Đắk Nông: Bảo vệ cây trồng hiệu quả bằng biện pháp sinh học
Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hóa học đã để lại những tác hại xấu trong sản xuất nông nghiệp. Do đó, nhiều nông dân đã tự điều chế thuốc BVTV sinh học để phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, giúp sản xuất an toàn, hiệu quả.
Từ nhiều năm nay, việc sử dụng thuốc BVTV hóa học để phòng trừ sâu hại cho cây trồng đã trở thành vấn nạn, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sản xuất, tác động xấu đến môi trường.
Thuốc BVTV hóa học cũng làm cho chất lượng nhiều loại sản phẩm nông nghiệp giảm sút do tồn dư chất cấm, nên khó tiêu thụ, nhất là đối với thị trường xuất khẩu.
Gia đình ông N.V.S, ở xã Trường Xuân, có gần 1,6 ha hồ tiêu. Cuối năm 2019, gia đình ông được địa phương vận động sản xuất theo hướng hữu cơ, bước đầu áp dụng quy chuẩn VietGAP.
Để làm quen dần với quy trình sản xuất an toàn này, ông S bắt đầu hạn chế sử dụng phân bón vô cơ, thuốc BVTV hóa học độc hại, thuốc diệt cỏ. Thay vào đó, ông dùng các chế phẩm hữu cơ để phòng trừ sâu hại cho vườn tiêu.
Người dân xã Trường Xuân (Đắk Song) phòng trừ sâu hại cho vườn tiêu bằng thuốc BVTV sinh học
Tháng 4/2020, vườn tiêu của gia đình ông S xuất hiện bọ xít lưới, bọ xít muỗi cắn phá lá non, gié hoa, chuôi trái. Do nóng lòng, ông S đã dùng thuốc diệt muỗi phun cho vườn tiêu.
Hậu quả, trong 2 vụ thu hoạch liên tiếp, sản phẩm hồ tiêu của ông không được đối tác bao tiêu đầu ra vì tồn dư chất hóa học. Từ thiệt hại này, ông S đã quyết định đoạn tuyệt với thuốc BVTV hóa học.
Còn gia đình ông Vũ Quang Chiểu, ở thôn 10, xã Trường Xuân, từ nhiều năm nay luôn tuân thủ quy trình sản xuất nông nghiệp sạch. Các loại sâu hại trong vườn cây đều được ông khống chế tốt bằng các chế phẩm sinh học.
Cách sản xuất này cũng giúp các loài côn trùng có ích sinh sôi, sản phẩm như hồ tiêu, cà phê, bơ… luôn an toàn, đạt chất lượng cao. Hầu hết sản phẩm của ông đều được bao tiêu đầu ra với giá cao hơn giá thị trường.
Ông Chiểu cho biết: “Từ nhiều năm nay, chúng tôi nói không với thuốc BVTV hóa học. Từ ngày dùng chế phẩm sinh học, tôi tiết kiệm được rất nhiều chi phí sản xuất và cũng tốt hơn cho sức khỏe”.
Cũng theo ông Chiểu, chế phẩm sinh học có giá thành rẻ, không chỉ giúp nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn không gây ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe con người, vật nuôi.
Ông Nguyễn Văn Thanh, xã Nam Bình (Đắk Song), dùng chế phẩm sinh học phòng trừ sâu hại trên cây trồng
Mặc khác, chế phẩm sinh học không gây tính kháng thuốc với sâu hại, không làm tổn hại nhiều đến quần thể thiên địch có ích, không cần phun nhiều lần mà vẫn duy trì hiệu quả.
Ông Nguyễn Văn Thanh, ở xã Nam Bình (Đắk Song) cho biết, chế phẩm sinh học thường được bà con nông dân làm từ các nguyên liệu hữu cơ sẵn có như: tỏi, ớt, gừng, riềng, sả…
Các chế phẩm này được ngâm, pha chế với một số loại men vi sinh để làm thuốc BVTV. Hỗn hợp này có chứa axít hữu cơ, có khả năng gây ức chế, xua đuổi, tiêu diệt côn trùng với hiệu suất cao, không gây ngộ độc cho cây trồng và người sản xuất.
Cách pha chế thuốc BVTV khá đơn giản. Bà con chỉ cần dùng các loại nguyên liệu nói trên rồi nghiền nát, ngâm với rượu. Sau khoảng 15 ngày, bà con có thể dùng để phun lên các loại cây trồng.
Qua thực tế, tại các vùng sản xuất cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả, rau xanh ở Đắk Song, Đắk R’lấp, Đắk Glong, Krông Nô…, việc sử dụng chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng đều đạt kết quả cao.
Nguồn: Kim Ngân – Báo Đăk Nông
Th1011
Kỹ thuật trồng và chăm sóc rau xà lách mỡ
Xà lách mỡ là một trong những loại rung dùng trong nhiều món ăn, mang giá trị dinh dưỡng cao. Tìm hiểu kỹ thuật trồng và chăm sóc rau xà lách mỡ đúng cách giúp mỗi gia đình dễ dàng trong canh tác giống rau này. Tìm hiểu chi tiết qua bài viết dưới đây để có được những thông tin hữu ích nhất.
Thời vụ thích hợp gieo trồng rau xà lách mỡ
Xà lách mỡ là giống rau thích hợp canh tác quanh năm. Tuy nhiên, thời điểm tốt nhất trong năm nên lựa chọn là:
- Vụ sớm: Tiến hành gieo hạt khoảng tháng 8 và trồng cây con vào tháng 9.
- Vụ chính: Gieo hạt xà lách mỡ vào tháng 10 và trồng cây con vào tháng 11.
- Vụ muộn: Tiến hành gieo hạt vào tháng 1 và trồng cây con vào khoảng tháng 2.
Cách chọn giống xà lách mỡ
Khi chọn giống bà con cần chú ý tìm hiểu kỹ lưỡng về nguồn gốc xuất xứ. Đảm bảo hạt giống đều, mẩy để cho mật độ nảy mầm cao. Ưu tiên chọn mua tại các đại lý, các cơ sở cung cấp uy tín.
Sử dụng lượng giống hạt xà lách mỡ trồng với mật độ khoảng 600 – 800gram/ha.
Chuẩn bị và làm đất trồng xà lách mỡ
Chuẩn bị đất trồng
Xà lách mỡ ưa đất trồng có chứa nhiều nito, đồng thời giàu chất hữu cơ, giàu dinh dưỡng và chủ động được tưới tiêu tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt hơn. Thông thường, đất trồng giống rau này được sử dụng là đất thịt nhẹ, cát pha, hoặc đất phù sa sở hữu thành phần cơ giới nhẹ.
Làm đất và lên luống
Trên diện tích đất trồng được quy hoạch bà con tiến hành cày bừa, xới xáo và làm sạch cỏ cùng tàn dư của vụ trước đó. Sau đó tiến hành bón lót tăng dinh dưỡng, ủ hoai mục trong khoảng 7 – 10 ngày trước khi gieo trồng xà lách mỡ.
Tiến hành lên luống sau khi quá trình làm đất đã hoàn thành là bước tiếp theo cần thực hiện. Yêu cầu cụ thể là:
- Lên luống khi gieo hạt: luống rộng 0.9 – 1.0m, chiều cao trong khoảng 20 – 25cm và rãnh giữa các luống rộng 30cm.
- Lên luống khi trồng cây: yêu cầu luống trồng xà lách mỡ đảm bảo chiều cao 20 – 30cm, khoảng cách giữa các luống là 30cm, đồng thời luống trồng rộng từ 0.8 – 1.0m là hợp lý,
Kỹ thuật gieo trồng rau xà lách mỡ
Kỹ thuật gieo trồng cây xà lách mỡ cần thực hiện từ xử lý hạt, gieo hạt, trồng cây con chuẩn xác:
Xử lý hạt trước khi gieo trồng
Thường thì hạt giống rau xà lách mỡ sẽ được gieo trực tiếp trên vườn ươm. Song nếu điều kiện thời tiết quá lạnh thì ngâm hạt trước khi gieo sẽ tăng độ nảy mầm hiệu quả. Bà con sử dụng nước pha theo tỷ lệ 2 nóng : 3 lạnh để ngâm hạt giống trong 2 – 3 giờ đồng hồ.
Sau khi ngâm rửa hạt giống rau xà lách mỡ bằng nước sạch, tiến hành ủ ấm trong 10 – 12 giờ. Thường xuyên kiểm tra tới khi thấy hạt giống nứt kẽ là có thể đem gieo.
GIEO HẠT
- Trên luống vườn ươm bà con tiến hành gieo hạt sau khi đã ngâm ủ với khoảng cách giữa hạt với hạt là 1 – 2 inch, hàng cách hàng khoảng 14 – 20inch.
- Sau khi gieo tiến hành phun nước nhẹ nhàng, đều khắp mặt luống đảm bảo độ ẩm phù hợp.
Trồng cây con
Khi cây con phát triển có từ 2 – 3 lá thật lúc này tách khỏi vườn ươm và trồng trên diện tích canh tác đã chuẩn bị. Kỹ thuật trồng cây con cơ bản sẽ là:
- Mật độ trồng cây cách caah 15 – 20cm, hàng cach hàng khoảng 15 – 20cm tương ứng 16.000 – 17.000 cây/500m2.
- Tiến hành tách và cấy cây con lên luống nên thực hiện vào thời điểm chiều mát.
- Sau khi trồng cần tưới nước trên khắp mặt luống đảm bảo độ ẩm giúp cây con sớm bén rễ.
- Sau khoảng 2 – 3 ngày trồng bà con kiểm tra và thực hiện việc trồng dặm ở vị trí những cây yếu, chết hoặc bị bệnh. Việc trồng dặm cần thực hiện vào chiều mát không có nắng, sau khi trồng tưới nước ngay lập tức.
CHĂM SÓC CÂY XÀ LÁCH MỠ
Tưới nước
Thời gian từ 2 – 7 ngày đầu tiên sau khi gieo hạt duy trì tưới đều đặn 1 lần/ ngày vào sáng sớm hoặc chiều muộn. Ngoài ra, trước khi nhổ tách cây con bà coin cần chú ý tưới nước kỹ để giảm thiểu những tổn thương lên rễ.
