Kỹ Thuật
Sâu hại chính trên cây bơ
Mọt đục thân, cành (Polyphagous shot hole borer): Gây hại cho nhiều loại cây trồng: Bơ, sầu riêng, ca cao, điều…
Tác hại: Mọt đục lỗ vào thân, cành, tạo hầm, đẻ trứng, một ổ 30 – 50 trứng, trứng nở, mọt non tiếp tục đục khoét. Vết đục có màu đen, ướt do nấm fusarium cộng sinh trên cơ thể mọt. Mọt đục làm cành khô, dễ gãy.
Triệu chứng: Thân, cành có lổ đục, rỉ nhựa. Các vết đục trên thân, cành do mọt đục cành gây ra
Bọ xít muỗi (Helopeltis): Trứng và bọ xít muỗi non và thành trùng.
Bọ xít muỗi có hai loại màu nâu đỏ và xanh. Vòng đời khoảng một tháng, biến thái không hoàn toàn, ấu trùng có 5 tuổi, ấu trùng và thành trùng giống nhau về hình dạng, con cái đẻ 50 – 150 trứng trong mô cây trên thân, chồi hay lá non.
Tác hại: Bọ xít muỗi non và thành trùng chích hút lá non, phác hoa làm hoa khô, chích trái non làm trái rụng, trái già bị chai, trái nứt. Bọ xít trưởng thành hại nhiều hơn con non. Gây hại chủ yếu vào lúc sáng sớm hay chiều mát (sau 5 giờ chiều).
Phòng trừ vết chích do bọ xít muỗi trên lá: Tỉa cành thông thoáng. Xông khói xua đuổi. Phun thuốc: Sec Saigon 10, 25EC, Sherzol 205EC, Sapen alpha 5EC…
Nhện (Oligonichus persia mite): Gây hại bằng cách chích hút nhựa trên lá, trái non. Phòng trị triệu chứng trên lá: Tỉa cành thông thoáng. Phun thuốc: Dầu khoáng SK Enspray 99EC, Comda 250EC, Comda gold 5WG. Phun nhiều nước, phun kỹ mặt dưới lá.
Bọ trĩ (Scirtothrips): Gây hại bằng cách chích hút nhựa trên lá, trái, bông. Triệu chứng trên lá có màu đồng. Da trái có triệu chứng “da cá sấu”. Trên bông làm bông khô, rụng. Trái bị hại giảm cấp, nhưng thịt trái vẫn ăn được.
Phòng trị trái bị triệu chứng “da cá sấu” do bọ trĩ: Tỉa cành thông thoáng. Dùng dầu khoáng SK Enspray 99EC, Comda gold 5WG, Comda 250EC. Hỗn hợp Sairifos 585EC, Saliphos 35EC + Dầu SK Enspray 99EC.
Rệp sáp (Cocuss sp): Đa ký chủ. Tác hại: Rệp chích hút nhựa, tiết nước bọt có độc tố, làm biến dạng mô phân sinh. Rệp bài tiết mật ngọt thu hút kiến, tạo điều kiện cho nấm bồ hống phát triển. Phòng trị: Phun thuốc Sairifos 585EC + Butyl 10WP , Sairifos 585EC, SK + Sairifos 585EC.
Sâu ăn lá, gặm quả: Sâu ăn trụi lá làm chết cây con và làm giảm sức tăng trưởng cây lớn. Có thể tìm thấy sâu trên lá, trên cành hoặc vỏ thân cây. Ban ngày, sâu ẩn núp dưới gốc cây, đêm đến bò ra phá hại.
Sâu cuốn lá (Gracilaria perciae): Bướm đẻ trứng trên lá non, trứng nở thành sâu, sâu nhả tơ cuốn lá lại để làm tổ. Sâu làm nhộng trong các tổ lá, khoảng 5 – 7 ngày sau, vũ hóa.
Phòng trừ sâu cuốn lá, ăn lá và gặm quả: Phun thuốc có tính xông hơi, hay nội hấp: Sairifos 585EC, Saliphos 35EC, Comda gold 5WG.
TH.S HUỲNH KIM NGỌ
Báo nông nghiệp
Th1029
Chăm sóc cây bơ giai đoạn làm bông
So với các loại cây ăn quả khác, bơ là loại cây dễ trồng, khả năng thích nghi rộng, chống chịu khá với các bất lợi của môi trường như hạn hán, gió, đất nghèo dinh dưỡng. Ngoài vấn đề về dinh dưỡng, bơ còn là một loại trái cây khá an toàn, do có vỏ dày nên hạn chế được các loài sâu hay côn trùng chích hút, thuốc bảo vệ thực vật rất ít được dùng cho cây bơ.
Bơ là loài cây ăn trái đặc sản, có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, kiến thức kỹ thuật giống cây trồng còn hạn chế, đặc biệt là trong giai đoạn lúc làm bông và quản lý dinh dưỡng cho cây.
Việc sử dụng thuốc hóa học trong thời kỳ ra hoa của cây bơ thì không nên vì cây thụ phấn nhờ vào côn trùng
Thạc sĩ Phạm Công Trí – Trưởng bộ môn hệ thống Nông Lâm nghiệp – Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên hướng dẫn cách chăm sóc cây bơ giai đoạn làm bông.
Theo Thạc sĩ, sau khi dứt mùa mưa, cây bơ bắt đầu phân hóa mầm hoa, lúc này cần làm vệ sinh vườn cây: cắt bỏ cành không tốt, sâu bệnh, tạo hình, làm thông thoáng tán cây sẽ giúp cây ra hoa hiệu quả hơn.
Những vùng có gió hoặc dãi nắng, cần trồng cây kết hợp đai rừng để cản gió sẽ tốt cho bơ. Giúp cây thụ phấn tốt, ta nên nuôi ong hoặc côn trùng trong vườn.
Về dinh dưỡng cho cây: Cần làm cỏ gốc và bón phân hữu cơ – lân cho cây.
Việc bón phân hữu cơ – lân có 2 quy trình: phân đơn hoặc NPK.
Bón phân giai đoạn cây ra hoa, làm bông và nuôi trái
Đối với quy trình phân đơn trong giai đoạn cây ra hoa, làm bông và nuôi trái, có những lần bón phân quan trọng như sau:
– Sau thu hoạch và đã làm vệ sinh vườn cây, cắt tỉa cành xong, bón từ 4 – 6 kg SA và 0,5 – 1 kg super lân, sau đó tưới nước giúp nuôi hoa.
– Trước khi ra hoa (giai đoạn nhú cựa gà): từ 20 ngày đến 1 tháng, tiến hành bón phân lần 2 nhằm phục hồi, phân hóa mầm hoa bơ với hàm lượng phân như sau: 0,2 – 0,3kg phân Ure + 0,5kg lân và 0,2kg Clorua Kali, trong đó, lân chúng ta bón riêng để tránh sự tương tác giữa lân và Ure, ta có thể trộn chung Ure và Clorua Kali để bón 1 lần. Khi hoa ra đều, ta có thể phun Kali Nitrat giúp hoa bung đều.
Đối với những loại bơ phải rụng lá mới ra hoa thì ta phải phun phân bón lá điều hòa dinh dưỡng gồm phân Ure và KNO3 với tỉ lệ 3 – 4/1000.
– Giai đoạn ra hoa, thụ phấn, lá non phát triển thì ta bắt đầu quan sát cây, nếu thấy cây đủ dinh dưỡng thì chỉ cần tưới nước, nếu cây thiếu dinh dưỡng thì tiến hành phun phân bón lá.
+ Khi cây bật mầm hoa: không bón phân gốc.
+ Sau khi trái đậu đều, to bằng chiếc đũa, ta bón thúc trái lần 1 gồm: 0,3 –0,5kg phân Ure + 0,2 kg Super lân và 0,3kg Kali.
– Trước khi thu hoạch: bón bổ sung thêm từ 0,2 – 0,3kg Ure + 0,3 – 0,4kg Kali Clorua. Trên những vùng đất Bazan thường chua và nghèo vi lượng nên trong qui trình sử dụng phân đơn ta nên bón thêm vôi và phân vi lượng với hàm lượng từ 0,5 – 1kg vôi/năm/cây, thường nên bón vào đầu mùa mưa và trước gia đoạn làm hoa. Kết hợp với lần bón phân thứ 1 khi chuẩn bị ra đọt và lần 3 sau khi đậu trái, ta bón kết hợp: 4 – 5kg Sunfat kẽm + 5 – 6kg Sunfat Magie và 6- 7 kg phorat. Ba loại phân này rất quan trọng cho cây: hạn chế lá bị dị dạng ảnh hưởng đến việc đậu trái. Những năm thứ 9, 10 năng suất tăng, chúng ta bón tăng từ 20 – 30% lượng phân vừa được khuyến cáo trên.
Hiện nay, nông dân chuộng sử dụng phân NPK chuyên dùng hơn là phân đơn, khi đó chúng ta cần lưu ý như sau:
– Sau khi thu hoạch: sau khi làm vệ sinh cây xong, phần gốc cây, ta bón NPK thúc mầm với tỉ lệ: 18:12:8 hoặc 20:20:10 sau đó tưới nước, giữ ẩm cho cây.
– Phần trên thân cây: dùng phân bón lá giàu hữu cơ và vi lượng, bón từ 1 – 2 lần, mỗi lần cách nhau 7 – 10 ngày.
