Sản xuất an toàn, hữu cơ và kết nối tiêu thụ cho 300 hợp tác xã
Nguồn tin: báo Nông Nghiệp
SƠN LA 300 HTX với khoảng 800 sản phẩm nông sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc sản xuất theo quy trình an toàn, hữu cơ và được liên kết, kết nối tiêu thụ bền vững.
Ngày 22/11 tại Vân Hồ (tỉnh Sơn La), Trung tâm Kiểm nghiệm – Kiểm chứng và Tư vấn chất lượng Nông lâm thủy sản (RETAQ, thuộc Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và Thủy sản (Bộ NN-PTNT) đã ký kết chương trình phối hợp với Trung tâm hỗ trợ Khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo Quốc gia (Cục Quản lý doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ, Bộ KH-CN) và Làng Nông nghiệp khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo quốc gia Techfest.
Mô hình Trạm xanh xử lý phụ phẩm nông nghiệp tại Vân Hồ, Sơn La. Ảnh: Anh Cường.
Mục tiêu của chương trình phối hợp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX và các hộ sản xuất nông sản trong mạng lưới Techfest nâng cao chất lượng sản phẩm, tập huấn và tư vấn cho các chủ thể thực hiện quy trình trồng trọt và chế biến tiên tiến (VietGAP, hữu cơ, sản phẩm thiên nhiên, OCOP…) nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp, hướng đến sản xuất nông nghiệp “thuận thiên”, bền vững.
Tại mô hình Trạm xanh xử lý phụ phẩm nông nghiệp tại Vân Hồ, Sơn La, nông dân mang phụ phẩm đến Trạm để đổi lấy phân hữu cơ, bón lại chính vườn cam của họ. Đây là giải pháp hợp tác hiệu quả để xử lý gần 160 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp của Việt Nam.
Sau gần 2 năm triển khai, đến nay, Hệ sinh thái Làng nông nghiệp Techfest quốc gia đã kết nối 300 HTX sản xuất nông sản với nhiều nguồn lực khác nhau. Qua đó, khoảng 800 sản phẩm nông sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã được sản xuất theo quy trình an toàn, hữu cơ và được kết nối, liên kết tiêu thụ bền vững.
Đối với riêng tỉnh Sơn La, hiện có hơn 3.000 doanh nghiệp và 700 HTX với 84 nghìn ha cây ăn quả, đứng thứ 2 toàn quốc về diện tích; tổng sản lượng trái cây hàng năm của tỉnh hơn 400 nghìn tấn. Với mục tiêu đẩy mạnh phát triển, liên kết chuỗi và mở rộng thị trường, tỉnh rất cần sự hợp tác, hỗ trợ để phát triển, chế biến sâu và tiêu thụ nông sản địa phương, hướng đến xuất khẩu.
Bà Nguyễn Thị Thu, Trưởng Làng Nông nghiệp Techfest quốc gia cho hay: “Kết nối đầu ra thành chuỗi phân phối nông sản an toàn bền vững là một nhiệm vụ trọng tâm của chúng tôi. Đến nay, 300 HTX, doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng, Quảng Ninh… đã được kết nối với 30 cửa hàng và 400 đại lý tiêu thụ nông sản tại các thành phố lớn. Qua đó, hơn 800 sản phẩm nông sản ở nhiều tỉnh, thành phố đã tạo được đầu ra”.
Tuy nhiên, vấn đề được cả cơ quan quản lý và các chủ thể quan tâm là tính thực chất của các chứng nhận chất lượng nông sản để hướng tới nông nghiệp “thuận thiên”, an toàn.
TS Đặng Văn Cường, Trung tâm RETAG cho rằng: Chúng ta đang đẩy mạnh nhiều giải pháp giúp các chủ thể thực hiện sản xuất, trồng trọt, chế biến theo quy trình chất lượng tiên tiến như VietGAP, HACCP, hữu cơ, thiên nhiên, OCOP… Tuy nhiên, việc cấp được chứng nhận này mới chỉ đi được phân nửa chuỗi. Sau đó là phải kiểm tra, giám sát các chủ thể có tiếp tục làm đúng quy trình hay không, có tiếp tục đào tạo nâng cao năng lực cho họ để họ tự biết cách quản trị tốt, biết mở rộng thị trường, biết bảo vệ nhau để giữ uy tín sản phẩm hay không thì hầu như chưa làm được nhiều.
Bản thân việc cấp chứng nhận cho các chủ thể cũng cần đánh giá lại toàn diện và quản lý chặt. Ví dụ huyện Hàm Yên (Tuyên Quang) vừa rồi, gần 6.800ha cam, bưởi, trong đó đặc biệt là dòng cam sành đặc sản đang có nguy cơ chết hàng loạt do việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu không đúng quy trình. Do đó, bản thân các đơn vị đánh giá, cấp chứng nhận sản xuất tiên tiến cần làm chặt chẽ, giám sát định kỳ.
Với sản phẩm OCOP, Bộ NN-PTNT quản lý 16/26 nhóm ngành hàng, do đó cần có hoạt động cụ thể về công tác kiểm nghiệm, đánh giá chất lượng các sản phẩm đã được gắn sao OCOP, đặc biệt là các sản phẩm 4 – 5 sao để giữ uy tín các chứng nhận, giúp các chủ thể yên tâm, tiếp tục đầu tư vào sản xuất an toàn, “thuận thiên”.
Th1129
Xuất bưởi sang Hoa Kỳ cần đáp ứng tiêu chuẩn nào?
Nguồn tin: Báo Nông Nghiệp
Cả nước có 36 vùng trồng bưởi được cấp mã số vùng trồng bưởi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Tổng diện tích được cấp đạt 752 ha. Sản lượng dự kiến đạt trên 13.100 tấn.
Hoa Kỳ là thị trường lớn đầy tiềm năng đối với các loại hoa qua tươi xuất khẩu của Việt Nam. Mỗi năm, nhu cầu tiêu thụ trái cây tại Hoa Kỳ lên tới 12 triệu tấn. Sản xuất trái cây tươi nội địa của nước này hiện chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu, 30% còn lại (tương đương với khoảng 3,6 triệu tấn) phải nhập khẩu.
Theo Cục Bảo vệ thực vật, cả nước hiện có 105.400 sản lượng trên 175.000 tấn, Trung du miền núi phía Bắc có hơn 30.000 ha với sản lượng 253.000 tấn. Riêng ĐBSCL có khoảng 32.000ha với sản lượng khoảng 369.000 tấn… Đây là dư địa và cơ hội rất lớn cho trái cây Việt Nam nói chung và quả bưởi tươi nói riêng để tiếp cận thị trường Hoa Kỳ.
Theo quy định của Hoa Kỳ, vùng trồng và cơ sở xử lý trái bưởi tươi của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ phải được đăng ký với Cục Bảo vệ thực vật và Cơ quan kiểm dịch động thực vật Hoa Kỳ (APHIS) và phải được kiểm tra giám sát định kỳ trong suốt vụ bưởi.
Theo đó, các vùng trồng, cơ sở đóng gói bưởi phải có biện pháp quản lý phù hợp để loại bỏ các đối tượng dịch hại mà phía bạn quan tâm. Các loại ruồi đục quả như: Bactrocera dorsalis, Zeugodacus cucurbitae; sâu đục quả Prays endocarpa và các loại nấm Cylindrocarpon lichenicola, Phyllosticta citriasiana.
Đặc biệt, cần lưu ý áp dụng các biện pháp quản lý đối với nấm Cylindrocarpon lichenicola và Phyllosticta citriasiana như: loại bỏ tất cả quả rụng trước khi đưa vào nhà đóng gói; làm sạch, xử lý nấm và phủ sáp toàn bộ quả; loại bỏ hết lá, cuống và các bộ phận khác của cây (trừ cuống ngắn hơn 2,5cm và vẫn còn gắn vào quả).
Bên cạnh đó, các lô hàng bưởi tươi xuất khẩu sang Hoa Kỳ phải được xử lý chiếu xạ với với liều tối thiểu là 150 Gy, kèm theo Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật, trong đó phần khai báo bổ sung phải ghi rõ lô hàng không nhiễm đối tượng kiểm dịch thực vật và được sản xuất theo phương pháp tiếp cận hệ thống.