Sau khi cây con hồi xanh, phát triển tốt duy trì tưới nước 2 – 3 ngày/ lần. Lượng nước sử dụng cần cân đối với điều kiện thời tiết, độ ẩm của đất để cân đối hợp lý. Ưu tiên sử dụng nước giếng khoan không ô nhiễm, hoặc nước máy để đảm bảo an toàn.
Phòng trừ sâu bệnh hại
Xà lách là giống rau sinh trưởng và thu hoạch trong thời gian ngắn. Bởi vậy, sâu bệnh hại không xuất hiện quá nhiều, chủ yếu là các loại như:
- Sâu tơ: Phòng trừ bằng cách vệ sinh sạch sẽ diện tích canh tác, tưới nước trong điều kiện trời mát mẻ. Tuy nhiên, khi sâu tơ xuất hiện bà con nên tìm hiểu và sử dụng một số loại thuốc trừ sâu đặc trị để xử lý.
- Sâu ăn tạp: Loại bỏ nguy cơ bằng cách làm đất trước khi canh tác kỹ lưỡng, thăm vườn trồng thường xuyên, sử dụng biện pháp sinh học nếu sâu xuất hiện và sinh sôi nhanh chóng.
- Bệnh hại: Rau xà lách mỡ thường gặp phải một số bệnh như chết cây con, thối bẹ, thối nhũn vi khuẩn,…
Làm cỏ
Yêu cầu làm cỏ cần thực hiện thường xuyên tránh để xà lách mỡ bị tranh dinh dưỡng, đảm bảo được độ thông thoáng để cây trồng sinh trưởng. Nên làm cỏ mỗi lần bón phân kết hợp với xới xáo kỹ luống trồng.
BÓN PHÂN CHO CÂY XÀ LÁCH MỠ
Bón phân cho cây rau xà lách mỡ yêu cầu cần thực hiện qua hai giai đoạn là bón lót và bón thúc. Kỹ thuật cơ bản là:
Bón lót
Bón lót là công đoạn thực hiện sau khi quá trình làm đất hoàn thành. Sử dụng phân bò, tro trấu, trùn quế hoặc phân bón hữu cơ 3 Con Gà, hoặc dùng phân bón hữu cơ Organic 1 bằng liều lượng là 50 – 60kg/1000m2. Bón trực tiếp lên đất sau đó ủ hoai mục khoảng 10 ngày trước khi gieo trồng.
Bón thúc
Bón thúc cho diện tích canh tác rau xà lách mỡ yêu cầu cần thực hiện qua 3 lần cơ bản là:
- Bón thúc lần 1: Thời điểm thực hiện khi cây xà lách có từ 2 – 3 lá thật. Bà con sử dụng phân bón NPK 20-20-15 với liều lượng khoảng 15 – 20kg/1000m2.
- Bón thúc lần 2: Sau khoảng 15 ngày gieo hạt bà con tiến hành bón thúc lần tiếp theo liều lượng là 15 – 20kg/1000m2 bằng phân bón NPK.
- Bón thúc lần 3: Sau khi gieo hạt giống từ 20 – 25 ngày thực hiện bón thúc lần cuối cùng. Bà con dùng phân bón NPK 17-7-17 với liều lượng tiêu chuẩn là 15 – 20kg/1000m2 tưới đều lên luống trồng.
Thu hoạch rau xà lách mỡ
Thông thường, rau xà lách mỡ sẽ cho thu hoạch sau khoảng 25 – 40 ngày trồng. Xà lách mỡ thành phẩm khi đã cuộn chặt chúng ta có thể tiến hành tỉa dần từ cây lớn tới cây nhỏ. Cần chú ý sử dụng dụng cụ thu hoạch phù hợp, hợp vệ sinh đẻ đảm bảo an toàn cho các cây còn lại.
Ngoài ra, trong quá trình thu hoạch tỉa nên loại bỏ các lá già, những lá nhiễm bệnh, lá úa,… ở những cây còn lại. Đối với xà lách mỡ đã chặt về cần được bảo quản ở nơi thoáng mát. Cần chú ý trước khi thu hoạch khoảng 7 ngày không sử dụng các loại thuốc trừ sâu, hay phân bón.
Như vậy, bài viết đã chia sẻ một cách chi tiết thông tin về kỹ thuật trồng, cũng như chăm sóc cây rau xà lách mỡ. Đây chắc chắn sẽ là kiến thức hữu ích và đầy đủ để bà con nông dân tự tin bắt đầu vụ gieo trồng với cơ hội thắng lớn.
Nguồn: Phân bón Hà Lan
Th1011
Kỹ thuật làm đất trồng rau sạch hiệu quả
Sau thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19 làm dậy lên phong trào trồng rau sạch tại nhà và xu hướng này vẫn đang ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, nhiều người phải bỏ dở bởi kết quả không như mong đợi. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do đất trồng được xử lý chưa đúng cách. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cùng bạn tìm hiểu một số lý do nên cải tạo đất và hướng dẫn kỹ thuật làm đất trồng rau sạch.
Vì sao phải làm đất khi trồng rau?
Các món ăn trong bữa cơm gia đình Việt luôn có sự kết hợp cân bằng giữa các món rau và món mặn. Vì vậy, sử dụng rau sạch là nhu cầu thiết yếu của rất nhiều hộ gia đình Việt Nam. Việc tự trồng rau để đảm bảo chất lượng đã được thực hiện từ rất lâu trong nhiều gia đình Việt, và sau đại dịch Covid-19 thì xu hướng này ngày càng trở nên bùng nổ.
Tuy nhiên trên thực tế, việc trồng rau đòi hỏi cần có kỹ thuật và những hiểu biết nhất định về loại rau và quan trọng hơn là cách chăm sóc đất trồng tương ứng. Do đó, nhiều người chưa nắm được cách làm đất trồng rau rất dễ bỏ dở bởi kết quả không thành công.
Cải tạo và làm đất chính là một trong những bước cơ bản khi trồng rau. Đất tốt nắm vai trò quyết định tới chất lượng vườn rau của bạn. Làm đất cẩn thận và cải tạo đất sẽ mang đến nhiều lợi ích cho vườn rau nhà bạn. Một số ưu điểm khi thực hiện bước này có thể kể tới như:
- Giúp đất sạch sâu bệnh, mầm bệnh hại cây
- Đất tơi xốp hơn giúp việc gieo trồng dễ dàng
- Đất giàu dinh dưỡng hơn, thoáng khí và giữ ẩm tốt giúp cây không bị ngập úng và phát triển nhanh.
- Các loại cỏ dại cũng được dọn dẹp sạch sẽ để tập trung cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.
- Cây trồng phát triển tốt hơn bởi độ PH được đưa về mức 6-7, mức độ phù hợp cho cây trồng nhanh lớn.
- Đất có thêm dinh dưỡng, nuôi dưỡng cây tốt hơn.
- Các loại đất trồng được cân đối lại chất dinh dưỡng, kể cả các loại đất trồng rau trong khay, chậu hay thùng xốp.
Với những lý do trên, trước khi trồng rau hay gieo hạt, bạn cần nắm được những kỹ thuật làm đất trồng rau sạch. Trong bài viết này, chúng tôi đã tổng hợp một số kỹ thuật làm đất trồng rau sạch tại nhà để giúp bạn cải tạo đất và làm đất để sẵn sàng cho việc trồng cấy.
Phơi đất, bón vôi để đất thoáng khí
Kỹ thuật đầu tiên được nhắc đến là việc phơi đất và bón vôi giúp làm đất sạch và thoáng khí hơn. Trong điều kiện tự nhiên thông thường, đất thường bị nhiều yếu tố tác động khiến tình trạng đất bị xói mòn, bạc màu, mất đi chất dinh dưỡng. Ngoài ra, nhiều loại đất không tốt khiến nấm và vi khuẩn phát triển nhanh, dễ gây ra các bệnh cho cây trồng.
Do đó, trong bước đầu tiên khi làm đất trồng rau, bạn nên cuốc, xới đất để đất được thoáng khí và cải thiện lượng oxy. Trong trường hợp đất vườn đã bị xói mòn nhiều, bạn cần bổ sung thêm đất mới trải lên bề mặt để cải tạo đất.
Để ức chế sự phát triển của những vi khuẩn có hại cho cây và các loại nấm thì bạn có thể sử dụng vôi bột cho đất. Việc này cũng giúp tăng can xi và giảm độ chua của đất, giảm tình trạng đất trồng bị thoái hoá sau thời gian dài canh tác.
Ủ rơm, rạ để đất tơi xốp
Làm đất tơi xốp sẽ giúp bạn trồng rau dễ dàng hơn, cây rau cũng dễ dàng bén rễ và phát triển nhanh chóng. Bạn có thể ủ đất bằng việc ủ rơm rạ hoặc các loại cây xanh cùng với đất. Việc làm này có tác dụng rất tốt cho các loại đất canh tác, sử dụng trong thời gian dài nhưng không được chăm bón, cải tạo nhiều. Bên cạnh đó, nếu trồng rau bằng các loại đất như đất feralit hay đất thịt, bạn nên làm đất cho tơi xốp trước khi gieo trồng.
Bổ sung dinh dưỡng cho đất
Hai bước trên giúp đất được tơi xốp và được bồi thêm chất dinh dưỡng. Tuy nhiên bạn vẫn cần bón thêm các loại phân để các chất dinh dưỡng được cung cấp đầy đủ hơn và với hàm lượng cao hơn. Các loại phân bón được khuyên dùng là phân trùn quế, phân vi sinh, phân hữu cơ Organic 1, phân hữu cơ 3 Con Gà,…
Các loại phân này giúp bạn bổ sung thêm nhiều dưỡng chất cho đất một cách an toàn và hiệu quả. Đồng thời, chất lượng đất cũng được nâng cao hơn rất nhiều. Phân trùn quế là một chế phẩm an toàn, bạn nên chú ý bổ sung loại phân này cho đất. Phân trùn quế sẽ giúp làm tăng độ ẩm cho đất, giúp dễ dàng hòa tan đạm, lân và kali vốn là những chất khó tiêu.
