ngành cà phê Việt Nam phải nhập khẩu hơn 100.000 tấn cà phê từ Brazil và Indonesia về chế biến.
Bên cạnh giá tăng cao/mỗi phiên giao dịch ở sàn London (Anh); lãi suất trong nước vay cao, trong khi tỉ giả VND thấp so với đồng USD nên doanh nghiệp xuất khẩu cà phê gặp khó khăn, không ít doanh nghiệp thua lỗ. “Niên vụ cà phê năm nay người trồng rất vui, nhưng lại là một năm không vui với nhiều nhà kinh doanh xuất khẩu cà phê”, vị Phó Chủ tịch Vicofa, nhận định.
Trên thực tế các doanh nghiệp cà phê, nhất là các đơn vị đang giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán kinh doanh quí 3 ghi nhận lợi nhuận sau thuế giảm, thậm chí thua lỗ so với với cùng kỳ năm ngoái.
Đơn cử Cà phê Thắng Lợi (Mã: CFV) thua lỗ 1,8 tỉ đồng quí 3, đúng với thời điểm khan hiếm cà phê ở thi trường trong nước. Theo giải trình của công ty, do tình hình kinh doanh gặp khó khăn, giá cà phê trong nước tăng đột biến, việc thu mua cà phê khó khăn dẫn đến khối lượng hàng bán giảm. Lũy kế 9 tháng đầu năm, Công ty lãi ròng 724 triệu đồng, giảm 61%.
Còn Công ty Cà phê Phước An (CPA) lỗ hơn 1,4 tỉ đồng trong quí 3, đánh dấu 9 quí liên tiếp lỗ ròng, kể từ quí 3-2021. Sau 9 tháng, Công ty lỗ gần 9 tỉ đồng.
Hay Cà phê Gia Lai (FGL) lỗ quí 3 hơn 3 tỉ đồng. Như vậy, sau 9 tháng đầu năm 2023, FGL lỗ 9,5 tỉ đồng. FGL cho biết, trong 9 tháng đầu năm, Công ty vẫn chưa thu được doanh thu bán cà phê nhân xô, do thời gian thu hoạch cà phê nhân xô của FGL từ tháng 10 đến tháng 12. Trong khi, toàn bộ chi phí quản lý doanh nghiệp gần 3,8 tỉ đồng và chi phí tài chính (lãi vay các hợp đồng vay vốn cá nhân và doanh nghiệp) 5,7 tỉ đồng kết chuyển vào lỗ. Mặt khác, Công ty cũng không có doanh thu bán chuối do dự án kém hiệu quả và đã thanh lý từ cuối năm 2022.
Minh Khanh Capital Trading Public (CTP) có quí lỗ đầu tiên trong năm nay với 134 triệu đồng, cùng kỳ lãi 129 triệu đồng. Nhờ 2 quí trước có lãi (quí 1 lãi 232 triệu đồng, quí 2 lãi 87 triệu đồng) mà sau 9 tháng, Công ty lãi gần 185 triệu đồng, giảm 44%.
Tuy nhiên, vẫn có một số doanh nghiệp dự báo được thị trường và có sự chuẩn bị trước nên cũng mang lại hiệu quả và lợi nhuận cao.
Giá cà phê sẽ tiếp tục ở mức cao
Lãnh đạo Vicofa dự báo, niên vụ cà phê 2023-2024 sẽ thu hoạch muộn hơn niên vụ trước, cùng nguồn cung vụ mới sẽ giảm khoảng 10%, trong bối cảnh nắng nóng kỷ lục khiến sản lượng cà phê Brazil sụt giảm nhiều chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu thế giới. Đây là những yếu tố giúp xuất khẩu cà phê sẽ được lợi về giá.