Đến nay, Cục Bảo vệ thực vật đã và đang phối hợp với các bên liên quan triển khai đồng bộ các giải pháp, đặc biệt là tập trung tập huấn cho người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu bưởi về yêu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Cả nước đã có 36 vùng trồng bưởi của 10 tỉnh gồm: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Phú Thọ, Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương và Đăk Nông được cấp mã số vùng trồng bưởi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Tổng diện tích được cấp đạt 752 ha (chiếm 0,71% diện tích trồng bưởi của cả nước. Sản lượng dự kiến đạt trên 13.100 tấn (chiếm 1,4 % tổng sản lượng bưởi của cả nước).
Tại buổi lễ công bố lô bưởi đầu tiên của Việt Nam được chính thức xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, bà Sarah Gilleski, Tuỳ viên nông nghiệp của Đại sứ quán Hoa Kỳ, lưu ý Cục Kiểm dịch động thực vật Hoa Kỳ sẽ kiểm tra, giám sát tất cả các lô hàng trái cây của Việt Nam vào Hoa Kỳ để đảm bảo rằng không có bất kỳ dịch hại nào đi kèm với cây.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đánh giá thị trường Hoa Kỳ là một thị trường khó tính vào bậc nhất, tuy nhiên nhu cầu về nhập khẩu các loại trái cây tươi vẫn rất lớn. Thời gian tới, Thứ trưởng cũng kêu gọi mọi thành phần tham gia trong chuỗi giá trị nông sản cần phải chung sức, hợp tác để xây dựng thương hiệu bưởi Việt Nam trở nên nổi bật trên thị trường quốc tế.
Ngoài thị trường Hoa Kỳ, thời gian tới Bộ NN-PTNT tiếp tục đàm phán với nhiều nước trên thế giới để đưa các mặt hàng nông sản của nước ta, trong đó có trái cây mở rộng thị trường xuất khẩu.
Bộ NN-PTNT đang giao cho Cục Bảo vệ thực vật tiến hành mở cửa thị trường bưởi sang các thị trường New zealand, Trung Quốc, Hàn Quốc… Do đó, Thứ trưởng đề nghị người dân các tỉnh thành tiếp tục, tập trung đầu tư nâng cao chất lượng, quy trình sản xuất bưởi để đảm bảo xuất khẩu. Bên cạnh đó, ông đề nghị Cục Bảo vệ thực vật triển khai chương trình cấp mã số vùng trồng cho các loại cây ăn quả đảm bảo yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Trong 10 tháng đầu năm 2022 tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả cả nước đạt 2,76 tỷ USD. Riêng trái bưởi tươi xuất khẩu đạt 3.250 tấn, với thị trường xuất khẩu chủ yếu là Hà Lan, Đức, Trung Quốc, Canada…
Th1125
Nhà vườn tất bật chuẩn bị hoa, kiểng Tết
Nguồn tin: báo Vĩnh Long
Thời điểm nắng nóng, người trồng hoa phải phủ thêm rơm để làm mát. |
(VLO) Như lời hẹn với mùa xuân, từ khoảng rằm tháng 10 âl hàng năm thì nhà vườn ở miền Tây sẽ bắt đầu vào vụ hoa Tết. Khác với sự dè dặt trong năm qua, năm nay nhiều nhà vườn dự kiến sẽ tăng số lượng hoa, kiểng với niềm hy vọng có một vụ hoa “được mùa, được giá”.
Tại xã Tân Mỹ (Trà Ôn) nhiều nhà vườn đã bắt đầu xuống giống các loại hoa cây (nhổ cả cây) như cúc tiger, cúc lan, cúc mai, cúc vạn thọ… Năm nay, gia đình anh Lê Văn Sang ở ấp Sóc Ruộng (xã Tân Mỹ) quyết định trồng 4.000 cây cúc tiger trên 2 công đất, anh cho biết: “Năm nay tôi trồng nhiều hơn 1.000 cây so với năm ngoái, đợt rằm vừa rồi tôi bán được hơn 1.000 cây cúc tiger và cúc lan, giá 15.000 – 20.000 đ/cây”.
Có hơn 10 năm kinh nghiệm trồng hoa cây, anh Sang cho biết mưa lớn và giá vật tư nông nghiệp tăng cao sẽ gây áp lực cho người trồng hoa: “Mấy bữa trước rằm thì trời mưa nhiều, ruộng bông đang chuẩn bị thu hoạch lại bị ngập nước nhưng nhờ bón thêm phân thì mới giữ được, mà giá cây giống bán sỉ 700 đ/cây, giá phân bón DAP 30.000 đ/kg… giá tăng gấp đôi thì thành thử ra lợi nhuận cũng giảm”.
Bên cạnh ruộng hoa của anh Sang là hơn 1 công đất trồng hoa của anh Nguyễn Văn Liêm. Anh Liêm chia sẻ, cũng trong đợt rằm tháng 10 âl vừa qua, anh bán được hơn 1.500 cây và thu nhập hơn 20 triệu đồng: “Tôi trồng bông quanh năm, mỗi vụ kéo dài khoảng 3 tháng, chủ yếu bán tại các chợ xung quanh vào ngày rằm và ngày lễ. Tết năm nay tôi trồng hơn 3.500 cây cúc tiger và thu hoạch vào lối 20 tháng Chạp, hy vọng là bán được giá tốt” – anh Liêm nói.
Sau đợt mưa lớn vào rằm tháng 10 âl, những cây cúc lan “trễ hẹn” được nhà vườn giữ lại để bán lẻ với mức giá thấp hơn. |
Trong vài năm trở lại đây thì loại hoa giấy kiểng trở thành xu hướng chơi hoa Tết rất được yêu thích. Đang chăm sóc cho 600 chậu hoa giấy kiểng, anh Nguyễn Văn Phương ở xã Tân Mỹ (Trà Ôn) chia sẻ: “Hiện tại là thời điểm cắt giảm lượng nước để bông giấy không bị rụng lá, từ lối rằm tháng 11 âl thì mới bắt đầu làm bông, dự kiến giá bán thấp nhất là 150.000 đ/chậu. Hy vọng loại cây kiểng này sẽ tiếp tục hút hàng trong dịp Tết năm nay”.
Bông giấy kiểng dự kiến có giá khoảng 150.000 đ/chậu. |
Theo ông Phạm Văn Sơn – công chức nông nghiệp, thủy lợi và môi trường xã Tân Mỹ (Trà Ôn), nghề trồng hoa ở đây đã có từ nhiều năm qua và mang lại thu nhập ổn định, nhưng do giá nguyên liệu đầu vào có xu hướng tăng cao làm giảm lợi nhuận nên mô hình này vẫn chưa phổ biến rộng rãi.
Cũng trong thời điểm này, nhà vườn ở làng hoa Cái Mơn (Bến Tre) đã bắt đầu ươm các loại hoa chậu như cúc mâm xôi, cúc vạn thọ, mào gà… dự kiến số lượng hoa, kiểng cung ứng cho thị trường Tết năm nay sẽ tăng gấp đôi so với năm trước.
Nhìn từ xa, những cánh đồng hoa như được khoác lên chiếc áo mang sắc xanh mơn mởn, những mầm xuân đang lặng lẽ vươn mình dưới đôi bàn tay cần mẫn của người trồng hoa, hứa hẹn sẽ mang đến cho bà con một vụ hoa Tết đong đầy sắc hương và chan chứa nguồn vui.
Bài, ảnh: THẢO TIÊN
Th1125
Huyện Châu Thành nâng cao chất lượng trái thanh long để xuất khẩu
Nguồn tin: báo SGGP
Thời gian qua, cây thanh long đã mang lại giá trị kinh tế, góp phần nâng cao cuộc sống của người dân huyện Châu Thành (tỉnh Long An).
Theo người dân, giá thanh long 8.000-10.000 đồng/kg hiện nay, người trồng vẫn có lời
Tuy nhiên, trên thực tế, việc sản xuất thanh long (hơn 9.000ha) của người dân trong huyện chủ yếu theo truyền thống, chưa đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, chưa đáp ứng tiêu chuẩn về mã số kho đóng gói… Trước thực tế này, huyện Châu Thành quyết tâm xây dựng mô hình điểm về nâng cao chất lượng trái thanh long để đẩy mạnh xuất khẩu.
