Tin tức
Sầu riêng nghịch vụ hiệu quả gấp đôi
nguồn tin Báo nông nghiệp
TIỀN GIANG Sầu riêng nghịch vụ có giá bán cao hơn từ 20 – 40 nghìn đồng so với chính vụ, cho hiệu quả kinh tế tăng gấp đôi so với chính vụ.
Sầu riêng nghịch vụ hiệu quả cao hơn từ 1,7 lần
Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, tỉnh hiện có khoảng 17.000ha cây sầu riêng. Trong đó khoảng 10.000ha cây đang trong thời kỳ kinh doanh, năng suất bình quân 28 tấn/ha. Thời gian qua, nông dân đã vận dụng kỹ thuật canh tác sầu riêng nghịch vụ nhằm rải vụ, mang lại hiệu quả rất cao.
Từ năm 2018 đến nay, trung bình diện tích rải vụ khoảng 6.787ha/năm, năng suất đạt từ 18 – 20 tấn/ha. Chênh lệch năng suất giữa xử lý rải vụ so với vụ thuận từ 0,5 – 2 tấn/ha; giá bán dao động từ 60.000 – 95.000 đồng/kg, chênh lệch giá bán tăng từ 20.000 – 40.000 đồng/kg. Sản xuất rải vụ thu hoạch nghịch vụ cho hiệu quả kinh tế cao hơn chính vụ trung bình từ 1,7 – 2,3 lần.
Hơn một tháng qua, giá trái sầu riêng nghịch vụ tại Tiền Giang ổn định từ 70.000 đồng/kg trở lên. Ảnh: Trọng Linh.
Hơn một tháng nay, trái sầu riêng nghịch vụ được các thương lái thu mua xô tại vườn với giá cao và ổn định, từ 70.000 đồng đến hơn 80.000 đồng/kg. Với mức giá ổn định như hiện nay, mỗi ha cây sầu riêng, nhà vườn có thu nhập khoảng 1 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, sản lượng thấp, nhất là sầu riêng đạt chuẩn để xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc vẫn không đủ số lượng để cung ứng cho đối tác. Bởi để trái sầu riêng được chấp nhận xuất chính ngạch sang thị trường Trung Quốc cần có mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói. Thời điểm này, tỉnh Tiền Giang mới có 2 mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích gần 100ha. Cơ quan chức năng cho biết đang tiếp tục nộp hồ sơ, chờ thẩm định trong những ngày tới 21 hồ sơ với diện tích khoảng 1.100ha, ước sản khoảng 30.000 tấn trái.
Ông Dương Trần Trọng Quang, Chủ tịch UBND xã Hội Xuân, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, địa phương có 600ha cây sầu riêng chuyên canh chia sẻ: Thời điểm này, đầu ra của trái sầu riêng rất ổn định, cung không đủ cầu. Ông Quang cũng cho biết hiện chỉ mới có khoảng ¼ diện tích sầu riêng nông dân xử lý bắt đầu có trái. Đến cuối tháng 11 (âm lịch), sầu riêng mới chín rộ, bà con rất phấn khởi.
Áp dụng đồng bộ kỹ thuật theo hướng hữu cơ
Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, công tác chuyển giao khoa học, kỹ thuật cho nông dân ứng dụng vào sản xuất là một trong những giải pháp làm giảm chi phí đầu tư, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm sầu riêng. Ngành NN-PTNT đã tổ chức nhiều lớp hướng dẫn cho nông dân về kỹ thuật trồng sầu riêng theo hướng an toàn, với các kỹ thuật phổ biến như ủ phân hữu cơ để bón sầu riêng, tạo tán, tỉa cành, xử lý ra hoa trái vụ, phủ bạt trong sản xuất, tưới phun sương.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các chế phẩm sinh học để xử lý phân chuồng, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, nấm Trichoderma sp. và các phế phụ phẩm trong sản xuất sầu riêng là những tiến bộ giúp bà con kiểm soát các loại nấm hại rễ, góp phần tạo nên cây sầu riêng khỏe, đạt năng suất cao và tiết kiệm chi phí. Đến nay, diện tích sử dụng phân bón hữu cơ đạt trên 90% diện tích; sử dụng nấm Trichoderma sp. chiếm gần 66%; sử dụng thuốc BVTV sinh học chiếm trên 68% diện tích sầu riêng trong vùng Đề án phát triển cây sầu riêng của tỉnh.