– Khi ngồng hoa ra đều, đạt, chuẩn bị nở: bón NPK thúc hoa + tăng đậu trái với công thức: 7:17:12 TE, sau bón tưới nước đều.
– Khi hoa đã đậu, quả đã bám: bón NPK chuyên dùng có hàm lượng kali cao hơn, khuyến khích dùng theo tỉ lệ: 14:10: 17 TE (Tây Nguyên) kết hợp phun phân bón lá.
Việc sử dụng thuốc hóa học trong thời kỳ ra hoa thì không nên vì cây bơ thụ phấn nhờ vào côn trùng. Khi thấy bơ có hiện tượng lớn nhanh, nứt trái ta phun phân bón lá giàu canxi, canxi clorua giúp trái đều, vỏ cây chắc, phẩm cách và chất lượng trái cao hơn.
Làm bông để cây bơ có năng suất
Những lưu ý của kỹ sư Ngô Văn Huy – Công ty Bayer Việt Nam – những giải pháp dinh dưỡng cho cây bơ khi làm bông để cây bơ có năng suất cao và bền vững.
Cần lưu ý 2 vấn đề:
1. Nước tưới: cây bơ cần độ ẩm thấp nhưng không quá thấp, vừa phải, kết hợp tưới nước nhiều lần, có thể từ 10 – 15 ngày/lần, đối với cây bơ trong giai đoạn kinh doanh thì cần lượng nước từ 150 – 200 lít/gốc/lần, tưới 3- 4 lần/năm.
Trong giai đoạn ra hoa, cây rất nhạy cảm, cần độ ẩm vừa đủ, không nhiều, nếu nhiều sẽ gây ra hiện tượng rụng hoa, không đậu quả.
2. Dinh dưỡng:
– Cân đối lượng phân bón NPK, không quá cao, đọt bị chùn và hoa sẽ không ra được, nên theo tỉ lệ: 2:1:1 hoặc 1:1:1
– Cây trong giai đoạn đang kinh doanh nên bón từ 3 – 4 đợt/năm, 1 đợt vào mùa khô, 3 đợt vào mùa mưa, khi bón phân ta có thể tạo bồn hay làm rãnh có độ sâu từ 10 – 15 cm, sau đó lấp đất lại và tưới giúp rễ hấp thụ phân tốt hơn.
– Cần theo dõi thường xuyên để phát hiện và xử lý kịp thời các nấm bệnh trên cây bơ làm cây cho năng suất thấp như thối rễ, ghẻ ở vỏ.
Nguồn voh.com.vn
Th1011
Kĩ thuật trồng chanh tứ quý
Cây chanh tứ quý còn được gọi với tên khác là chanh tứ thời, chanh 4 mùa, là loại cây họ bưởi có nguồn gốc từ chang Lim Ca Châu Mỹ.
1. Thời vụ trồng:
Thời vụ trồng tốt nhất là vào mùa mưa để cây phát triển tốt và đỡ công tưới ban đầu
– Miền Bắc trồng vào 2 vụ chính vụ xuân và vụ thu.
– Miền Trung và miền Nam có thể trồng vào mùa xuân, cuối mùa khô, đầu mùa mưa.
2. Loại đất canh tác:
Chanh có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng tốt nhất là đất thịt tơi xốp và nhiều mùn. Độ pH thích hợp từ 5 – 8, chanh không chịu úng nước và mặn do đó cần đào kênh hoặc lên luống cao để thoát nước.
3. Chuẩn bị đất trồng:
Hố được đào trước trồng 1-2 tháng, Kích thước hố trồng 0,6 x 0,6 x 0,6m với vùng đất thấp hố đào sâu 30-40cm, đất đồi đào sâu 60-80cm. Bón lót phân chuống vào hố trước : Phân chuồng hoai mục: 20-30 kg; phân lân 0,5 kg; kali 0,1kg; vôi bột 1 – 1,5 kg.Trộn đều lượng phân với đất, dùng cuốc phá thành hố sau đó rải vôi lên mặt hố và lấp đất mỏng. Tiếp đó bơm nước vào đầy hố, khoảng 10-15 ngày sau là trồng được.
4. Khoảng cách trồng:
Khi trồng thuần chanh thì cây cách cây là 2,5 x2,5m, khi trồng xen canh với các cây rau màu thường là 3,5m x 3-4m. Như vậy khi trồng thuần thì mật độ là 1.600 cây/ha. Trồng xen mật độ là 900 cây/ha. Nếu vùng đất thấp phải có đê bao khép kín, có hệ thống thủy lợi tưới tiêu hoàn chỉnh, đắp mô cao 0,5-0,6m, rộng 0,8-1m. Nếu vùng đất cao mặt đất bằng phẳng đắp mô cao 0,3-0,8m, rộng 0,8-1m.
5. Cách trồng:
Trồng bằng cây giống, đặt cây tùy số lượng nhánh nhiều cành bên hay ít mà đặt nhánh thẳng hay hơi nghiêng. Đặt nghiêng đối với cây chiết ít nhánh, giúp các đọt bên mọc lên để tạo tán. Sau khi trồng xong phải cắm cọc để buột thân cây cho gió khỏi lay làm đổ cây. Nếu là cây ghép xoay mắt ghép về hướng gió chính, lấp đất ngang cổ rễ hoặc cao hơn 1– 2 cm , tránh làm vỡ bầu hay lấp đất quá sâu. Năm đầu nên trồng xen đậu đỏ, lạc hay các loại rau khác.
6. Chăm sóc:
– Hạn chế ánh sáng: Trong thời gian đầu ta có thể trồng xen cây họ đậu vào trong vườn để hạn chế giông gió, đổ ngã và che bớt ánh sáng.
– Giữ ẩm: Đậy tủ gốc cho cây vào mùa khô, nhằm hạn chế chi phí tưới nước, trong vườn nên để cỏ cao 20-40cm để hạn chế nắng nóng vào mùa khô và chống xói mòn hay tăng cường thoát nước trong đất vào mùa mưa.
– Tưới nước: Cung cấp nước cho cây điều độ, muốn cây ra hoa, ngưng tưới cho khô gốc 20-30 ngày, sau đó tưới lại cây sẽ ra hoa.
– Tỉa cành tạo tán: Hạn chế cành vượt, loại bỏ những cành già cỗi sâu bệnh, giúp cây thông tháng, có dáng đẹp, tăng khả năng quang hợp và cây phát triển cân đối đủ sức mang trái.
– Bồi đất cho cây: Vào thời kỳ bón thúc cho cây nên cho thêm đất mới vào tán cây dầy 2-3cm cùng kết hợp việc bán phân hữu cơ hoai hay phân hóa học.
7. Qui trình bón phân:
– Bón phân thúc: Thay đổi tùy theo tính chất đất, năng suất…
* Bón 20-30 kg phân chuồng + 1- 2 kg tro/hốc/ năm (bón 1-2 lần/năm). Riêng phân hóa học được sử dụng bình quân như sau (cho mỗi cây):
* Năm thứ nhất: 0,5-1,0kg sulfat đạm (nếu dùng urê bón 0,25-0,5kg) + 0,3-0,5kg NPK (16-16-8)
* Năm thứ hai: 1,0-2,0kg sulfat đạm (nếu dùng urê bón 0,5-1,0kg) + 0,3-0,5kg NPK (16-16-8).
* Năm thứ ba trở đi: 2,0-2,4kg sulfat đạm (nếu dùng urê bón 1,0-1,2kg) + 0,5kg NPK (16-16-8) + 1 kg vôi. Do thu quả rải rác nên chia phân ra bón từ 4 – 5 lần/ năm.
8. Tạo quả trái vụ:
Có thể cho ra quả trái vụ bằng cách xiết nước. Ngưng tưới nước, tưới phân, hạn chế nguồn cung cấp dinh dưỡng cho cây khoảng 3 – 4 tuần, sau đó bón phân và tưới nước trở lại, cây sẽ cảm ứng và cho hoa quả sớm hơn thường lệ.
9. Chống hiện tượng cách niên:
Cần bón phân đầy đủ để tránh cây bị kiệt sức, vào những năm được mùa cần tăng thêm phân. Cần chủ động tỉa bớt quả, nhất là những cành phải nuôi nhiều quả; cắt bỏ những cành bên trong tán; tăng lượng phân ở thời kỳ sau thu hoạch.
10. Sâu bệnh hại và biện pháp phòng trừ:
Nhìn chung, các loại sâu bệnh trên cam, quýt, bưởi và chanh giống nhau. Riêng chanh cần chú ý hơn các đối tượng sau:
* Bệnh ghẻ: Do nấm Elsinoe fawcettii gây ra. Thường xuyên vệ sinh vườn cây, cắt tỉa và thu gom các bộ phận bị bệnh đem tiêu hủy. Phun ngừa khi cây ra đọt non hoặc khi hoa rụng cánh 2/3 bằng thuốc gốc đồng như Copper Zinc 85 WP, Coc 85 WP với liều lượng 20-30g/8 lít. Phun thuốc Benlate 50 WP, Derosal 60 WP, Polyram 80 DF, Kumulus 80 WP, Top plus 70 WP với nồng độ 0,2 – 0,5 %, phun 7-10 ngày/lần.