Xây dựng mô hình điểm
Ông Lê Quốc Dũng, Bí thư Huyện ủy Châu Thành, cho biết: Huyện đã có chủ trương và quyết tâm xây dựng mô hình điểm về nâng cao chất lượng trái thanh long đáp ứng điều kiện xuất khẩu. Do đó, phải thực hiện đạt hai tiêu chí vùng trồng và cơ sở đóng gói được cấp mã số, mục đích là nhằm nâng cao chất lượng trái thanh long tại nhà vườn và điều kiện của cơ sở đóng gói để xuất khẩu bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân. Vì vậy, cần phải tăng cường quản lý đăng ký các doanh nghiệp sản xuất đóng gói trái thanh long trên địa bàn huyện Châu Thành có xuất khẩu sang thị trường các nước phù hợp với Luật An toàn thực phẩm, Luật Kiểm tra hàng hóa nhập khẩu, Tiêu chuẩn cơ sở 775:2020/BVTV (quy trình thiết lập và giám sát cơ sở đóng gói)…
Nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm khi xuất khẩu và bảo vệ sức khỏe người sử dụng, yêu cầu nhà vườn trồng thanh long, các cơ sở đóng gói thanh long thực hiện nghiêm quy trình sản xuất thanh long theo hướng sạch (GAP); đóng gói theo quy định của nước nhập khẩu, đáp ứng Tiêu chuẩn cơ sở 774:2020/BVTV và Tiêu chuẩn cơ sở 775:2020/BVTV; đồng thời đảm bảo thực hiện công tác phòng chống dịch Covid-19 với sự hướng dẫn chuyên môn của cán bộ kỹ thuật tỉnh, huyện, xã.
Ông Nguyễn Văn Khải, Chủ tịch UBND huyện Châu Thành, cho biết, trước mắt, huyện kết hợp với Sở NN-PTNT tỉnh Long An xây dựng 2 mô hình điểm, dự kiến chọn HTX thanh long Long Hội ở xã An Lục Long và HTX nông nghiệp Thanh Phú Long ở xã Thanh Phú Long để thực hiện mô hình điểm.
Theo đó, xây dựng hoàn thiện mô hình thiết lập giám sát vùng trồng và giám sát cơ sở đóng gói để làm điểm. Nếu đạt các tiêu chí thì sẽ nhân rộng các mô hình này. Cụ thể, thiết lập giám sát vùng trồng thanh long theo tiêu chuẩn 774:2020/BVTV; hướng dẫn nhà vườn trồng thanh long (xã viên HTX) sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn GAP, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; thiết lập mã số giám sát vùng trồng theo tiêu chuẩn cơ sở 774:2020/BVTV của Cục Bảo vệ thực vật. Đồng thời, hoàn thiện cấp chỉ dẫn địa lý quả thanh long “Châu Thành – Long An” cho diện tích của xã viên HTX tham gia thực hiện mô hình; thiết lập giám sát cở sở đóng gói theo tiêu chuẩn 775:2020/BVTV…
Đối với trái thanh long sạch nhưng không đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu thì chuyển sang làm nguyên liệu để chế biến thành các sản phẩm như: rượu thanh long, thanh long sấy dẻo, nước ép… Đồng thời, kết nối các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ trái thanh long theo hướng bền vững.
“Qua mô hình làm điểm, ai làm tốt thì phát huy nhân rộng, ai làm không đạt thì yêu cầu ngưng cấp mã số, không cho trồng thanh long nữa. Mục đích là để giữ thương hiệu thanh long Châu Thành nói riêng, cho Long An nói chung”, ông Nguyễn Văn Khải nhấn mạnh.
“Sống chết” với cây thanh long
Thời gian gần đây, giá thanh long luôn ở mức thấp, thậm chí có lúc bán không ai mua. Nhiều người ngậm ngùi bỏ vườn hoang không quan tâm chăm sóc, hoặc phá bỏ vườn để trồng các loại cây khác… Tuy vậy, phần đông người trồng thanh long ở huyện Châu Thành vẫn quyết tâm “sống chết” với cây thanh long. Điển hình như gia đình ông Đặng Văn Nhanh ở xã Phước Tân Hưng.
Với vườn thanh long già cỗi (gần 2ha), giá cả cũng xuống thấp, gia đình ông Nhanh nhiều lần định phá bỏ để trồng các loại cây khác (mai, dừa…) như nhiều nhà trong xóm đã làm, nhưng cuối cùng vẫn quyết định giữ lại.
“Cây gì cũng vậy, giá cả có lúc cao lúc thấp, nên đã trồng thanh long rồi thì quyết theo nó luôn. Ai phá bỏ thì cứ phá bỏ, còn gia đình tôi thì vẫn duy trì trồng thanh long”, ông Đặng Văn Nhanh nói. Có điều, theo ông Nhanh, muốn cây thanh long sống được là phải thay đổi cách trồng theo hướng VietGAP, GlobalGAP, chứ làm theo cách cũ là khó tồn tại được.
Không chỉ ông Nhanh, nhiều gia đình trồng thanh long ở huyện Châu Thành cũng có cách nghĩ trồng thanh long sạch như thế. Cho nên khi nghe huyện Châu Thành triển khai mô hình điểm nâng cao chất lượng trái thanh long để xuất khẩu, người dân ai nấy cũng phấn khởi. Họ hy vọng mô hình sẽ thành công, sẽ được nhân rộng ra toàn huyện, thì cây thanh long sẽ tiếp tục giúp người dân làm giàu như thời gian trước đây.
“Mô hình này sẽ được triển khai thực hiện chặt chẽ. Đây là hướng đi lâu dài, bền vững cho sự phát triển của cây thanh long. Tất cả cùng đồng lòng làm thì tôi tin là sẽ thành công. Cái khó nhất là làm sao để cho dân mình thấy được chất lượng trái thanh long là hàng đầu, rồi liên kết lại cùng làm thì mới được, chứ sản xuất với cách cũ như lâu nay thì rất khó thành công”, Bí thư Huyện ủy Châu Thành Lê Quốc Dũng, nhấn mạnh.
Hiện nay, diện tích trồng thanh long của Long An có hơn 10.000ha, riêng huyện Châu Thành chiếm hơn 9.000ha, trong số này có hơn 800ha được cấp giấy chứng nhận VietGAP. Tuy nhiên, theo lãnh đạo huyện Châu Thành, dù đã triển khai ứng dụng công nghệ cao, làm chuẩn quy trình VietGAP, GlobalGAP cho vùng trồng thanh long, nhưng việc vận động nông dân nâng cao chất lượng trái thanh long còn gặp nhiều khó khăn. |
Th1125
Trái cây miền Tây sẽ “ngọt hơn”
Nguồn tin: báo Sài Gòn Giải Phóng
Nhà vườn ĐBSCL đang tranh thủ cơ hội để cải thiện chất lượng trái cây, tạo sự cạnh tranh với trái cây ngoại tại thị trường nội địa. Đồng thời, từng bước áp dụng các quy trình sản xuất nghiêm ngặt để nắm bắt cơ hội xuất khẩu.
Bưởi da xanh Bến Tre lần đầu tiên được xuất sang thị trường Mỹ. Ảnh: TÍN HUY
Những tuần qua, nhiều nhà vườn tại thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang trúng đậm mùa xoài cát Hòa Lộc, xoài keo. Với 3,2ha xoài, ông Chín Tươi (xã Vĩnh Xương, thị xã Tân Châu) đang thu hoạch xoài keo bán cho thương lái tại vườn với giá từ 8.000-14.000 đồng/kg, lợi nhuận cầm chắc vài trăm triệu đồng. Hàng chục nhà vườn ở xã Vĩnh Xương cũng thu hoạch xoài cát Hòa Lộc bán cho thương lái với giá 30.000 đồng/kg. Năng suất xoài cát Hòa Lộc từ 5-6 tấn/ha, nếu mức giá duy trì như hiện nay, nhiều nhà vườn có lãi đáng kể… Hiện, thị xã Tân Châu có gần 700ha trồng xoài, tập trung ở hai xã biên giới Vĩnh Xương, Phú Lộc…
Không chỉ ở An Giang, nhiều nhà vườn ở Đồng Tháp cũng đang có những bước tiến trong tiếp cận sản xuất xoài gắn với mã số vùng trổng để cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Hiện Đồng Tháp có gần 42.000ha trồng trái cây thì xoài chiếm 1/3 diện tích với khoảng 14.000ha, trong đó có hơn 300 mã số vùng trồng gắn với gần 6.000ha xoài. Đây cũng là vùng trồng chuyên xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, châu Âu, Trung Quốc… Theo ông Lê Quốc Điền, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Tháp, mục tiêu phát triển ngành hàng xoài Đồng Tháp vừa tháo gỡ các điểm nghẽn kỹ thuật, vừa thực hiện phát triển theo chuỗi giá trị ngành hàng, gia tăng chế biến sâu, chế biến công nghệ cao nhằm tăng giá trị sản phẩm.