Ngoài ra, ngành cà phê cũng kỳ vọng sẽ biến thách thức thành cơ hội bằng việc đáp ứng các quy định mới của thị trường EU như quy định về chống phá rừng và suy thoái rừng của EU (EUDR); luật Thẩm định chuỗi cung ứng; quy định giảm phát thải khí nhà kính; cơ chế điều chỉnh biên giới các bon (CBAM) và chứng chỉ các bon…
Với dự báo này, Vicofa cho rằng giá cà phê sẽ tiếp tục ở mức cao do nhu cầu thị trường vẫn lớn, đặc biệt là EU giai đoạn từ nay đến tháng 4 năm sau. Cùng với đó, tại Trung Quốc, giới trẻ cũng ngày càng ưa thích cà phê hơn trà.
Theo ông Đỗ Hà Nam, niên vụ 2023-2024, sản lượng cà phê của Việt Nam dự kiến giảm nhẹ, khoảng 1,6-1,7 triệu tấn. Năng suất cà phê tăng ở Lâm Đồng nhưng giảm ở nhiều tỉnh khác như Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông.
Diện tích vùng trồng cà phê đang tiếp tục có xu hướng giảm, đặc biệt ở Đắk Lắk, Đắc Nông. Thu hoạch muộn hơn mọi năm do mưa tại các vùng trồng chính.
Về xuất khẩu, ông Đỗ Hà Nam, phân tích sản lượng xuất khẩu cà phê dự kiến giảm, đặc biệt sau tết Nguyên Đán vào tháng 2-2024. Cà phê vụ mới đang chào bán mức 60.000 đồng/kg, giao hàng tháng 12-2023 và tháng 1-2024. Mức giá này cao hơn nhiều so với vụ trước do nhu cầu mua lớn của các doanh nghiệp xuất khẩu và doanh nghiệp FDI.
Dự kiến mức giá chào bán này sẽ còn tiếp tục tăng đến tháng 4-2024 do người dân sẽ hạn chế bán ra. Giá nội địa sẽ tiếp tục đứng ở quanh mức 60.000 đồng/kg, có thể còn tăng sau Tết nhưng sẽ khó tăng cao.
Ông Nam dự báo, khả năng sẽ không xảy ra tình trạng trễ hạn giao hàng trong vụ mới do các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam và FDI đều rút kinh nghiệm từ vụ trước.
Niên vụ 2022-2023 (từ tháng 10-2022 đến tháng 9-2023), giá trị xuất khẩu cà phê Việt Nam tăng 3,4% lên mức kỷ lục 4,08 tỉ đô la Mỹ nhờ giá tăng cao. Các nhà kinh doanh cà phê kỳ vọng niên vụ 2023-2024, iá trị xuất khẩu sẽ lên 4,5 tỉ đô la.
Th1215
Ngồi ghế, đi giày, mặc comple làm cỏ ruộng rau
Nguồn tin: báo nông nghiệp
Bí quyết của HTX Nông nghiệp Tiền Lệ là sạch, từ lâu người dân ở vùng trồng rau này không sử dụng thuốc trừ cỏ, lượng phân bón và thuốc hóa học giảm đáng kể.
Dẫn chúng tôi thăm vùng trồng rau sạch lớn nhất Hà Nội, ông Nguyễn Văn Hào, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Tiền Lệ, huyện Hoài Đức cho biết, HTX có 500 hộ sản xuất rau trên tổng diện tích trên 40ha, trong đó 33ha đạt tiêu chuẩn VietGAP.
Ông Hào cho hay, thời gian qua, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hà Nội tổ chức nhiều lớp tập huấn kỹ thuật chăm sóc rau an toàn cho bà con trong HTX. Đồng thời, các cơ quan chức năng huyện và thành phố cũng thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra, giám sát quy trình sản xuất rau của xã viên HTX tại thực địa.
“Trước đây, khi chưa có sự hỗ trợ, bà con nông dân có thói quen sử dụng phân chuồng chưa qua ủ, nhưng từ sau khi tập huấn đã tuân thủ đúng quy trình, sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật nằm trong danh mục cho phép và thực hiện đúng thời gian cách ly. Đồng thời, cũng chuyển sang dùng các loại phân bón hữu cơ. Chính người sản xuất đã ý thức được việc phải đảm bảo sức khỏe cho bản thân”, ông Hào nói.