Cách làm đất trồng rau sạch trong thùng xốp
Nếu bạn yêu thích công việc trồng rau nhưng nhà không có vườn hoặc không gian vườn không đủ rộng, bạn hoàn toàn có thể trồng rau trong chậu hoặc thùng xốp. Các loại rau trồng trong thùng xốp vẫn đảm bảo phát triển tốt và an toàn cho gia đình khi sử dụng.
Để trồng rau sạch trong thùng xốp thành công, bạn cần cân nhắc sử dụng loại thùng xốp phù hợp và chọn mua loại đất trồng tốt giúp cây phát triển nhanh và khỏe mạnh. Một số lưu ý về cách trồng rau sạch trong thùng xốp có thể kể đến như sau.
Chuẩn bị thùng xốp phù hợp
Trước hết, bạn cần sử dụng loại thùng xốp sạch với số lượng phù hợp để trồng được loại rau bạn muốn gieo cấy. Yếu tố này thường bị nhiều người xem nhẹ, tuy nhiên việc lựa chọn thùng xốp phù hợp sẽ quyết định việc sinh trưởng và phát triển của rau có ở mức độ tốt hay không. Chọn loại thùng xốp phù hợp cũng sẽ giúp bạn tiết kiệm được chi phí, tiết kiệm tối đa không gian sống và chống lãng phí đất trồng của gia đình.
Bên cạnh đó, việc chọn lựa loại thùng xốp có khả năng giữ ẩm tốt cho đất sẽ giúp bạn hạn chế tối đa công sức cho việc tưới rau tại nhà. Các thùng xốp thường rất kín và bí, vì vậy đừng quên chọc lỗ xung quanh để giúp thoáng khí. Bạn chọc lỗ cách khoảng cách trong độ 5-7cm.
Việc chọc lỗ cho thùng xốp thường bị nhiều người bỏ qua, tuy nhiên đây cũng là một công đoạn khá quan trọng. Việc đục lỗ thùng sẽ giúp cây và rễ cây có không gian để hô hấp. Nếu không hô hấp được, cây sẽ khó phát triển rễ, từ đó các chất dinh dưỡng được hấp thụ kém hơn, làm giảm sự phát triển của rễ cây. Do đó, chúng sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển và sinh trưởng của cây.
Chọn loại đất trồng phù hợp
Loại đất trồng thường thấy và được ưa chuộng là đất thịt và đất phù sa. Hai loại đất này chứa nhiều dinh dưỡng và là cơ sở tốt giúp cây nhanh chóng phát triển. Ngoài ra, khi tìm mua đất trồng trong thùng xốp, bạn có thể yêu cầu người bán trộn thêm các loại than mùn cưa, trấu hoặc phân trùn quế. Điều này giúp đất có độ tơi xốp cao hơn giúp tăng chất dinh dưỡng cho đất khi trồng rau.
Việc trộn đất và ủ mùn cần có tỷ lệ phù hợp với loại đất trồng, tránh tình trạng thừa chất dinh dưỡng. Điều này cũng sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của cây và rau. Tỉ lệ trộn giữa đất thịt và các loại chất độn nên là 60 – 70% là tốt nhất, bạn nên đổ đất cách phần miệng thùng khoảng 5 – 7cm.
Với những thông tin được chia sẻ trong bài viết trên, bạn đã biết thêm về các lý do tại sao nên làm đất và cải tạo đất trước khi trồng rau. Ngoài ra, bài viết cũng giúp bạn biết thêm về các cách cải tạo đất và cách làm đất trồng rau sạch sao cho hiệu quả. Mong rằng sau bài viết này, bạn sẽ tìm được những cách phù hợp để trồng rau sạch cho gia đình thưởng thức.
Nguồn: phân bón Hà lan
Th1011
Trồng chè hướng hữu cơ: Lợi ích nhân 3, lợi nhuận nhân 2
THÁI NGUYÊN Nhiều hợp tác xã làm chè tại Thái Nguyên đã chuyển hình thức canh tác sang hướng hữu cơ từ nhiều năm nay, thành quả thu được lớn hơn mong đợi.
Tiên phong trồng chè hữu cơ
Ông Bùi Trọng Đại, Giám đốc HTX Trà và Du lịch cộng đồng Tiến Yên (ở xóm Thái Sơn 2, xã Tân Cương, TP Thái Nguyên) chia sẻ: Ông tiếp quản công việc làm chè của gia đình từ năm 2000 đến nay.
Ngay từ thời điểm đó, ông thấy rằng việc sử dụng hình thức canh tác cũ, tất cả từ phun thuốc trừ sâu đến bón phân đều là hóa học đã khiến cho thiên địch như giun, dế, nhện… không sống được. Trong khi đó đất đai bị chai cứng, nước ô nhiễm, dẫn tới sức khỏe người dân bị ảnh hưởng, nhiều loại bệnh ngoài da cho tới bệnh nặng, bệnh hiểm nghèo xuất hiện.
Nhận thức được nguy hiểm từ chất hóa học gieo rắc cho nhiều thế hệ, ông Đại cùng người thân trong gia đình và các hộ liên kết sản xuất ngày đêm suy nghĩ việc thay đổi hình thức sản xuất an toàn với con người, thân thiện với môi trường.
Đó cũng chính là lý do từ trước năm 2010, HTX chè Tiến Yên đã bắt đầu canh tác chè theo hướng hữu cơ rất sớm khi rất ít người sản xuất theo hình thức này ở Thái Nguyên. Đến nay, đơn vị này có diện tích trồng chè hơn 10ha, tất cả đã được chứng nhận VietGAP và đang trong quá trình làm quy trình để được công nhận là sản phẩm chè hữu cơ.
Ông Bùi Trọng Đại, Giám đốc HTX Trà và Du lịch cộng đồng Tiến Yên đã sản xuất chè theo hướng hữu cơ từ trước năm 2010. Ảnh: Toán Nguyễn.
Ông Đại phấn khởi nói: “Người dân chúng tôi sinh sống giữa vùng chè Tân Cương, nhờ sớm làm chè hữu cơ nên môi trường ở khu vực này trong lành, không còn mùi khó chịu của thuốc trừ sâu hóa học bay khắp nơi như trước. Nguồn nước giờ cũng cơ bản sạch, an toàn và nước giếng vẫn là nguồn nước sinh hoạt, ăn uống hàng ngày của người dân. Người dân trong xóm đã từ lâu không có người bị bệnh ung thư hay bệnh hiểm nghèo liên quan tới việc ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước.
Nhiều người dân ở xóm Thái Sơn 2 gắn bó cả cuộc đời với công việc chăm sóc và thu hoạch chè, họ chính là những người cảm nhận rõ nhất về những ưu việt trong việc canh tác chè theo hướng hữu cơ”.
Bà Loan, năm nay đã gần 60 tuổi và gắn bó cả cuộc đời với cây chè cho biết: Trước đây dùng phân hóa học, nhất là thuốc trừ sâu hóa học khiến người lúc nào cũng khó chịu, ngứa ngáy, mệt mỏi cả với người tiếp xúc trực tiếp hoặc sinh sống quanh những đồi chè. Nhưng những năm trở lại đây, khi không dùng chất hóa học nữa mà chuyển sang hữu cơ, thấy sức khỏe mọi người tốt hơn, hoạt bát hơn. Giờ mọi người làm chè phấn khởi, an tâm sản xuất mà không lo lắng độc hại nữa.
Người lao động an tâm làm việc mà không còn lo độc hại của thuốc trừ sâu và phân hóa học. Ảnh: Đào Thanh.
Kiên trì theo hướng hữu cơ
Ông Nguyễn Thanh Dương, Giám đốc HTX Chè trung du Tân Cương (TP Thái Nguyên) cho biết: Từ năm 2017 đến nay, 100% diện tích đất trồng chè của HTX đã chuyển hình thức canh tác theo hướng hữu cơ. Thời gian đầu thực hiện vô cùng khó khăn, vì mất khoảng 6 tháng sản lượng giảm sâu do cây chè bị thiếu chất.
Vấn đề khác khiến bà con nản lòng là tình trạng sâu bệnh hoành hành với mật độ cao. Những vấn đề nói trên làm cho người trồng chè bị thất thu, thậm chí không được thu hoạch, nhiều xã viên chán nản và muốn quay lại hình thức canh tác cũ.
Tuy nhiên, lãnh đạo HTX Chè trung du Tân Cương đã động viên bà con kiên trì, vì các chế phẩm hữu cơ như vỏ đỗ, vỏ cây, mùn cưa, phân xanh, phân chuồng, lạc dại, rơm rạ… cần có thời gian để phân hủy, cải tạo đất. Bà con không dùng thuốc trừ sâu hóa học độc hại nữa, thay vào đó là chế phẩm sinh học có nguồn gốc là thảo mộc. Sau một thời gian, những thiên địch có lợi phát triển, cũng là lúc sâu bệnh được giải quyết.
Sau khoảng 6 tháng, khi cây chè bắt đầu hút được dưỡng chất từ các chế phẩm hữu cơ thì sản lượng chè bắt đầu được khôi phục. Sau hơn 1 năm, lượng dưỡng chất trong đất đã được duy trì ổn định thì hiệu quả thấy rõ, sản lượng đạt tương đương với dùng phân hóa học, nhưng chất lượng đảm bảo an toàn tuyệt đối. Lớp vỏ cây, vỏ đỗ, mùn cưa tạo thành lớp mùn dày giữ ẩm cho cây, chất dinh dưỡng tự nhiên được thẩm thấu trong đất giúp cho mầm chè mọc tươi tốt hơn, mập hơn.