Bên cạnh đó, nhiều nhà vườn ĐBSCL đang tập trung sản xuất theo hướng đạt các chuẩn VietGAP, GlobalGAP để xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc và các thị trường khó tính khác. Mới đây, thông tin bưởi da xanh chuẩn bị xuất khẩu theo đường chính ngạch sang thị trường Mỹ đã mở ra một cơ hội mới cho nhà vườn miền Tây. Bưởi da xanh là loại trái cây có diện tích tăng nhanh trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, hiện có gần 5.000ha. Ngành nông nghiệp Tiền Giang đã hình thành vùng chuyên canh cây ăn trái tập trung với sản lượng lớn, cung cấp cho thị trường. Tại xã Tân Mỹ Chánh, TP Mỹ Tho, đã có hơn 120ha bưởi trồng theo tiêu chuẩn VietGAP và doanh nghiệp bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Hiện ngành chức năng địa phương đang khuyến khích người dân chuyển đổi sang trồng bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP, công nghệ cao hướng tới xuất khẩu…
Tại Bến Tre, dự kiến cuối tháng 11-2022 sẽ xuất khẩu lô bưởi da xanh đầu tiên sang thị trường Mỹ. Theo bà Nguyễn Thị Hồng Thu, Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu (huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre), công ty phải mất 5 năm liên kết, phối hợp với 5 HTX sản xuất bưởi trên địa bàn tỉnh sản xuất theo chuẩn VietGAP. Dự kiến, công ty sẽ xuất khoảng 40 tấn bưởi sang thị trường Mỹ. Như vậy, bưởi da xanh Bến Tre là trái cây đầu tiên của ĐBSCL được xuất sang thị trường Mỹ. Trước đó, các loại trái cây của vùng ĐBSCL như xoài, nhãn, vải, thanh long, chôm chôm và vú sữa cũng được xuất sang những thị trường khó tính ở châu Âu. Theo ông Lâm Văn Lĩnh, Chi Cục phó Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Bến Tre, sự liên kết với nông dân, HTX xây dựng mã vùng trồng là câu chuyện sống còn của doanh nghiệp trong thời gian tới để đáp ứng các hàng rào kỹ thuật qua các tiêu chuẩn chất lượng. Trong đó tiêu chuẩn đầu tiên là thực hành nông nghiệp tốt và có mã vùng trồng rõ ràng để tăng thêm cơ hội xuất khẩu trái cây sang nhiều nước.
Theo Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), không ít diện tích trái cây ở ĐBSCL tăng thêm là chuyển từ đất lúa kém hiệu quả. Từ đầu năm đến nay, ĐBSCL có 73.530ha đất lúa chuyển đổi sang cây trồng khác, chủ yếu là cây ăn trái. Hiện nay cả nước có khoảng 1,13 triệu ha cây ăn trái, riêng ĐBSCL có 377.700ha, chiếm 1/3 diện tích. Cây ăn trái ở ĐBSCL đa dạng, mùa nào cũng có thu hoạch; trong đó, các đối tượng cây trồng chủ lực như sầu riêng, thanh long, xoài, chôm chôm, nhãn, bưởi, cam, mít, chuối, chanh… được nông dân đẩy mạnh đầu tư sản xuất và đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn.
Theo Bộ NN-PTNT, trong 10 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông sản chính đạt trên 18,8 tỷ USD, tăng 7,2%. Có 8 sản phẩm/nhóm sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD, trong đó riêng nhóm hàng trái cây đạt gần 2,8 tỷ USD. |
Th1123
Ứng dụng công nghệ cao trồng măng tây xanh
Nguồn tin: báo nông nghiệp
NINH THUẬN Do hội tụ nhiều thành phần dinh dưỡng, nên cây măng tây xanh được giới ẩm thực gọi là “rau vua”. Măng tây còn là cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Để cây măng tây xanh phát triển trên vùng đất Nam Trung bộ theo hướng bền vững, Viện nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố (Viện Nha Hố) đã xây dựng mô hình trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao tại 2 tỉnh Ninh Thuận và Khánh Hòa với diện tích 5ha.
Mô hình trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao của Viện Nha Hố đem lại hiệu quả kinh tế vượt trội. Ảnh: Minh Hậu.
Từ tháng 8/2018 đến tháng 12/2020, các mô hình trồng thử nghiệm để hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao tại khu vực Nam Trung bộ đã được triển khai. Theo đó, đã xác định bộ giống măng tây xanh năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện sản xuất trong khu vực. Bên cạnh đó, xác định loại phân hữu cơ sản xuất trong nước phù hợp cho trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao, xác định liều lượng bón và thời kỳ bón phân phù hợp, kết hợp kỹ thuật tưới nước nhỏ giọt tự động trên ruộng măng tây xanh.
Song song đó, xác định các biện pháp kỹ thuật giữ ẩm đất cho trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao trên vùng đất thành phần cơ giới nhẹ; kỹ thuật cắt ngọn và tỉa chồi thay thế cây mẹ phù hợp cho trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao giai đoạn kinh doanh, kỹ thuật quản lý dịch hại trên đồng măng tây.
Ngoài ra, Viện Nha Hố cũng đã hoàn thiện quy trình kỹ thuật thu hái và bảo quản măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao cho vùng Nam Trung bộ. Qua đó, xác định thời gian thu hoạch măng tây xanh thương phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm, năng suất và chất lượng măng cao nhất; các loại màng để bảo quản măng tây xanh thương phẩm thích hợp.
Sau khi hoàn thiện quy trình, trong năm 2019 và 2020, Viện Nha Hố đã mở 6 lớp tập huấn kỹ thuật tại huyện Ninh Sơn, huyện Ninh Phước, TP Phan Rang – Tháp Chàm (Ninh Thuận) và HTX Măng tây Ninh Hoà (Khánh Hoà). Thông qua các lớp đào tạo, tập huấn, nông dân được chuyển giao quy trình trồng và chăm sóc cây măng tây ứng dụng công nghệ cao, đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Trong năm 2020, Viện còn mở thêm 2 lớp đào tạo tại xã Nhơn Sơn (huyện Ninh Sơn) và phường Mỹ Hải (TP Phan Rang – Tháp Chàm) về áp dụng VietGAP cho cây măng tây. Qua đó, nông dân được đào tạo sản xuất cây măng tây theo VietGAP, các biểu mẫu và cách ghi chép, lưu giữ các thông tin trong quá trình sản xuất măng tây.
Theo TS Mai văn Hào, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố, áp dụng quy trình sản xuất cây giống măng tây xanh nhân bằng hạt mới giúp giảm chi phí đầu tư cho giống khoảng 50%, từ đó góp phần phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, thu nhập cho người dân địa phương.
Áp dụng quy trình canh tác, thu hái và bảo quản măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao giúp tiết kiệm phân bón, tiết kiệm nước tưới, phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu tại khu vực Nam Trung bộ. Đồng thời, hạn chế dùng thuốc BVTV có độ độc cao, góp phần bảo vệ nguồn thiên địch, giảm độc hại đối với người sản xuất và người tiêu dùng, giảm ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, quy trình thu hái và bảo quản măng tây thích hợp giúp tăng thời gian bảo quản, góp phần tăng tính chủ động về sản phẩm măng tây xanh phục vụ thị trường, tạo điều kiện phát triển sản xuất măng tây xanh ngày càng ổn định, có hiệu quả.
“Kết quả triển khai dự án sẽ là tiền đề định hướng phát triển vùng trồng măng tây xanh trong những năm tới trên địa bàn các tỉnh khu vực Nam Trung bộ. Đồng thời, giúp người dân tiếp thu và ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển vùng chuyên canh trồng măng tây xanh, giải quyết lao động, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người dân”, TS Mai Văn Hào chia sẻ.