Ngoài ra, cơ giới hóa trong tưới nước được ứng dụng vào sản xuất sầu riêng ngày càng tăng, giúp tiết kiệm chi phí, gia tăng lợi nhuận cho nông dân. Đến cuối năm 2021, ước tính có trên 96% diện tích áp dụng cơ giới hóa trong tưới nước, tăng gần 26% so với năm 2017.
Thời gian tới, nhằm nâng cao giá trị trái sầu riêng, Sở NN-PTNT Tiền Giang cho biết: Tỉnh đã và đang triển khai dự án “Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sầu riêng tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030”. Qua đó hình thành chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ, áp dụng khoa học công nghệ, gắn kết sản xuất và kinh doanh, ứng dụng công nghệ xử lý sau thu hoạch, chế biến sâu và giảm tổn thất sau thu hoạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Th1114
Hành trình ‘cam Sài Gòn’ bén duyên đất Nam Đông
nguồn tin: Báo nông nghiệp
THỪA THIÊN – HUẾ Bây giờ, ‘cam Sài Gòn’ đã trở thành giống cây trồng chủ lực ở huyện miền núi Nam Đông. Nhưng ít ai biết, để có thành quả hôm nay là cả một chặng đường dài…
Cách đây hơn 40 năm, vùng núi rừng Nam Đông (Thừa Thiên – Huế) là điểm dừng chân của những hộ dân thuộc diện khó khăn sinh sống ở vùng ven đầm phá Cầu Hai (huyện Phú Lộc) và TP Huế di dân đến lập vùng kinh tế mới.
Tại huyện miền núi Nam Đông, vào thời điểm đó, những người đi xây dựng kinh tế mới không chỉ vượt qua khó khăn, phát triển kinh tế gia đình mà còn cùng với địa phương góp phần thay đổi diện mạo vùng đất này, trong số đó có gia đình ông Phan Văn Lâm trú ở xã Hương Xuân, huyện Nam Đông.
Năm nay, người trồng “cam Sài Gòn” ở huyện Nam Đông có một vụ mùa bội thu. Ảnh: Võ Dũng.
Đứng bên vườn “cam Sài Gòn” tiền tỷ rộng 4ha đang vào mùa thu hoạch, ông Lâm tự hào khoe đó là thành quả tích lũy suốt hơn 30 năm quyết tâm làm kinh tế mới của gia đình. Nhiều năm tích góp, đến nay, ông Lâm đã giải quyết được hầu hết các vấn đề kinh tế của gia đình, con cái được học hành, có công việc ổn định và đều có nhà, đất sản xuất. Điều mà theo nhiều người nếu không quyết tâm bám trụ làm kinh tế thì không thể có được.
Ông Lâm chia sẻ, lúc mới cùng gia đình lên định cư làm kinh tế mới ở Nam Đông muỗi nhiều vô kể. Nước cũng không có uống, gia đình ông phải đi tìm suối rất xa để lấy nước về sử dụng và phải dùng tiết kiệm. Đời sống khó khăn và sốt rét rừng khiến nhiều người chịu không nổi phải bỏ về quê. Tuy nhiên, cả nhà ông Lâm động viên nhau, cố gắng vượt khó, bám trụ lại để xây dựng đời sống mới.
Ông Lâm kể, nhiều người đã thắc mắc với ông tại sao cam trồng trên vùng đất Nam Đông lại có tên riêng “cam Sài Gòn” mà không phải tên khác. Đó là vào năm 1980, khi mới lên vùng đất Nam Đông lập nghiệp, bà con lúc đầu chỉ biết trồng mít, dứa, cây cau… Những năm sau, nhà nào có người vào Nam làm ăn cứ đến mỗi dịp lễ Tết về thăm quê đều đem một vài cây cam về tặng.