* Bệnh thán thư: Do nấm Colletotrichum gloeosporioides gây ra. Nấm làm hại lá, hoa và quả, làm rụng quả non. Cần cắt tỉa và tiêu hủy các lá, cành, trái bị bệnh, vệ sinh vườn, tỉa tán thoáng, tránh để vườn ẩm thấp. Không nên tưới nước lên tán cây khi cây bị bệnh. Phun thuốc khi thấy bệnh xuất hiện bằng các loại thuốc sau: Mancozeb 80 WP, Copper B 75 WP, Benomyl 50 WP, Antracol 70 WP, Bavistin 50 FL, Daconil 75 WP, Ridomil MZ 72 WP… liều lượng 15-30 g(cc)/8 lít, phun 7-10 ngày/lần, nên thay đổi thuốc sau vài lần phun để tránh sự quen thuốc của mầm bệnh.
* Bệnh thối gốc chảy nhựa: Do nấm Phytophthora spp. gây ra. Không nên tủ cỏ sát gốc vào mùa mưa. Dùng Copper Zinc 85 WP, Mancozeb 80 WP, Dithane M45 80 WP, Champion 77 WP pha đặc phết vào vết bệnh 7 ngày/lần. Hoặc để ngừa bệnh phết 2 lần/năm vào đầu và cuối mùa mưa. Phun thuốc khi bệnh gây hại cho cây Curzate M8 80 WP, Manzate 80 WP, Ridomil 72 WP, Metalaxyl 25 WP, Aliette 80 WP với liều lượng 20-30g/8 lít, phun 7-10 ngày/lần.
* Nhóm rệp sáp (rệp sáp, rệp bông, rệp dính): Nên sử dụng phối hợp thuốc hóa học (loại thuốc hóa học gốc lân hữu cơ tỏ ra có hiệu quả đối với rệp sáp khi không sử dụng liên tục một loại nhất định) với dầu khoáng (dầu khoáng DC-Tronc Plus, SK 99- Enpray ; có thể sử dụng ở liều lượng 0,5%) kết hợp diệt trừ kiến lửa.
11. Thu hoạch và bảo quản:
Khoảng 4 tháng sau khi hoa nở thì có thể thu hoạch được. Thu khi quả có vỏ căng, bóng. Thu hái nhẹ nhàng, tránh rụng lá gãy cành.
Sau khi thu hoạch để chanh ở khu vực thoáng mát, cách mặt sàn 10-15cm. Có thể dùng các loại hóa chất bảo quản để chanh được tươi lâu.
Nguồn: kĩ thuật nuôi trồng
Th1009
kĩ thuật canh tác cây có múi
KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY CÓ MÚI
1. CÁC GIỐNG CAM – QUÝT – BƯỞI
a. Các giống cam:
– Cam dây: Cây cam phân cành thấp, tán hình dù lan rộng. Ở tuổi thứ 5 cây cao
khoảng 3-4 m, đường kính tán 5-6 m.
Cành ít gai, gai ngắn, lá xanh đậm, có eo nhỏ, cây có thể ra hoa 3 vụ trong một năm,
năng suất có thể đạt tới 1.000-1.200 trái/cây/năm. Trọng lượng trái trung bình 217-
259g. Khi chín vỏ trái màu vàng, thịt trái vàng đậm, ngọt, ít chua, nhiều hạt 20-23
hạt/trái.
– Cam mật: cây 5 tuổi cao trung bình 5 m, tán hình cầu, cây phân cành nhiều, ít gai. Lá
có màu xanh đậm, eo lá nhỏ, tán cây thoáng. Cây ra 2-3 vụ trái/năm. Số trái đạt từ
1.000 -1.200 trái, trọng lượng trung bình 240-250 g. Vỏ dày 3-4 mm, trái mọng nước,
khi chín có màu vàng, thơm, ngọt, ít chua, nhiều hạt. Cam mật là một giống có năng
suất cao.
– Cam sành: là giống cam được các nhà vườn ưa chuộng, cây có phẩm chất trái thơm
ngon, trồng được ở nhiều loại đất, màu sắc trái xanh vàng, bề mặt vỏ sần, trái hình
cầu, hơi dẹp hai đầu, thịt trái màu cam, mềm, nhiều nước. Lá hình trứng màu xanh
đậm, trọng lượng trung bình 250g, ít hạt.
b. Các giống quít:
– Quít đường: tán cây trung bình, trái hơi dẹp hai đầu, vỏ mỏng dễ bóc, múi rời dễ
tách, vỏ trái màu vàng xanh, láng, thịt trái màu cam, mềm: có nhiều nước, vị ngọt,
thơm, trọng lượng trái trung bình 170 g.
– Quít tiều: vỏ màu cam đậm, bề mặt vỏ láng, nổi múi khá rõ. Trái hình cầu, dẹp 2 đầu,
vỏ rất dễ bóc, thịt trái màu cam đậm, mềm, vị hơi chua hơn quít đường, khá nhiều
nước, ít hạt. Trọng lượng trái trung bình 180 g.
c. Các giống bưởi:
– Bưởi Năm Roi: Lá có dạng hình tam giác, phiến lá hình trứng ngược, vỏ trái màu
vàng, bề mặt vỏ rổ đốm, trái hình quả lê, vỏ múi dễ bóc, màu thịt vàng đồng đều, vị
ngọt hơi chua, nước khá, ít hạt. Trọng lượng trái trung bình 1 kg.
– Bưởi Long: lá có dạng tim, phiến lá hình trứng ngược; vỏ trái màu vàng xanh, bề mặt
trái rổ đốm, trái có hình cầu hơi chỏm, vỏ múi dễ bóc, thịt trái màu hồng pha, nhiều
nước, vị chua, hơi đắng, ít hạt. Trọng lượng trái trung bình 1,1 kg.
– Bưởi Đường da láng: vỏ màu vàng nhạt, bề mặt vỏ láng, trái hình quả lê, vỏ múi dễ
bóc, thịt trái màu vàng đậm, nước nhiều, vị ngọt đắng, ít hạt. Trọng lượng trái trung
bình 1kg.
– Bưởi thanh trà: vỏ trái màu vàng nhạt, bề mặt vỏ láng, trái hình quả lê, vỏ múi dễ bóc,
thịt trái màu vàng nhạt, nhiều nước, vị ngọt, ít hạt. Trọng lượng trái 1 kg.
Ngoài ra, cây có múi còn có nhiều giống khác như: Cam xoàn, Bưởi Biên Hòa, Quít
Orlando…mấy năm gần đây cũng đang được nhà vườn và người tiêu dùng ưa chuộng.
2. THỜI VỤ, CHUẨN BỊ ĐẤT VÀ TRỒNG CÂY CHẮN GIÓ
a. Thời vụ:
Cây có múi thường được trồng vào đầu mùa mưa để đỡ công tưới, tuy nhiên cũng có
thể trồng được quanh năm nếu chủ động nguồn nước tưới.
b. Chuẩn bị đất trồng:
Dùng đất tốt như đất mặt ruộng, đất bãi bồi ven sông… để đắp mô. Mô có hình tròn,
đường kính 0,6-0,8 m; cao 0,3-0,5 m. Đất đắp mô có thể trộn tro trấu, phân chuồng
hoai mục, xử lý đất bằng Carbofuran, Diazinon để trừ côn trùng và vôi để ngừa bệnh.
c. Trồng cây chắn gió và che mát:
Cây có múi thích hợp ánh sáng tán xạ, do đó phải trồng cây che mát cho cam, quít
bưởi như các loại cây mãng cầu xiêm, so đũa,… Đồng thời, trồng cây chắn gió như
dừa, xoài, các loại cây lấy gỗ trên bờ bao… để hạn chế sự thiệt hại do gió bão, sự lây
lan của côn trùng, nấm bệnh.
3. KHOẢNG CÁCH TRỒNG VÀ ĐẮP MÔ
a. Khoảng cách trồng:
– Cam sành: 3 x 3 m
– Cam mật, quít, chanh: 4 x 4 m
– Bưởi: 6 x 6 m
Có thể trồng dày để khai thác ở những năm đầu, khi cây giao tán thì tiến hành đốn tỉa.
b. Đắp mô, bồi liếp:
Trong 2 năm đầu sau khi trồng: mỗi năm bồi 1-2 lần bằng đất bùn ao, đất bãi sông
phơi khô. Năm thứ ba trở đi thì bồi liếp mỗi năm 1 lần khoảng 2-3 cm nhằm cung cấp
thêm dinh dưỡng, đồng thời nâng cao tầng canh tác. Chú ý không bồi sát gốc.
Mực nước trong mương: cam, quít rất mẫn cảm với nước. Vì vậy, cần để mực nước
trong mương cách mặt liếp khoảng 50-80 cm.
4. TỦ GỐC GIỮ ẨM VÀ CẮT TỈA CÀNH
a. Tủ gốc, giữ ẩm:
Rễ hấp thu dinh dưỡng đa số mọc cạn, mùa nắng nhiệt độ cao sẽ ảnh hưởng xấu đến
rễ, do đó cần tủ gốc giữ ẩm bằng rơm rạ, lục bình (cách gốc ít nhất 20 cm).
