Chăm sóc cây bơ giai đoạn làm bông
So với các loại cây ăn quả khác, bơ là loại cây dễ trồng, khả năng thích nghi rộng, chống chịu khá với các bất lợi của môi trường như hạn hán, gió, đất nghèo dinh dưỡng. Ngoài vấn đề về dinh dưỡng, bơ còn là một loại trái cây khá an toàn, do có vỏ dày nên hạn chế được các loài sâu hay côn trùng chích hút, thuốc bảo vệ thực vật rất ít được dùng cho cây bơ.
Bơ là loài cây ăn trái đặc sản, có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, kiến thức kỹ thuật giống cây trồng còn hạn chế, đặc biệt là trong giai đoạn lúc làm bông và quản lý dinh dưỡng cho cây.
Việc sử dụng thuốc hóa học trong thời kỳ ra hoa của cây bơ thì không nên vì cây thụ phấn nhờ vào côn trùng
Thạc sĩ Phạm Công Trí – Trưởng bộ môn hệ thống Nông Lâm nghiệp – Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên hướng dẫn cách chăm sóc cây bơ giai đoạn làm bông.
Theo Thạc sĩ, sau khi dứt mùa mưa, cây bơ bắt đầu phân hóa mầm hoa, lúc này cần làm vệ sinh vườn cây: cắt bỏ cành không tốt, sâu bệnh, tạo hình, làm thông thoáng tán cây sẽ giúp cây ra hoa hiệu quả hơn.
Những vùng có gió hoặc dãi nắng, cần trồng cây kết hợp đai rừng để cản gió sẽ tốt cho bơ. Giúp cây thụ phấn tốt, ta nên nuôi ong hoặc côn trùng trong vườn.
Về dinh dưỡng cho cây: Cần làm cỏ gốc và bón phân hữu cơ – lân cho cây.
Việc bón phân hữu cơ – lân có 2 quy trình: phân đơn hoặc NPK.
Bón phân giai đoạn cây ra hoa, làm bông và nuôi trái
Đối với quy trình phân đơn trong giai đoạn cây ra hoa, làm bông và nuôi trái, có những lần bón phân quan trọng như sau:
– Sau thu hoạch và đã làm vệ sinh vườn cây, cắt tỉa cành xong, bón từ 4 – 6 kg SA và 0,5 – 1 kg super lân, sau đó tưới nước giúp nuôi hoa.
– Trước khi ra hoa (giai đoạn nhú cựa gà): từ 20 ngày đến 1 tháng, tiến hành bón phân lần 2 nhằm phục hồi, phân hóa mầm hoa bơ với hàm lượng phân như sau: 0,2 – 0,3kg phân Ure + 0,5kg lân và 0,2kg Clorua Kali, trong đó, lân chúng ta bón riêng để tránh sự tương tác giữa lân và Ure, ta có thể trộn chung Ure và Clorua Kali để bón 1 lần. Khi hoa ra đều, ta có thể phun Kali Nitrat giúp hoa bung đều.
Đối với những loại bơ phải rụng lá mới ra hoa thì ta phải phun phân bón lá điều hòa dinh dưỡng gồm phân Ure và KNO3 với tỉ lệ 3 – 4/1000.
– Giai đoạn ra hoa, thụ phấn, lá non phát triển thì ta bắt đầu quan sát cây, nếu thấy cây đủ dinh dưỡng thì chỉ cần tưới nước, nếu cây thiếu dinh dưỡng thì tiến hành phun phân bón lá.
+ Khi cây bật mầm hoa: không bón phân gốc.
+ Sau khi trái đậu đều, to bằng chiếc đũa, ta bón thúc trái lần 1 gồm: 0,3 –0,5kg phân Ure + 0,2 kg Super lân và 0,3kg Kali.
– Trước khi thu hoạch: bón bổ sung thêm từ 0,2 – 0,3kg Ure + 0,3 – 0,4kg Kali Clorua. Trên những vùng đất Bazan thường chua và nghèo vi lượng nên trong qui trình sử dụng phân đơn ta nên bón thêm vôi và phân vi lượng với hàm lượng từ 0,5 – 1kg vôi/năm/cây, thường nên bón vào đầu mùa mưa và trước gia đoạn làm hoa. Kết hợp với lần bón phân thứ 1 khi chuẩn bị ra đọt và lần 3 sau khi đậu trái, ta bón kết hợp: 4 – 5kg Sunfat kẽm + 5 – 6kg Sunfat Magie và 6- 7 kg phorat. Ba loại phân này rất quan trọng cho cây: hạn chế lá bị dị dạng ảnh hưởng đến việc đậu trái. Những năm thứ 9, 10 năng suất tăng, chúng ta bón tăng từ 20 – 30% lượng phân vừa được khuyến cáo trên.
Hiện nay, nông dân chuộng sử dụng phân NPK chuyên dùng hơn là phân đơn, khi đó chúng ta cần lưu ý như sau:
– Sau khi thu hoạch: sau khi làm vệ sinh cây xong, phần gốc cây, ta bón NPK thúc mầm với tỉ lệ: 18:12:8 hoặc 20:20:10 sau đó tưới nước, giữ ẩm cho cây.
– Phần trên thân cây: dùng phân bón lá giàu hữu cơ và vi lượng, bón từ 1 – 2 lần, mỗi lần cách nhau 7 – 10 ngày.
– Khi ngồng hoa ra đều, đạt, chuẩn bị nở: bón NPK thúc hoa + tăng đậu trái với công thức: 7:17:12 TE, sau bón tưới nước đều.
– Khi hoa đã đậu, quả đã bám: bón NPK chuyên dùng có hàm lượng kali cao hơn, khuyến khích dùng theo tỉ lệ: 14:10: 17 TE (Tây Nguyên) kết hợp phun phân bón lá.
Việc sử dụng thuốc hóa học trong thời kỳ ra hoa thì không nên vì cây bơ thụ phấn nhờ vào côn trùng. Khi thấy bơ có hiện tượng lớn nhanh, nứt trái ta phun phân bón lá giàu canxi, canxi clorua giúp trái đều, vỏ cây chắc, phẩm cách và chất lượng trái cao hơn.
Làm bông để cây bơ có năng suất
Những lưu ý của kỹ sư Ngô Văn Huy – Công ty Bayer Việt Nam – những giải pháp dinh dưỡng cho cây bơ khi làm bông để cây bơ có năng suất cao và bền vững.
Cần lưu ý 2 vấn đề:
1. Nước tưới: cây bơ cần độ ẩm thấp nhưng không quá thấp, vừa phải, kết hợp tưới nước nhiều lần, có thể từ 10 – 15 ngày/lần, đối với cây bơ trong giai đoạn kinh doanh thì cần lượng nước từ 150 – 200 lít/gốc/lần, tưới 3- 4 lần/năm.
Trong giai đoạn ra hoa, cây rất nhạy cảm, cần độ ẩm vừa đủ, không nhiều, nếu nhiều sẽ gây ra hiện tượng rụng hoa, không đậu quả.
2. Dinh dưỡng:
– Cân đối lượng phân bón NPK, không quá cao, đọt bị chùn và hoa sẽ không ra được, nên theo tỉ lệ: 2:1:1 hoặc 1:1:1
– Cây trong giai đoạn đang kinh doanh nên bón từ 3 – 4 đợt/năm, 1 đợt vào mùa khô, 3 đợt vào mùa mưa, khi bón phân ta có thể tạo bồn hay làm rãnh có độ sâu từ 10 – 15 cm, sau đó lấp đất lại và tưới giúp rễ hấp thụ phân tốt hơn.
– Cần theo dõi thường xuyên để phát hiện và xử lý kịp thời các nấm bệnh trên cây bơ làm cây cho năng suất thấp như thối rễ, ghẻ ở vỏ.
Nguồn voh.com.vn
Th1026
Áp lực sâu bệnh trước vụ điều mới, nhà nông căng thẳng lo âu
Thời tiết diễn biến thất thường, sâu bệnh bùng phát khiến những người nông dân trồng điều chưa bao giờ hết âu lo. Ghi nhận trước vụ điều mới 2018 cho thấy, diện tích điều nhiễm sâu bệnh vẫn xuất hiện ở nhiều địa phương.
Trong khi đó, mới đây lại xuất hiện thông tin sâu đục thân, đục cành hoành hành cây điều trên diện rộng.
Gây hại nặng ở vườn điều trồng bằng hạt
Trên thực tế, sâu đục thân, đục cành trên điều thuộc loài xén tóc đã từng có lịch sử gây hại nặng ở nhiều tỉnh. Tại Lâm Đồng, từ năm 2012 – 2014, sâu đục thân, đục cành gia tăng mạnh tại huyện Đạ Huoai, chủ yếu gây hại trên cây điều 5 – 8 tuổi. Cục bộ, một số vườn có tỉ lệ cây bị hại 100%, gây thiệt hại nặng nề về năng suất, một số diện tích đã phải phá bỏ.
Tăng cường tỉa cành tạo tán, vệ sinh vườn vẫn là biện pháp quan trọng để phòng trừ sâu bệnh hại trên cây điều.
“Sau thời gian tích cực phòng chống bọ xít muỗi, thán thư; các vườn điều đang phục hồi tốt. Nhưng để bảo vệ vườn điều cho niên vụ mới đạt hiệu quả cao, các tỉnh trồng điều phải lên kế hoạch, dự trù kinh phí cũng như phối hợp các đơn vị liên quan tổ chức tập huấn, để phòng trừ tốt sâu bệnh hại”. Ông Lê Văn Thiệt – Cục phó Bảo vệ thực vật
Năm 2018, thời tiết diễn biến phức tạp khi nắng, mưa xen kẽ, độ ẩm không khí cao tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh gây hại. Theo thống kê của 3 huyện phía Nam: Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên; sâu đục thân, cành trên điều gia tăng mạnh từ tháng 9 đến nay. Hiện toàn tỉnh đã có 832ha bị nhiễm, trong đó Đạ Tẻh nhiễm gần 620ha.