Ông Nguyễn Khắc Đạo, chủ hộ sản xuất trên vùng rau 2,5ha cho hay, 100% nông dân sản xuất trong HTX đã được đào tạo, tập huấn, được cấp chứng chỉ và có kiến thức hiểu biết về an toàn thực phẩm. Riêng khu canh tác rau 2,5ha thực sự là một mô hình điển hình đáng nhân rộng. 100% diện tích canh tác đều có sổ nhật ký, ghi lại từ ngày gieo hạt cho đến ngày thu hoạch. Trong quá trình này phải ghi rõ lượng hạt, lượng phân bón, lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng.
Cũng theo ông Đạo, trước đây, bà con chủ yếu dùng phân hóa học, hơn 20 kg/sào nhưng hiện đã chuyển sang bón phân vi sinh, không quá 7 kg/sào, giảm hơn 70% lượng phân bón hóa học so với trước. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng tương tự. Trước chủ yếu dùng thuốc hóa học, nhưng nay đã chuyển sang dùng thuốc sinh học. Thuốc sinh học có nhiều ưu điểm như thời gian cách ly ngắn, độ độc thấp, đảm bảo an toàn thực phẩm, tuy nhiên, giá thành còn hơi cao.
“Giá rau ở vùng sản xuất này luôn đắt nhất thành phố Hà Nội. Bà con lại không phải lo đầu ra vì hiện có 5 – 6 đơn vị liên kết thu mua. Đến HTX Tiền Lệ, bà con ngồi ghế, đi giày, mặc comple… làm rau bởi không gian canh tác sạch, đảm bảo sức khỏe, làm ra những luống rau an toàn cho mọi người. Đã từ lâu rồi người dân ở vùng sản xuất rau này không sử dụng thuốc trừ cỏ, toàn bộ việc làm cỏ tại các ruộng rau đều được nhổ thủ công bằng tay”, ông Đạo tự hào khoe.
Bà An Hà Liên, Giám đốc Cty TNHH Sản xuất – Dịch vụ Liên Anh, một trong những doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ rau của HTX Tiền Lệ cho hay, bà rất yên tâm, tin tưởng về chất lượng và dư lượng đối với những sản phẩm rau an toàn do HTX Tiền Lệ cung cấp.
Theo bà Đặng Thị Thu Thủy, Trạm trưởng Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Hoài Đức, hiện HTX Tiền Lệ chủ yếu dùng các loại phân hữu cơ đã ủ hoai mục, sử dụng nguồn nước mặt, nước ngầm đã được kiểm định, tuyệt đối không sử dụng các nguồn nước ô nhiễm. Đồng thời, lượng phân bón và thuốc hóa học sử dụng giảm đi đáng kể.
Trạm thường xuyên cử cán bộ kiểm tra, giám sát định kỳ việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật của bà con nông dân, làm việc với chính quyền địa phương, lập biên bản vi phạm hành chính khi xảy ra trường hợp vi phạm. Bên cạnh đó, Trạm cũng đề nghị chính quyền địa phương tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh của địa phương về kỹ thuật sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn, hiệu quả, thuốc nằm trong danh mục.
“Tổng sản lượng rau cung cấp ra thị trường của HTX Tiền Lệ đạt trên 3.000 tấn/năm, doanh thu bình quân 600 – 700 triệu/ha/năm, riêng với khu nhà lưới đạt gần 1 tỷ đồng ha/năm. Hiện HTX có 4 sản phẩm đạt OCOP 4 sao là rau dền, mùng tơi, cải ngồng, cải mơ”, ông Nguyễn Văn Hào, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Tiền Lệ cho biết.