Vào vụ thu hoạch, người đi hái cam thuê cho các chủ vườn ở huyện Nam Đông có thu nhập từ 250.000 đến 300.000 nghìn đồng/ngày công. Ảnh: Võ Dũng.
Nhận thấy cây cam dễ trồng, thích hợp thổ dưỡng, lại cho quả ngọt và có mùi thơm rất đặc biệt nên người dân ở địa phương thay nhau trồng trên rẫy, vườn, rồi chiết cành, nhân giống, sau đó cam được trồng khắp tất cả các xã trong huyện miền núi Nam Đông. Cũng từ đó, bà con gọi giống cam đó là “cam Sài Gòn” cho đến tận hôm nay.
“Lúc đầu nhiều người chưa quen, bây giờ nhà vườn nào trồng cam ở huyện Nam Đông điều gọi giống cam địa phương là “cam Sài Gòn” để phân biệt với các loại cam khác có nguồn gốc từ xã Đoài (cam Vinh) hay cam Cao Phong”, ông Phan Văn Lâm giải thích cặn kẽ.
Còn với ông Phan Thế Xê, 61 tuổi, trú thôn 9 xã Hương Hòa (huyện Nam Đông), chính nhờ giữ giống “cam Sài Gòn” mà đến nay ông được các chủ vườn đặt cho biệt danh “tỷ phú cam”. Hơn 30 năm, ký ức của những ngày đầu theo gia đình lên vùng đất mới lập nghiệp vẫn còn vẹn nguyên.
5 năm đầu khi bắt tay vào khai hoang là quãng thời gian khó khăn bộn bề đối với gia đình ông Xê. Giải quyết xong vấn đề sốt rét thì việc trồng cây lương thực ngắn ngày không còn cho năng suất. Cái đói, nghèo luôn hiện hữu, bệnh tật rình rập, nhiều lúc ông muốn buông xuôi để trở về quê cũ. Tuy nhiên, sự động viên, chia sẻ của những người cùng chí hướng và với quyết tâm chiến thắng đói nghèo, đến nay, gia đình ông Xê đã có hơn 7ha cam, trong đó chủ yếu vẫn là giống “cam Sài Gòn” đặc trưng.
“Cam Sài Gòn” đã giúp nhiều người dân Thừa Thiên – Huế đổi đời trên quê hương mới. Ảnh: Võ Dũng.
Ông Phan Thế Xê nhớ lại: Hồi đó bà con trồng theo phong trào. Ông cũng vậy, cho nên năm 2005, ông bắt đầu trồng giống cam địa phương mà người dân ở đây vẫn quen gọi là cam Sài Gòn. Vụ đầu, ông trồng 300 gốc, vụ bói thu được 25 triệu đồng. Thời điểm đó, với vợ chồng ông 25 triệu đồng là rất lớn, có ngủ mơ cũng không thấy được.
Thắng lợi, ông mạnh dạn đầu tư thêm. Đến mùa “cam Sài Gòn” đơm hoa, cả gia đình mừng, hoa cam trắng cây, tưởng sẽ được mùa lớn, nhưng chẳng may năm đó thời tiết không thuận, trời mưa to, cam hỏng hết, nhà ông chặt bỏ cây, ôm một món nợ. Nhiều anh em kỹ sư thấy ông buồn, mới dành thời gian để chia sẻ. Nghe chuyện của ông, anh em đã tìm hiểu, chỉ nguyên nhân của sự thất bại. Không ngại khó, ông chuyển sang trồng cam trái vụ. Dành hết vốn liếng, cộng thêm số tiền vay mượn từ người thân, vợ chồng ông mua 4ha đất đồi để trồng thử. Chưa yên tâm, ông mua hẳn một dàn máy vi tính, nối mạng, mày mò học thêm kỹ thuật chăm sóc… Sau 3 năm “ăn cam, ngủ cam”, ông đã bán được lứa cam bói đầu tiên. Năm tiếp theo, thương lái đã bắt đầu tìm đến vườn.