So với cùng kỳ năm 2016 – 2017, diện tích nhiễm bệnh sâu đục thân, cành ít biến động. Tuy nhiên, loại này gây hại nặng ở các vườn điều của bà con dân tộc thiểu số, vốn ít đầu tư chăm sóc hoặc các vườn điều trồng bằng hạt từ 10 năm tuổi trở lên.
Theo Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Đồng Nai, sâu đục thân tuy chỉ gây hại cục bộ nhưng xuất hiện ở khắp các vùng trồng trong tỉnh. Các vườn điều ít tỉa cành tạo tán thường bị thiệt hại nặng hơn các vườn khác vì sâu có nơi trú ngụ để hoàn tất vòng đời ngay trong thân cây, gây hại từ năm trước sang năm sau.
Với lịch sử từng gây hại nặng ở khu vực Đông Nam Bộ, nhóm sâu đục thân, cành đang có xu hướng gia tăng nên rất đáng quan tâm, nhất là với nhiều nông dân chưa có kinh nghiệm xử lý bệnh hại đục thân, cành.
Tại huyện Đồng Phú (Bình Phước), lão nông Năm Thống kể, từ cuối tháng 9, trên cây điều xuất hiện những con sâu trắng bám trên thân. Trong vườn, nhiều gốc điều bị xì mủ, một số cây điều bắt đầu chết. “Tôi biết sâu đục thân gây thiệt hại lớn cho cây điều, song không nắm rõ chu kỳ sinh trưởng, phát triển của nó nên không có cách phòng, chống triệt để” – ông Thống băn khoăn.
Sâu bệnh còn nhiều
Theo thạc sĩ Lê Thúc Long – chuyên viên Sở NNPTNT tỉnh Bình Phước, sâu đục thân, cành là đối tượng thường xuyên có mặt nhưng không phải nông dân nào cũng biết rõ cách xử lý.
Loại sâu bệnh này chủ yếu đẻ trứng vào tháng 3 – 4 hàng năm, khi mùa vụ điều thu hoạch xong. Nhiều nơi, nhất là nông dân người dân tộc Stiêng, Tày thường không quan tâm chăm sóc vườn cũng như tỉa cành tạo tán để cho bọ xén tóc có môi trường tiếp tục duy trì vòng đời.
Bình Phước có tổng diện tích trồng điều 134.200ha. Thực tế điều tra cho thấy, Bình Phước chỉ mới phát hiện diện tích điều bị nhiễm sâu đục thân, cành khoảng 800ha chứ không phải 22.000ha như một số thông tin trước đó. “Tuy nhiên, Sở NNPTNT tỉnh vẫn đang tăng cường cập nhật tình hình, thực hiện các biện pháp cấp bách để hỗ trợ bà con phòng trừ sâu bệnh; đặc biệt trong điều kiện biến đổi khí hậu khó lường và áp lực sâu bệnh đang gia tăng hiện nay” – ông Long cho biết.
Theo Cục Bảo vệ thực vật, nguồn nguyên liệu điều trong nước cung cấp cho các nhà máy luôn trong tình trạng thiếu hụt do diện tích cây trồng lâu năm già cỗi, cho năng suất thấp. Thời tiết không thuận khiến nhiều loại sâu bệnh hại phát sinh những năm qua, ảnh hưởng nặng đến năng suất và chất lượng hạt điều.
Do nắng nóng kết hợp mưa nhiều, bọ xít, muỗi chích hút tạo vết thương là nguyên nhân gia tăng nhanh diện tích nhiễm bệnh thán thư. Tính đến giữa tháng 10.2018, diện tích nhiễm thán thư lúc cao điểm tăng lên gần 54.420ha (tăng hơn 1.120ha so cùng kỳ năm 2017). Trong đó, diện tích nhiễm nặng lên gần 1.300ha, tập trung ở các tỉnh có diện tích điều lớn như Bình Phước, Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận…
Với bọ xít muỗi, diện tích nhiễm lúc cao điểm 51.317ha, giảm gần 7.000ha so cùng kỳ 2017. Với sâu đục thân, cành, diện tích nhiễm cao điểm là 3.252ha, giảm 30ha so cùng kỳ 2017.
Theo ông Đỗ Văn Vấn – Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam, số liệu trên cho thấy sâu đục thân, cành chỉ là đối tượng gây hại thứ yếu. Đến tháng 11 mới bắt đầu vào vụ điều mới nhưng hiện tại, một số vườn điều đã bắt đầu trổ hoa. Các địa phương cần tiếp tục lưu ý các loại sâu bệnh có vòng đời ngắn như bọ xít, muỗi, thán thư và sâu đục trái.
Theo dự báo của Trung tâm khí tượng thủy văn, đến cuối năm, khu vực phía Nam, thời tiết sẽ chuyển dần từ khí hậu pha lạnh sang pha nóng (El Nino) với xác suất khoảng từ 60-70%. Ông Lê Văn Thiệt – Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật cho rằng nếu khi mùa mưa kết thúc sớm như dự đoán, hiện tượng mưa trái mùa sẽ giảm. Đây là tin vui đối với cây điều đang bắt đầu trổ bông.
Theo Nguyên Vỹ (Dân Việt)
Th1018
Thanh Long sạch trụ vững trong khó khăn
Trong khi thanh long trồng đại trà rớt giá xuống 500-1.000 đồng/kg, thanh long VietGAP, GlobalGAP 22.000 đồng/kg vẫn bán ào ào.
Tỉnh Bình Thuận hiện có 30 hợp tác xã và 2 liên hiệp hợp tác xã thanh long với diện tích canh tác hơn 3.000 ha. Đây là những địa chỉ sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP luôn bảo đảm được giá bán cao dù thị trường chung rớt giá thê thảm.
Hàng “sạch” giá cao
Trong khi hàng trăm hộ trồng thanh long Bình Thuận phải cắn răng đổ bỏ hàng trăm tấn thanh long vì giá bán rẻ như cho thì cũng ở đây, các vườn trồng thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP vẫn bán được giá cao. Ông Võ Văn Chiến, thành viên của hợp tác xã Thanh long GlobalGAP Thuận Tiến (xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc), cho biết hơn nửa tháng nay, nhiều hộ trồng thanh long phải đổ bỏ vì không có người mua nhưng hơn 10 tấn thanh long của vườn nhà ông vẫn bán được 22.000 đồng/kg đúng theo cam kết ủy thác xuất khẩu sang thị trường châu Âu từ đầu năm.
Thanh long “sạch” vẫn trụ vững trong cơn bão rớt giá
Hợp tác xãThanh long GlobalGAP Thuận Tiến có 11 thành viên. Trong 2 năm qua, đơn vị đã liên kết được với đối tác xuất thanh long qua các thị trường châu Âu như: Đức, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha… Theo ông Trần Đình Trung, giám đốc hợp tác xã, các hộ trong hợp tác xã phải cam kết sản xuất theo đúng yêu cầu của đối tác. Do tuân thủ nghiêm quy trình sản xuất, việc hợp tác rất thuận lợi từ mấy năm nay, nhờ vậy, các thành viên yên tâm sản xuất mà không lo về giá cả và đầu ra.
Hiện toàn tỉnh Bình Thuận có 30 hợp tác xã và 2 liên hiệp hợp tác xã trồng thanh long. Trong quá trình hoạt động, các hợp tác xã rất chú trọng việc xây dựng thương hiệu thanh long sạch bằng cách dán tem chỉ dẫn địa lý, tem QR code truy xuất nguồn gốc, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, làm cầu nối giúp nông dân tiếp cận với các thị trường mới ngoài Trung Quốc. Thanh long Bình Thuận đang tiêu thụ trên thị trường dưới dạng tươi, trong đó chỉ 15% sản lượng tiêu thụ nội địa, còn lại xuất khẩu. Để xuất khẩu chính ngạch, thanh long phải được sản xuất sạch, truy xuất được nguồn gốc, qua chiếu xạ, kiểm tra nhiều tiêu chí về an toàn thực phẩm… Trong nhiều năm nay, sản lượng xuất khẩu chính ngạch chỉ chiếm 2%-3% tổng sản lượng thanh long do người trồng chưa cung ứng được sản phẩm “sạch” theo tiêu chuẩn nhà nhập khẩu yêu cầu.
Thanh long Bình Thuận tăng giá trở lại
Sau hơn một tuần giảm giá mạnh, chỉ còn 500-1.000 đồng/kg mà không có người mua, hiện giá thanh long ở Bình Thuận đã tăng trở lại. Chị Trần Thị Gái – chủ vựa thanh long ở xã Hàm Thắng, huyện Hàm Thuận Bắc – cho biết từ ngày 11-10, thanh long loại 1 được vựa thu mua khoảng 7.000-8.000 đồng/kg, loại 2 khoảng 5.000-6.000 đồng/kg.
Theo lý giải của đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Thuận, hiện nay việc thu hoạch thanh long đợt cuối đã kết thúc, sản lượng không còn nhiều như trước nên giá bán nhích lên. Mặt khác, việc vận chuyển hàng hóa tại cửa khẩu với Trung Quốc đã thông suốt, giao thương hàng hóa thuận lợi. Dự báo trong những ngày tới, giá thanh long Bình Thuận có thể tăng.
Giá thanh long rục rịch tăng trở lại càng khiến nhiều hộ nông dân tiếc nuối vì không còn hàng để bán.
Chị Nguyễn Thị Hà (xã Hàm Mỹ, huyện Hàm Thuận Nam) chua xót nói: Lúc giá thanh long xuống thấp kêu mãi không thương lái nào tới mua. Trái hư, gia đình chờ không được phải chặt bỏ hết. Giờ giá tăng trở lại thì không còn gì để bán. Ông Nguyễn Văn Tám (xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc) thì buồn rầu cho biết vụ mùa này, vườn nhà ông có khoảng 5.000 trái. Không bán được cho ai, ông phải chặt bỏ hết trái chín để dưỡng cành cho kịp làm thanh long nghịch vụ. Giờ ngồi nhìn giá tăng càng buồn hơn.