Th1128
Vùng bưởi 30ha khẳng định thương hiệu nhờ sản xuất VietGAP
Nguồn tin: báo nông nghiệp
YÊN BÁI Xã Quy Mông (Trấn Yên, Yên Bái) hiện có hơn 90ha cây có múi, trong đó có hơn 30ha bưởi. Cây bưởi ở đây đã dần khẳng định tên tuổi nhờ sản xuất theo VietGAP.
Sản xuất chuyên nghiệp hơn nhờ quy trình VietGAP
Gia đình anh Trần Mạnh Hiến ở thôn Tân Thành là một trong những hộ trồng bưởi lâu năm tại xã Quy Mông. Mỗi năm anh có nguồn thu gần 100 triệu đồng từ 200 gốc bưởi trong vườn nhà. Để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, anh Hiến trồng xen kẽ nhiều giống bưởi khác nhau như bưởi da xanh, Cát Quế, bưởi Diễn…
Trước đây, anh Hiến cũng giống như nhiều hộ dân khác trong vùng canh tác bưởi chủ yếu sử dụng phân bón hóa học và dùng thuốc BVTV theo kinh nghiệm, thói quen, thiếu khoa học. Trong 3 năm trở lại đây, quá trình trồng, chăm sóc cây bưởi của gia đình anh đã thay đổi hoàn toàn khi được tham gia tập huấn kỹ thuật canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP.
Theo anh Hiến, trồng cây ăn quả mà không sử dụng thuốc BVTV gần như là điều không thể. Canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP là hạn chế tối thiểu việc sử dụng thuốc BVTV, chủ yếu sử dụng các chế phẩm sinh học để phòng trừ sâu bệnh, chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thực sự cần thiết, sinh vật gây hại vượt ngưỡng và phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sử dụng, thời gian cách ly…. Quá trình sử dụng thuốc BVTV phải ghi chép, theo dõi nghiêm ngặt để đảm bảo chất lượng sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
Sản phẩm bưởi của anh Trần Mạnh Hiến (thôn Tân Thành, xã Quy Mông) trồng theo tiêu chuẩn VietGAP được khách hàng ưa chuộng. Ảnh: Thanh Tiến.
Anh Hiến cho biết canh tác theo phương tiêu chuẩn VietGAP mặc dù có chút khó khăn và vất vả nhưng hiệu quả thu được lại lớn hơn rất nhiều, sản phẩm quả thơm, ngon, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, khách hàng tin tưởng nên bán được giá cao hơn.
Không chỉ gia đình anh Hiến, hiện nay nhiều hộ dân khác trên địa bàn xã Quy Mông đã xây dựng được mô hình trồng bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP đạt chất lượng. Người dân đã tích cực tìm hiểu và học hỏi kỹ thuật trong từng khâu từ làm đất, trồng, bón phân, tỉa cành, tưới nước…, đặc biệt là phòng trừ sâu bệnh hại trong từng giai đoạn phát triển của cây.
Mô hình trồng bưởi của gia đình anh Trần Xuân Thịnh ở thôn Tân Thành (xã Quy Mông) thay vì sử dụng phân bón hóa học, chất kích thích, thuốc BVTV hóa học như trước đây hiện đã chuyển sang sử dụng các loại phân chuồng được ủ hoai mục và các loại chế phẩm vi sinh để phòng trừ sinh vật gây hại. Trong quá trình chăm sóc, làm cỏ, anh chỉ sử dụng máy phát cỏ định kỳ để khống chế, kiểm soát cỏ dại chứ tuyệt đối không sử dụng thuốc diệt cỏ.
Nhờ áp dụng nghiêm ngặt quy trình canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP, vườn bưởi của gia đình anh Thịnh luôn xanh tốt, phát triển khỏe mạnh, sạch sâu bệnh hơn so với trước đây; nền đất tơi xốp, giàu dinh dưỡng.