Trong hơn 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã sản xuất trên 330.000 cây giống măng tây xanh cung cấp cho trồng thử nghiệm và sản xuất. Từ đó, người trồng măng tây đã sản xuất và cung ứng cho thị trường trên 120 tấn măng tây thương phẩm.
Từ kết quả nghiên cứu, hiện nay, để giảm giá thành sản xuất trong bối cảnh thiếu nhân công lao động, Viện Nha Hố đang tiếp tục triển khai mô hình nghiên cứu sản xuất măng tây xanh bón phân qua hệ thống tưới nước tiết kiệm, đồng thời dùng nguồn điện mặt trời để vận hành máy bơm. Bên cạnh đó, để giải quyết cỏ dại và giữ ẩm cho đất trồng măng tây xanh, Viện đã dùng nilon phủ hai bên luống…
Th1122
Kỹ thuật trồng và chăm sóc xoài cát Hòa Lộc
Kỹ thuật trồng và chăm sóc xoài cát Hòa Lộc là kiến thức nông nghiệp được nhiều người đặc biệt quan tâm. Khi nắm bắt thông tin vững vàng quá trình áp dụng trong sản xuất nông nghiệp sẽ mang lại kết quả tích cực, là nguồn thu đáng kể cho mỗi gia đình. Bà con hãy theo dõi bài viết dưới đây để có thêm những hiểu biết hữu ích để trồng xoài cát suôn sẻ, thành công tốt đẹp.
THỜI VỤ THÍCH HỢP TRỒNG CÂY XOÀI CÁT
Giống xoài cát hiện nay đưa vào canh tác có thời vụ tốt nhất là thời điểm bắt đầu mùa mưa. Thông thường, việc trồng vào khoảng tháng 5 – 7 dương lịch là hợp lý nhất. Điều kiện thời tiết mát mẻ, dễ chịu, đồng thời chủ động được nguồn nước giúp cây trồng sinh trưởng tốt hơn.
Đất trồng thích hợp trồng xoài cát
Xoài cát là giống cây ưa đất phù sa giàu dinh dưỡng, độ tơi xốp cao. Trong đó, đất phù sa tại Hòa Lộc là lý tưởng nhất, mang tới thành phẩm đạt chuẩn khi thu hoạch. Ngoài ra, một số khu vực tại Đồng bằng song Cửu Long cũng được quy hoạch canh tác giống cây này hiệu quả.
Cụ thể, đất trồng tiêu chuẩn cho xoài cát là đất phù sa, đất thịt pha cát với tầng đất dày, khả năng thoát nước tốt. Yêu cầu với đất trồng có thủy cấp không sâu vượt quá 2.5m, độ pH tiêu chuẩn từ 5.5 – 7, có thiết kế đe bao chống lũ đầy đủ.
CÁC BƯỚC CHUẨN BỊ TRỒNG XOÀI CÁT
Làm đất
Trên diện tích đất đã quy hoạch để trồng xoài cát bà con cần làm cỏ, dọn sạch rác bẩn từ các lần canh tác trước đó. Sau đó, tiến hành cày bữa, xới xáo kỹ lưỡng một lượt toàn bộ vườn trồng.
Tiến hành lên liếp là bước theo cần làm khi trồng xoài cát Hòa Lộc. Liếp yêu cầu chiều cao 50 – 80cm, chiều rộng khoảng 70cm đảm bảo không có tình trạng ngập ứng có khả năng xuất hiện mỗi khi trời mưa. Đối với khu vực đất quá thấp thì chiều cao mô khoảng 30 – 60cm, đồng thời đường kính mô khoảng 60 – 80cm.
Làm mô trồng
Bà con sử dụng đất bãi bồi ven sông, đất vườn, hoặc đất ở mặt rộng để làm mô trồng xoài cát. Đất làm mô nên được bón lót đầy đủ nhằm cải thiện được độ tơi xốp, làm giàu dưỡng chất hiệu quả.
Mật độ trồng xoài cát là 8 x 8m, hoặc 10 x 10m là hợp lý giúp cây có đủ không gian để sinh trưởng. Tuy nhiên, hiện nay ở một số vùng có xu hướng thay đổi trồng xoài có mật độ cao hơn với kích thước 5x6m, hoặc 6x6m. Khoảng cách này tương đương với mật độ từ 277 – 333 cây/ha. Sau thời gian nhất định canh tác sẽ đốn dần những cây nhỏ, kém phát triển.
Chọn giống
Một số phương pháp nhân giống xoài cát phổ biến hiện nay như tháp mắt, tháp đọt giúp giữ lại toàn bộ đặc tính tốt từ cây mẹ. Việc lựa chọn giống tốt giúp cây sinh trưởng khỏe mạnh, năng suất cao khi thu hoạch.
Yêu cầu khi chọn giống không sâu bệnh, không có tình trạng trầu xướng, lá tưới tốt, nên có khoảng 2 – 3 cơi đọt.
CÁC PHƯƠNG PHÁP TRỒNG CÂY XOÀI CÁT
Với từng cách nhân giống thì kỹ thuật trồng xoài cát có những yêu cầu riêng bà con cần tìm hiểu và áp dụng chuẩn xác:
Trồng xoài cát bằng hạt
Lựa chọn hạt giống đạt tiêu chuẩn sau đó đem trồng lên liếp với khoảng cách giữa các hạt khoảng 10cm. Trồng đơn giản trực tiếp xuống liếp cho tới khi hạt nảy mầm, cây phát triển có 4 lá xanh thì chuyển sang vườn giâm trồng khoảng cách là 30 x 60cm.
Cho vào gốc ghép, hoặc trồng vào bầu dưỡng lúc này sẽ được thực hiện. Trồng khoảng 1 – 2 tháng bà con đem ra trồng trên vườn sản xuất.
Trồng bằng cây tháp
Chọn nhánh chất lượng, cắt loại bỏ toàn bọ lá, yêu cầu phải mang mắt 1 tuần trước khi lấy phần mềm. Ưu tiên lấy tháp ở cành mọc mạnh, đồng thời phần gỗ vẫn còn xanh giúp việc tách vỏ dễ dàng hơn.
Thông thường, với phương pháp trồng bằng tháp cần dưỡng trong khoảng 4 tháng trước khi đưa ra trồng ở vườn sản xuất. Đây là cách trồng mang tới năng suất cao, giữ lại toàn bộ đặc tính tốt của cây mẹ, cho thu hoạch trong thời gian ngắn.
Trồng bằng cách chiết cành
Khả năng giữ lại được đặc tính của cây mẹ, chất lượng quả tốt, dễ dàng trồng theo hình thức tập trung,.. nên chiết cành được áp dụng phổ biến. Bà con tìm hiểu, liên hệ đơn vị cung cấp cây giống uy tín để mua được xoài cát giống chất lượng cao.
CÁCH CHĂM SÓC CÂY XOÀI CÁT HOÀ LỘC
Làm cỏ
Cỏ dại là nguyên nhân ảnh hưởng tới quá trình phát triển của cây xoài cát. Việc làm cỏ bằng phương pháp thủ công cần được tiến hành thường xuyên. Khi cây cỏ cao tối đa 20cm thì việc làm cỏ cần thực hiện.
Làm cỏ kết hợp xới xáo, đồng thời sử dụng chính phần cỏ đó để tủ lại xung quanh gốc cây. Nó giúp việc hạn chế mầm bệnh, sâu bọ, duy trì độ ẩm cho cây xoài tốt hơn.
Tưới nước
Trong khoảng thời gian đầu khi mới trồng bà con chú ý tưới nước đều đặn hàng ngày từ 3 – 4 lần. Xoài là giống cây ưa nước nên cần cung cấp nước thường xuyên và đầy đủ. Khoảng thời gian sau tần suất tưới cần giảm xuống song cần kiểm tra độ ẩm của đất thường xuyên. Đặc biệt, giai đoạn cây ra hoa, nuôi trái thì cung cấp đủ nước là yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên, tưới nhiều nước cần cẩn trọng tình trạng ngập úng có thể xảy ra.