Phải phát triển sản xuất “sạch”
Ông Phan Văn Tấn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Thuận, cho rằng để thanh long Bình Thuận phát triển hiệu quả và bền vững, bên cạnh việc mở rộng tìm kiếm thị trường chính ngạch, cần phải phát triển sản xuất thanh long theo quy trình sạch, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.
Theo Việt Khánh (Báo NLĐ)
Th1015
Con số người chết vì ung thư ở làng rau
Cuộc điều tra nhanh của NNVN ở một xã nông nghiệp điển hình tại tỉnh Hải Dương đã chỉ rõ sự khác nhau giữa chuyện ốm đau và tuổi thọ của người dân chuyên trồng lúa và người dân chuyên trồng rau…
Tiếng kèn, tiếng trống vừa thôi nỉ non, ai oán, giọng ông trưởng ban tang lễ đã vang lên rõng rạc: “Kính thưa hương hồn anh Nguyễn Văn Bờ (đã đổi tên). Kính thưa gia đình tang quyến. Kính thưa các cụ ông, các cụ bà, các ông, các bà cùng toàn thể nhân dân trong thôn… Anh Nguyễn Văn Bờ sau thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù đã được các bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc nhưng do bệnh quá hiểm nghèo, đã lìa trần vào hồi…”. Đó là cảnh thường thấy tại đám tang của những bệnh nhân ung thư ở một thôn chuyên trồng rau tại xã Hưng Đạo (huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương).
Tâm sự của một người chuyên viết điếu văn
Hưng Đạo có 3 thôn, dân số khá tương đồng, đều khoảng trên dưới 4.000 người, điều kiện địa lý, xã hội tương đối giống nhau, đều không gần nhà máy, xí nghiệp hóa chất hay ô nhiễm nào, đều dùng chung một nguồn nước máy nên rất thích hợp cho cuộc điều tra nhanh của tôi.
Ông Nguyễn Thanh Tâm – trưởng thôn Ô Mễ thống kê trung bình mỗi năm làng có khoảng 30 – 32 người chết với 3 nguyên nhân chính: Chết già, chết bệnh hiểm nghèo và chết do tai nạn. Là người chuyên viết điếu văn nên ông nhận thấy gần đây số người chết vì bệnh hiểm nghèo mà đặc biệt là ung thư đang gia tăng nhanh chóng.
Như nhà trưởng thôn có 5 sào ruộng, nếu trước đây mỗi năm cấy 2 vụ lúa, mỗi vụ phun trung bình 2 lần thuốc BVTV, tính theo thời giá hiện nay hết khoảng 80.000 – 100.000 đồng/sào. Giờ chuyển sang trồng rau mỗi vụ 2 tháng phun 5 lần, mỗi vụ dưa hấu 2 tháng phun 5 – 6 lần, tổng hết khoảng 500.000 đồng/sào. Hàng ngàn hộ dân trong thôn cùng đổ thuốc xuống ruộng nên trên đồng, dưới mương cá, cua, tôm, ốc bản địa giờ đây gần như mất sạch chỉ còn sót lại mấy loài ngoại lai như rô phi, ốc bươu vàng.
Thế còn con người? 18 năm làm trưởng thôn là biết bao nhiêu lần ông Tâm ngồi viết và đọc điếu văn cho người đã khuất. Thôn không có quỹ hiếu mà đoàn cán bộ quân dân chính của ông đi viếng chỉ có 1 gói chè, 1 thẻ hương, 1 hộp nến trị giá khoảng 30.000 đồng nhưng số đó không là gì nếu so với giá trị ngày công của họ bỏ ra. Đoàn quân dân chính ấy gồm 25 người từ chi ủy, trưởng phó thôn, đại diện các ban ngành đi đưa đám gần trọn nửa buổi. 1 đám tính ra hết hơn 10 công. 1 năm thôn hơn 30 đám vị chi hết hơn 300 công.
Tuổi thọ của dân trong thôn theo ông Tâm tổng kết tuy có nâng lên nhưng xưa kia khỏe đến chết, giờ ốm oặt ẹo mãi mới “đi”: “Xưa trung bình người ta chỉ ốm khoảng 3 tháng rồi chết, giờ thời gian ốm trung bình phải hơn 1 năm rồi mới chết, nhiều người nằm 4 – 5 năm thậm chí hơn 10 năm đến thối da, thối thịt…”.
Trên giấy tờ và trong thực tế
Đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của thuốc BVTV đến sức khỏe người nông dân tại xã Hưng Đạo” do GS.TS Nguyễn Văn Song, cử nhân Vũ Thị Thanh Thủy và các cộng sự thực hiện vào giữa năm 2017 đã phần nào hé mở lý do bệnh tật và tuổi thọ của người dân nơi đây. Nhóm chọn 2 thôn Xuân Nẻo và Ô Mễ để tiến hành điều tra 100 hộ dân đồng thời thu thập số liệu tại Trạm y tế xã và thống kê của Trung tâm y tế huyện làm đối chứng.
Lượng thuốc BVTV sử dụng của làng rau gấp nhiều lần làng lúa
Tứ Kỳ có 27 xã, thị trấn trong đó Hưng Đạo là một trong số những trọng điểm về sản xuất nông nghiệp. Theo kết quả tổng hợp của Trung tâm y tế trong 2 năm 2015 – 2016 toàn huyện có tổng cộng 456 người mắc ung thư các loại, trong đó xã Hưng Đạo năm 2015 chiếm 3,8%, năm 2016 chiếm 6,91%/tổng số người mắc.
Nhìn chung tỷ lệ người dân của xã mắc bệnh ung thư ngày một tăng: “Số người tử vong và nguyên nhân tử vong do mắc bệnh ung thư của cả xã Hưng Đạo tập trung lớn vào thôn Ô Mễ với 80 người chết (chiếm 41, 7%), 40,32% trong số người chết đó là do mắc bệnh ung thư trong vòng ba năm 2014 – 2016.
Sau thôn Ô Mễ là thôn Xuân Nẻo, một thôn cũng có quy mô diện tích sản xuất rau chỉ ngay sau thôn Ô Mễ với 62 người chết (chiếm 32,3%), 26 trường hợp trong số 62 người chết đó là do ung thư trong vòng ba năm.
Thôn Lạc Dục với đặc điểm sản xuất nông nghiệp chủ yếu là lúa và kết hợp nuôi trồng thủy sản, trong ba năm gần đây thôn có tỷ lệ số người chết và tử vong do mắc bệnh ung thư thấp nhất.
Đặc biệt trong ba thôn tại xã, thôn Ô Mễ có tỷ lệ mắc bệnh ung thư và tử vong do ung thư nhiều nhất, đồng thời qua điều tra tại xã cho thấy nam giới thường mắc bệnh hơn nữ giới.
Giải thích nguyên nhân này là do đa số chủ hộ là nam giới thường tham gia sản xuất nông nghiệp là chính…”.
Cũng nhóm nghiên cứu, nhận định: “Con số thống kê (bệnh nhân ung thư) của toàn huyện trên ở mức tương đối vì còn có trường hợp muốn đạt thành tích mà xã tổng hợp báo cáo lên Trung tâm y tế huyện chưa thật sự đầy đủ”.
Nhưng Bác sĩ Nguyễn Văn Tố – Trạm trưởng Trạm y tế Hưng Đạo lại lý giải theo hướng khác mà tôi thấy hợp lý hơn: “Con số tử vong do ung thư của Trạm y tế xã thống kê là từ xin số liệu của xã do người nhà họ cung cấp khi ra làm giấy chứng tử.
Nếu bắt buộc họ trình bệnh án thì mới có con số chính xác được. Bệnh nhân ung thư nếu còn trẻ thường được đưa đi bệnh viện xạ trị, hóa trị còn già mà phát hiện ra bệnh thường là cho về nhà.
Bởi thế, nếu người chết dưới 60 tuổi hay được khai thật là chết vì ung thư còn trên đó người ta khai chết già để con cháu còn có tiếng là có cụ trường thọ”.
Năm 2017 xã Hưng Đạo có 12/75 ca tử vong là ung thư, 9 tháng năm 2018 có 12/64 ca tử vong là ung thư. Tỷ lệ trên giấy tờ chưa đến 20% nhưng tỷ lệ thật theo bác sĩ Tố phỏng đoán phải 20 – 30%.
Ngồi đối chiếu bảng danh sách tử vong và nguyên nhân tử vong của thôn mình do Trạm y tế cung cấp, ông Tâm – trưởng thôn Ô Mễ liên tục đặt dấu hỏi, nghi ngờ ông Văn Lờ (đã đổi tên) ghi trong sổ tử là già yếu nhưng thực tế dân làng đồn là ung thư, ông Hữu Chờ (đã đổi tên) ghi trong sổ tử là suy thận nhưng thực tế dân làng đồn là ung thư máu, ông Văn Vê (đã đổi tên) cũng tương tự…
Cứ theo tính toán của trưởng thôn Tâm, năm 2017 số người chết của thôn do ung thư và nghi ung thư (người nhà giấu) phải là 10/27 ca tử vong, 9 tháng đầu năm 2018 tỷ lệ đó là 9/22 ca tử vong, chiếm 37% và gần 40% – một tỷ lệ cao khủng khiếp.