Anh Thịnh chia sẻ. “Đa phần diện tích cây ăn quả được trồng trong vườn gần nhà, nên việc áp dụng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hạn chế thuốc BVTV nên môi trường sống được đảm bảo. Phải dành nhiều thời gian hơn cho vườn bưởi, theo dõi từng dấu hiệu của sâu bệnh để phòng trừ sớm. Chủ động cắt tỉa cành, mầm chồi để cây bưởi phát triển tốt, bón phân hữu cơ đúng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây để cho chất lượng quả có vị thơm ngon, đậm đà hơn”.
Khẳng định thương hiệu bưởi Quy Mông
Để nâng cao giá trị cây ăn quả có múi và hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất, từ năm 2021, chính quyền xã đã khuyến khích các hộ dân thành lập HTX Cây ăn quả Quy Mông. HTX có 30 thành viên và trên 70 hộ liên kết sản xuất. Các thành viên HTX liên kết với nhau cùng phát triển sản phẩm bưởi theo chuỗi giá trị khép kín từ khâu trồng, chăm sóc tới tiêu thụ sản phẩm.
Ông Đỗ Xuân Sang – Giám đốc HTX cho biết: Để trồng bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP, các thành viên trong HTX đều được tập huấn và áp dụng quy trình chăm sóc nghiêm ngặt; ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng, chăm sóc, đảm bảo an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đồng thời, liên kết để mở rộng dần diện tích, tìm thị trường tiêu thụ ổn định để nâng cao đời sống cho người trồng cây ăn quả.
Hiện nay, xã Quy Mông có hơn 70 hộ trồng bưởi đạt tiêu chuẩn VietGAP với các giống bưởi như: Bưởi Diễn, da xanh, Cát Quế, bưởi đỏ… Sản phẩm bưởi của Quy Mông đã có tem truy xuất nguồn gốc, có bao bì, nhãn mác đáp ứng thị hiếu của khách hàng. Sản phẩm bưởi Quy Mông đã được công nhận là sản phẩm OCOP, không chỉ được bán tại địa phương mà còn được tiêu thụ qua mạng xã hội facebook, kênh bán hàng thương mại điện tử shopee và webside của HTX… Nhờ đó, thị trường tiêu thụ sản phẩm ngày càng mở rộng.
Ông Phùng Tiến Hiển – Phó Chủ tịch UBND xã Quy Mông cho biết, đến nay, Quy Mông đã có gần 90ha cây ăn quả có múi các loại, trong đó có trên 30ha trồng bưởi tập trung theo tiêu chuẩn VietGAP. Chính quyền xã đã tạo điều kiện giúp các hộ dân tham gia các lớp tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật giúp tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, xã cũng tập trung tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi đất lúa, đất vườn, đất đồi canh tác kém hiệu quả sang trồng các loại cây có thế mạnh của địa phương; phát triển từng vùng sản xuất tập trung, nhất là các loại cây ăn quả để nâng cao thu nhập.
Với mục tiêu trọng tâm là phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa tập trung, liên kết theo chuỗi giá trị, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, xã Quy Mông đã đề ra mục tiêu đến năm 2024 sẽ nâng hạng sản phẩm OCOP bưởi Quy Mông từ 3 sao lên 4 sao, từ đó nâng cao giá trị kinh tế cho sản phẩm bưởi, giúp nông dân làm giàu.
Th1128
Hòa Bình: Huyện Cao Phong hối hả vào vụ thu hoạch cam
Nguồn tin: Báo Hòa Bình
Từ cuối tháng 10, các hộ gia đình, nhà vườn cũng như các hợp tác xã (HTX) trên địa bàn huyện Cao Phong (Hòa Bình) hối hả vào vụ thu hoạch cam niên vụ 2023 – 2024, trong đó chủ yếu là cam lòng vàng. Với vị ngọt đậm đà, vỏ ngoài có hương dầu đặc trưng, cam Cao Phong vẫn được nhiều người tiêu dùng tin tưởng lựa chọn.
Nông dân thị trấn Cao Phong, huyện Cao Phong thu hoạch cam CS1.