Ngoài ra, trong vườn cần duy trì thảm cỏ có rễ ăn cạn như rau trai để giữ ẩm trong
mùa nắng, làm thông thoáng đất trong mùa mưa và giảm thiệt hại cho cây trong mùa
lũ. Nếu cỏ mọc cao nên cắt cỏ bớt (không xới gốc).
b. Cắt tỉa:
Thường xuyên cắt tỉa cành già, cành vượt, cành sâu bệnh, cành mọc từ gốc ghép để
vườn cây thông thoáng hạn chế sâu bệnh phát triển.
5. BÓN PHÂN CHO VƯỜN CÂY CÓ MÚI
Tùy theo đất, giống và tình trạng dinh dưỡng của cây mà quyết định lượng phân bón
thích hợp, cần cung cấp đầy đủ đạm, lân, kali; bổ sung thêm phân hữu cơ và vi lượng
để cây đạt năng suất cao.
Bảng: Hướng dẫn sử dụng phân bón.
Năm tuổi
Loại phân (g/cây/năm)
năm tuổi Urea Super Lân Kali
1 – 3 100 – 300 300- 600 100
4 – 6 400 – 500 900 –1.200 200
7 – 9 600 – 800 1.500 –1.800 300
Trên 10 800 – 1.600 2.000 – 2.400 400
– Đối với cây 1 – 2 năm tuổi:
+ Phân đạm: nên pha vào nước để tưới, 2-3 tháng tưới một lần.
+ Phân lân và kali: bón một lần vào cuối mùa mưa.
– Đối với cây trưởng thành: chia làm 4 lần bón/năm.
* Lần 1: Trước khi cây ra hoa: bón 1/3 Urea.
* Lần 2: Sau khi đậu trái 6 – 8 tuần: bón 1/3 Urea + 1/2 Kali.
* Lần 3: Trước thu hoạch trái 1 – 2 tháng: bón 1/2 Kali còn lại.
* Lần 4: Sau khi thu hoạch trái bón toàn bộ lân và 1/3 Urea.
Kết hợp bón 10 – 20kg phân hữu cơ/gốc hoặc 2-3kg kén trùn quế / gốc
– Cách bón: dựa theo tán cây để bón, cuốc rãnh sâu 5-10 cm; rộng 10-20 cm cách gốc
0,5-1m (tùy tán cây); cho phân vào, lấp đất lại và tưới nước.
Khi cây giao tán nên dùng cuốc xúc nhẹ lớp đất xung quanh gốc theo hình chiếu của
tán, cách gốc khoảng 50cm. Tưới đẫm liếp trước, sau đó rải phân thẳng lên mặt liếp.
Hằng năm, cần bón thêm phân hữu cơ hoai mục cho cây nhằm vừa cung cấp dinh
dưỡng cho cây, vừa giúp đất tơi xốp, giúp bộ rễ cây phát triển tốt.
Để cung cấp thêm vi lượng dinh dưỡng cho cây, có thể bón thêm phân qua lá như dịch trùn quế..
vào giai đoạn cây ra lá non và khi trái bắt đầu phát triển nhanh, mỗi lần phun cách
nhau 10-15 ngày, phun 5-6 lần/vụ.
Cần bón vôi hàng năm với lượng 200-500kg/ha/năm có thể bón đến 1 tấn/ha/năm.
6. KỸ THUẬT XỬ LÝ RA HOA
Dùng biện pháp xiết nước để kích thích cây ra hoa:
– Sau thu hoạch, cắt tỉa cành bị sâu bệnh, cành vô hiệu và bón phân để cây phục hồi
sau mùa cho trái.
– Rút khô nước trong mương vườn và ngưng nước để tạo “sốc” cho cây.
– Thời gian xiết nước kéo dài khoảng 3 tuần đến khi thấy lá hơi héo thì cho nước vào
mương cách mặt đất 20-30cm trong 12 giờ, sau đó rút bớt nước ra còn cách mặt liếp
50-60 cm để không làm rễ cây bị tổn hại.
– Tưới nước, bón phân đầy đủ thúc cây sớm ra đọt và nụ hoa. Nếu dùng thêm KNO3
(0,5-1%) kết hợp với Atonik, thời gian xiết nước sẽ rút ngắn hơn.
8
Lưu ý: Chỉ nên xiết nước đối với vườn cây trên 3 năm tuổi và thời gian xiết nước
không quá 20 ngày để kéo dài tuổi thọ và thời kỳ kinh doanh của cây có múi.
Hình 10: Tưới nước để kích thích ra hoa cho vườn cây có múi.
7. THU HOẠCH VÀ BẢO QUẢN
Cam, quýt từ khi ra hoa đến thu hoạch khoảng 8-10 tháng, tùy theo giống, phương
pháp nhân giống, tuổi cây, tình trạng sinh trưởng,…thời gian thu hoạch phải có nắng
khô ráo, không nên thu trái sau mưa hoặc có mù sương nhiều vì trái dễ bị ẩm thối. Trái
thu xong cần dể nơi thoáng mát, không nên tồn trữ quá 15 ngày sẽ giảm giá trị thương
phẩm
nguồn; syngenta.com, sưu tầm và chỉnh sửa
Th1003
Kỹ thuật trồng và chăm sóc ớt
Kỹ thuật trồng và chăm sóc ớt
Quả ớt với vị cay đặc trưng là loại gia vị không thể thiếu trong các món ăn trong gia đình Việt. Ớt chứa hàm lượng vitamin A rất cao, ớt giúp giảm đau, giảm béo, chống cảm cúm và diệt vi khuẩn. Việc trồng và chăm sóc ớt dễ dàng, không yêu cầu kỹ thuật cầu kỳ
Đặc điểm cây ớt
Ớt là một loại quả gia vị hoặc làm rau Capsicum annum L. thuộc họ Cà – Solanaceae. Ớt thuộc loại cây thân thảo, sống lâu năm, nhiều cành lá, chiều cao khoảng 30-120cm. Hoa ớt có 5 cánh, mọc ở nách lá. Quả ớt có nhiều loại, khi còn non có màu xanh, khi chín có màu đỏ hoặc vàng, có vị cay nồng hoặc không cay. Quả ớt có nhiều hình dáng tùy thuộc vào giống.
Cách gieo trồng ớt
Tùy vào giống và tỷ lệ nảy mầm 1ha cần trung bình khoảng 150-200g. Trước khi gieo hạt cần ngâm hạt giống trong nước sạch 6-8h. Tiếp theo ngâm 30 phút với thuốc trừ nấm Funomyl theo tỷ lệ 1g thuốc + 1 lít nước. Sau đó vớt lên rửa sạch, để ráo, gói trong khăn ẩm, để kín trong bao nilong kín miệng để tránh thoát hơi nước. Rồi ủ gói giống ở nhiệt độ 27-28oC. Sau khoảng 48 giờ các giống ớt nảy mầm, đem gieo hạt nứt mầm, tránh hạt mọc rễ quá dài, mầm yếu, gieo hạt dễ gãy mầm.
Nên gieo hạt ớt vào bầu bằng giá thể mịn, nếu không có điều kiện gieo luôn xuống ruộng. Gieo hạt vào hốc trồng, rải lớp mỏng phân chuồng hoai / 30 gr phân trùn quế lấp kín hạt ,rải một ít thuốc Basudin để đề phòng sâu đất , dế, kiến phá hoại.
Sau khi cây có 4-5 lá thật khoảng 25-35 ngày sau gieo thì đem trồng với mật độ vừa phải: cây cách cây 0,6m , hàng cách hàng 1m2-1m4.
Cây ớt rất khỏe mạnh, dễ trồng, chăm sóc, ít sâu bệnh, kháng chịu khắc nghiệt rất tốt. Rễ ớt là loại rễ chùm, mọc nông chịu úng kém nhưng chịu nóng và hạn rất tốt.
ớt có thể trồng quanh năm nhưng thường tập trung vào 3 vụ chính:
+ Vụ Xuân Hè: gieo hạt tháng 2-3, thu hoạch từ tháng 4-9
+ Vụ thu đông: gieo hạt vào tháng 9, thu hoạch từ tháng 1 năm sau.
+ Vụ Đông Xuân: gieo vào tháng 11-12, thu hoạch tháng 2-6 năm sau
– Ánh sáng: Cây ớt ưa sáng hoàn toàn, càng nhiều nắng quả càng đẹp, giàu dưỡng chất.
– Nhiệt độ: Ớt ưa nhiệt độ cao khoảng 25-30 độ C
– Độ ẩm: ớt thích độ ẩm trung bình.
– Đất trồng: Cây ớt không kén đất nhưng nên chọn các loại đất ít bị nhiễm mặn, nhiễm phèn, có hàm lượng dinh dưỡng khá. pH= 5,5-6,5 là tốt nhất. Đất trồng tốt cần được luân canh đậu, lúa, bắp… tối thiểu 3 năm, vụ trước không nên trồng các loại cây họ cà: cà tím, cà chua, ớt… đề phòng nấm bệnh lan truyền cho cây. Đất phù hợp có cơ cấu thoáng xốp: đất thịt pha sét, đất trồng lúa, đất phù sa, đất cát
Đất cần được cày xới sâu 20-25 cm, phơi ải 10-15 ngày, luống rộng 1m, cao 20 cm.
– Tưới nước: Cây ớt cần tưới nước đầy đủ, mùa mưa thoát nước tốt. Tưới thấm vào rãnh là phương pháp tưới nước tốt nhất cho ớt: vừa tiết kiệm nước, giữ ẩm lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón, không văng đất lên lá. Tuy nhiên nếu ruộng có cây bị bệnh gây ra trong đất thì nên tưới hốc, tưới phun.