Số người cảm thấy trong người khó chịu sau khi phun thuốc BVTV chiếm 48,9% với các triệu chứng thường gặp là ngứa ngoài da (33,3%), không muốn ăn (28,9%), đau đầu chóng mặt (24,4%). Tuy nhiên, những người được phỏng vấn cho rằng tình trạng ảnh hưởng sau khi phun thuốc trên là không đáng kể (92,2%), chỉ khi nào bị nhiễm thuốc BVTV tới mức phải đi viện hoặc uống thuốc kháng sinh mới được coi là mức độ nghiêm trọng. Trong đó có 48,9% số người trả lời phỏng vấn tự điều trị, nghỉ ngơi. 41,1% số người không quan tâm đến vẫn tiếp tục phun và 5,6% khi thật sự nặng họ mới đến trạm xá. Thông thường khi gặp rủi ro thì số người bị là cả gia đình. Xét về mức độ ảnh hưởng thì Ô Mễ là thôn có số người gặp rủi ro ở mức nghiêm trọng hơn thôn Xuân Nẻo. (Trích báo cáo của nhóm nghiên cứu)
——————————
Dân giàu lên, thuốc BVTV trút xuống đồng cũng nhiều lên!
Ô Mễ có khoảng 190ha đất nông nghiệp. Trước đây diện tích này chủ yếu cấy lúa nhưng khoảng 15 năm gần đây đã chuyển sang trồng rau màu theo công thức chung là 2 vụ rau 1 vụ dưa hấu. Nhờ trồng rau mà kinh tế của thôn đi lên thấy rõ. Theo ước tính của Trưởng thôn, hộ giàu có nhà xây từ 500 triệu trở lên, có thu nhập từ 150 triệu/năm trở lên chiếm khoảng 40%. Nhưng cũng từ hồi chuyển sang trồng màu, lượng thuốc BVTV trút xuống đồng ruộng của thôn đã gấp 4 – 5 lần xưa.
Cách đây chừng 15 năm, tôi là nhà báo đầu tiên trong cả nước viết về làng ung thư Thạch Sơn, tỉnh Phú Thọ nơi gần một nhà máy hóa chất lớn. Lúc ấy, làng ung thư là một khái niệm hoàn toàn mới bởi trước đó người ta chỉ biết đến bệnh ung thư chứ không biết đến một cộng đồng làng xã nào gắn với căn bệnh quái ác đó. Thạch Sơn hồi ấy có khoảng trên 20% ca tử vong là do ung thư.
Chỉ 13 – 14 năm sau, khi tôi thực hiện một cuộc điều tra nhanh ở mấy xã thuộc vùng sâu, vùng xa tại Hải Dương, Hưng Yên, những nơi không liền kề bất cứ nhà máy, xí nghiệp ô nhiễm nào thì tỷ lệ chết do ung thư cũng đều khoảng trên 20% thậm chí 30%, vượt xa làng ung thư năm nào.
Theo Dương Đình Tường/Báo Nông nghiệp Việt Nam
Th1011
Kĩ thuật trồng chanh tứ quý
Cây chanh tứ quý còn được gọi với tên khác là chanh tứ thời, chanh 4 mùa, là loại cây họ bưởi có nguồn gốc từ chang Lim Ca Châu Mỹ.
1. Thời vụ trồng:
Thời vụ trồng tốt nhất là vào mùa mưa để cây phát triển tốt và đỡ công tưới ban đầu
– Miền Bắc trồng vào 2 vụ chính vụ xuân và vụ thu.
– Miền Trung và miền Nam có thể trồng vào mùa xuân, cuối mùa khô, đầu mùa mưa.
2. Loại đất canh tác:
Chanh có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng tốt nhất là đất thịt tơi xốp và nhiều mùn. Độ pH thích hợp từ 5 – 8, chanh không chịu úng nước và mặn do đó cần đào kênh hoặc lên luống cao để thoát nước.
3. Chuẩn bị đất trồng:
Hố được đào trước trồng 1-2 tháng, Kích thước hố trồng 0,6 x 0,6 x 0,6m với vùng đất thấp hố đào sâu 30-40cm, đất đồi đào sâu 60-80cm. Bón lót phân chuống vào hố trước : Phân chuồng hoai mục: 20-30 kg; phân lân 0,5 kg; kali 0,1kg; vôi bột 1 – 1,5 kg.Trộn đều lượng phân với đất, dùng cuốc phá thành hố sau đó rải vôi lên mặt hố và lấp đất mỏng. Tiếp đó bơm nước vào đầy hố, khoảng 10-15 ngày sau là trồng được.
4. Khoảng cách trồng:
Khi trồng thuần chanh thì cây cách cây là 2,5 x2,5m, khi trồng xen canh với các cây rau màu thường là 3,5m x 3-4m. Như vậy khi trồng thuần thì mật độ là 1.600 cây/ha. Trồng xen mật độ là 900 cây/ha. Nếu vùng đất thấp phải có đê bao khép kín, có hệ thống thủy lợi tưới tiêu hoàn chỉnh, đắp mô cao 0,5-0,6m, rộng 0,8-1m. Nếu vùng đất cao mặt đất bằng phẳng đắp mô cao 0,3-0,8m, rộng 0,8-1m.
5. Cách trồng:
Trồng bằng cây giống, đặt cây tùy số lượng nhánh nhiều cành bên hay ít mà đặt nhánh thẳng hay hơi nghiêng. Đặt nghiêng đối với cây chiết ít nhánh, giúp các đọt bên mọc lên để tạo tán. Sau khi trồng xong phải cắm cọc để buột thân cây cho gió khỏi lay làm đổ cây. Nếu là cây ghép xoay mắt ghép về hướng gió chính, lấp đất ngang cổ rễ hoặc cao hơn 1– 2 cm , tránh làm vỡ bầu hay lấp đất quá sâu. Năm đầu nên trồng xen đậu đỏ, lạc hay các loại rau khác.
6. Chăm sóc:
– Hạn chế ánh sáng: Trong thời gian đầu ta có thể trồng xen cây họ đậu vào trong vườn để hạn chế giông gió, đổ ngã và che bớt ánh sáng.
– Giữ ẩm: Đậy tủ gốc cho cây vào mùa khô, nhằm hạn chế chi phí tưới nước, trong vườn nên để cỏ cao 20-40cm để hạn chế nắng nóng vào mùa khô và chống xói mòn hay tăng cường thoát nước trong đất vào mùa mưa.
– Tưới nước: Cung cấp nước cho cây điều độ, muốn cây ra hoa, ngưng tưới cho khô gốc 20-30 ngày, sau đó tưới lại cây sẽ ra hoa.
– Tỉa cành tạo tán: Hạn chế cành vượt, loại bỏ những cành già cỗi sâu bệnh, giúp cây thông tháng, có dáng đẹp, tăng khả năng quang hợp và cây phát triển cân đối đủ sức mang trái.
– Bồi đất cho cây: Vào thời kỳ bón thúc cho cây nên cho thêm đất mới vào tán cây dầy 2-3cm cùng kết hợp việc bán phân hữu cơ hoai hay phân hóa học.
7. Qui trình bón phân:
– Bón phân thúc: Thay đổi tùy theo tính chất đất, năng suất…
* Bón 20-30 kg phân chuồng + 1- 2 kg tro/hốc/ năm (bón 1-2 lần/năm). Riêng phân hóa học được sử dụng bình quân như sau (cho mỗi cây):
* Năm thứ nhất: 0,5-1,0kg sulfat đạm (nếu dùng urê bón 0,25-0,5kg) + 0,3-0,5kg NPK (16-16-8)
* Năm thứ hai: 1,0-2,0kg sulfat đạm (nếu dùng urê bón 0,5-1,0kg) + 0,3-0,5kg NPK (16-16-8).
* Năm thứ ba trở đi: 2,0-2,4kg sulfat đạm (nếu dùng urê bón 1,0-1,2kg) + 0,5kg NPK (16-16-8) + 1 kg vôi. Do thu quả rải rác nên chia phân ra bón từ 4 – 5 lần/ năm.
8. Tạo quả trái vụ:
Có thể cho ra quả trái vụ bằng cách xiết nước. Ngưng tưới nước, tưới phân, hạn chế nguồn cung cấp dinh dưỡng cho cây khoảng 3 – 4 tuần, sau đó bón phân và tưới nước trở lại, cây sẽ cảm ứng và cho hoa quả sớm hơn thường lệ.
9. Chống hiện tượng cách niên:
Cần bón phân đầy đủ để tránh cây bị kiệt sức, vào những năm được mùa cần tăng thêm phân. Cần chủ động tỉa bớt quả, nhất là những cành phải nuôi nhiều quả; cắt bỏ những cành bên trong tán; tăng lượng phân ở thời kỳ sau thu hoạch.
10. Sâu bệnh hại và biện pháp phòng trừ:
Nhìn chung, các loại sâu bệnh trên cam, quýt, bưởi và chanh giống nhau. Riêng chanh cần chú ý hơn các đối tượng sau:
* Bệnh ghẻ: Do nấm Elsinoe fawcettii gây ra. Thường xuyên vệ sinh vườn cây, cắt tỉa và thu gom các bộ phận bị bệnh đem tiêu hủy. Phun ngừa khi cây ra đọt non hoặc khi hoa rụng cánh 2/3 bằng thuốc gốc đồng như Copper Zinc 85 WP, Coc 85 WP với liều lượng 20-30g/8 lít. Phun thuốc Benlate 50 WP, Derosal 60 WP, Polyram 80 DF, Kumulus 80 WP, Top plus 70 WP với nồng độ 0,2 – 0,5 %, phun 7-10 ngày/lần.
* Bệnh thán thư: Do nấm Colletotrichum gloeosporioides gây ra. Nấm làm hại lá, hoa và quả, làm rụng quả non. Cần cắt tỉa và tiêu hủy các lá, cành, trái bị bệnh, vệ sinh vườn, tỉa tán thoáng, tránh để vườn ẩm thấp. Không nên tưới nước lên tán cây khi cây bị bệnh. Phun thuốc khi thấy bệnh xuất hiện bằng các loại thuốc sau: Mancozeb 80 WP, Copper B 75 WP, Benomyl 50 WP, Antracol 70 WP, Bavistin 50 FL, Daconil 75 WP, Ridomil MZ 72 WP… liều lượng 15-30 g(cc)/8 lít, phun 7-10 ngày/lần, nên thay đổi thuốc sau vài lần phun để tránh sự quen thuốc của mầm bệnh.