Hiện, toàn huyện Cao Phong có trên 1.740 ha cây ăn quả có múi, trong đó diện tích trồng cam trên 1.350 ha; diện tích thời kỳ kinh doanh gần 1.330 ha; diện tích cam trồng theo tiêu chuẩn VietGAP 536 ha. Qua khảo sát tại chợ dân sinh và các nhà vườn, HTX, tùy từng loại cam, kích cỡ quả mà giá bán lẻ giao động từ 15.000 – 25.000 đồng/kg. Nhanh tay lựa chọn những quả cam vỏ rám, màu vàng đậm, chị Nguyễn Thị Hồng Thương, phường Thái Bình (TP Hòa Bình) cho biết: Từ nhiều năm nay, gia đình tôi rất thích mua cam Cao Phong nên tôi biết cách chọn những quả cam ngon, ngọt. Với thời tiết hanh khô đầu đông, ăn cam để tăng sức đề kháng và bổ sung vitamin là rất cần thiết, nhất là với trẻ nhỏ. Tôi tin tưởng lựa chọn cam tươi của các nhà vườn, hộ sản xuất trồng theo tiêu chuẩn VietGAP để cho gia đình sử dụng.
Là một trong những HTX nỗ lực xây dựng thương hiệu cam Cao Phong hữu cơ, nhiều năm nay, chăm sóc cam theo quy trình VietGAP đã được các hộ thành viên của HTX 3T nông sản Cao Phong (thị trấn Cao Phong) áp dụng. Bởi vậy, trên vỏ cam không thể tránh khỏi một số vết nhỏ do ruồi châm, nhện… Để đảm bảo chất lượng quả cam tươi khi đến tay người tiêu dùng, HTX bắt đầu thu hoạch cam từ 2 tuần trước. Chị Vũ Thị Lệ Thủy, Giám đốc HTX 3T nông sản Cao Phong cho biết: Những năm gần đây, với nhu cầu muốn được tiêu dùng sản phẩm an toàn của nhiều khách hàng, HTX không chỉ tiêu thụ qua kênh bán hàng truyền thống. Mỗi ngày, các hộ thành viên đều vào vườn cắt cam để đảm bảo quả luôn tươi, mới, đáp ứng các đơn hàng của khách tại các tỉnh, thành đặt hàng qua zalo, facebook, thậm chí là cả sàn thương mại điện tử. Bởi quy trình sản xuất nghiêm ngặt hoàn toàn hữu cơ, tuyệt đối không sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, sản phẩm trước khi đến tay người tiêu dùng được sục rửa ozone và chọn lọc kỹ nên giá bán lẻ cam của HTX sẽ cao hơn so với mặt bằng chung của thị trường khoảng 30%. Thời điểm này, HTX đã thu hoạch trên 10% diện tích.
Là hộ thành viên của Hội Người trồng cam thị trấn Cao Phong, từ khi bước vào niên vụ mới, ngày nào bà Bùi Thị Lan cũng tất bật trong vườn để cắt cam trả đơn cho khách hàng. Theo bà Lan chia sẻ, cam vừa là cây trồng để phát triển kinh tế, vừa là loại đặc sản địa phương mà tự tay bà trồng được để chia sẻ cho các thành viên trong gia đình thưởng thức. Vì thế chất lượng của cam và sự an toàn cho sức khỏe luôn là tiêu chí được đặt lên hàng đầu. Cùng sự đồng hành, hướng dẫn của Hội Người trồng cam thị trấn Cao Phong, diện tích cam gần 2 ha của gia đình bà đã áp dụng quy trình chăm sóc theo tiêu chuẩn VietGAP nhiều năm nay. Niên vụ này, giá cam bán tại vườn của gia đình dao động từ 20.000 – 25.000 đồng/kg. Vườn cam của gia đình bà nằm dọc bên đường, vì thế, ngoài các khách hàng quen và khách địa phương, cam của gia đình còn được bán cho nhiều khách du lịch từ các tỉnh, thành phố khi đến huyện tham quan, trải nghiệm.