Th1010
Phụ phẩm rơm rạ – nguồn lợi to lớn
Hằng năm, lượng phụ phẩm rơm rạ được thải ra từ sản xuất lúa ở nước ta rất lớn, nhất là tại ÐBSCL, nơi đang cung cấp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Với sản lượng lúa hàng năm đạt hơn 24 triệu tấn, ÐBSCL cũng có lượng rơm rạ ở mức tương đương…
Nguồn rơm rạ dồi dào
Theo Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), hằng năm ước tính nước ta có khoảng 45 triệu tấn rơm khô, 8 triệu tấn trấu, 30-50 triệu phế phụ phẩm thực vật khác. Tổng khối lượng phế phụ phẩm trong trồng trọt lên trên 100 triệu tấn/năm, với hầu hết là xác hữu cơ như thân, lá, vỏ hạt… tất cả đều chứa đựng lượng dinh dưỡng rất tốt, có thể hoàn trả, cải tạo bồi dưỡng lại cho đất. Với khối lượng này, nếu không quản lý và sử dụng tốt sẽ gây nên một sự lãng phí. Theo tính toán của các chuyên gia nông nghiệp và môi trường, con số lãng phí hằng năm có thể lên tới vài trăm nghìn tỉ đồng. Bên cạnh đó, lượng phế phụ phẩm này không sử dụng đúng mục đích có thể gây ô nhiễm môi trường (đất, không khí và nước) do hoạt động vùi lấp yếm khí, xử lý bừa bãi hay đốt bỏ…
Th1010
KỸ THUẬT CHĂM SÓC VÀ BÓN PHÂN CHO CÂY MAI
Mai có xuất xứ từ cây hoang dại, có khả năng thích ứng tốt với điều kiện khí hậu nhiệt đới, đặc biệt với khí hậu miền Nam. Cây mai sinh trưởng và phát triển mạnh, có tuổi thọ cao và nếu được chăm sóc chu đáo sẽ cho hoa nhiều và có màu sắc đẹp. Cây mai mỗi năm rụng lá một lần vào cuối mùa Đông (tháng 1 – tháng 2 Dương lịch) và nở hoa vào đầu mùa Xuân, chỉ riêng mai Tứ Qúy là nở hoa quanh năm. Hiện nay nhờ kỹ thuật lai tạo giống, các nghệ nhân đã tạo ra được các giống mai có nhiều cánh, cánh xếp nhiều tầng như mai Huỳnh Tỷ, mai Giảo, mai Cúc, mai Cửu Long…và đa dạng về màu sắc như Bạch Mai, mai Miến Điện, mai Bến Tre, mai Tứ Quý…
Kỹ thuật trồng và chăm sóc mai không phức tạp. Tuy nhiên để có một cây mai theo ý muốn của nguời chơi, ngoài những kỹ thuật thường áp dụng như tỉa cành tạo tán, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh việc trồng và chăm sóc mai cần chú ý một số điểm sau:
1. Chọn đất trồng mai:
* Đất trồng mai trên vườn, líp: Cây mai phát triển tốt trên đất thịt nhẹ có nhiều chất hữu cơ, đất không chua, không bị nhiễm phèn, mặn hoặc các hoá chất độc hại.
* Đất trồng mai trong chậu: cần chọn loại đất có các tính chất như trên, trộn theo tỷ lệ khoảng 70-80% đất và 20-30% phân hữu cơ hoai mục theo trọng lượng đất trong chậu.
2. Kỹ thuật bón phân
2.1 Mai trồng trên vườn, líp:
* Bón lót khi trồng:
Phân chuồng (phân trâu bò, trùn quế,tro trấu, sơ dừa…) đã qua ủ khoảng 5-10 kg/gốc, vôi bột khoảng 200-300 gr/gốc + 50-100gr lân Đầu Trâu. Toàn bộ lượng phân này được trộn đều trong hố (hoặc rãnh) trước khi trồng cây con.
* Bón thúc:
Sau khi trồng khoảng 10-15 ngày, cây bắt đầu ra rễ mới, dùng phân NPK 20-20-15+TE Đầu Trâu hoà loãng để tưới, lượng phân sử dụng từ 50-100 gr/10-15 lít nước, khoảng 20-30 ngày tưới 1 lần. Khi mai đã lớn, lượng phân bón cũng được tăng dần và khoảng cách các lần bón phân xa hơn. Loại phân bón qua đất thích hợp cho mai là NPK 20-20-15+TE hoặc NPK 16-12-8-11+TE. Lượng bón khoảng 20 -50 gr/gốc/lần bón, cách khoảng 1-2 tháng bón 1 lần.
Khi mai đã cho hoa ổn định: Hàng năm cần bón bổ sung phân hữu cơ từ 5-10 kg/gốc. Sử dụng loại phân NPK 20-20-15+TE hoặc NPK 16-12-8-11+TE bón mỗi năm khoảng 3-4 lần với lượng bón như trên vào các đợt: sau khi tàn hoa (sau dịp Tết), cắt tỉa cành; đầu mùa mưa; giữa mùa mưa và trước khi mai nở hoa khoảng 1-1,5 tháng. Cần bón phân theo hốc, theo rãnh sâu từ 5-7 cm theo tàn lá của cây, bón vào vùng có nhiều rễ non phát triển, sau đó lấp đất, giữ ẩm vào mùa khô, thoáng gốc vào mùa mưa.
2.2 Mai trồng trong chậu
Tuỳ theo kích thước chậu, lượng bón có thể thay đổi từ 20-50 gr/chậu cho 1 lần bón. Với chậu lớn, cây mai nhiều tuổi có thể bón khoảng 50-80 gr/chậu. Tạo rãnh xung quanh thành chậu, sâu khoảng 3-5 cm, rải phân đều vào rãnh, lấp đất và tưới đủ ẩm. Tránh làm đứt rễ, cây dễ bị nhiễm bệnh qua vết thương. Nếu có điều kiện, hàng năm vào đầu mùa mưa nên thay đất trong chậu bằng đất mới tơi xốp, hoặc bổ sung phân hữu cơ đã hoai mục, lượng bón từ 2-3 kg/chậu hoặc trùn quế với lượng bón 1 kg/chậu
* Sử dụng phân bón lá : Ngoài việc sử dụng phân bón qua đất, phân bón lá có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sinh trưởng và phát triển, bổ sung các chất dinh dưỡng thiếu hụt trong đất, kích thích ra rễ, ra lá, ra hoa theo ý muốn của người chơi mai.
Một số loại phân bón lá được nhà vườn quan tâm đó là: Phân bón lá Đầu Trâu 501 thúc ra chồi ra lá, Đầu Trâu 701 thúc ra bông và Đầu Trâu 901 có tác dụng dưỡng bông giúp bông lâu tàn và có màu sắc đẹp. Tương tự nhóm sản phẩm phân bón lá Đầu Trâu 005, Đầu Trâu 007, Đầu Trâu 009 cũng có hiệu quả cao đối với tất cả các loại mai cảnh.
Kính chúc người yêu mai có được một cành mai theo ý muốn mỗi khi Xuân về.
Nguồn: phân bón Bình Điền
Th1010
Tiền Giang: Sầu riêng tăng giá mạnh
Tại tỉnh Tiền Giang, sầu riêng bắt đầu tăng giá mạnh cách đây hơn 01 tháng, với mức tăng khoảng 15.000 – 25.000 đồng/kg. Hiện thương lái thu mua các loại sầu riêng tại vườn với giá dao động từ 60.000 – 75.000 đồng/kg. Tuy nhiên, còn khoảng 02 tuần nữa, sầu riêng trên địa bàn tỉnh mới vào mùa thu hoạch rộ. Tỉnh hiện có khoảng trên 17 ngàn ha sầu riêng, với năng suất đạt từ 20 – 23 tấn/ha; trong đó có khoảng 100 ha sầu riêng đã được cấp mã số vùng trồng.
Sầu riêng đang tăng giá mạnh.
Theo ông Nguyễn Văn Mẫn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với trái sầu riêng xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc ký kết giữa Bộ NN&PTNT Việt Nam và Tổng cục Hải quan Trung Quốc được thông qua. Vừa qua, đã có hàng chục tấn sầu riêng của Việt Nam xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho giá sầu riêng tăng mạnh thời gian gần đây. Đồng thời, là niềm vui chung của ngành Nông nghiệp và tự hào cho người trồng, tiêu thụ sầu riêng của Việt Nam nói chung và tỉnh Tiền Giang nói riêng.
Giám đốc Sở NN&PTNT cho rằng, việc xuất khẩu sầu riêng chính ngạch sang thị trường Trung Quốc là cơ hội để nông dân nâng cao giá trị sản xuất sầu riêng; bởi chi phí trung gian giảm, lợi nhuận sẽ tăng. Ngành Nông nghiệp đã và đang khẩn trương hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương hoàn chỉnh các thủ tục cần thiết để được cấp mã số vùng trồng và mã số đóng gói.
Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp xây dựng kế hoạch tập huấn kỹ thuật canh tác cho người dân theo hướng an toàn, thực hiện nghiêm ngặt các quy định mà Nghị định thư đã ký kết, có kế hoạch cung ứng phù hợp, hướng đến xuất khẩu bền vững.
Nguồn: Thùy Trang – Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Th1007
Giá ure tại Mỹ, Trung Đông tăng quanh 3%
Cập nhật lúc 16h ngày 06/10/2022
Dữ liệu từ Trading Economics cho thấy giá ure trên sàn Chicago (Mỹ) ngày 5/10 là 765 USD/tấn, tăng gần 3% so với ngày trước đó sau khi lao dốc từ mức 865 USD/tấn vào ngày 28/9.
Diễn biến giá ure trên sàn Chicago, Mỹ. Nguồn: Trading Economics
Giá ure tương lai tại Trung Đông là 645 USD/tấn, cao hơn 3,2% so với ngày 4/10. Trước đó, ngày 29/9, giá ure tại khu vực này là 680 USD/tấn, lao dốc trong ngày 30/9 và tăng trở lại trong những ngày gần đây.
Diễn biến giá ure tại Trung Đông. Nguồn: Investing.com
Giá ure, DAP tại Trung Quốc không biến động do Trung Quốc đang trong kỳ nghỉ lễ Quốc khánh.
Theo 2Nông, dịch Covid-19 đã để lại ảnh hưởng đến mức nền các nguyên liệu thô dùng để sản xuất phân bón. Đa số các mỏ khai thác nguyên liệu thô dùng để sản xuất mặt hàng này đều nằm trong vùng bất ổn chính trị khiến việc vận chuyển các loại nguyên liệu này ra thị trường khó khăn. Còn đối với các mỏ không nằm trong vùng bất ổn như Trung Quốc, Canada, năng suất chỉ vừa đủ nhu cầu nội địa và một vài nước trong khu vực.