Số tiền bán cam được ông quay vòng, tái đầu tư nên đến nay, gia đình ông đã có hơn 1.000 gốc cam. Vụ cam đầu tiên năm 2015, ông thu hoạch được 48 tấn, trung bình 1,2 tạ/cây, giá bán từ 18 đến 25 nghìn đồng/kg, doanh thu đạt khoảng một tỷ đồng.
Th1109
‘Điểm danh’ 7 loại cây ăn trái chủ lực trong kế hoạch phát triển ngắn hạn
Nguồn tin : Báo nông nghiệp
Tỉnh Vĩnh Long “điểm danh” 7 loại cây ăn trái chủ lực sẽ được chú trọng phát triển, xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc trong thời gian tới.
Mới đây, Bộ NN-PTNT đã ban hành Quyết định 4085/QĐ-BNN-TT về việc phê duyệt Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030. Theo đề án này, tỉnh Vĩnh Long được xác định là một trong những địa phương phát triển 7 loại cây ăn trái chủ lực, gồm: Xoài, nhãn, cam, bưởi, chôm chôm, sầu riêng, mít, để cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tỉnh Vĩnh Long đã xây dựng thành công thương hiệu riêng “Bưởi năm roi Mỹ Hòa”. Ảnh: Kim Anh.
Theo Sở NN-PTNT tỉnh Vĩnh Long, toàn tỉnh hiện có trên 62.000 ha diện tích trồng cây ăn trái, so với cách đây 5 năm diện tích này tăng lên đáng kể. Trong đó, mặt hàng bưởi năm roi, sầu riêng đang tạo nên thế mạnh xuất khẩu tương đối tốt cho tỉnh. Để triển khai có hiệu quả Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030, UBND tỉnh Vĩnh Long đã giao Sở NN-PTNT tỉnh phối hợp với các địa phương triển khai thực hiện.
Đối với bưởi năm roi của tỉnh Vĩnh Long đã quá nổi tiếng, được trồng nhiều tại các vùng ven sông Hậu như: TX Bình Minh, huyện Tam Bình, Trà Ôn và Bình Tân. Hiện nay, mặt hàng này đã xây dựng được mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói và có thương hiệu riêng “Bưởi năm roi Mỹ Hòa”. Bên cạnh đó, địa phương có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh làm cầu nối để trực tiếp đưa mặt hàng bưởi năm roi tỉnh Vĩnh Long xuất khẩu đến nhiều quốc gia.
Tuy nhiên, do thời gian canh tác lâu năm, các giống bưởi có phần suy yếu, gây ảnh hưởng đến chất lượng trái bưởi. Chi Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Long hiện đang thực hiện công tác cải tạo, phục tráng lại giống bưởi. Đồng thời, đơn vị cũng tập trung cải tạo, nâng cao độ phì nhiêu, khử các mầm bệnh trong đất. Cũng như thực hiện một số mô hình cải thiện chất lượng đất trồng thông qua việc sử dụng phân hữu cơ, nấm đối kháng để sử dụng trong đất.
Với cây sầu riêng, ngành nông nghiệp tỉnh xác định, công tác xây dựng mã số vùng trồng đáp ứng điều kiện xuất khẩu chính ngạch là việc cần thiết. Ông Nguyễn Vĩnh Phúc, Chi Cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Long cho hay, kể từ thời điểm sầu riêng trở thành mặt hàng xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc, đã có nhiều doanh nghiệp tìm đến tỉnh Vĩnh Long để đặt vấn đề liên kết tiêu thụ, hỗ trợ xây dựng mã số vùng trồng.
Ông Phúc thông tin thêm, trong giữa tháng 11, sẽ có một cuộc hội thảo triển khai quy trình xây dựng mã số vùng trồng sầu riêng. Thông qua đó, các doanh nghiệp sẽ trực tiếp trao đổi với nông dân về việc tạo vùng nguyên liệu chính trong mã số vùng trồng, tập trung chủ yếu ở các huyện: Vũng Liêm, Mang Thít, Trà Ôn, Tam Bình và Bình Tân.