Xử lý ra hoa sớm
Cây ra hoa quá sớm ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình thu hoạch, đối diện với tình trạng giá thành trái không đạt yêu cầu. Vì vậy, bà con khi trồng xoài cát cần biết cách xử lý ra hoa sớm theo đúng kỹ thuật là:
Khi cây non phát triển được 2 – 3 cơi đọt, hay cây già có từ 1 – 2 cơi đọt, mỗi đọt phát triển được 10cm, hoặc khi có lá lụa cần tưới thuốc nhanh chóng. Tham khảo lựa chọn loại thuốc hỗ trợ xử lý ra hoa phù hợp, đúng liều lượng.
Giai đoạn xoài ra quả
Khi cây xoài cát Hòa Lộc bắt đầu cho trái bà con dùng thuốc vi sinh xử lý, đồng thời kết hợp bọc quả lại. Việc xử lý khi xoài ra trái đảm bảo được chất lượng thành phầm của trái xoài khi thu hoạch.
Ngoài ra, bà con cần chú ý xử lý giúp xoài cát dễ đậu quả bằng cách tưới nước cho hoa xoài khi trời nắng. Ưu tiên tưới trước và sau khi trời mưa cũng vô cùng hiệu quả.
Tỉa cây tạo tán
Xoài cát sau khi trồng được 1 năm chúng ta tiến hành quá trình bấm ngọn. Bấm phần ngọn ở vị trí cao 0.6 – 1m tính từ mặt đất. Việc bấm ngọn khi thực hiện yêu cầu cần giữ lại khoảng 3 – 4 chồi.
Sau đó, khi các cành ngang ra được 2 – 3 lần đọt tiếp theo sẽ bấm ngọn lần kế tiếp. Bấm ngọn và tỉa cành thường xuyên, loại bỏ các cánh là bị bệnh giúp cây thông thoáng, sinh trưởng khỏe mạnh hơn.
KỸ THUẬT BÓN PHÂN CÂY XOÀI CÁT
Bón lót
Sau khi làm đất, làm mô yêu cầu cần bón lót giúp đất trồng giàu dinh dưỡng hơn. Bà con sử dụng phân bón hữu cơ (nên mua phân từ những công ty phân bón uy tín) hoặc kén trùn quế với liều lượng tiêu chuẩn sử dụng là 1 – 3kg/ gốc trồng. Bón trực tiếp vào đất trồng, sau đó để ủ hoai mục trong khoảng 15 – 20 ngày trước khi đưa cây giống vào canh tác.
Bón thúc
Bón thúc sau khi trồng cây xoài cát, trong quá trình cây sinh trường chia làm 2 giai đoạn chính sẽ là:
- Bón thúc trong hai năm đầu tiên: Duy trì việc bón thúc đều đặn 1 tháng/ lần cho cây xoài cát Hòa Lộc bằng một số loại phân bón như NPK 20-20-15 hay NPK 12-12-18,… Liều lượng sử dụng cho mỗi đợt bóng thúc sẽ là 0.5 – 1kg/ gốc trồng. Khi bón thúc bà con nên kết hợp với làm sạch cỏ, kết hợp bón kèm kén trùn quếvới số lượng từ 1 – 2 kg/ gốc , đồng thời xới xáo gốc tăng độ tơi xốp.
- Bón thúc khi cây 6 – 8 năm tuổi: Mỗi năm bà con bón thúc thành 3 đợt là sau khi thu hoạch vụ trước, lần hai trước khi xử lý ra hoa và lần cuối cùng khi cây xoài đã đậu quả. Sử dụng 0.5 – 1kg/ gốc trồng bằng NPK 17-7-17 hoặc NPK 16-9-21,… kết hợp bổ sung thêm kén trùn quế từ 3 – 5kg / gốc nhằm cung cấp thêm dinh dưỡng cần thiết để cây sinh trưởng.
Như vậy, với những chia sẻ trên đây chắc hẳn bà con đã có thêm thông tin về kỹ thuật trồng và chăm sóc cây xoài cát Hòa Lộc chi tiết nhất. Tham khảo thông tin, cân nhắc áp dụng trên diện tích canh tác của mình hợp lý để có vườn xoài cát tươi tốt, mỗi cây trồng sinh trưởng tốt và cho thu hoạch năng suất cao, thành phẩm chất lượng để bán ra thị trường được giá nhất.
Trùn Quế Phước Hiệp kính chúc Quý bà con bội thu, được mùa được giá
Nguồn: sưu tầm từ phân bón Hà Lan
Th1122
Mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím xuất khẩu
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Trái vú sữa tím của tỉnh Sóc Trăng không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn ở cả một số thị trường trên thế giới. Loại trái cây đặc sản này đầu tiên được xuất khẩu sang thị trường Mỹ vào năm 2018. Phát huy những thành quả đạt được, người dân một số địa phương trên địa bàn huyện Kế Sách (Sóc Trăng) đang mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím, đặc biệt là giống vú sữa tím tứ quý (cho trái quanh năm) nhằm đảm bảo sản lượng cung cấp cho thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu.
Ông Nguyễn Văn Thắng (bìa trái), xã Trinh Phú, huyện Kế Sách (Sóc Trăng) bên vườn vú sữa tím của gia đình đang vào giai đoạn bao trái. Ảnh: THÚY LIỄU
Để tìm hiểu thực tế việc nhà vườn mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím, chúng tôi đến tham quan vườn vú sữa của ông Nguyễn Văn Thắng, xã Trinh Phú, huyện Kế Sách, đúng lúc ông Thắng đang ngoài vườn bao trái vú sữa, nhằm bảo vệ trái không bị sinh vật gây hại tấn công. Ông Nguyễn Văn Thắng bộc bạch: “Tôi trồng 1ha vú sữa tím, tính đến nay vú sữa đã 8 năm tuổi, sản lượng trái thu về ước 20 tấn/năm, trừ hết các khoản chi phí cho lợi nhuận trên 200 triệu đồng/năm. Nếu so với các loại cây trồng khác thì trong những năm gần đây, trái vú sữa tím đem lại giá trị kinh tế tốt hơn, bởi nhà vườn áp dụng sản xuất trái theo quy trình VietGAP, giảm chi phí sản xuất và trái vú sữa “sạch” được doanh nghiệp thu mua xuất khẩu, nâng cao giá trị trái vú sữa, tăng thu nhập cho nhà vườn”.
Cũng là hộ dân canh tác vú sữa tím nhưng ông Trần Hữu Thắng, xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách chọn trồng cây vú sữa tím tứ quý. Hiện tại, diện tích vườn vú sữa tím 0,5ha của ông Thắng đã có 0,2ha đang giai đoạn cho trái, sản lượng trái thu về khoảng 14 tấn/năm, trừ chi phí lợi nhuận hơn 200 triệu đồng/năm. Ông Hữu Thắng chia sẻ: “Tôi trồng cây vú sữa tím tứ quý, bởi đây là loại cây cho trái quanh năm, đảm bảo nguồn thu nhập thường xuyên tại gia đình. Cùng với đó, trái vú sữa tím có nhiều đặc tính tốt như: trái không còn mủ khi chín, trái vú sữa có kích cỡ lớn, màu sắc đẹp và cây chống chịu độ mặn trong ngưỡng 3‰. Dự kiến hơn 1 năm nữa, vườn vú sữa 0,5ha của gia đình tôi sẽ cho trái đồng loạt, khi đó thu nhập từ vườn cây sẽ tăng lên gấp nhiều lần so với thời điểm hiện tại”.
Cách vườn vú sữa tím tứ quý của ông Hữu Thắng không xa là vườn vú sữa tím tứ quý của anh Trần Anh Văn, xã Nhơn Mỹ. Ông Anh Văn có vườn vú sữa tím tứ quý 1,6ha, đã cho trái hơn 2 năm qua. Ông Anh Văn chia sẻ: “Tôi chọn trồng vú sữa tím tứ quý, bởi đây là loại cây dễ trồng, nhẹ công chăm sóc, trái có giá trị kinh tế cao, cây cho trái quanh năm. Toàn bộ diện tích vườn trồng vú sữa tím trước đây là vườn nhãn tiêu da bò kém hiệu quả, tôi mạnh dạn cải tạo lại trồng vú sữa tím. Hiện tại, vườn cây vú sữa tím cho sản lượng trái ước 40 tấn/năm, được doanh nghiệp bao tiêu đầu ra, với giá 30.000 – 40.000 đồng/kg (tùy vào thời điểm thuận mùa và nghịch mùa). Sản lượng trái vú sữa như trên đem về thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Tôi dự định sẽ tiếp tục đầu tư mua thêm 2ha đất mở rộng diện tích trồng vú sữa tím tứ quý trong thời gian tới, nhằm cung ứng trái vú sữa tím phục vụ thị trường xuất khẩu”.