Trang này nhận định rằng mặt bằng cung cấp các nguyên liệu thô dùng để sản xuất phân bón trên thế giới hiện đang mất thế cân bằng và thiếu hụt trầm trọng. Thực tế cho thấy, các tập đoàn lớn chuyên sản xuất kali trên thế giới đã cắt sản lượng sản xuất khoảng 2 triệu tấn. Hiện nay giá phân Kali trên thế giới đã ở mức 1.000-1.500 USD/tấn.
Còn đối với Trung Quốc, nước sản xuất phốt pho lớn nhất thế giới, giá photpho vàng và trắng vụt tăng từ cuối tháng 2 năm nay trở lại đây. Theo đó, nhiều chuyên gia đánh giá khả năng cao là giá photpho vàng có thể duy trì ở mức khoảng 5.500-6.000 USD/tấn cho tới hết năm nay.
Là nước phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhập khẩu, giá các mặt hàng có chứa kali, photpho ở Việt Nam cũng sẽ ở mức cao theo tình hình thế giới. Theo Binhdien.com, giá kali Belarus loại hồng đỏ là 1,8 triệu đồng/100 kg, tăng 40% so với đầu năm.
Giá ure Phú Mỹ hiện là 1,47 triệu đồng/100 kg, so với mức 1,73 triệu đồng/100 kg hồi đầu năm. Theo SSI Research, về nhu cầu, do quý III là mùa thấp điểm của ngành trồng trọt, giá ure giảm, nhưng sẽ tăng trở lại vào quý IV khi vụ Đông Xuân bắt đầu. Nhu cầu tăng sẽ kéo theo giá ure tăng.
Nguồn: chuyên trang Người đồng hành (ndh.vn)
Th1005
Quy trình kỹ thuật bón phân cho cây sầu riêng
Chăm sóc vườn sầu riêng cần hiểu rõ về các kiến thức cơ bản, nhất là việc nắm rõ thời gian bón phân và lựa chọn loại phân bón phù hợp. Khi bón phân cho cây ăn trái đặc biệt là bón phân cho sầu riêng, việc chú ý đến loại phân sử dụng, nhu cầu sinh lý phù hợp với điều kiện đất đai, đúng lúc và đúng phương pháp là những yếu tố quyết định giúp cây phát triển tốt, góp phần tăng năng suất chất lượng cây trồng
1. Xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng
Các chất dinh dưỡng có vai trò hết sức quan trọng giúp ổn định và tăng năng suất cho cây. Cây sầu riêng cần được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, trung và vi lượng. Thiếu hoặc thừa một trong những yếu tố này đều ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển không bình thường của cây.
Nhu cầu dinh dưỡng của cây tăng theo tuổi cây và mức năng suất. Sầu riêng thu bói có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn cây kiến thiết cơ bản và cây trong vườn ươm. Sầu riêng kinh doanh có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn so với sầu riêng mới thu bói. Năng suất sầu riêng càng cao, càng cần phải bón nhiều phân hơn.
Sầu riêng rất cần kali nhưng không nên sử dụng kali clorua (KCl) mà phải sử dụng Kali Sulphate (K2SO4) và trung-vi lượng (TE) vì KCl làm sầu riêng giảm mùi thơm.
Khi cây sầu riêng cho năng suất quả 6.720 kg đã lấy đi 18,1 kg N, 6,6 kg P2O5, 33,5 kg K2O, 5,4 kg MgO và 2,6 kg CaO.
Đối với sầu riêng tất cả các chất đa lượng và các chất vi lượng như Kẽm, Bo… đều cần thiết cho giai đoạn đậu quả và phát triển quả, trong đó, N, P và là cần thiết nhất trong giai đoạn phát triển quả, K là chất dinh dưỡng cần thiết trong giai đoạn sau của sự phát triển quả cho đến khi thu họach.
Sau đây là một số vai trò của các nguyên tố N, P, K và S đối với sầu riêng:
+ Đạm (N): Đây là thành phần quan trọng cho tất cả bộ phận của cây và đặc biệt cần thiết cho sự sinh trưởng dinh dưỡng.
Đạm cần thiết cho sự phát triển của lá, thân cành, hoa, quả, hạt. Do vậy, cần bón đạm đầy đủ cho cây sầu riêng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc 5 đúng (đúng loại, đúng nhu cầu, đúng loại đất, đúng liều lượng và đúng phương pháp), ngoài ra còn phải đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Cây đủ đạm lá xanh tốt, cây phát triển khỏe, quả phát triển đều
Thiếu đạm: Lá có màu xanh vàng hay xanh noãn chuối. Thiếu nặng lá rụng nhiều, năng suất giảm. Hiện tượng thiếu đạm thường xảy ra trên đất nghèo dinh dưỡng và bón không đủ lượng đạm cây cần.
Thừa đạm: Phát triển thân lá mạnh, lá có màu xanh đậm, dễ bị sâu bệnh tấn công, đậu quả ít, rụng quả nhiều, quả phát triển không bình thường như mất gai, nứt quả…
+ Lân (P): Sầu riêng cần lân tương đối ít. Dạng lân dễ tiêu trong đất thường bị giới hạn bởi việc cố định do các phản ứng hóa học, đặc biệt là ở đất chua. Nên thường xuyên bón phân lân với lượng nhỏ. Cần bón lót phân lân trong hố trước khi trồng để giúp cây tăng trưởng trong giai đoạn ban đầu.
Thiếu lân: Lá chuyển màu xỉn, mép lá non ửng đỏ, thiếu nặng lá rụng và cành chết.
+ Kali (K): Kali rất quan trọng khi cây ra quả, lượng kali trong quả rất lớn. Bón thường xuyên phân kali rất cần thiết để duy trì năng suất cao và phẩm chất ngon cho sầu riêng. Với đất nhiều K sẽ cản trở sự hấp thu Ca và Mg. Trong trường hợp này cần bón Ca và Mg nhưng không bón K. Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với các tác động không lợi từ bên ngoài và chống chịu đối với một số loại bệnh. Kali tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét.
Thiếu K: Mép lá chuyển màu vàng cam sau tới màu xám nâu và khô, lá rụng nhiều.
+ Lưu huỳnh (S): Thiếu S, hầu hết lá trên cây chuyển sang màu vàng, xuất hiện những vết như vết bệnh trên lá già. Ở lá non, lúc đầu có màu vàng sáng sau đó chuyển sang màu vàng nhạt, tương tự triệu chứng ở lá già. Lưu huỳnh được bón thông qua phân SA (chứa khoảng 24 % S); phân Super lân (Super lân chứa khoảng 14 % S). …
Ngoài ra, thiếu magiê: phần thịt lá bị vàng và lan dần từ gân chính ra mép lá; thiếu canxi: lá héo vàng từ rìa lá sau lan vào gân chính; thiếu kẽm: các lá và chồi đầu cành không phát triển tốt (rụt đọt), lá không thể nở lớn.
2. Xác định loại phân bón
2.1. Các loại phân bón cho sầu riêng
a. Phân hữu cơ
Các loại phân hữu cơ thường dùng để bón cho sầu riêng như phân gia súc, than bùn, phân ủ các dư thừa thực vật, phân xanh, phân cá…
Ưu điểm
– Tạo chất đệm, ổn định độ chua của đất tăng hiệu quả của việc bón phân vô cơ.
– Làm đất tơi xốp, giữ ẩm tốt, tăng độ phì nhiêu.
– Tạo môi trường thuận lợi để vi sinh vật phát triển và hoạt động làm tăng khả năng kháng bệnh đối với cây trồng.
– Chi phí thấp.
Hạn chế
– Hiệu quả chậm;
– Cồng kềnh, tốn công vận chuyển;
– Hàm lượng dưỡng chất thấp, không ổn định, khó kiểm soát.
Để nâng cao hàm lượng dinh dưỡng phân chuồng, nên tận dụng các dư thừa thực vật có sẳn để độn vào phân chuồng và ủ phân trước khi sử dụng.
Cách thực hiện
Các nguyên liệu để độn/lót chuồng: Trấu, rơm rạ để độn vô chuồng vừa làm chuồng khô, ấm vừa hút nước tiểu của gia súc để tránh trôi và bốc hơi.
Các nguyên liệu để ủ chung với phân: Lá rụng khô: Điều, sầu riêng, cỏ…
Thân cành lá tươi thu được từ dọn vườn, tỉa cành sầu riêng, cây che bóng. Tất cả được ủ chung với phân chuồng.
Hiện nay, nông dân chưa tận dụng được các tàn dư thực vật để độn với phân chuồng nên phân có chất lượng kém. Do đó, các dư thừa thực vật “ không nên đốt bỏ”, mà nên giữ lại để độn ủ chung với phân chuồng vừa tăng khối lượng phân đồng thời tăng cả về chất lượng.
Có thể lựa chọn các cách ủ phân hữu cơ như sau:
– Ủ nóng: Khi lấy phân ra khỏi chuồng để ủ, phân được xếp thành từng lớp ở nơi có nền không thấm nước, nhưng không được nén. Sau đó, tưới nước phân lên, giữ độ ẩm trong đống phân 60 – 70%. Có thể trộn thêm 1% vôi bột (tính theo khối lượng) trong trường hợp phân có nhiều chất độn. Trộn thêm 1 – 2% supe lân để giữ đạm. Sau đó trát bùn bao phủ bên ngoài đống phân. Hàng ngày tưới nước phân lên đống phân.
Sau 4 – 6 ngày, nhiệt độ trong đống phân có thể lên đến 50 – 60oC. Các loài vi sinh vật phân giải chất hữu cơ phát triển nhanh và mạnh. Các loài vi sinh vật háo khí chiếm ưu thế. Do tập đoàn vi sinh vật hoạt động mạnh cho nên nhiệt độ trong đống phân tăng nhanh và đạt mức cao. Để đảm bảo cho các loài vi sinh vật háo khí hoạt động tốt cần giữ cho đống phân tơi, xốp, thoáng.
Phương pháp ủ nóng có tác dụng tốt trong việc tiêu diệt các hạt cỏ dại, loại trừ các mầm móng sâu bệnh. Thời gian ủ tương đối ngắn. Chỉ 30 – 40 ngày là ủ xong, phân ủ có thể đem sử dụng. Tuy vậy, phương pháp này có nhược điểm là để mất nhiều đạm.