* Bệnh thối gốc chảy nhựa: Do nấm Phytophthora spp. gây ra. Không nên tủ cỏ sát gốc vào mùa mưa. Dùng Copper Zinc 85 WP, Mancozeb 80 WP, Dithane M45 80 WP, Champion 77 WP pha đặc phết vào vết bệnh 7 ngày/lần. Hoặc để ngừa bệnh phết 2 lần/năm vào đầu và cuối mùa mưa. Phun thuốc khi bệnh gây hại cho cây Curzate M8 80 WP, Manzate 80 WP, Ridomil 72 WP, Metalaxyl 25 WP, Aliette 80 WP với liều lượng 20-30g/8 lít, phun 7-10 ngày/lần.
* Nhóm rệp sáp (rệp sáp, rệp bông, rệp dính): Nên sử dụng phối hợp thuốc hóa học (loại thuốc hóa học gốc lân hữu cơ tỏ ra có hiệu quả đối với rệp sáp khi không sử dụng liên tục một loại nhất định) với dầu khoáng (dầu khoáng DC-Tronc Plus, SK 99- Enpray ; có thể sử dụng ở liều lượng 0,5%) kết hợp diệt trừ kiến lửa.
11. Thu hoạch và bảo quản:
Khoảng 4 tháng sau khi hoa nở thì có thể thu hoạch được. Thu khi quả có vỏ căng, bóng. Thu hái nhẹ nhàng, tránh rụng lá gãy cành.
Sau khi thu hoạch để chanh ở khu vực thoáng mát, cách mặt sàn 10-15cm. Có thể dùng các loại hóa chất bảo quản để chanh được tươi lâu.
Nguồn: kĩ thuật nuôi trồng
Th1009
kĩ thuật canh tác cây có múi
KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY CÓ MÚI
1. CÁC GIỐNG CAM – QUÝT – BƯỞI
a. Các giống cam:
– Cam dây: Cây cam phân cành thấp, tán hình dù lan rộng. Ở tuổi thứ 5 cây cao
khoảng 3-4 m, đường kính tán 5-6 m.
Cành ít gai, gai ngắn, lá xanh đậm, có eo nhỏ, cây có thể ra hoa 3 vụ trong một năm,
năng suất có thể đạt tới 1.000-1.200 trái/cây/năm. Trọng lượng trái trung bình 217-
259g. Khi chín vỏ trái màu vàng, thịt trái vàng đậm, ngọt, ít chua, nhiều hạt 20-23
hạt/trái.
– Cam mật: cây 5 tuổi cao trung bình 5 m, tán hình cầu, cây phân cành nhiều, ít gai. Lá
có màu xanh đậm, eo lá nhỏ, tán cây thoáng. Cây ra 2-3 vụ trái/năm. Số trái đạt từ
1.000 -1.200 trái, trọng lượng trung bình 240-250 g. Vỏ dày 3-4 mm, trái mọng nước,
khi chín có màu vàng, thơm, ngọt, ít chua, nhiều hạt. Cam mật là một giống có năng
suất cao.
– Cam sành: là giống cam được các nhà vườn ưa chuộng, cây có phẩm chất trái thơm
ngon, trồng được ở nhiều loại đất, màu sắc trái xanh vàng, bề mặt vỏ sần, trái hình
cầu, hơi dẹp hai đầu, thịt trái màu cam, mềm, nhiều nước. Lá hình trứng màu xanh
đậm, trọng lượng trung bình 250g, ít hạt.
b. Các giống quít:
– Quít đường: tán cây trung bình, trái hơi dẹp hai đầu, vỏ mỏng dễ bóc, múi rời dễ
tách, vỏ trái màu vàng xanh, láng, thịt trái màu cam, mềm: có nhiều nước, vị ngọt,
thơm, trọng lượng trái trung bình 170 g.
– Quít tiều: vỏ màu cam đậm, bề mặt vỏ láng, nổi múi khá rõ. Trái hình cầu, dẹp 2 đầu,
vỏ rất dễ bóc, thịt trái màu cam đậm, mềm, vị hơi chua hơn quít đường, khá nhiều
nước, ít hạt. Trọng lượng trái trung bình 180 g.
c. Các giống bưởi:
– Bưởi Năm Roi: Lá có dạng hình tam giác, phiến lá hình trứng ngược, vỏ trái màu
vàng, bề mặt vỏ rổ đốm, trái hình quả lê, vỏ múi dễ bóc, màu thịt vàng đồng đều, vị
ngọt hơi chua, nước khá, ít hạt. Trọng lượng trái trung bình 1 kg.
– Bưởi Long: lá có dạng tim, phiến lá hình trứng ngược; vỏ trái màu vàng xanh, bề mặt
trái rổ đốm, trái có hình cầu hơi chỏm, vỏ múi dễ bóc, thịt trái màu hồng pha, nhiều
nước, vị chua, hơi đắng, ít hạt. Trọng lượng trái trung bình 1,1 kg.
– Bưởi Đường da láng: vỏ màu vàng nhạt, bề mặt vỏ láng, trái hình quả lê, vỏ múi dễ
bóc, thịt trái màu vàng đậm, nước nhiều, vị ngọt đắng, ít hạt. Trọng lượng trái trung
bình 1kg.
– Bưởi thanh trà: vỏ trái màu vàng nhạt, bề mặt vỏ láng, trái hình quả lê, vỏ múi dễ bóc,
thịt trái màu vàng nhạt, nhiều nước, vị ngọt, ít hạt. Trọng lượng trái 1 kg.
Ngoài ra, cây có múi còn có nhiều giống khác như: Cam xoàn, Bưởi Biên Hòa, Quít
Orlando…mấy năm gần đây cũng đang được nhà vườn và người tiêu dùng ưa chuộng.
2. THỜI VỤ, CHUẨN BỊ ĐẤT VÀ TRỒNG CÂY CHẮN GIÓ
a. Thời vụ:
Cây có múi thường được trồng vào đầu mùa mưa để đỡ công tưới, tuy nhiên cũng có
thể trồng được quanh năm nếu chủ động nguồn nước tưới.
b. Chuẩn bị đất trồng:
Dùng đất tốt như đất mặt ruộng, đất bãi bồi ven sông… để đắp mô. Mô có hình tròn,
đường kính 0,6-0,8 m; cao 0,3-0,5 m. Đất đắp mô có thể trộn tro trấu, phân chuồng
hoai mục, xử lý đất bằng Carbofuran, Diazinon để trừ côn trùng và vôi để ngừa bệnh.
c. Trồng cây chắn gió và che mát:
Cây có múi thích hợp ánh sáng tán xạ, do đó phải trồng cây che mát cho cam, quít
bưởi như các loại cây mãng cầu xiêm, so đũa,… Đồng thời, trồng cây chắn gió như
dừa, xoài, các loại cây lấy gỗ trên bờ bao… để hạn chế sự thiệt hại do gió bão, sự lây
lan của côn trùng, nấm bệnh.
3. KHOẢNG CÁCH TRỒNG VÀ ĐẮP MÔ
a. Khoảng cách trồng:
– Cam sành: 3 x 3 m
– Cam mật, quít, chanh: 4 x 4 m
– Bưởi: 6 x 6 m
Có thể trồng dày để khai thác ở những năm đầu, khi cây giao tán thì tiến hành đốn tỉa.
b. Đắp mô, bồi liếp:
Trong 2 năm đầu sau khi trồng: mỗi năm bồi 1-2 lần bằng đất bùn ao, đất bãi sông
phơi khô. Năm thứ ba trở đi thì bồi liếp mỗi năm 1 lần khoảng 2-3 cm nhằm cung cấp
thêm dinh dưỡng, đồng thời nâng cao tầng canh tác. Chú ý không bồi sát gốc.
Mực nước trong mương: cam, quít rất mẫn cảm với nước. Vì vậy, cần để mực nước
trong mương cách mặt liếp khoảng 50-80 cm.
4. TỦ GỐC GIỮ ẨM VÀ CẮT TỈA CÀNH
a. Tủ gốc, giữ ẩm:
Rễ hấp thu dinh dưỡng đa số mọc cạn, mùa nắng nhiệt độ cao sẽ ảnh hưởng xấu đến
rễ, do đó cần tủ gốc giữ ẩm bằng rơm rạ, lục bình (cách gốc ít nhất 20 cm).
Ngoài ra, trong vườn cần duy trì thảm cỏ có rễ ăn cạn như rau trai để giữ ẩm trong
mùa nắng, làm thông thoáng đất trong mùa mưa và giảm thiệt hại cho cây trong mùa
lũ. Nếu cỏ mọc cao nên cắt cỏ bớt (không xới gốc).
b. Cắt tỉa:
Thường xuyên cắt tỉa cành già, cành vượt, cành sâu bệnh, cành mọc từ gốc ghép để
vườn cây thông thoáng hạn chế sâu bệnh phát triển.
5. BÓN PHÂN CHO VƯỜN CÂY CÓ MÚI
Tùy theo đất, giống và tình trạng dinh dưỡng của cây mà quyết định lượng phân bón
thích hợp, cần cung cấp đầy đủ đạm, lân, kali; bổ sung thêm phân hữu cơ và vi lượng
để cây đạt năng suất cao.
Bảng: Hướng dẫn sử dụng phân bón.
Năm tuổi
Loại phân (g/cây/năm)
năm tuổi Urea Super Lân Kali
1 – 3 100 – 300 300- 600 100
4 – 6 400 – 500 900 –1.200 200
7 – 9 600 – 800 1.500 –1.800 300
Trên 10 800 – 1.600 2.000 – 2.400 400
– Đối với cây 1 – 2 năm tuổi:
+ Phân đạm: nên pha vào nước để tưới, 2-3 tháng tưới một lần.
+ Phân lân và kali: bón một lần vào cuối mùa mưa.
– Đối với cây trưởng thành: chia làm 4 lần bón/năm.
* Lần 1: Trước khi cây ra hoa: bón 1/3 Urea.