Thông tin cùng chúng tôi, ông Trần Anh Nhân – Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và Du lịch cộng đồng Mỹ Phước, xã Nhơn Mỹ cho biết: “Hợp tác xã có diện tích trồng vú sữa tím tứ quý hơn 30ha, trong đó có hơn 10ha đang cho trái và đã được cấp mã vùng trồng. Theo đó, trái vú sữa tím của hợp tác xã được doanh nghiệp ký kết hợp đồng thu mua quanh năm, với số lượng cung cấp từ 5 tấn – 10 tấn/tuần. Hiện tại, hợp tác xã đang tiếp tục mở rộng thêm thành viên tham gia vào hợp tác xã, nhằm tăng diện tích vú sữa trong hợp tác xã cũng như tăng sản lượng trái vú sữa cung ứng trên thị trường. Bên cạnh đó, thành viên trong hợp tác xã đang tiếp tục mở rộng diện tích trồng vú sữa tím, hứa hẹn thời gian tới sẽ hình thành vùng trồng vú sữa tím tứ quý lớn, cùng phương thức canh tác đáp ứng tốt thị trường xuất khẩu”.
Đồng chí Nguyễn Thành Phước – Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Sóc Trăng cho biết: “Diện tích vú sữa trên địa bàn tỉnh hơn 1.900ha, tập trung chủ yếu trên địa bàn huyện Kế Sách, với nhiều giống vú sữa, như: vú sữa lò rèn, vú sữa bơ hồng, vú sữa tím tứ quý… Với tiềm năng, lợi thế trong việc sản xuất trái vú sữa, đặc biệt là trái vú sữa tím xuất khẩu, bà con cần áp dụng kỹ thuật canh tác rải vụ cho trái vú sữa theo sự hướng dẫn của ngành chuyên môn. Vú sữa tím tứ quý là cây trồng quý vì cho trái quanh năm (một số giống vú sữa khác chỉ cho trái trong một khoảng thời gian), đáp ứng tốt thị trường trong nước và xuất khẩu. Vì vậy, bà con nông dân cần phát triển trồng vú sữa tím tứ quý, bởi đây là sản phẩm trái cây tiềm năng, phục vụ tốt cho thị trường xuất khẩu”.
THÚY LIỄU
Th1118
Tiền Giang: Nâng sức cạnh tranh cho trái sầu riêng xuất khẩu
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Hiện nay, tỉnh Tiền Giang đã mở rộng diện tích vùng chuyên canh sầu riêng xuất khẩu lên 16.890 ha, tập trung tại các huyện, thị vùng kiểm soát lũ phía Tây: Huyện Cai Lậy, huyện Cái Bè, huyện Tân Phước và thị xã Cai Lậy. Trong đó, có trên 11.000 ha cho thu hoạch với năng suất bình quân trên 28 tấn/ha và sản lượng trên 312.000 tấn trái cung ứng thị trường trong và ngoài nước.
*Vùng chuyên canh sầu riêng mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội to lớn
Sầu riêng mang lại hiệu quả kinh tế cao, là nguồn nông sản hàng hóa giá trị xuất khẩu lớn, có lợi thế cạnh tranh của tỉnh. Qua khảo sát, 70% – 80% sản lượng sầu riêng được xuất khẩu, chủ yếu là thị trường Trung Quốc. Trong đó, có khoảng 20% sản phẩm được chế biến trước khi xuất khẩu. Với giá bán từ 60.000 đồng/kg trở lên, mỗi ha sầu riêng hiện cho lợi nhuận hàng tỷ đồng, cao nhất trong các loại cây ăn trái đặc sản của tỉnh.
Toàn vùng hình thành được 15 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp kiểu mới, thu hút gần 16.000 thành viên đang tích cực phát huy vai trò tập hợp nông dân, liên kết sản xuất, giải quyết đầu vào và đầu ra cho nông sản hàng hóa. Qua đó, tạo việc làm cho khoảng 02 vạn lao động nông nghiệp địa bàn vùng kiểm soát lũ.
Hợp tác xã chuyên canh sầu riêng Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy) đi đầu trong liên kết chuỗi giá trị. Theo ông Huỳnh Tấn Lộc, Giám đốc Hợp tác xã, trong nước, Hợp tác xã xây dựng chuỗi cung ứng sầu riêng cho các siêu thị Co.opmart, các chợ đầu mối, cửa hàng thực phẩm sạch. Ngoài nước thì liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản có uy tín như: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phạm Gia (Tiền Giang), Công ty Cổ phần AMEII Việt Nam – Hà Nội chuyên xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,… Nhờ vậy, hợp tác xã luôn tiêu thụ sầu riêng cho nông dân với giá cao hơn thị trường bên ngoài từ 10% – 15%.
Xã Tam Bình (huyện Cai Lậy) nhờ tiên phong xây dựng vùng chuyên canh sầu riêng hiệu quả cao được công nhận xã đầu tiên của tỉnh đạt chuẩn và ra mắt xã nông thôn mới vào năm 2015. Thị xã Cai Lậy có gần 6.500 ha vườn cây ăn trái, chủ yếu chuyên canh sầu riêng được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới vào năm 2020. Huyện Cai Lậy với hàng chục ngàn ha sầu riêng chuyên canh đang phấn đấu đến cuối năm 2022 đạt chuẩn và ra mắt huyện nông thôn mới… là minh chứng hiệu quả kinh tế – xã hội mà vùng chuyên canh sầu riêng mang lại cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân những địa bàn khó khăn trước đây phía đầu nguồn sông Tiền của tỉnh Tiền Giang.
*Nhiều giải pháp nâng sức cạnh tranh cho cây trồng đặc sản
Giai đoạn 2022 – 2025, địa phương giữ ổn định diện tích hiện có cùng với tập trung ứng dụng khoa học – công nghệ, khuyến khích nông dân thâm canh theo hướng VietGAP, GlobalGAP; tổ chức lại sản xuất… gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, thích ứng biến đổi khí hậu, nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của trái sầu riêng đặc sản trên thị trường cũng như an toàn, truy xuất nguồn gốc, bảo vệ môi trường sinh thái. Qua đó, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội và phát triển bền vững cho vùng chuyên canh sầu riêng.
Đến năm 2025, sản lượng khoảng 360.000 tấn trái, có 25% diện tích được công nhận an toàn (VietGAP, GlobalGAP), 50% diện tích được cấp mã số vùng trồng và tỷ lệ sầu riêng xuất khẩu chiếm 70% – 80% sản lượng.
Tỉnh đưa ra các nhóm giải pháp về hỗ trợ phát triển sản xuất; chú trọng chuyển giao khoa học – kỹ thuật giúp giảm chi phí đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu; xây dựng và phát triển hệ thống dịch vụ sản xuất và tiêu thụ sầu riêng gắn với xúc tiến thương mại và phát triển thị trường…
Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang hướng dẫn nông dân về kỹ thuật trồng sầu riêng an toàn VietGAP hoặc GlobalGAP, kỹ thuật ủ phân hữu cơ bón cho cây trồng, kỹ thuật tỉa cành, tạo tán, xử lý ra hoa rải vụ, tưới phun sương tự động tiết kiệm nước,…
Hiện nay, ước tính có 96,3% diện tích sầu riêng được cơ giới hóa khâu tưới nước, tăng gần 26% so thời điểm cách đây 05 năm (2017); diện tích sử dụng phân hữu cơ đạt trên 91%, sử dụng nấm Trichoderma.sp trong quá trình chăm sóc đạt gần 66%, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật gốc sinh học chiếm 67,5% diện tích… Hàng năm, có gần 6.800 ha sầu riêng áp dụng kỹ thuật xử lý rải vụ theo ý muốn (sản xuất vụ nghịch) cho năng suất cao hơn và bán được giá, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn vườn cây chính vụ từ 1,7 – 2,3 lần.