– Ủ nguội: Phân được lấy ra khỏi chuồng, xếp thành lớp và nén chặt. Trên mỗi lớp phân chuồng rắc 2% phân lân. Sau đó ủ đất bột hoặc đất bùn khô đập nhỏ, rồi nén chặt. Thường đống phân được xếp với chiều rộng 2 – 3 m, chiều dài tuỳ thuộc vào chiều dài nền đất. Các lớp phân được xếp lần lượt cho đến độ cao 1,5 – 2,0 m. Sau đó trát bùn phủ bên ngoài.
Do bị nén chặt cho nên bên trong đống phân thiếu oxy, môi trường trở lên yếm khí, khí cacbonic trong đống phân tăng. Vi sinh vật hoạt động chậm, bởi vậy nhiệt độ trong đống phân không tăng cao và chỉ ở mức 30 – 35oC. Đạm trong đống phân chủ yếu ở dạng amôn cacbonát, là dạng khó phân huỷ thành amôniac, nên lượng đạm bị mất giảm đi nhiều.
Theo phương pháp này, thời gian ủ phân phải kéo dài 5 – 6 tháng phân ủ mới dùng được. Nhưng phân có chất lượng tốt hơn ủ nóng.
– Ủ nóng trước, nguội sau: Phân chuồng lấy ra xếp thành lớp không nén chặt ngay. Để như vậy cho vi sinh vật hoạt động mạnh trong 5 – 6 ngày. Khi nhiệt độ đạt 50 – 60oC tiến hành nén chặt để chuyển đống phân sang trạng thái yếm khí.
Sau khi nén chặt lại xếp lớp phân chuồng khác lên, không nén chặt. Để 5 – 6 ngày cho vi sinh vật hoạt động. Khi đạt đến nhiệt độ 50 – 60oC lại nén chặt.
Cứ như vậy cho đến khi đạt được độ cao cần thiết thì trát bùn phủ chung quanh đống phân. Quá trình chuyển hoá trong đống phân diễn ra như sau: Ủ nóng cho phân bắt đầu ngấu, sau đó chuyển sang ủ nguội bằng cách nén chặt lớp phân để giữ cho đạm không bị mất.
Để thúc đẩy cho phân chóng ngấu ở giai đoạn ủ nóng, người ta dùng một số phân khác làm men như phân bắc, phân tằm, phân gà, vịt… Phân men được cho thêm vào lớp phân khi chưa bị nén chặt.
Ủ phân theo cách này có thể rút ngắn được thời gian so với cách ủ nguội, nhưng phải có thời gian dài hơn cách ủ nóng.
Tuỳ theo thời gian có nhu cầu sử dụng phân mà áp dụng phương pháp ủ phân thích hợp để vừa đảm bảo có phân dùng đúng lúc vừa đảm bảo được chất lượng phân.
+ Cách dùng:
Thời gian ủ dài hay ngắn tuỳ theo loại nguyên liệu và mùa vụ, kéo dài từ 1-4 tháng. Khi kiểm tra thấy đống phân màu nâu đen, tơi xốp, có mùi chua nồng của dấm, thọc tay vào đống phân thấy ấm vừa tay là phân đã hoai mục (chín hoặc ngấu), hoàn toàn có thể đem sử dụng.
Phân dùng không hết nên đánh đống lại, che đậy cẩn thận hoặc đóng bao để dùng về sau. Phân ủ xong sử dụng tốt nhất trong vòng 1 năm và hiệu quả sử dụng đạt cao nhất trong một tháng khi phân ngấu.
Phân ủ chủ yếu dùng để bón lót cho các loại cây trồng, có thể sử dụng bón thúc đối với các loại rau và hoa. Cách bón tương tự như bón phân hữu cơ truyền thống khác.
Nên sử dụng phân ủ vi sinh bón cho sầu riêng vì tốn chi phí, tận dụng nguồn phế phẩm và phế thải trong quá trình trồng trọt và chăn nuôi, hạn chế đến mức thấp nhất nguồn bệnh lây lan, bảo vệ môi trường sống trong lành. Nông dân ở vùng chăn nuôi nhỏ, lẻ có sẳn nguồn phân chuồng và nguồn xác bã thực vật cũng nên mạnh dạn ủ phân là góp phần đảm bảo an toàn chất lượng sản phẩm, góp phần xây dựng nền nông nghiệp bền vững.
Có một phương án tiết kiệm mà hiệu quả cho bà con nông dân là dùng kén trùn quế Phước Hiệp để cung cấp chất hữu cơ cho sầu riêng. Kén trùn quế Phước Hiệp được tạo ra từ quá trình nuôi ủ con trùn quế trong chuồng trại từ 10 – 12 tháng nên hàm lượng hữu cơ, humic tự nhiên và đặc biệt là hệ vi sinh vật tự nhiên (bản địa) rất cao. Và sau khi thu hoạch, kén trùn quế được xử lý giảm ẩm bằng nhà kính phơi tự nhiên, nghiền mịn, sàng và phun bổ sung 15 lít dịch trùn quế cho 1 tấn ( tương đương 15kg NPK/ 1 tấn). Với nhhững khác biệt này, chỉ cần bón số lượng ít mà cây vẫn phát triển, mang liệu hiệu quả kinh tế cho nhà vườn. Đặc biệt, kén trùn quế Phước Hiệp dùng được cho tất cả các giai đoạn từ trồng mới, bón thúc, phục hồi sau thu hoạch, chăm sóc trước khi làm bông đều được. Bón kén trùn kết hợp với NPK sẽ giúp giảm nửa lượng NPK bón, hệ vi sinh sẽ kích thích chuyển hoá lượng phân vô cơ khó tiêu thành dễ tiêu, tránh hao hụt phân, không làm chai đất mà cây vẫn phát triển và sinh trưởng tốt.
b. Phân vô cơ
Đối với cây sầu riêng cần bón các loại phân vô cơ chứa đạm, lân, kali và một số phân vi lượng. Tùy theo nhu cầu dinh dưỡng ở mỗi giai đoạn phát triển mà lựa chọn các loại phân vô cơ để bón cho phù hợp.
* Ưu điểm của phân vô cơ:
– Đáp ứng nhanh kịp thời nhu cầu của cây.
– Hàm lượng dinh dưỡng thường cao, ổn định và dễ kiểm soát. – Dễ vận chuyển, dễ sử dụng.
* Hạn chế của phân vô cơ:
– Sử dụng đơn độc lâu ngày đất bị chai cứng, chua, cây hấp thụ kém.
– Hạn chế vi sinh vật phát triển.
Chất cải tạo đất
* Vôi: Thông thường người ta bón vôi để nâng cao độ pH của đất, để cải tạo lý, hoá tính của đất, xúc tiến quá trình phân giải chất hữu cơ, tăng cường sự sinh trưởng phát triển của VSV trong đất, giải phóng lân bị cố định.
* Dolomite: Thông thường sử dụng vôi bột để bón cho đất trồng sầu riêng nhưng nếu có điều kiện nên dùng Dolomit thay vôi để vừa cung cấp Canxi vừa cung cấp Magie cho sầu riêng . Đất có độ pH ≤ 5,5 là phải bón vôi, nhưng phải bón nhiều năm liền để nâng độ pH lên chứ không nên bón nhiều 1 lần với số lượng lớn.
Chất vi lượng bón cho sầu riêng thường được phối hợp dưới hình thức một loại phân bón hỗn hợp nào đấy, có thể ở dạng thô sử dụng bón lót hoặc bón thúc, cũng có thể ở dạng dung dịch sử dụng phun vào lá.
2.2. Tính lượng phân bón cho cây sầu riêng
– Giai đọan cây con và những năm đầu cho quả: Bón 5 – 10kg phân gà/gốc (hoặc phân hữu cơ đã hoai mục) kết hợp với phân vô cơ theo công thức N:P:K:Mg = 18:11:5:3 hoặc: 15:15:6:4. Liều lượng và số lần bón trong năm như bảng dưới.
Liều lượng và số lần bón phân theo tuổi cây
- Cây từ 1 – 3 năm tuổi: 0,5kg – 0,6kg Urea Malaysia + 0,6kg – 1kg DAP Plus Humic + TE + 0,2kg – 0,3kg Kali Potash Plus.
- Cây từ 4 – 6 năm tuổi: 1kg – 1,3kg Urea Malaysia + 1,3kg – 1,7kg DAP Plus Humic + TE + 0,7kg – 0,8kg Kali Potash Plus.
- Cây từ 7 – 9 năm tuổi: 1kg – 1,2kg Urea Malaysia + 1,7kg – 2kg DAP Plus Humic + TE + 0,7kg – 0,8kg Kali Potash Plus.
- Cây trên 10 năm tuổi: 1kg – 1,5kg Urea Malaysia + 1,7kg – 2kg DAP Plus Humic + TE + 0,7kg – 0,8kg Kali Potash Plus.
– Giai đoạn cho quả ổn định: Đối với cây có đường kính tán 5 – 6 m đang phát triển bình thường có thể bón như sau:
+ Lần 1: Ngay sau khi thu hoạch xong cần tiến hành tỉa cành, bón phân hữu cơ hoai mục 20 – 30kg/cây kết hợp với phân vô cơ có hàm lượng đạm cao theo công thức N:P:K:Mg (18:11:5:3) với liều lượng 2 – 3kg/cây.
+ Lần 2: Trước ra hoa 30 – 40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao theo công thức N:P:K:Mg (10:50:17:2) với liều lượng 2 – 3kg/cây để giúp quá trình ra hoa dễ dàng.
+ Lần 3: Khi quả sầu riêng lớn bằng quả chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao theo công thức N:P:K:Mg (12:12:17:2) với liều lượng 2 – 3kg/cây.
+ Lần 4: Trước khi quả chín 1 tháng bón 2 – 3 kg phân như NPK (16-16-8) kết hợp với 1 – 1,5kg phân K2SO4 để tăng chất lượng quả.