Cây cam cũng vươn lên trở thành mặt hàng cây ăn trái thế mạnh của tỉnh Vĩnh Long, với tổng diện tích canh tác trên 10.000 ha. Ảnh: Kim Anh.
Thời gian gần đây, cây cam cũng vươn lên trở thành mặt hàng cây ăn trái thế mạnh của tỉnh Vĩnh Long, với tổng diện tích canh tác trên 10.000 ha. Ông Phúc đánh giá, đây là cây trồng có tốc độ tăng cao nhất so với các loại cây trồng khác của tỉnh. Cùng với đó thì năng suất và sản lượng cũng tăng mạnh, phát triển nhiều nhất ở các huyện Trà Ôn, Tam Bình và Vũng Liêm. Để cây cam mang lại lợi nhuận bền cho bà con nông dân, ông Phúc cho hay, ngành nông nghiệp tỉnh hiện đang triển khai thí điểm một số mô hình chuyển giao sản xuất theo hướng GAP, hữu cơ, với sự đồng hành của doanh nghiệp, nông dân đã có khuynh hướng trồng cam thưa, đảm bảo tăng thời gian khai thác của cây cam.
Sau thời gian cây khoai lang gặp khó khăn về tiêu thụ, một số nông dân trên địa bàn huyện Bình Tân đã chuyển sang phát triển cây mít. Để mặt hàng này thoát ra khỏi tình trạng mất giá, khó khăn đầu ra, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh đang xây dựng kế hoạch tạo vùng nguyên liệu chính thống, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng, cũng như nghiên cứu một số giải pháp phòng trị bệnh xơ đen của cây mít để triển khai cho bà con nông dân.
Ngành nông nghiệp tỉnh sẽ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ và doanh nghiệp triển khai quản lý truy xuất nguồn gốc và tiêu thụ cây ăn trái chủ lực của tỉnh. Ảnh: Kim Anh.
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, hiện đang có doanh nghiệp Đông Phát Food hoạt động trong lĩnh vực chế biến mít sấy. Do đó, ngoài việc xuất khẩu tươi phục vụ cho thị trường Trung Quốc, trái mít cũng như các sản phẩm phụ của cây mít có thể tận dụng cung cấp cho nhà máy chế biến. Đặc biệt, khoảng 50% sản lượng mít trên địa bàn tỉnh đều được doanh nghiệp này thu mua.
“Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp tỉnh sẽ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ triển khai quản lý truy xuất nguồn gốc cũng như phối hợp với các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ có mã số vùng trồng. Chủ trương của ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long là mã số vùng trồng là tài sản của người dân. Vì vậy, bà con phải sử dụng và bảo vệ tài sản của mình. Qua đó, người dân sẽ ý thức hơn trong việc xây dựng mã số vùng trồng để đáp ứng thị trường, tránh đi những rủi ro trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm”, ông Nguyễn Vĩnh Phúc chia sẻ.
Tuy chưa phải là cây trồng chủ lực, thế nhưng cây dứa hiện đang manh nha phát triển ở vùng đất phèn huyện Trà Ôn với diện tích khoảng 5ha, làm nguyên liệu cho nhà máy chế biến xuất khẩu. Ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long đang xem xét đưa cây dứa vào định hướng phát triển vùng cây cây ăn trái, đăng ký nhãn hiệu và xây dựng thương hiệu cho cây dứa Bưng Sẩm ở xã Hòa Bình, huyện Trà Ôn.
Th1108
Bỏ tiêu trồng cam theo hướng hữu cơ, thắng lớn
nguồn tin Báo nông nghiệp
QUẢNG TRỊ Chuyển đất trồng tiêu bị dịch bệnh sang trồng cam, có sự hỗ trợ kỹ thuật của khuyến nông theo quy trình hữu cơ, tưới nhỏ giọt, vườn cam đã cho quả sai trĩu.
Cam là một trong những cây ăn quả có múi mang lại giá trị kinh tế cao và đang dần khẳng định vị thế trong sản xuất nông nghiệp ở Quảng Trị. Sau gần 4 năm triển khai, mô hình trồng thâm canh cam đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm do Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị triển khai được đánh giá là hướng đi mới, đầy triển vọng.