Cần tưới nước đầy đủ trong giai đoạn ra hoa, kết quả để tránh hoa, quả bị rụng. Nếu tưới không đầy đủ và điều độ làm cây phát triển kém, giảm hoa, giảm quả, chất lượng thấp.
Tỉa cành nhánh: tỉa các lá, cành dưới điểm phân cành vào lúc nắng ráo để ớt phân tán rộng, gốc thông thoáng, hạn chế sâu bệnh.
Làm giàn: Khi ớt nhiều quả gặp gió mạnh dễ bị đổ ngã nên làm giàn giúp cây đứng vững, dễ hái quả, hạn chế quả bị sâu bệnh do cây đổ, kéo dài thời gian thu hoạch.
Bón phân cho cây:
Bón lót: ( áp dụng cho diện tích 1 ha )20 kg NPK 16-16-8 + 2 kg Micromate + 1-1,5 tấn phân hữu cơ hoai mục hoặc 1-1,5 tấn phân trùn quế + 2 kg Basudin 10 H + 1 kg Super Humic.
Bón thúc ( áp dụng cho diện tích 1 ha)
Sau trồng 25-30 ngày bón thúc đợt 1: 1 kg Super Humic + 30 kg N.P.K 16-16-8 + 500kg phân trùn quế
Sau trồng 45-50 ngày bón thúc đợt 2: 5 kg Nitrabor + 30 kg N.P.K 16-16-8+ 5 kg Ure + 500kg phân trùn quế
**** có thể giảm bớt 20-30% lượng NPK nếu bón NPK chung với trùn quế
Bổ sung dinh dưỡng cho cây
Sau khi ớt được 15 ngày, pha 1 lít dịch trùn quế với 600-700 lít nước, 7 ngày phun xịt 1 lần cho đến khi thu hoạch. Các thành phần dinh dưỡng và amin có trong dịch trùn quế sẽ giúp ớt phát triển tốt, hạn chế nấm bệnh, cây ra hoa đều đẹp. Trái ớt vỏ dày, cay, nặng cân, ít bị thối úng.
Phòng trừ sâu bệnh:
Cây ớt ít bị sâu bệnh. Tuy nhiên nếu trồng nhiều đồng loạt thì có thể bị sâu ăn lá, sâu đất, sâu đục quả, bọ phấn, bọ trĩ, rầy mật … bà con sử dụng luân phiên các loại thuốc: Thiamax 25WDG, Ammate, Brightin 1.8EC, Secure 10EC, Actimax 50WG
Thu hoạch ớt:
Ớt cay thu hoạch sau 35-40 ngày sau trổ hoa, thu hoạch trung bình 1-2 ngày/ lần.Năng suất ớt đạt trung bình 25-35 tấn/ha.
Nên thu hoạch khi quả bắt đầu chuyển màu có vết đỏ để kích thích hoa nhiều, tăng năng suất đợt sau. Chú ý cắt cả cuống quả,tránh làm gãy nhánh.
Nguồn: sưu tầm và chỉnh sửa
Th924
Một số sâu bệnh thường gặp ở rau củ
1. Bệnh thối gốc ở rau
Bệnh thối gốc ở rau, khi mới xuất hiện, nếu quan sát kỹ có thể thấy những vết bệnh có màu khác với vỏ cây, phần vỏ này bị rộp lên, sau đó lan dần bao quanh toàn bộ phần cổ rễ hoặc gốc cây. Dần dần phần vỏ này khô teo lại, khi gặp trời mưa hoặc độ ẩm cao sẽ bị thối nhũn, bong ra, trơ lại phần lõi gỗ của cây, cây sẽ héo dần và chết.
2. Bệnh sâu tơ hại rau
Sâu tơ là loài sâu hại nguy hiểm nhất đối với các loại rau cải, súp lơ… Con trưởng thành dài 6-7mm, sải cánh rộng 14-15mm, màu nâu xám, trên cánh trước mỗi cánh có 3 dấu hình tam giác màu nâu nhạt. Khi đậu, cánh úp sát thân như hình mái nhà, các vết hình tam giác ở cánh trước tụ lại nhìn óng ánh như kim cương. Mỗi con cái có thể đẻ từ 50-400 trứng.
Sâu non hình ống, màu xanh nhạt. Khi mới nở, sâu gặm lá để ăn thành các đường rãnh, mới nhìn giống như những rãnh do dòi đục lá gây ra. Đến tuổi 2-3, sâu ăn ở mặt dưới của lá để lại biểu bì tạo thành các lỗ thủng mờ. Ở tuổi cuối, sâu ăn thủng lá.
3. Bệnh lở cổ rễ ở rau
Trồng rau thương phẩm, trong 1-2 năm đầu cây giống sinh trưởng, phát triển tốt, ít bị sâu bệnh hại nhưng qua vụ thứ 3 thấy cây con chết nhiều, nhiều luống mất trắng. Nhổ cây lên xem thấy phần gốc bị teo lại, lá héo rũ rồi chết dần và lây lan nhanh.
Trên đây là những triệu chứng điển hình của bệnh lở cổ rễ hay còn gọi là bệnh thối gốc, một trong những loại bệnh nguy hiểm, gây thiệt hại nhiều nhất, nhanh nhất cho những người sản xuất rau màu nói chung, những người chuyên gieo ươm cây rau giống nói chung.
Triệu chứng: Bệnh chủ yếu gây hại ở phần cổ rễ, phần gốc sát mặt đất. Khi mới xuất hiện, nếu quan sát kỹ có thể thấy những vết bệnh có màu khác với vỏ cây, phần vỏ này bị rộp lên, sau đó lan dần bao quanh toàn bộ phần cổ rễ hoặc gốc cây. Dần dần phần vỏ này khô teo lại, khi gặp trời mưa hoặc độ ẩm cao sẽ bị thối nhũn, bong ra, trơ lại phần lõi gỗ của cây có màu thâm đen, cây sẽ héo dần và chết.
Lúc mới bị nhiễm bệnh, lá trên các cây này còn giữ được màu xanh tươi trong vài ngày (nếu trời râm mát), sau đó toàn bộ cây sẽ bị héo rũ gục xuống, chết lụi từng đám rải rác trên ruộng hoặc từng vạt lớn nếu ruộng rau bị nhiễm bệnh nặng. Vào những ngày có nhiều sương mù hoặc lúc sáng sớm ta có thể thấy lớp tơ màu trắng bám nơi vết bệnh. Vài ngày sau, trên thân cây và vùng đất xung quanh gốc cây bị bệnh xuất hiện nhiều đốm hạch màu vàng nâu bám xung quanh đó.
Tác nhân gây bệnh, điều kiện phát sinh, phát tiển và gây hại:
– Bệnh lở cổ rễ do nấm Rhizoctonia solani gây ra là chủ yếu. Tuy nhiên, tuỳ điều kiện thời tiết, chế độ canh tác có thể do nhiều loại nấm có trong đất gây ra như Pythium spp., Fusarium solani, Fusarium sp. v.v. Các bào tử nấm Rhizoctonia solani thường sống tiềm ẩn trong đất và tàn dư cây trồng khá lâu, nhất là ở những vườn ươm cây giống, những vườn sản xuất đã từng bị bệnh lở cổ rễ mà không được xử lý đất trước khi trồng lại.
– Các bào tử nấm này thường lây lan trong môi trường nước và xâm nhập qua các vết thương cơ giới hoặc các lỗ khí khổng của lá khi có điều kiện môi trường thuận tiện. Bệnh thường phá hại nhiều trong vườn ươm hoặc sau khi trồng khoảng 1 tháng tuổi, làm chết cây con. Nấm thường tấn công vào cổ rễ, nơi tiếp giáp với mặt đất và cổ rễ bị khô, cây không hút được nước nên đổ rạp và chết rất nhanh. Bệnh thường phát sinh, phát triển mạnh trong điều kiện độ ẩm cao, nhiệt độ cao hoặc mưa, nắng, rét, nóng thất thường.
– Trong năm bệnh thường xuất hiện và gây hại nhiều nhất vào các giai đoạn: tháng 9-10 và tháng 2-3-4. Bệnh thường lây lan nhanh, gây hại nặng ở những vườn ươm chuyên sản xuất cây giống hoặc vườn sản xuất đại trà liên tục nhiều năm; trên các vườn đầu tư, chăm sóc kém, nhất là trên các vùng đất sét, đất thịt nặng, đất chặt bí, những vùng đất ẩm ướt, trũng hoặc khó thoát nước.
4. Bệnh sinh lý trên rau màu
Một số loại bệnh như vàng lá, khô đầu lá, bạch tạng, xoăn chùn ngọn… trên rau màu, đó là bệnh sinh lý trên rau màu.Bệnh sinh lý không thể dùng thuốc bảo vệ thực vật để xử lý.
Nguyên nhân của các bệnh này là do hiện nay, người sản xuất rau màu chủ yếu chỉ sử dụng phân vô cơ đơn như u-rê, supe lân… nguồn phân xanh, phân chuồng hầu như không sử dụng. Việc đa dạng hóa, luân canh các giống cây trồng ngắn cho năng suất cao khiến cho đất trồng cây phải huy động nguồn dinh dưỡng lớn. Đặc biệt, việc quay vòng đất nhiều vụ/năm ở những vùng chuyên canh rau màu cũng làm nguồn dinh dưỡng của đất trồng bị cạn kiệt.