Có thể sử dụng phân bón Komix chuyên dùng cho cây sầu riêng để bón cho cây với liều lượng như sau :
– Giai đoạn cây con và lúc bắt đầu cho quả: đầu mùa mưa mỗi gốc bón 3- 4 kg phân Lân hữu cơ vi sinh Komix và 20 kg phân Komix chuyên dùng cho Sầu Riêng, với lượng phân chuyên dùng này ta có thể chia làm 4 lần bón trong năm.
– Giai đoạn cây cho quả ổn định: bón hoàn toàn bằng phân Komix chuyên dùng cho sầu riêng, với liều lượng như sau:
+ Sau thu hoạch bón: 5 – 10kg phân Lân hữu cơ vi sinh Komix + 10kg phân chuyên dùng.
+ Trước khi cây ra hoa: bón 10 kg phân Komix chuyên dùng cho cây sầu riêng.
+ Khi quả sầu riêng to bằng quả chôm chôm: bón 10 kg phân Komix chuyên dùng cho cây.
3. Chuẩn bị trước khi bón
3.1. Chuẩn bị phân bón
– Chuẩn bị phân bón chứa đạm: Phân Urea Malaysia (46%) hoặc Sunphat đạm (phân SA: SA Nhật, SA Thái) chứa 20 – 21% nitơ (N)
– Chuẩn bị phân bón chứa lân: DAP Plus Humic + TE hoặc DAP Korea, chứa từ 16% – 18% P2O5 hữu hiệu.
– Chuẩn bị phân bón chứa kali: Kali Israel chứa 61% (K2O).
– Chuẩn bị phân hữu cơ: Phân bò, phân gà, phân heo (lợn), phân hữu cơ vi sinh, phân dơi, phân cá …
3.2. Chuẩn bị dụng cụ để bón phân
– Chuẩn bị dụng cụ, trang thiết bị để bón phân: Cân trọng lượng, xô, chậu, thúng, túi nilon, máy bón phân…
4. Kỹ thuật bón phân cho sầu riêng
4.1. Bón phân giai đoạn kiến thiết cơ bản
Bước 1. Xác định thời điểm bón phân
Căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng của giai đoạn kiến thiết cơ bản để xác định thời điểm bón phân cho phù hợp:
Lượng NPK hoặc hỗn hợp phân được chia đều và bón nhiều lần trong năm (4 – 6 lần). Nếu có điều kiện nên bón hàng tháng sẽ cho kết quả tốt hơn. Có thể sử dụng thêm phân bón lá nếu cây phát triển kém, chú ý phun ở mặt dưới lá.
Phân hữu cơ và vôi: Bón 1 lần vào đầu mùa mưa.
Phân vi lượng: Phun 2 lần trong năm.
Bước 2. Xác định cách bón phân
Bón gốc
– Phân hữu cơ: Bón vào hố trước khi trồng hoặc rải quanh bồn ở phía ngoài rìa tán lá, xới nhẹ và đều.
– Phân vô cơ: Bón tập trung ở tầng đất mặt (cây sầu riêng có bộ rễ ăn nông chỉ từ 0 – 30 cm). Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản bộ rễ cây sầu riêng chưa phát triển mạnh nên bón quanh và cách gốc 20 cm tùy theo độ lớn của cây. Tủ lên một lớp đất mỏng và dùng lá cây, cỏ, tủ lên trên.
Phun trên lá
Thường áp dụng đối với các loại phân vi lượng như Supper Zinc K. Cần lưu ý sử dụng đúng nồng độ như khuyến cáo để tránh gây cháy lá hoặc ngộ độc. Để tăng hiệu quả của phân bón lá nên phun vào buổi sáng và phun mặt dưới của lá.
Bước 3. Tiến hành bón phân cho sầu riêng
– Bón lót: Trộn phân hữu cơ hoặc phân chuồng và vôi đều với đất vào hố/gốc và lấp hố trước khi trồng 15 – 30 ngày.
– Bón thúc: Xới nhẹ đất trong tán, rải đều phân và phủ một lớp đất mỏng lên trên.
Bước 4. Tưới nước sau mỗi lần bón phân
Tưới nước đủ ẩm sau khi bón phân để phân hòa tan cho cây trồng dễ hấp thu nhưng không được tưới quá nhiều sẽ trôi mất phân.
Có thể kết hợp với các biện pháp tủ đất vừa giúp giữ ẩm vừa giảm lượng phân bay hơi.
4.2. Bón phân giai đoạn kinh doanh
Bước 1. Xác định thời điểm bón phân
Căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng của giai đoạn kinh doanh để xác định thời điểm bón phân cho phù hợp:
Lần 1: Ngay sau khi thu hoạch xong cần tiến hành tỉa cành, bón phân gà hoai mục 20 – 30 kg/cây (hoặc phân Humix, Dynamic lifter theo liều lượng khuyến cáo) kết hợp với phân vô cơ có hàm lượng đạm cao theo công thức N: P: K: Mg (18:11: 5: 3 hoặc 15:15: 6: 4) với liều lượng 2 – 3 kg/cây.
Lần 2: Trước ra hoa 30 – 40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao theo công thức N: P: K (10:50:17) với liều lượng 2 – 3kg/cây để giúp quá trình ra hoa dễ dàng.
Lần 3: Khi quả sầu riêng to bằng quả chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao theo công thức N: P: K: Mg (12:12:17:2) với liều lượng 2 – 3 kg/cây.
Lần 4: Trước khi quả chín 01 tháng bón 2 – 3 kg phân NPK như NPK (16:16:8) kết hợp với 1 – 1,5 kg phân KNO3 để tăng chất lượng quả.
Nên chú ý, đây là lần bón phân thứ 4 sau khi thu hoạch vụ trước và cũng là lần bón phân cuối cùng của vụ quả năm này, lần bón phân này không bón trễ hơn 1 tháng trước thu hoạch. Bởi vì bón như vậy, sẽ có nhiều nguy cơ làm giảm phẩm chất quả như cơm quả bị sượng, bị nhão.
Ngoài ra, còn có thể sử dụng phân bón lá có hàm lượng kali cao để góp phần nâng cao năng suất phẩm chất quả. Có thể phun phân bón lá làm 5 lần, mỗi lần cách nhau 1 tuần, bắt đầu từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 9 sau khi đậu quả.
Bước 2. Xác định cách bón phân
Bón gốc
– Phân hữu cơ: Bón rải quanh bồn
ở phía ngoài rìa tán lá, xới nhẹ và đều hoặc đào rãnh rộng 10 – 30 cm, sâu 10
– 20 cm xung quanh đường kính tán, bón xong lấp đất lại.
– Phân vô cơ: Bón giống như thời kỳ kiến thiết cơ bản (xới đất nhẹ, rải phân trong tán, cách gốc 20 cm, lấp đất nhẹ, tưới nước và tủ gốc).
Phun trên lá
Phun theo hướng dẫn trên bao bì theo giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây.
Bước 3. Tiến hành bón phân cho sầu riêng
– Bón lót: Trộn phân hữu cơ hoặc phân chuồng và vôi đều với đất vào rãnh rồi lấp đất lại.
– Bón thúc: Xới nhẹ đất trong tán, rải đều phân và phủ một lớp đất mỏng lên trên.
Bước 4. Tưới nước sau mỗi lần bón phân
Tưới nước đủ ẩm sau khi bón phân để phân hòa tan cho cây trồng dễ hấp thu nhưng không được tưới quá nhiều sẽ trôi mất phân. Có thể kết hợp với các biện pháp tủ đất vừa giúp giữ ẩm vừa giảm lượng phân bay hơi.
Ghi chú:
– Khi bón phân kết hợp tưới nước vừa đủ ẩm: Bón phân xong cần tưới nước ngay và tủ gốc lại giữ ẩm giúp phân tan và giữ trong đất để cây hút từ từ.
– Vào tháng 2 và 3 không nên bón phân vì thời tiết nóng, đất khô, thiếu nước nên hiệu quả phân bón thấp.
– Đối với vùng đất có pH thấp nên dùng DAP bón thay NPK loại 16:16:8.
– Làm sạch cỏ xung quanh gốc sầu riêng; xén và bứng rễ cây trồng xen tạm thời hay bằng cách xén rãnh xung quanh bồn để hạn chế sự cạnh tranh dinh dưỡng với cây sầu riêng.
– Hạn chế sự mất mát phân do bốc hơi, do nước chảy tràn bằng cách làm bồn, tủ gốc bằng lớp lá cây cỏ lên trên xung quanh gốc.
– Tránh bón phân lúc mưa to và lúc không có nước tưới.
– Làm bồn chỉ nên xới xáo vùng từ rìa tán lá ra phía ngoài, xới xáo nhẹ vùng bên trong tán lá vì xới xáo mạnh sẽ làm tổn thương rễ sầu riêng.
– Không sử dụng đơn độc phân vô cơ mà cần bón phân hữu cơ hàng năm.
5. Bón phân cho sầu riêng theo nguyên tắc 5 đúng
5.1. Bón đúng loại phân
– Cây sầu riêng yêu cầu phân gì thì bón phân đó. Phân bón có nhiều loại, nhưng có 3 loại chính là đạm – N, lân – P, kali – K. Lưu huỳnh (S) cũng rất cần nhưng với lượng ít hơn. Mỗi loại có chức năng riêng. Bón phân không đúng yêu cầu, không phát huy được hiệu quả còn gây hại cho cây.
– Bón đúng không những đáp ứng được yêu cầu của cây mà còn giữ được ổn định môi trường của đất.
Ở đất chua tuyệt đối không bón những loại phân có tính axit cao quá ngưỡng và trên nền đất kiềm không bón các loại phân có tính kiềm cao quá ngưỡng.
5.2. Bón đúng nhu cầu sinh lý của cây sầu riêng
– Nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển. Ở giai đoạn sinh trưởng cần đạm hơn kali; ở thời kỳ phát triển quả lại cần kali hơn đạm. Bón đúng loại phân mà cây cần mới phát huy hiệu quả.
– Trong suốt thời kỳ sống, cây sầu riêng luôn luôn có nhu cầu các chất dinh dưỡng cho sinh trưởng và phát triển, vì vậy khi bón phân nên chia ra bón nhiều lần theo quy trình và bón vào lúc cây phát triển mạnh, không bón một lúc quá nhiều. Việc bón quá nhiều phân một lúc sẽ gây ra thừa lãng phí, ô nhiễm môi trường, cây sử dụng không hết sẽ làm cho cây biến dạng dễ nhiễm bệnh, năng suất chất lượng nông sản thấp.