* Lần 2: Sau khi đậu trái 6 – 8 tuần: bón 1/3 Urea + 1/2 Kali.
* Lần 3: Trước thu hoạch trái 1 – 2 tháng: bón 1/2 Kali còn lại.
* Lần 4: Sau khi thu hoạch trái bón toàn bộ lân và 1/3 Urea.
Kết hợp bón 10 – 20kg phân hữu cơ/gốc hoặc 2-3kg kén trùn quế / gốc
– Cách bón: dựa theo tán cây để bón, cuốc rãnh sâu 5-10 cm; rộng 10-20 cm cách gốc
0,5-1m (tùy tán cây); cho phân vào, lấp đất lại và tưới nước.
Khi cây giao tán nên dùng cuốc xúc nhẹ lớp đất xung quanh gốc theo hình chiếu của
tán, cách gốc khoảng 50cm. Tưới đẫm liếp trước, sau đó rải phân thẳng lên mặt liếp.
Hằng năm, cần bón thêm phân hữu cơ hoai mục cho cây nhằm vừa cung cấp dinh
dưỡng cho cây, vừa giúp đất tơi xốp, giúp bộ rễ cây phát triển tốt.
Để cung cấp thêm vi lượng dinh dưỡng cho cây, có thể bón thêm phân qua lá như dịch trùn quế..
vào giai đoạn cây ra lá non và khi trái bắt đầu phát triển nhanh, mỗi lần phun cách
nhau 10-15 ngày, phun 5-6 lần/vụ.
Cần bón vôi hàng năm với lượng 200-500kg/ha/năm có thể bón đến 1 tấn/ha/năm.
6. KỸ THUẬT XỬ LÝ RA HOA
Dùng biện pháp xiết nước để kích thích cây ra hoa:
– Sau thu hoạch, cắt tỉa cành bị sâu bệnh, cành vô hiệu và bón phân để cây phục hồi
sau mùa cho trái.
– Rút khô nước trong mương vườn và ngưng nước để tạo “sốc” cho cây.
– Thời gian xiết nước kéo dài khoảng 3 tuần đến khi thấy lá hơi héo thì cho nước vào
mương cách mặt đất 20-30cm trong 12 giờ, sau đó rút bớt nước ra còn cách mặt liếp
50-60 cm để không làm rễ cây bị tổn hại.
– Tưới nước, bón phân đầy đủ thúc cây sớm ra đọt và nụ hoa. Nếu dùng thêm KNO3
(0,5-1%) kết hợp với Atonik, thời gian xiết nước sẽ rút ngắn hơn.
8
Lưu ý: Chỉ nên xiết nước đối với vườn cây trên 3 năm tuổi và thời gian xiết nước
không quá 20 ngày để kéo dài tuổi thọ và thời kỳ kinh doanh của cây có múi.
Hình 10: Tưới nước để kích thích ra hoa cho vườn cây có múi.
7. THU HOẠCH VÀ BẢO QUẢN
Cam, quýt từ khi ra hoa đến thu hoạch khoảng 8-10 tháng, tùy theo giống, phương
pháp nhân giống, tuổi cây, tình trạng sinh trưởng,…thời gian thu hoạch phải có nắng
khô ráo, không nên thu trái sau mưa hoặc có mù sương nhiều vì trái dễ bị ẩm thối. Trái
thu xong cần dể nơi thoáng mát, không nên tồn trữ quá 15 ngày sẽ giảm giá trị thương
phẩm
nguồn; syngenta.com, sưu tầm và chỉnh sửa
Th1006
Thanh long rớt giá sốc
Hai tuần trước thanh long được thu mua với giá 15.000 – 20.000 đồng thì hiện rớt xuống còn 1.500 – 2.000 đồng, nhiều nơi nhà vườn phải đổ bỏ.
Ông Nguyễn Văn Ba (xã Bông Trang, huyện Xuyên Mộc) cho biết, bảy năm trồng thanh long ruột đỏ, ông chưa từng gặp cảnh giá rớt thê thảm như hiện nay. “Cách đây nửa tháng, thương lái mua 15.000 – 20.000 đồng một kg, đột ngột ba hôm nay giảm xuống còn 1.500 – 2.000 đồng mỗi kg nhưng phải năn nỉ mới có người chịu mua”, ông Ba nói và cho biết thêm những vườn thanh long ruột trắng thì không ai ngó ngàng tới.
Thương lái mua thanh long ruột đỏ của ông Nguyễn Văn Ba với giá 1.500 – 2.000 đồng mỗi kg.
Mọi năm, 400 gốc thanh long cho hơn 4 tấn quả, mang lại nguồn thu từ 100 – 150 triệu đồng thì nay ước chỉ thu được 6 – 8 triệu đồng, không đủ chi phí thuê công cắt quả. “Bây giờ, giá nào cũng phải bán, nếu không ba hôm nữa gặp trận mưa cả vườn trái bị nứt toác, thối rữa phải tốn tiền thuê người hái bỏ để dưỡng cây cho vụ tới”, ông Ba cho hay.
Bà Đặng Thị Hường bán 3 tấn thanh long được hơn ba triệu đồng. Trong khi tiền phân bón, thuốc và thuê người “vuốt tai” trái cho 500 gốc thanh long bà đã chi hơn 30 triệu. “Tiền vay mượn để đầu tư nhưng giờ thì coi như trắng tay và cũng không biết vụ tới đây tình hình như thế nào nữa. Thật sự tôi rất lo lắng”, bà Hường nói.
Bà Linh, thương lái cho biết, tình hình thu mua thanh long cho nông dân ở Bà Rịa – Vũng Tàu đang rất căng thẳng vì kho của các vựa ở Bình Thuận xuất đi Trung Quốc đã đầy. “Tôi đánh xe thanh long loại đẹp nhất ra Phan Thiết bán với giá 5.000 đồng mỗi kg nhưng không một vựa nào chịu lấy. Đến nửa đêm, vựa có người Trung Quốc thu mua trả 3.000 đồng mỗi kg, lỗ nặng cũng phải bán”, bà Linh nói và cho biết, sáng nay, vựa báo cho thu mua giá 1.500 đồng một kg, mua lại giá 2.000 đồng một kg.
Theo bà Linh, hiện còn hàng trăm tấn thanh long ùn ứ ở vườn dân và những người thu mua đều phải chịu lỗ nhưng phải tìm cách bán cho nông dân gỡ gạc phần nào. “Một vài ngày tới có thể thanh long sẽ không cắt được khi vựa ngừng mua”, bà Linh dự báo.
Nếu thương lái không mua, vài ngày tới vườn thanh long này phải hái bỏ.
Ông Trần Văn Phương, Chủ tịch Hội Nông dân Xuyên Mộc cho biết, toàn huyện có gần 200 ha thanh long tập trung ở hai xã Bông Trang và Bưng Riềng.
“Hội đã liên hệ với một số nhà máy để người dân mang thanh long đến bán nhưng không có nơi nào nhận hàng vì kho đã đầy, trong khi hàng xuất đi không được. Thực trạng này khiến người trồng thanh long ở huyện Xuyên Mộc rất khó khăn”, ông Phương nói và khuyến cáo người dân nên rất cân nhắc việc phát triển diện tích trồng thanh long trong thời gian tới.
Nông dân miền Tây thua lỗ
Đứng bên ruộng thanh long ruột đỏ 2.000 m² vừa thu hoạch ngày hôm trước với giá bán xô 3.000 đồng, ông Huỳnh Văn To (Vĩnh Công, Châu Thành, Long An) cho biết, vụ này, ông thua lỗ hàng chục triệu đồng.
“Đầu vụ thương lái đến đặt tiền cọc, mua giá 20.000 đồng mỗi kg, tuy nhiên, sau đó họ bỏ luôn cọc khiến nhiều nông dân khốn đốn buộc phải bán với giá bèo bọt, từ 2.000 – 7.000 đồng mỗi kg”, ông To nói.
Theo cách tính của nông dân, bình quân mỗi kg thanh long ruột đỏ giá trên 10.000 đồng trở lên mới mong có lãi. Không chỉ có nông dân gặp khó khăn, hiện tại, trên địa bàn huyện Châu Thành có hơn 200 cơ sở mua thanh long xuất khẩu. Một số cơ sở cho biết, những ngày qua do lượng thanh long quá lớn nên họ gặp khó khăn do kho bãi không đủ chỗ.
Ông Nguyễn Văn Thình, Chủ tịch UBND huyện Châu Thành thông tin, diện tích trồng thanh long tại huyện khoảng 8.300 ha, lớn nhất tỉnh, trong đó, có khoảng 6.500 ha thanh long ruột đỏ. Hầu hết diện tích trên đang cho thu hoạch năng suất cao do thời tiết thuận lợi hơn mọi năm.
Gia đình ông Dũng (Tiền Giang) cắt thanh long đổ đống nhưng thương lái chê không mua. Ảnh: Hoàng Nam.
“Bình quân mỗi ha thanh long cho ba tấn trái, đợt này có khoảng 600 ha chín đồng loạt, khoảng 180.000 tấn trái phải thu hoạch trong vòng một tuần lễ thì không cách nào tiêu thụ kịp”, ông Thình nói và cho biết, đây là đợt xuống giá thấp kỷ lục trong 5 năm trở lại đây. Địa phương này cũng khẳng định qua xác minh, không có tình trạng thương lái lợi dụng thu hoạch đồng loạt để ép giá nhà vườn.
Tại tỉnh Tiền Giang có hơn 6.500 ha thanh long cũng xảy ra tình trạng tương tự. Mấy ngày qua, nửa ha thanh long ruột đỏ của ông Nguyễn Hoàng Dũng (Chợ Gạo) phần lớn phải đem bán tháo, một số vứt bỏ.
“Thương lái đã đặt cọc trước đó giá 12.000 đồng mỗi kg, tuy nhiên sau đó họ giảm xuống còn 5.000 đồng. Chúng tôi bấm bụng bán vì không còn ai chịu mua, thanh long thì đã cắt đổ đống chờ. Tuy nhiên, sau đó họ đến nhưng chê thanh long xấu không mua nữa”, ông Dũng nói.