Với hương vị đặc trưng, khó có thể nhầm lẫn với các loại cam khác, thời gian qua, cam Cao Phong đã khẳng định được vị trí trên thị trường. Cùng với việc chỉ đạo, khuyến khích nông dân, các hộ sản xuất, HTX chăm sóc tốt diện tích cam thời kỳ kinh doanh, huyện Cao Phong đang tập trung thực hiện tái canh cây cam theo Đề án tái canh cây ăn quả có múi của tỉnh. Đồng chí Bùi Văn Dán, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Cao Phong cho biết: Dự kiến sản lượng cam niên vụ 2023 – 2024 đạt khoảng 18.000 – 20.000 tấn. Giá trung bình của loại cam chín sớm như cam lòng vàng hiện nay dao động từ 18.000 – 20.000 đồng/kg; một số giống cam khác giá tương đối ổn định. Từ sau khi cam Cao Phong được cấp chứng nhận Chỉ dẫn địa lý, cùng với chú trọng nâng cao chất lượng, đa dạng chủng loại sản phẩm từ cam, huyện đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân nâng cao ý thức giữ gìn thương hiệu cam Cao Phong; kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm làm ảnh hưởng đến thương hiệu nông sản đặc trưng của địa phương cũng như của tỉnh. Bên cạnh đó, đối với thực hiện Đề án tái canh cây có múi của tỉnh cũng như tái canh cây cam trên địa bàn huyện, trước mắt huyện xây dựng cánh đồng mẫu trồng cam. Định hướng sau này cánh đồng mẫu sẽ trở thành địa điểm để nông dân, du khách các nơi đến học hỏi kinh nghiệm, tham quan, trải nghiệm.
Thu Hằng
Th1121
Ngành nông nghiệp hướng đến xuất khẩu rau đạt 1-1,5 tỉ đô la Mỹ
Nguồn tin: Kinh tế Sài Gòn online
(KTSG Online) – Trong đề án về phát triển các vùng sản xuất rau an toàn, đảm bảo truy suất nguồn gốc gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ đến năm 2030 vừa được phê duyệt, Việt Nam hướng đến giá trị kim ngạch xuất khẩu rau đạt 1-1,5 tỉ đô la Mỹ. Ngoài ra, tổng diện tích rau ước tính sẽ đạt 1,2-1,3 triệu héc-ta, sản lượng từ 23-24 triệu tấn.
Những hộ gia đình sản xuất rau cần liên kết với doanh nghiệp thông qua hợp tác xã và tổ hợp tác để sản xuất rau tại các vùng tập trung, gắn với tiêu thụ sản phẩm. Ảnh: TL
Theo TTXVN, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa phê duyệt đề án về phát triển các vùng sản xuất rau an toàn, đảm bảo truy xuất nguồn gốc gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ đến năm 2030.
Cụ thể, tổng diện tích rau của cả nước tính đến năm 2030 sẽ đạt 1,2-1,3 triệu héc-ta. Sản lượng rau trên cả nước đạt từ 23-24 triệu tấn, trong đó, sản lượng rau phục vụ cho chế biến từ 1-1,3 triệu tấn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu rau đến năm 2030 đạt khoảng 1-1,5 tỉ đô la Mỹ.
Mục đích của đề án là phát huy lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng địa phương, phục vụ nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong và ngoài nước, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cho phát triển sản xuất, chế biến rau.
Trên cơ sở này, các địa phương sẽ xác định quy mô vùng sản xuất rau tập trung trong phương án quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và các quy hoạch khác có liên quan; thực hiện chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; phối hợp với các doanh nghiệp định hướng quy mô vùng trồng rau, ưu tiên các vùng tập trung; hình thành các chuỗi liên kết sản xuất rau từ giai đoạn xây dựng vùng trồng đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Trúc Đào
Th1225