Toàn vùng cũng có gần 200 ha và sản lượng mỗi năm gần 6.000 tấn trái đạt tiêu chí VietGAP. Bộ Khoa học và Công nghệ đã cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Cai Lậy” cho Hội Làm vườn huyện Cai Lậy – địa phương có vùng chuyên canh sầu riêng lớn nhất tỉnh, mở ra một tương lai mới cho sự phát triển bền vững của cây ăn trái đặc sản đang giúp nông thôn vùng lũ Tiền Giang giàu đẹp hẳn lên.
Xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, mở rộng thị trường xuất khẩu được đẩy mạnh, tháo gỡ điểm nghẽn về đầu ra cho vùng chuyên canh sầu riêng. Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang… tích cực kết nối cung cầu, tìm kiếm và mở rộng thị trường cho trái sầu riêng thông qua các kênh phân phối lớn như: Các siêu thị, trung tâm thương mại (BigC, Co.opmart, Bách Hóa Xanh…), Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines). Tỉnh quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã chuyên canh sầu riêng dự, tìm kiếm cơ hội làm ăn tại các Hội chợ kết nối cung – cầu hàng hóa; phối hợp Cục Xúc tiến thương mại, Hiệp hội Rau quả Việt Nam hỗ trợ các doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia các Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia và quốc tế nhằm quảng bá, giới thiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ trái sầu riêng.
Đồng thời, nắm bắt thời cơ khi trái sầu riêng được chấp nhận xuất chính ngạch sang thị trường Trung Quốc và các thị trường khó tính khác trên thế giới. Để được xuất chính ngạch, toàn vùng đã được cấp 02 mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích gần 100 ha. Tỉnh đang tiếp tục nộp hồ sơ, chờ thẩm định trong những ngày tới 21 hồ sơ với khoảng 1.100 ha, ước sản khoảng 30.000 tấn trái.
Đáng mừng là tín hiệu vui từ việc xuất khẩu chính ngạch giúp giá sầu riêng niên vụ 2022 – 2023 tăng mạnh. Hiện thương lái thu mua tận vườn sầu riêng đầu vụ từ 75.000 – 80.000 đồng/kg, với giá này mỗi ha nông dân thu lãi ròng trên 01 tỷ đồng.
Tỉnh triển khai dự án “Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sầu riêng tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030”, nhằm nâng cao giá trị trái sầu riêng thông qua hình thành chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ, áp dụng khoa học – công nghệ, gắn kết sản xuất và kinh doanh, ứng dụng công nghệ xử lý sau thu hoạch, chế biến sâu và giảm tổn thất sau thu hoạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Mặt khác, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kỹ năng thương mại cho các hợp tác xã; hình thành phương thức sản xuất – tiêu thụ mới thông qua hợp đồng, nhân rộng mô hình Hợp tác xã sầu riêng Ngũ Hiệp… Từ đó, nâng cao thu nhập cho nông dân vùng chuyên canh và các đối tượng tham gia chuỗi liên kết; thực hiện thắng lợi mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp địa bàn kiểm soát lũ phía Tây theo hướng định hình nền nông nghiệp phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai và nông dân làm giàu.
Mộng Tuyết
Th1116
Sầu riêng nghịch vụ hiệu quả gấp đôi
nguồn tin Báo nông nghiệp
TIỀN GIANG Sầu riêng nghịch vụ có giá bán cao hơn từ 20 – 40 nghìn đồng so với chính vụ, cho hiệu quả kinh tế tăng gấp đôi so với chính vụ.
Sầu riêng nghịch vụ hiệu quả cao hơn từ 1,7 lần
Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, tỉnh hiện có khoảng 17.000ha cây sầu riêng. Trong đó khoảng 10.000ha cây đang trong thời kỳ kinh doanh, năng suất bình quân 28 tấn/ha. Thời gian qua, nông dân đã vận dụng kỹ thuật canh tác sầu riêng nghịch vụ nhằm rải vụ, mang lại hiệu quả rất cao.
Từ năm 2018 đến nay, trung bình diện tích rải vụ khoảng 6.787ha/năm, năng suất đạt từ 18 – 20 tấn/ha. Chênh lệch năng suất giữa xử lý rải vụ so với vụ thuận từ 0,5 – 2 tấn/ha; giá bán dao động từ 60.000 – 95.000 đồng/kg, chênh lệch giá bán tăng từ 20.000 – 40.000 đồng/kg. Sản xuất rải vụ thu hoạch nghịch vụ cho hiệu quả kinh tế cao hơn chính vụ trung bình từ 1,7 – 2,3 lần.
Hơn một tháng qua, giá trái sầu riêng nghịch vụ tại Tiền Giang ổn định từ 70.000 đồng/kg trở lên. Ảnh: Trọng Linh.
Hơn một tháng nay, trái sầu riêng nghịch vụ được các thương lái thu mua xô tại vườn với giá cao và ổn định, từ 70.000 đồng đến hơn 80.000 đồng/kg. Với mức giá ổn định như hiện nay, mỗi ha cây sầu riêng, nhà vườn có thu nhập khoảng 1 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, sản lượng thấp, nhất là sầu riêng đạt chuẩn để xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc vẫn không đủ số lượng để cung ứng cho đối tác. Bởi để trái sầu riêng được chấp nhận xuất chính ngạch sang thị trường Trung Quốc cần có mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói. Thời điểm này, tỉnh Tiền Giang mới có 2 mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích gần 100ha. Cơ quan chức năng cho biết đang tiếp tục nộp hồ sơ, chờ thẩm định trong những ngày tới 21 hồ sơ với diện tích khoảng 1.100ha, ước sản khoảng 30.000 tấn trái.
Ông Dương Trần Trọng Quang, Chủ tịch UBND xã Hội Xuân, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, địa phương có 600ha cây sầu riêng chuyên canh chia sẻ: Thời điểm này, đầu ra của trái sầu riêng rất ổn định, cung không đủ cầu. Ông Quang cũng cho biết hiện chỉ mới có khoảng ¼ diện tích sầu riêng nông dân xử lý bắt đầu có trái. Đến cuối tháng 11 (âm lịch), sầu riêng mới chín rộ, bà con rất phấn khởi.
Áp dụng đồng bộ kỹ thuật theo hướng hữu cơ
Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, công tác chuyển giao khoa học, kỹ thuật cho nông dân ứng dụng vào sản xuất là một trong những giải pháp làm giảm chi phí đầu tư, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm sầu riêng. Ngành NN-PTNT đã tổ chức nhiều lớp hướng dẫn cho nông dân về kỹ thuật trồng sầu riêng theo hướng an toàn, với các kỹ thuật phổ biến như ủ phân hữu cơ để bón sầu riêng, tạo tán, tỉa cành, xử lý ra hoa trái vụ, phủ bạt trong sản xuất, tưới phun sương.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các chế phẩm sinh học để xử lý phân chuồng, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, nấm Trichoderma sp. và các phế phụ phẩm trong sản xuất sầu riêng là những tiến bộ giúp bà con kiểm soát các loại nấm hại rễ, góp phần tạo nên cây sầu riêng khỏe, đạt năng suất cao và tiết kiệm chi phí. Đến nay, diện tích sử dụng phân bón hữu cơ đạt trên 90% diện tích; sử dụng nấm Trichoderma sp. chiếm gần 66%; sử dụng thuốc BVTV sinh học chiếm trên 68% diện tích sầu riêng trong vùng Đề án phát triển cây sầu riêng của tỉnh.
Ngoài ra, cơ giới hóa trong tưới nước được ứng dụng vào sản xuất sầu riêng ngày càng tăng, giúp tiết kiệm chi phí, gia tăng lợi nhuận cho nông dân. Đến cuối năm 2021, ước tính có trên 96% diện tích áp dụng cơ giới hóa trong tưới nước, tăng gần 26% so với năm 2017.
Thời gian tới, nhằm nâng cao giá trị trái sầu riêng, Sở NN-PTNT Tiền Giang cho biết: Tỉnh đã và đang triển khai dự án “Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sầu riêng tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030”. Qua đó hình thành chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ, áp dụng khoa học công nghệ, gắn kết sản xuất và kinh doanh, ứng dụng công nghệ xử lý sau thu hoạch, chế biến sâu và giảm tổn thất sau thu hoạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Th1129