Nhận định về tình trạng giảm giá sốc này, một công ty chuyên thu mua thanh long xuất khẩu ở Tiền Giang cho biết, hiện họ vẫn thu mua thanh long ruột đỏ với giá 27.000 đồng một kg, ruột trắng 17.000 đồng. “Năm nay, thanh long tại vườn của nhiều nông dân có giá rẻ là do trái xấu, không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu”, đại diện công ty này nói.
Nguyễn Khoa – Hoàng Nam (vnexpress)
Th1003
Kỹ thuật trồng và chăm sóc ớt
Kỹ thuật trồng và chăm sóc ớt
Quả ớt với vị cay đặc trưng là loại gia vị không thể thiếu trong các món ăn trong gia đình Việt. Ớt chứa hàm lượng vitamin A rất cao, ớt giúp giảm đau, giảm béo, chống cảm cúm và diệt vi khuẩn. Việc trồng và chăm sóc ớt dễ dàng, không yêu cầu kỹ thuật cầu kỳ
Đặc điểm cây ớt
Ớt là một loại quả gia vị hoặc làm rau Capsicum annum L. thuộc họ Cà – Solanaceae. Ớt thuộc loại cây thân thảo, sống lâu năm, nhiều cành lá, chiều cao khoảng 30-120cm. Hoa ớt có 5 cánh, mọc ở nách lá. Quả ớt có nhiều loại, khi còn non có màu xanh, khi chín có màu đỏ hoặc vàng, có vị cay nồng hoặc không cay. Quả ớt có nhiều hình dáng tùy thuộc vào giống.
Cách gieo trồng ớt
Tùy vào giống và tỷ lệ nảy mầm 1ha cần trung bình khoảng 150-200g. Trước khi gieo hạt cần ngâm hạt giống trong nước sạch 6-8h. Tiếp theo ngâm 30 phút với thuốc trừ nấm Funomyl theo tỷ lệ 1g thuốc + 1 lít nước. Sau đó vớt lên rửa sạch, để ráo, gói trong khăn ẩm, để kín trong bao nilong kín miệng để tránh thoát hơi nước. Rồi ủ gói giống ở nhiệt độ 27-28oC. Sau khoảng 48 giờ các giống ớt nảy mầm, đem gieo hạt nứt mầm, tránh hạt mọc rễ quá dài, mầm yếu, gieo hạt dễ gãy mầm.
Nên gieo hạt ớt vào bầu bằng giá thể mịn, nếu không có điều kiện gieo luôn xuống ruộng. Gieo hạt vào hốc trồng, rải lớp mỏng phân chuồng hoai / 30 gr phân trùn quế lấp kín hạt ,rải một ít thuốc Basudin để đề phòng sâu đất , dế, kiến phá hoại.
Sau khi cây có 4-5 lá thật khoảng 25-35 ngày sau gieo thì đem trồng với mật độ vừa phải: cây cách cây 0,6m , hàng cách hàng 1m2-1m4.
Cây ớt rất khỏe mạnh, dễ trồng, chăm sóc, ít sâu bệnh, kháng chịu khắc nghiệt rất tốt. Rễ ớt là loại rễ chùm, mọc nông chịu úng kém nhưng chịu nóng và hạn rất tốt.
ớt có thể trồng quanh năm nhưng thường tập trung vào 3 vụ chính:
+ Vụ Xuân Hè: gieo hạt tháng 2-3, thu hoạch từ tháng 4-9
+ Vụ thu đông: gieo hạt vào tháng 9, thu hoạch từ tháng 1 năm sau.
+ Vụ Đông Xuân: gieo vào tháng 11-12, thu hoạch tháng 2-6 năm sau
– Ánh sáng: Cây ớt ưa sáng hoàn toàn, càng nhiều nắng quả càng đẹp, giàu dưỡng chất.
– Nhiệt độ: Ớt ưa nhiệt độ cao khoảng 25-30 độ C
– Độ ẩm: ớt thích độ ẩm trung bình.
– Đất trồng: Cây ớt không kén đất nhưng nên chọn các loại đất ít bị nhiễm mặn, nhiễm phèn, có hàm lượng dinh dưỡng khá. pH= 5,5-6,5 là tốt nhất. Đất trồng tốt cần được luân canh đậu, lúa, bắp… tối thiểu 3 năm, vụ trước không nên trồng các loại cây họ cà: cà tím, cà chua, ớt… đề phòng nấm bệnh lan truyền cho cây. Đất phù hợp có cơ cấu thoáng xốp: đất thịt pha sét, đất trồng lúa, đất phù sa, đất cát
Đất cần được cày xới sâu 20-25 cm, phơi ải 10-15 ngày, luống rộng 1m, cao 20 cm.
– Tưới nước: Cây ớt cần tưới nước đầy đủ, mùa mưa thoát nước tốt. Tưới thấm vào rãnh là phương pháp tưới nước tốt nhất cho ớt: vừa tiết kiệm nước, giữ ẩm lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón, không văng đất lên lá. Tuy nhiên nếu ruộng có cây bị bệnh gây ra trong đất thì nên tưới hốc, tưới phun.
Cần tưới nước đầy đủ trong giai đoạn ra hoa, kết quả để tránh hoa, quả bị rụng. Nếu tưới không đầy đủ và điều độ làm cây phát triển kém, giảm hoa, giảm quả, chất lượng thấp.
Tỉa cành nhánh: tỉa các lá, cành dưới điểm phân cành vào lúc nắng ráo để ớt phân tán rộng, gốc thông thoáng, hạn chế sâu bệnh.
Làm giàn: Khi ớt nhiều quả gặp gió mạnh dễ bị đổ ngã nên làm giàn giúp cây đứng vững, dễ hái quả, hạn chế quả bị sâu bệnh do cây đổ, kéo dài thời gian thu hoạch.
Bón phân cho cây:
Bón lót: ( áp dụng cho diện tích 1 ha )20 kg NPK 16-16-8 + 2 kg Micromate + 1-1,5 tấn phân hữu cơ hoai mục hoặc 1-1,5 tấn phân trùn quế + 2 kg Basudin 10 H + 1 kg Super Humic.
Bón thúc ( áp dụng cho diện tích 1 ha)
Sau trồng 25-30 ngày bón thúc đợt 1: 1 kg Super Humic + 30 kg N.P.K 16-16-8 + 500kg phân trùn quế
Sau trồng 45-50 ngày bón thúc đợt 2: 5 kg Nitrabor + 30 kg N.P.K 16-16-8+ 5 kg Ure + 500kg phân trùn quế
**** có thể giảm bớt 20-30% lượng NPK nếu bón NPK chung với trùn quế
Bổ sung dinh dưỡng cho cây
Sau khi ớt được 15 ngày, pha 1 lít dịch trùn quế với 600-700 lít nước, 7 ngày phun xịt 1 lần cho đến khi thu hoạch. Các thành phần dinh dưỡng và amin có trong dịch trùn quế sẽ giúp ớt phát triển tốt, hạn chế nấm bệnh, cây ra hoa đều đẹp. Trái ớt vỏ dày, cay, nặng cân, ít bị thối úng.
Phòng trừ sâu bệnh:
Cây ớt ít bị sâu bệnh. Tuy nhiên nếu trồng nhiều đồng loạt thì có thể bị sâu ăn lá, sâu đất, sâu đục quả, bọ phấn, bọ trĩ, rầy mật … bà con sử dụng luân phiên các loại thuốc: Thiamax 25WDG, Ammate, Brightin 1.8EC, Secure 10EC, Actimax 50WG
Thu hoạch ớt:
Ớt cay thu hoạch sau 35-40 ngày sau trổ hoa, thu hoạch trung bình 1-2 ngày/ lần.Năng suất ớt đạt trung bình 25-35 tấn/ha.
Nên thu hoạch khi quả bắt đầu chuyển màu có vết đỏ để kích thích hoa nhiều, tăng năng suất đợt sau. Chú ý cắt cả cuống quả,tránh làm gãy nhánh.
Nguồn: sưu tầm và chỉnh sửa
Th924
Một số sâu bệnh thường gặp ở rau củ
1. Bệnh thối gốc ở rau
Bệnh thối gốc ở rau, khi mới xuất hiện, nếu quan sát kỹ có thể thấy những vết bệnh có màu khác với vỏ cây, phần vỏ này bị rộp lên, sau đó lan dần bao quanh toàn bộ phần cổ rễ hoặc gốc cây. Dần dần phần vỏ này khô teo lại, khi gặp trời mưa hoặc độ ẩm cao sẽ bị thối nhũn, bong ra, trơ lại phần lõi gỗ của cây, cây sẽ héo dần và chết.
2. Bệnh sâu tơ hại rau
Sâu tơ là loài sâu hại nguy hiểm nhất đối với các loại rau cải, súp lơ… Con trưởng thành dài 6-7mm, sải cánh rộng 14-15mm, màu nâu xám, trên cánh trước mỗi cánh có 3 dấu hình tam giác màu nâu nhạt. Khi đậu, cánh úp sát thân như hình mái nhà, các vết hình tam giác ở cánh trước tụ lại nhìn óng ánh như kim cương. Mỗi con cái có thể đẻ từ 50-400 trứng.
Sâu non hình ống, màu xanh nhạt. Khi mới nở, sâu gặm lá để ăn thành các đường rãnh, mới nhìn giống như những rãnh do dòi đục lá gây ra. Đến tuổi 2-3, sâu ăn ở mặt dưới của lá để lại biểu bì tạo thành các lỗ thủng mờ. Ở tuổi cuối, sâu ăn thủng lá.