– Bón phân có 3 thời kỳ: bón lót trước khi trồng (hay bón hồi phục sau khi cây thu hoạch vụ trước), bón thúc (nhằm thúc đẩy quá trình sinh trưởng của cây, tạo chồi lá mới) và bón rước hoa, nuôi hoa, bón nuôi quả…
5.3. Bón đúng điều kiện đất đai
Bón phân là hình thức bổ sung vào đất chất dinh dưỡng cho cây sầu riêng. Ngoài ra, còn có các vi sinh vật đất phân hủy các chất hữu cơ sẵn có hoặc cố định N từ không khí vào đất, do vậy bón phân còn có tác dụng kích thích hoạt động của tập đoàn vi sinh vật đất. Nhờ đó cây được tăng cường cung cấp lượng các chất dinh dưỡng cân đối hơn. Bón phân không những cần cho cây sầu riêng mà còn giúp cho vi sinh vật đất phát triển hữu hiệu hơn.
5.4. Bón đúng lúc
Mùa vụ, nhiệt độ và thời tiết ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của phân bón. Mưa làm rửa trôi, trực di phân bón (phân chảy xuống tầng đất dưới), nắng khô làm phân bón khó tan và rất dễ bốc hơi, cây không còn nhiều dinh dưỡng để phát triển, đôi khi còn gây cháy lá, hư hoa, hư quả… Vì vậy, nên bón phân cho cây sầu riêng lúc sáng sớm, chiều mát tránh bón vào buổi trưa, ngày mưa lớn…
Bón đúng loại phân, bón đúng thời cơ, bón đúng đối tượng làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với hạn, thời tiết bất thường của môi trường và với sâu bệnh gây hại (ví dụ phân kali).
Bón phân không phải lúc nào cũng để cung cấp dinh dưỡng thúc đẩy cây sầu riêng phát triển mà còn có trường hợp phải dùng phân để tác động hãm bớt tốc độ sinh trưởng nhằm tăng tính chịu đựng của cây trước các yếu tố xấu phát sinh.
5.5. Bón đúng phương pháp
Có 2 loại phân bón: Phân bón gốc và phân bón lá. Tùy nhu cầu phát triển của mỗi giai đoạn mà có phương pháp bón thích hợp. Với phân bón gốc thì bón vào hố, rãnh theo vành tán lá hoặc rải đều trên mặt đất. Với phân bón lá thì phun đều trên lá, nếu ướt được cả 2 mặt lá thì càng tốt.
Nguồn : phân bón VINACAM
sưu Tầm và chỉnh sửa bởi Trùn quế Phước Hiệp
Th1005
ĐBSCL: Quy trình sản xuất phân hữu cơ từ rơm và ứng dụng vào thực tế
CẦN THƠ Ở ĐBSCL việc xử lý rơm rạ tại đồng ruộng bằng chế phẩm sinh học dùng làm phân bón hữu cơ đang mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Mô hình ủ phân hữu cơ tại TP Cần Thơ. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Tận dụng nguồn phế, phụ phẩm trong nông nghiệp
Mỗi năm vùng ĐBSCL sản xuất được khoảng 24 triệu tấn lúa thì cũng có chừng ấy tấn rơm rạ thải ra đồng ruộng. Tận dụng nguồn phế, phụ phẩm trong nông nghiệp làm phân hữu cơ vừa góp phần làm sạch đồng ruộng, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, vừa có nguồn phân hữu cơ bón cho đất. Đó là những lợi ích trước mắt và lâu dài cho nông dân khi thực hành nông nghiệp tuần hoàn, nguồn nguyên liệu này cần được xem là đầu vào quan trọng, kéo dài chuỗi giá trị gia tăng trong nông nghiệp.
Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt: Trong 3 năm gần đây theo tổng kết của Cục Trồng trọt, nếu để lại toàn bộ rơm rạ trên ruộng, kết hợp với mật độ sạ thưa, chúng ta có thể giảm 50% lượng phân bón hoặc 50% thuốc BVTV. Thậm chí nhiều hộ không phải phun thuốc BVTV vì không còn sâu bệnh trên đồng ruộng. Mô hình này đã áp dụng ở An Giang với diện tích 50 ha, Thái Nguyên 140 ha, Thanh Hóa hơn 100 ha và được đông đảo người dân ủng hộ, đánh giá cao.
Tại một số địa phương, mô hình xử lý rơm rạ tại đồng ruộng bằng chế phẩm sinh học để dùng làm phân bón hữu cơ thay vì mua phân NPK. Người dân giữ lại rơm rạ không đốt, dùng sản phẩm sinh học xử lý, thậm chí không cần thời gian cách ly mà vẫn ngăn chặn được hiện tượng ngộ độc hữu cơ do rơm rạ gây ra, giảm được lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật cho cây lúa.
Người dân không đốt đồng giữ lại rơm rạ dùng sản phẩm sinh học xử lý làm phân hữu cơ. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Hiện có một số nghiên cứu chưa được công bố như tận dụng trái cây thải loại làm phân bón. Một số tỉnh có cửa khẩu như An Giang có số lượng xoài thải loại rất lớn tại các chợ cửa khẩu, gây ô nhiễm môi trường đang được nghiên cứu, chế biến thành phân bón phục vụ cho chính địa phương. Tuy nhiên, chi phí để xử lý các phế phụ phẩm trong nông nghiệp hiện nay vẫn còn lớn so với thu nhập của nông dân, dẫn tới thực trạng mất đi lượng hữu cơ và dinh dưỡng cây trồng khổng lồ. Từ đó gây ô nhiễm nguồn nước và không khí, còn đất trồng ngày càng bị thiếu hụt hữu cơ, thoái hóa trầm trọng.
Ở ĐBSCL việc xử lý rơm rạ tại đồng ruộng bằng chế phẩm sinh học để dùng làm phân bón hữu cơ thay vì mua phân NPK đang mang lại hiệu quả cao. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Tập huấn quy trình sản xuất phân hữu cơ từ rơm
Tại phường Tân Hưng, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ, Chi cục Trồng trọt và BVTV TP Cần Thơ vừa phối hợp với các đơn vị hữu quan tổ chức tập huấn quy trình sản xuất phân hữu cơ từ rơm.
Bà Phạm Thị Minh Hiếu, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV TP Cần Thơ cho biết: Rơm rạ của bà con nông dân được gom từ đồng ruộng, hoặc phụ phẩm rơm rạ (sau khi trồng nấm) đều có thể tận dụng làm phân hữu cơ. Tại buổi tập huấn, bà con nông dân được các giảng viên đến từ Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế IRRI, Trường Đại học nông Lâm TP. HCM và Trường Đại học Tiền Giang hướng dẫn quy trình thực hiện ủ phân hữu cơ từ rơm cùng với phân bò và hướng dẫn sử dụng máy đảo trộn luống ủ.
Nói về cách ủ phân hữu cơ bà Phạm Thị Minh Hiếu đưa ra kỹ thuật cụ thể đề hướng dẫn bà con nông dân ủ phân để làm phân hữu cơ phục vụ lại cho cây trồng. Trước nhất việc phối hợp ủ phân rơm và phân bò, tỷ lệ tương ứng giữa 2 loại nguyên liệu này là 6/4, tuy nhiên còn phụ thuộc vào ẩm độ nguyên liệu.
Trong thực tế, luống ủ có thể thêm đất (giàu N), khi đó thành phân trong luống ủ gồm 60% rơm, 30% phân bò, 10% đất, được tính với cùng ẩm độ. Kích thước mặt cắt luống ủ phụ thuộc vào kích thước và năng suất của máy trộn. Đối với máy trộn liên hợp với máy kéo 30 – 35 HP, mặt cắt luống ủ với bề rộng chân luống 1,2 m, chiều cao 0,7m. Đối với rơm sau trồng nấm (50 – 60%) và phân bò (60 – 70%), tỷ lệ phối trộn tương ứng là 1,2:1, với C/N = 26,1.
Trong 3 năm gần đây, theo tổng kết của Cục Trồng trọt nếu để lại toàn bộ rơm rạ trên ruộng, kết hợp với mật độ sạ thưa có thể giảm 50% lượng phân bón hoặc 50% thuốc BVTV. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Trong trường hợp sử dụng rơm khô 14% và phân bò khô 30% thì tỷ lệ tương ứng là 1:1, với C/N = 29.4. Trường hợp ủ rơm sau trồng nấm với ẩm độ 60 – 70 % và phân bò khô 10% thì tỷ lệ phối trộn theo khối lượng tương ứng là 5,6:1. Lượng men vi sinh là 5 lít, được hòa trộn với nước và phun vào luống ủ.
Do nguyên liệu rơm với ẩm độ cao hơn yêu cầu nên không phun thêm nước quá trình đảo trộn. Còn đối với trường hợp nguyên liệu là rơm khô và đất ruộng với tỷ lệ 7:3, quy về cùng ẩm độ 30%, 0,5% URE, 1% P, 0,3% K và 0,2% mật rỉ đường, 1% men vi sinh dạng nước và 1% men vi sinh dạng bột.
Sau khi làm mát, khoảng 45 ngày sau đảo trộn lần đầu, thành phẩm là phân hữu cơ sẵn sàng cho sử dụng. Sản phẩm với ẩm độ 30 – 40%, có thể được phân loại qua sàng tạp chất lớn. Phân hữu cơ trong giai đoạn thông thoáng và làm mát. Sản phẩm phân hữu cơ từ rơm chất lượng thành phẩm phân hữu cơ được đánh giá qua các chỉ tiêu về các thành phần C, N, P, K, tỷ lệ C/N, độ pH, độ ẩm.
Từ các kết quả thí nghiệm đối với nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau, tỷ lệ C/N của thành phẩm 13 – 14.5, độ pH: 6.8 – 7.2, độ ẩm 35 – 40%, sau đó được trải đều trong nhà để giảm ẩm độ đến 30% trước khi phối trộn làm giá thể hoặc phơi nắng đến ẩm độ 14% trước khi qua quá trình ép viên nén.
Th1014