Vì vậy, một số ruộng rau bị thiếu các nguyên tố vi lượng như Fe, Mn, Zn, Cu… Tuy không thường xuyên nhưng những tác động của chúng nếu có thể làm năng suất, chất lượng cây rau màu giảm nghiêm trọng. Sự thiếu một hoặc nhiều nguyên tố dinh dưỡng có thể gây nên tình trạng cây tàn lụi sớm ở thời kỳ ươm, còi cọc, chín muộn hoặc phát triển không bình thường, chất lượng giảm và năng suất thấp.
Nguồn: kĩ thuật nuôi trồng
Th914
Những câu hỏi đặt ra với việc tiêm chích trị bệnh cây có múi
Tiêm chích thuốc (nông dược hoặc kháng sinh) để trị bệnh cho cây đã được áp dụng từ lâu ở cả trong và ngoài nước.
Có nên tiêm thuốc trị bệnh cây có múi?
Trên cây sầu riêng, tiêm thuốc để trị bệnh thối gốc, nứt thân, chảy mủ đã được áp dụng từ hàng chục năm qua ở ĐBSCL.
Trên cây bưởi, sử dụng thuốc kháng sinh (Tetracyline, Penicillin) để trị vàng lá gân xanh đã được các nhà khoa học ở Viện Cây ăn quả miền Nam nghiên cứu từ năm 2012.
Trước đó, ở nhiều nước như Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi, Philippines, Indonesia… đã áp dụng biện pháp chích kháng sinh vào thân để trị bệnh cho cây cam nhưng đều không đem lại hiệu quả cao (Muqing Zhang và CTV, 2015).
Theo Trung tâm Sinh học nông nghiệp quốc tế (CABI, 2017), tiêm kháng sinh Tetracycline vào thân cây ở Nam Phi giúp cây cam mật phục hồi một phần. Nhưng việc tiêm Tetracycline phải lặp lại nhiều lần gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và gây độc cho cây khiến cây phát triển không tốt. Vì vậy, biện pháp này đã giảm dần trong thời gian gần đây. Chương trình áp dụng Tetracycline để trị bệnh VLGX trên cả nước Indonesia được báo cáo là thất bại.
“Sáng kiến” của nhà vườn ở ĐBSCL trong việc chích cây là ngoài việc sử dụng thuốc kháng sinh (để trừ vi khuẩn VLGX), thuốc trừ bệnh cây (để trị các loại nấm gây vàng lá – thối rễ), còn phối hợp thêm chất kích thích tăng trưởng; phân bón lá trung, vi lượng với hy vọng giúp cây phục hồi và tăng sức chống chịu bệnh. Trong thực tế, giải pháp tiêm chích của nhà vườn đã đem lại hiệu quả nhất định nên nhiều nhà vườn khác làm theo và đã lan rộng như hiện nay.
Tiêm chích thuốc cho cây có để lại dư lượng?
Nghiên cứu của Viện Cây ăn quả miền Nam cho thấy ở thời điểm 8 tháng sau khi tiêm không phát hiện dư lượng kháng sinh trên lá bưởi. Trong khi đó, nghiên cứu của Wayne N. Dixon Richard Gaskalla và CTV (2015) cho biết trái của cây cam mật được tiêm Penicillin để lại dư lượng ở 80 ngày sau khi tiêm.
Thông thường, nhà vườn tiêm chích cho cây sau khi thu hoạch trái, trước khi tạo cơi đọt mới nên thời gian từ khi tiêm đến khi thu hoạch trái là trên 8 tháng. Tuy vậy, cũng có trường hợp nhà vườn cho trái liên tục (gối vụ) thì thời gian từ khi tiêm đến khi thu hoạch trái chỉ khoảng trên dưới 60 ngày.
Tuy nhiên, trên trái cây có múi (cam, quýt, bưởi) ở ĐBSCL dư lượng kháng sinh còn tồn tại bao nhiêu ngày kể từ khi tiêm thì chưa có báo cáo nào công bố. Vì vậy, thời gian cách ly từ khi tiêm kháng sinh, tiêm nông dược đến khi thu hoạch trái là bao nhiêu ngày cũng chưa được khuyến cáo chính thức cho từng loại cây có múi.
Hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau về việc tiêm kháng sinh, tiêm nông dược để trị bệnh cho cây có múi, đặc biệt là trên cây cam sành khiến người tiêu dùng dè dặt khi mua cam đã góp phần làm giá cam giảm sâu, thu nhập của nhà vườn giảm mạnh.
Để bảo vệ lợi ích kinh tế cho nhà vườn lẫn bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng, các câu hỏi: Có nên tiêm kháng sinh, nông dược để trị bệnh cho cây có múi? Loại thuốc nào được phép tiêm? Liều lượng ra sao? Thời gian cách ly bao lâu là an toàn? Đó là những vấn đề đang cần lời giải đáp sớm!
Dự kiến trong tháng 9/2018, ngành nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng sẽ tổ chức cuộc tọa đàm với sự tham gia của các nhà khoa học đến từ các viện, trường và bà con nhà vườn trồng cây có múi trong tỉnh.
Mục tiêu của cuộc tọa đàm nhằm từng bước giải đáp các câu hỏi đặt ra đối với việc tiêm chích trị bệnh cho cây có múi đang được áp dụng tự phát trong thực tiễn sản xuất cây có múi ở ĐBSCL; qua đó, đưa ra khuyến cáo chính thức để người sản xuất và người tiêu dùng đều an tâm
Nguồn: báo nông nghiệp
Th910
Bệnh sẹo cây cam, quýt
Cam, quýt là cây trồng nông nghiệp cho giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, sâu bệnh hại là một trong những yếu tố gây cản trở sản xuất và làm tăng chi phí phòng trừ. Một trong những bệnh hại khá phổ biến và nguy hiểm trên cam quýt là bệnh sẹo.
Bệnh làm ảnh hưởng tới sinh trưởng phát triển của cây, ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng và làm giảm giá trị nông sản.
Lá cây mắc bệnh
* Triệu chứng: Bệnh thường tấn công ở các bộ phận non của cây như lá, cành, quả non. Vết bệnh thường ở mặt dưới lá, có màu nâu vàng và lồi lên giống như gỗ bần, có quầng vàng xung quanh (vì vậy nông dân gọi là bệnh ghẻ lồi).
Bệnh làm lá non biến dạng hoặc không mở được. Trên lá bánh tẻ, vết bệnh lúc đầu chỉ gây hại mặt dưới lá, còn mặt trên lá chỉ hơi vàng và không bị hoại tử.
Khi bệnh nặng, vết bệnh mới gây hoại tử xuyên lên mặt trên lá. Nhiều vết bệnh có thể liên kết nhau tạo thành mảng, làm mép lá cuộn lại. Trên quả và cành non, vết bệnh màu nâu bần, nổi lên sần sùi, và không có quầng vàng bao quanh.
* Tác nhân gây bệnh và điều kiện phát sinh phát triển: Bệnh sẹo cam quýt do nấm Elsinoe fawcetti gây ra. Trong điều kiện trồng mật độ cao, bón phân thừa đạm, cây quá xanh tốt, nhiều lộc non, kết hợp vườn bị rợp bóng cây khác, vườn ẩm thấp… thì bệnh thường nặng. Bệnh cũng thường phát sinh gây hại nặng trong điều kiện thời tiết mây mù âm u, mưa dầm và ẩm độ cao, cây trong giai đoạn đang ra lá, hoa, quả non.
* Những biện pháp phòng trừ có hiệu quả cao: Nguyên tắc là để quản lý bệnh này, cần áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp có thể áp dụng được.
– Trồng cây với mật độ thích hợp tùy giống (ví dụ cam giấy thì mật độ cần thưa hơn cam sành).
– Làm luống theo hướng Đông Tây để các cây có thể nhận được ánh nắng suốt ngày, giúp vườn luôn thông thoáng, khô ráo.
– Có hệ thống tiêu nước thật tốt sau khi mưa hay tưới, tránh nước tồn đọng, sẽ tạo độ ẩm cao trong vườn.
– Phòng trừ sâu hại gây vết thương làm bệnh xâm nhập, nhất là sâu vẽ bùa giai đoạn ra lộc, hoa, trái non.
– Tỉa những cành sâu bệnh trước mùa mưa, hay trước khi vào vụ mới để vườn được thông thoáng, tránh làm tăng ẩm độ trong vườn.
– Bón phân cân đối đầy đủ, không được dư đạm để cây khỏe mạnh, vườn không rậm rạp.
– Sử dụng CALCIUM NITRATE để đảm bảo cung cấp đầy đủ canxi cho cây, giúp tăng sức chống chịu. Canxi còn làm giảm độ chua đất và chống xốp trái, nứt trái.
– Sử dụng phân POLY FEED để cung cấp vi lượng cần thiết để tăng sức chống chịu sâu bênh, vừa làm tăng chất lượng trái.
– Kiểm tra vườn cây thường xuyên để nắm chắc tình hình sâu bệnh, nhằm có biện pháp xử lý kịp thời.