3. Bệnh lở cổ rễ ở rau
Trồng rau thương phẩm, trong 1-2 năm đầu cây giống sinh trưởng, phát triển tốt, ít bị sâu bệnh hại nhưng qua vụ thứ 3 thấy cây con chết nhiều, nhiều luống mất trắng. Nhổ cây lên xem thấy phần gốc bị teo lại, lá héo rũ rồi chết dần và lây lan nhanh.
Trên đây là những triệu chứng điển hình của bệnh lở cổ rễ hay còn gọi là bệnh thối gốc, một trong những loại bệnh nguy hiểm, gây thiệt hại nhiều nhất, nhanh nhất cho những người sản xuất rau màu nói chung, những người chuyên gieo ươm cây rau giống nói chung.
Triệu chứng: Bệnh chủ yếu gây hại ở phần cổ rễ, phần gốc sát mặt đất. Khi mới xuất hiện, nếu quan sát kỹ có thể thấy những vết bệnh có màu khác với vỏ cây, phần vỏ này bị rộp lên, sau đó lan dần bao quanh toàn bộ phần cổ rễ hoặc gốc cây. Dần dần phần vỏ này khô teo lại, khi gặp trời mưa hoặc độ ẩm cao sẽ bị thối nhũn, bong ra, trơ lại phần lõi gỗ của cây có màu thâm đen, cây sẽ héo dần và chết.
Lúc mới bị nhiễm bệnh, lá trên các cây này còn giữ được màu xanh tươi trong vài ngày (nếu trời râm mát), sau đó toàn bộ cây sẽ bị héo rũ gục xuống, chết lụi từng đám rải rác trên ruộng hoặc từng vạt lớn nếu ruộng rau bị nhiễm bệnh nặng. Vào những ngày có nhiều sương mù hoặc lúc sáng sớm ta có thể thấy lớp tơ màu trắng bám nơi vết bệnh. Vài ngày sau, trên thân cây và vùng đất xung quanh gốc cây bị bệnh xuất hiện nhiều đốm hạch màu vàng nâu bám xung quanh đó.
Tác nhân gây bệnh, điều kiện phát sinh, phát tiển và gây hại:
– Bệnh lở cổ rễ do nấm Rhizoctonia solani gây ra là chủ yếu. Tuy nhiên, tuỳ điều kiện thời tiết, chế độ canh tác có thể do nhiều loại nấm có trong đất gây ra như Pythium spp., Fusarium solani, Fusarium sp. v.v. Các bào tử nấm Rhizoctonia solani thường sống tiềm ẩn trong đất và tàn dư cây trồng khá lâu, nhất là ở những vườn ươm cây giống, những vườn sản xuất đã từng bị bệnh lở cổ rễ mà không được xử lý đất trước khi trồng lại.
– Các bào tử nấm này thường lây lan trong môi trường nước và xâm nhập qua các vết thương cơ giới hoặc các lỗ khí khổng của lá khi có điều kiện môi trường thuận tiện. Bệnh thường phá hại nhiều trong vườn ươm hoặc sau khi trồng khoảng 1 tháng tuổi, làm chết cây con. Nấm thường tấn công vào cổ rễ, nơi tiếp giáp với mặt đất và cổ rễ bị khô, cây không hút được nước nên đổ rạp và chết rất nhanh. Bệnh thường phát sinh, phát triển mạnh trong điều kiện độ ẩm cao, nhiệt độ cao hoặc mưa, nắng, rét, nóng thất thường.
– Trong năm bệnh thường xuất hiện và gây hại nhiều nhất vào các giai đoạn: tháng 9-10 và tháng 2-3-4. Bệnh thường lây lan nhanh, gây hại nặng ở những vườn ươm chuyên sản xuất cây giống hoặc vườn sản xuất đại trà liên tục nhiều năm; trên các vườn đầu tư, chăm sóc kém, nhất là trên các vùng đất sét, đất thịt nặng, đất chặt bí, những vùng đất ẩm ướt, trũng hoặc khó thoát nước.
4. Bệnh sinh lý trên rau màu
Một số loại bệnh như vàng lá, khô đầu lá, bạch tạng, xoăn chùn ngọn… trên rau màu, đó là bệnh sinh lý trên rau màu.Bệnh sinh lý không thể dùng thuốc bảo vệ thực vật để xử lý.
Nguyên nhân của các bệnh này là do hiện nay, người sản xuất rau màu chủ yếu chỉ sử dụng phân vô cơ đơn như u-rê, supe lân… nguồn phân xanh, phân chuồng hầu như không sử dụng. Việc đa dạng hóa, luân canh các giống cây trồng ngắn cho năng suất cao khiến cho đất trồng cây phải huy động nguồn dinh dưỡng lớn. Đặc biệt, việc quay vòng đất nhiều vụ/năm ở những vùng chuyên canh rau màu cũng làm nguồn dinh dưỡng của đất trồng bị cạn kiệt.
Vì vậy, một số ruộng rau bị thiếu các nguyên tố vi lượng như Fe, Mn, Zn, Cu… Tuy không thường xuyên nhưng những tác động của chúng nếu có thể làm năng suất, chất lượng cây rau màu giảm nghiêm trọng. Sự thiếu một hoặc nhiều nguyên tố dinh dưỡng có thể gây nên tình trạng cây tàn lụi sớm ở thời kỳ ươm, còi cọc, chín muộn hoặc phát triển không bình thường, chất lượng giảm và năng suất thấp.
Nguồn: kĩ thuật nuôi trồng
Th919
Quảng Trị: trồng dưa lưới Nhật Bản
Anh Dương Quốc Vinh ở thôn Cang Gián, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị là chủ nhóm nông dân trồng dưa lưới đến nông trại sớm hơn mọi ngày. Gọi là nông trại song thực ra đây là mô hình trồng dưa lưới trên cát theo công nghệ cao của Nhật Bản.
Anh Vinh cho biết, để tạo ra một quả dưa lưới đạt chuẩn nhập vào các siêu thị cao cấp và xuất khẩu bắt buộc phải kiểm soát được ánh sáng, nhiệt độ và độ ẩm. Do đó nông trại của anh Vinh trồng dưa lưới trong nhà kính.
Việc đầu tiên anh bước chân vào khu nhà kính là kiểm tra nhiệt độ. Dưa lưới phát triển tốt ở nhiệt độ bình quân trong ngày khoảng 28 – 30 độ C, nhưng có thể chịu được nhiệt lên đến 37 độ C. Do chuẩn bị thu hoạch dưa nên hệ thống tưới được điều chỉnh ở chế độ thấp nhất để đảm bảo cho các chất dinh dưỡng của cây tập trung vào trái ngọt.
Ăn miếng dưa lưới vừa được anh Vinh hái bổ mời khách tôi cảm nhận được thịt dưa mềm và có vị ngọt thanh, đặc biệt mùi rất thơm. Anh Vinh chia sẻ để có được quả dưa lưới đạt chất lượng, ban đầu hạt giống sẽ được ươm trong giá thể khoảng 10 ngày, sau đó đem trồng khoảng 75 ngày thì đến thời kỳ thu hoạch. Nhờ sử dụng hệ thống nhà kính nên mỗi năm anh Vinh có thể trồng được 3 vụ. Thông thường mỗi cây dưa cho 2 – 3 quả nhưng những quả non xấu sẽ được cắt để dành tất cả mọi dưỡng chất của cây tập trung cho quả ngon duy nhất được giữ lại. Quả dưa lưới chất lượng không chỉ thơm, ngọt mà phải đẹp, vân vỏ phải đều, rõ.
Nông trại dưa lưới của anh Vinh được đánh giá đạt năng suất, chất lượng vượt trội. Hầu hết sản lượng dưa lưới của anh Vinh được bán cho siêu thị Utimex Hà Nội vì họ đã ký hợp đồng tiêu thụ dài hạn với giá hơn 50 ngàn đồng/kg.
Để có được nông trại dưới lưới công nghệ cao này, trước đó vào cuối năm 2017, Sở NN-PTNT tỉnh Quảng Trị phối hợp với UBND huyện Gio Linh, UBND xã Trung Giang, Cty TNHH Sumitomo Việt Nam và Cty TNHH Seibu Nousan Việt Nam triển khai mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trồng dưa lưới theo công nghệ Nhật Bản tại thôn Cang Gián.Gia đình anh Vinh được chọn trưởng nhóm hộ thực hiện mô hình mới này.
Sau khi tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho nhóm hộ trồng dưa lưới tại địa phương, các đơn vị xây dựng 2 nhà kính có tổng diện tích 500m2. Tổng kinh phí thực hiện mô hình hơn 1,3 tỷ đồng, trong đó tập đoàn Sumitomo Corporation hỗ trợ gần 1 tỷ đồng.
Mô hình đã sử dụng giá thể bằng đất cát, áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm, dinh dưỡng được pha chế và đưa vào cây qua hệ thống tưới nhỏ giọt, đảm bảo cho các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây. Mặc dù trồng trong thời tiết và khí hậu đất cát nhưng cây sinh trưởng và phát triển tốt, đã cho ra quả, trọng lượng mỗi quả bình quân từ 1,5 – 2,5kg.
Mới đây, ông Nguyễn Đức Chính, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị đích thân kiểm tra nông trại dưa lưới của anh Vinh. Ông Chính đánh giá cao kết quả bước đầu mô hình mang lại và mong muốn Tập đoàn Sumitomo Corporation tiếp tục có sự hỗ trợ để thực hiện mô hình này tốt hơn nữa; đồng thời giúp địa phương tìm thị trường tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu…
Giáo sư Yoshiharu Tsuboi, cố vấn Tập đoàn Sumitomo Corporation đánh giá đất cát ở Quảng Trị rất sạch nên mới có thể sử dụng kỹ thuật của Nhật Bản triển khai mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trồng dưa lưới. Kết quả ban đầu cho thấy, cây dưa lưới phát triển tốt, chất lượng quả đảm bảo. Vì thế ông kỳ vọng dưa lưới Quảng Trị không chỉ đến với thị trường trong nước mà có thể vươn ra thị trường quốc tế.
Nguồn: báo nông nghiệp
Th1029