– Khi phát hiện vườn chớm bị bệnh, sử dụng sản phẩm ZINEB BUL 80WP của Cty Agria – Bulgaria do Cty CP Bảo vệ thực vật Sài Gòn phân phối để phun phòng trừ bệnh, nếu áp lực bệnh cao nên phun lại lần hai cách lần một 7 ngày. Ngoài ra có thể dùng sản phẩm ZIN 80WP hoặc DIPOMATE 80WP để phòng bệnh này.
TS NGUYỄN MINH TUYÊN
Nguồn: báo nông nghiệp
Th905
Kĩ thuật chăm sóc cây sầu riêng
Trồng sầu riêng Sầu riêng là cây chịu hạn và úng kém, vì vậy đối với vùng đất thấp vườn trồng sầu riêng cần được đắp đê ngăn lũ. Liếp trồng thiết kế theo kiểu liếp đơn, rộng khoảng 5m, mương rong 1,5m, ở giữa liếp đắp mô có đường kính 1,2m, giữa mô đào một hố 60-80cm rồi cho vào 15-20kg phân hữu cơ và 1-2kg lân Đầu Trâu. Đối với vùng miền Đông Nam bộ hay Tây Nguyên chỉ cần đào hố mà không phải đắp mô hay lên liếp. Để hạn chế sâu hoặc kiến cắn phá cây con nên cho vào mỗi gốc 50g Furadan hoặc Vibasu sau đó đặt cây con và lấp đất ngang mặt bầu. Sau khi trồng cần cắm cọc buộc dây để gió không làm lay cây gây đứt rễ non của cây đồng thời tưới nước giữ ẩm thường xuyên cho cây. Vườn trồng sầu riêng không nên trồng xen các loại cây như đu đủ, dứa, ca cao… vì các cây này cùng là ký chủ của nấm Phytophthora spp. – loại nấm gây bệnh thối gốc chảy nhựa, thối rễ, thối trái… Chăm sóc sầu riêng a) Tỉa cành, tạo tán: Cần tỉa cành tạo tán cho cây ngay khi còn nhỏ để tạo cho cây một thế vững chãi và tỉa cành định kỳ sau mỗi vụ thu hoạch nhằm loại bỏ các cành bệnh, cành lệch tán. Tạo cho cây có tán cân đối và khi cây lớn, cành mang trái thấp nhất phải cách mặt đất 1m. Cần tỉa bỏ các cành mọc đứng, cành ốm yếu, mọc quá gần mặt đất và bị sâu bệnh. Giữ lại các cành mọc ngang, mạnh khoẻ và ở độ cao hợp lý. Ngoài ra, tỉa cành còn hạn chế được sâu bệnh và cây nhận được nhiều ánh sáng giúp cây khỏe mạnh, trái có chất lượng cao. b) Tưới nước: Giai đoạn cây con cần giữ đất ẩm thường xuyên, nếu đất khô phải tưới nhằm giảm tỷ lệ cây chết, giúp cây mạnh khỏe, nhanh cho trái. Khi sầu riêng ra hoa cần tưới nước cách ngày để giúp hạt phấn mạnh khỏe, tỷ lệ đậu trái cao. Khi sầu riêng đang mang trái cần tưới nước đầy đủ để trái phát triển cân đối. b) Bón phân: Nếu chăm sóc tốt thì sau 3 năm trồng, sầu riêng bắt đầu có quả bói. Trong thời kỳ từ khi trồng đến khi cho quả sử dụng phân NPK 20-20-15+TE Đầu Trâu bón theo liều lượng như sau: * Năm thứ nhất: 0,5-1,0 kg/cây/năm * Năm thứ hai: 1,0-1,5 kg/cây/năm * Năm thứ ba: 1,5-2,0 kg/cây/năm Lượng phân trên nên chia bón làm 3-4 lần/năm, mùa mưa bón 2-3 lần, mùa khô bón 1-2 lần, có thể bón rải quanh gốc hoặc hoà ra nước để tưới. Để cây phát triển tốt, mau cho quả có thể sử dụng một trong các loại phân bón lá Đầu Trâu 005 hoặc 502, xịt 1-2 lần vào các đợt ra đọt và ra lá mới. Để sầu riêng ra hoa sớm, năng suất cao và ra hoa trái vụ chế độ bón phân như sau: + Sau thu hoạch đốn tỉa các cành sâu bệnh, già cỗi và những cành mọc đan chéo nhau. Bón cho mỗi cây 10-20kg phân hữu cơ + 1-2kg Compomix Đầu Trâu và 2-4kg Đầu Trâu AT1. Phun phân bón lá Đầu Trâu 005 hoặc 502 định kỳ 7-10 ngày/lần. + Khi đọt non phát triển mạnh, bón 1-2 kg phân Đầu Trâu AT2/cây. Phun phân bón lá 007 hoặc 702 Đầu Trâu định kỳ 7-10 ngày/lần nhằm giúp cây tượng hoa tốt, đậu quả nhiều. + Khi lá đọt chuyển già, các lá mới đã thành thục, tiến hành xiết nước (tháo cạn nước ở các rãnh, có thể dùng nilon phủ gốc trong trường hợp gặp mưa). Phun phân bón lá Đầu Trâu 907 (50 gam/bình 10 lít) hoặc kali nitrat 100-200 g/bình 10 lít. Sau khi xiết nước 30-40 ngày nụ hoa bắt đầu xuất hiện. + Khi nụ hoa xuất hiện cần tiến hành tỉa bớt vì sầu riêng có quá nhiều hoa thì cây sẽ mất sức và số quả trên cây chỉ để có giới hạn. Cần tỉa bỏ những chùm hoa mọc sát thân hoặc ở đầu cành, các chùm hoa mọc quá xít nhau. Tiến hành tỉa hoa khi đường kính hoa cỡ 0,7-1,0 cm. Phun phân bón lá Đầu Trâu 907 đến khi cánh hoa bắt đầu bung. Nếu để thụ phấn tự nhiên sầu riêng sẽ đậu trái rất ít, vì vậy cần thụ phấn bổ sung thêm cho cây. Đến khoảng 21-22 giờ đêm khi hoa nở rộ, dùng bút lông quệt phấn hoa của hoa đực quét đều lên đầu nhuỵ của hoa cái trong 3 đêm liên tục. Khi lứa quả đầu có đường kính 3-5cm cần tỉa bớt những quả dị hình và sâu bệnh. Bón cho mỗi cây 0,5-1kg Đầu Trâu AT3. Phun phân bón lá Đầu Trâu 907, 009 hoặc 902 định kỳ 10-12 ngày/lần. Khi đường kính của quả 5-7cm, tỉa bớt những quả xấu, dị hình sao cho chỉ còn giữ lại 1-2 quả/chùm và khoảng 100-150 quả/cây. Bón cho mỗi cây 1-1,5 kg Đầu Trâu AT3. Phòng trừ sâu bệnh a) Bệnh xì mủ, thối gốc: Do nấm Phytophthora spp. gây ra. Đây là bệnh rất nguy hiểm trên cây sầu riêng. Khi phát hiện bệnh cần cạo sạch vết bệnh, dùng thuốc Aliette hoặc Ridomil hoà thành dung dịch đặc bôi lên vết bệnh. Cũng có thể phòng trị bằng cách phun ướt trên toàn cây. b) Bệnh cháy lá chết ngọn: Do nấm Rhizoctonia sp. gây hại. Lúc đầu xuất hiện những đốm nhỏ trên lá sau đó lan dọc theo mép lá, làm lá co lại và cuối cùng bị cháy khô và rụng gây hiện tượng chết ngọn và cành nhánh nhỏ. Nếu bị bệnh cần tỉa bỏ các phần cây, lá bị bệnh, tạo tán tỉa cành cho cây thông thoáng, sử dụng thuốc: Rovral, Benlate C… c) Bệnh thán thư sầu riêng: Do nấm Collectotrichum zibethinum gây hại. Vết bệnh thường lan từ rìa lá hay chóp lá vào, có màu nâu đỏ sáng, bên trong là các quầng màu nâu đậm cùng với những đốm nâu loang lổ. Cần phát hiện bệnh sớm và xịt thuốc ngay khi bệnh chớm xuất hiện bằng các loại thuốc: Bennomyl, Manzate, Antracol… d) Rầy nhảy, rầy phấn: Phun thuốc khi thấy rầy xuất hiện với mật độ cao bằng các loại thuốc: Applaud, Bassa, Trebon, Decis… e) Sâu đục trái: Khi trái còn non cần kiểm tra vườn sầu riêng thường xuyên, để kịp thời phát hiện và loại bỏ sớm trái bị sâu hại. Dùng giấy bìa cứng hoặc que chêm giữa 2 trái trong chùm, để tránh các trái tiếp xúc với nhau. Sử dụng các loại thuốc để diệt sâu như: Bian 40EC, Visher 25EC, Padan 95SP, Ofatox 50EC… để phun khi thấy sâu phá hại. Sau đó 10-15 ngày phun tiếp lần 2, nếu sâu vẫn còn có thể phun tiếp vài lần nữa.
Th903
Cách phòng trị bệnh vàng lá thối rễ sầu riêng
Cách Phòng Trị Bệnh Vàng Lá Thối Rễ Sầu Riêng
Hiện nay bệnh vàng lá thối rễ không chỉ bị nhiễm ở cây có múi mà còn xuất hiện ở các loại cây khác mà đặc biệt là trên các giống sầu riêng từ Miền Tây, miền Đông cho đến Tây Nguyên. Phân biệt đúng bệnh thì liệu pháp phòng và trị sẽ tốt hơn. Bệnh này được ví như là ung thư so với bệnh nứt thân xì mủ được ví như Sida. Qua bài viết này chúng tôi mong muốn bà con nông dân cần có cái nhìn khách quan với loại bệnh âm ỉ mà khó chữa này để từ đó việc phòng trị bệnh sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Triệu chứng
Bệnh xuất hiện triệu chứng trên lá, lá bị biến vàng, già sớm. Vàng lá có thể xảy ra trên một vài nhánh hay trên toàn cây, triệu chứng xuất hiện trên lá già, sau đó đến các lá non. Khi cây bị bệnh bị lay động mạnh hoặc có gió mạnh làm cho lá vàng bị rụng nhiều, có khi trơ cả cành và cây chết dần. Thông thường năm đầu tiên bệnh sẽ xuất hiện trên đỉnh đọt gây ra hiện tượng chổi chà. Thời gian này cây vẫn cho trái, thu hoạch bình thường. Qua năm thứ 2 thì bắt đầu lan dần xuống và năm thứ 3 thì các cành chính cũng bị vàng lá và gây chết cây.
Tác nhân gây bệnh
Theo tác giả Phạm Văn Kim (1997) đã thực hiện thành công việc chứng minh tác nhân gây bệnh vàng lá thối rễ của cam mật(Citrus cinensis) và quýt tiều(C.reculata) qua các bước thực hiện qui trình Kock và đã công bố tác nhân gây bệnh này là nấm Fusarium solani. Và theo chúng tôi nhìn nhận thì cơ chế gây hại của nấm Fusarium solani trên cây sầu riêng cũng tương tự cây có múi.
Lê Thị Thu Hồng và ctv.(2002) đã nghiên cứu bệnh vàng lá chết nhanh trên cây quít tiều tại Lai Vung, Đồng Tháp và cũng kết luận là bệnh này do nhiều tác nhân gồm Fusarium, Pythium, Phytophthora và tuyến trùng gây ra, trong đó sự tương tác giữa nấm Fusarium và tuyến trùng là quan trọng nhất.
Đây là hiện tượng tương đối phức tạp trên cây trồng, vì ngoài những tác nhân trên thì có nhiều yếu tố khác có thể tác động và tạo cộng hưởng thêm cho sự thiệt hại, trong đó phải kể đến là đất trồng qua nhiều năm không được cung cấp phân hữu cơ, dẫn đến hiện tượng đất thiếu một số nguyên tố vi lượng trầm trọng. Nấm Fusarium solani xâm nhập vào cây sẽ tạo ra khí ethylene nội sinh gây ra tình trạng chín sớm của lá, trái cây làm ảnh hưởng đến chất lượng nông sản cũng như gây ra hiện tượng chết cây.
Do việc canh tác, tạo vụ nghịch làm hư bộ rễ sau đó nấm bệnh tấn công vào.
Điều kiện phát sinh và phát triển
Nấm Fusarium solani cần có điều kiện thích hợp để phát triển và gây hại, đất bị oi nước lâu dài thì bệnh mới phát triển mạnh. Vì khi chủng nấm Fusarium solani vào cây trong điều kiện ráo nước (thoáng khí) thì sau 3 tháng cây vẫn không thể hiện triệu chứng của bệnh, nhưng nếu tạo điều kiện oi nước thì sau một tháng thì bệnh đã xuất hiện và gây triệu chứng vàng lá, rụng lá và thối rễ. Nếu kích rễ đọt non bằng phân bón thông thường thì nó sẽ ra đọt nhưng xuất hiện tàn đọt như chổi chà. Chính vì điều kiện này mà thông thường cây sầu riêng ở miền Đông và Tây Nguyên sẽ lâu chết hơn so với các vườn sầu riêng ở Miền Tây.
Bệnh có thể xảy ra quanh năm nhưng lẻ tẻ, không đáng kể. Bệnh thường phát triển thành dịch vào đầu mùa nắng, tháng 11 & 12 dl hằng năm. Cây chết hàng loạt vào tháng 1 đến tháng 4 dl và có thể tiếp tục kéo dài trong mùa mưa năm sau…
Với vườn mới lên, cây bắt đầu chết vì bệnh thối rễ từ năm thứ năm cho đến năm thứ bảy trở về sau, tuỳ cách canh tác của từng vườn. Tuy nhiên những vườn trồng lại có thể bị nhiễm ngay từ năm đầu.
Với các vườn đã lên líp, lên mô lâu năm và được tạo lại để trồng cây có múi (quít hoặc cam) hay sầu riêng thì cây trồng bắt đầu thối rễ và chết cây vào sau vụ thu hoạch trái thứ hai và cây chết nhiều sau vụ thu hoạch trái thứ ba và thứ tư.
Các vườn cây bệnh và chết đều là những vườn không được bón phân hữu cơ mà chỉ được bón phân hoá học. Về lâu dài gây tình trạng chua hóa, chai đất là môi trường thuận lợi cho nấm bệnh ký sinh và phát triển.
Gần như các vườn đều không được bón vôi.
Điều kiện đất và nước rất đặc trưng cho vùng ĐBSCL giữ vai trò rất quan trọng đối với bệnh thối rễ cây ăn trái. Đất có thành phần sét cao, làm cho đất khó thoát nước sau các đợt mưa dài ngày vào giữa và cuối mùa mưa. Ở miền Đông và Tây Nguyên thì kết cấu đất thoáng hơn nhưng do điều kiện thiếu nước mùa khô nên làm mô trồng âm vì vậy mùa mưa cũng dễ phát sinh ẩm độ nên nấm bệnh phát sinh gây hại. Đất bị nước chiếm các tế khổng lâu dài nên rơi vào tình trạng yếm khí do oi nước. Tình trạng này kéo dài làm cho rễ cây trồng cạn phải hô hấp yếm khí lâu dài, các chất độc do các tiến trình sinh hóa trong tế bào rễ sinh ra, không được oxít hoá để giải độc, tích lũy trong tế bào và gây ngộ độc cho tế bào. Ngoài ra tuyến trùng hay rệp sáp cũng là tác nhân gây tổn thương cho bộ rễ làm nấm bệnh xâm nhập theo vết thương hở.
=> Từ đó các tế bào ở phần rễ non, nơi các tiến trình sinh hóa xảy ra mạnh nhất, sẽ bị chết dần từng tế bào và tạo ra các mảng thối của rễ non. Nấm F.solani có sẵn trong đất, có cơ hội xâm nhập vào rễ thông qua các vết thối này và bắt đầu tấn công dần phần rễ này. Kể từ khi bắt đầu xâm nhập cho đến khi triệu chứng bệnh thể hiện cần có thời gian ủ bệnh vài tháng, do đó ở các vườn, bệnh không xuất hiện ngay mùa mưa, lúc đất bị oi nước, mà bệnh thường xuất hiện nghiêm trọng trong đầu mùa nắng.
Biện pháp phòng trừ
– Thực hiện giống như những biện pháp đối với bệnh khác là sử dụng cây giống sạch bệnh, có hàng cây chắn gió, lên liếp cao, có rảnh thoát nước tốt, có bờ bao để ngăn lũ, thoát úng nếu ở Miền Tây.
– Nên rải vôi trước khi trồng để loại trừ mầm bệnh có trong đất. Hàng năm nên cung cấp thêm vôi xung quanh gốc, quét vôi vào gốc cây trên 50cm vào cuối mùa nắng.
– Trong vườn nên trồng cỏ (cách gốc 50 cm) để giúp đất thông thoáng.
– Thăm vườn thường xuyên để phát hiện bệnh sớm, cắt bỏ những cành bị vàng, rễ theo hình đối chiếu.
– Rải thuốc trừ tuyến trùng hoặc rệp sáp nếu có quanh rễ (sử dụng Regent, Basudin, Mashal, Bop..).
– Xới nhẹ xung quanh gốc và tưới thuốc Metalaxyl, Mancozeb, Agrifos 400 hoặc Validamycin 5% + VIỆT LONG + MX-774 HUMIC khi có bệnh xuất hiện, tưới liên tục 2-3 đợt cách nhau 10 ngày 1 đợt.
– Phun trên lá thì dùng Aliette, Rovral, Ridomil Gold + MX5 hoặc MX-TĂNG TRƯỞNG để kích nhú dàn đọt non và giảm bớt tác động ức chế của etylen từ nấm Fusarium. Định kỳ 5-7 ngày phun 1 lần cho đến khi cây đứng bệnh, nhú đọt mới. Thông thường liệu pháp kéo dài từ 1-2 tháng tùy vào mức độ nhiễm bệnh của cây. Cần chú ý hy sinh bỏ bớt hoa trái để dưỡng sức cho cây phục hồi nhanh.
– Bón nhiều phân hữu cơ để cải thiện đặc tính đất kết hợp với cung cấp nấm đối kháng Trichoderma thông qua việc dùng phân vi sinh chứa Trichoderma, tăng cường hoạt động của các vi sinh vật trong đất và chỉ sử dụng Trichoderma sau khi xử lý thuốc đợt cuối 15-20 ngày.
Chúc bà con thực hiện thành công!
Nguồn: fb Chương Nguyễn
Th1119