Ấn tượng đầu tiên khi ghé thăm vườn cam của gia đình chị Hoàng Thị Mỹ Châu ở thôn Cam Phú, xã Cam Thành, huyện Cam Lộ là một màu xanh tươi mát, với những cây cam trĩu quả, mọng nước đang vào vụ thu hoạch đầu tiên.
Vườn cam của gia đình chị Châu cho quả đồng đều, sai trĩu ngay vụ đầu thu hoạch. Ảnh: Việt Toàn.
Dẫn chúng tôi tham quan vườn, chị Châu cho biết, đây là mô hình cam trồng mới áp dụng tưới nhỏ giọt. Các giống cam đưa vào mô hình là cam Xã Đoài lòng vàng và cam V2 chín muộn với quy mô 1,2ha. Đây là mô hình gia đình chị được Trung tâm Khuyến nông tỉnh hỗ trợ cách đây 4 năm trước.
Vùng đất này trước đây gia đình chị trồng tiêu nhưng do lâu năm, giống nhiễm bệnh, thoái hóa. Muốn chuyển hướng để cải tạo vườn tạp, chọn cây trồng thích hợp hơn, năm 2018, gia đình chị là một trong các hộ dân được Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị cho đi tham quan học tập kinh nghiệm trồng cam tại tỉnh Nghệ An.
Sau khi tham quan tìm hiểu, thấy cam là cây triển vọng và có khả năng phù hợp với vùng đất của gia đình, được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông tỉnh, anh chị đã tham gia vào mô hình trồng cam thuộc chương trình Khuyến nông Trung ương, nằm trong chuỗi dự án “Xây dựng mô hình và chuyển giao quy trình sản xuất cam, bưởi an toàn gắn với chuỗi giá trị tại các tỉnh miền Trung”.
Theo đó, Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị đã triển khai nhiều lớp tập huấn cho hộ tham gia thực hiện mô hình và các hộ dân trong vùng về kỹ thuật trồng, thâm canh cam đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Hướng dẫn cho bà con về kỹ thuật trồng mới, chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh an toàn sinh học trên cây cam; hỗ trợ hộ tham gia mô hình 100% giống, 50% vật tư gồm phân bón và thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học. Cử cán bộ chỉ đạo kỹ thuật hướng dẫn các hộ tham gia mô hình thực hiện từng khâu trong quá trình triển khai mô hình.
Với sự hỗ trợ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị, vườn cam rất sạch bệnh. Ảnh: Việt Toàn.
Chị Châu vui mừng chia sẻ: Tôi tham gia mô hình của Trung tâm Khuyến nông tỉnh từ năm 2018, gia đình được hỗ trợ cây giống, phân bón hữu cơ và được cán bộ hướng dẫn về quy trình kỹ thuật chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh cho cây cam. Để phòng ngừa sâu bệnh và đảm bào chất lượng sản phẩm, gia đình chị không sử dụng thuốc BVTV hóa học, không sử dụng phân bón hóa học mà thay vào đó là phân bón hữu cơ và thuốc BVTV sinh học. Mặc dù có tốn kém hơn nhưng lại rất an toàn cho người chăm sóc, cho cây cam và sản phẩm cam.
Trong quá trình triển khai mô hình, gia đình anh chị đã áp dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học vào vườn cam, áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt để xây dựng vườn cam sạch bệnh, nâng cao năng suất, chất lượng, góp phần phát triển cây cam theo hướng an toàn, bền vững.
Bên cạnh việc chọn giống, phân bón, nước tưới đặc biệt quan trọng, trong khi đó với địa hình đồi dốc, diện tích rộng thì cung cấp lượng nước đủ cho cây cam sinh trưởng và phát triển là bài toán khó, đặc biệt là trong những giai đoạn quan trọng như ra hoa, đậu quả, nuôi quả tình trạng thiếu nước sẽ ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng quả.
Được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông tỉnh, gia đình chị đã lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt quanh gốc cho toàn bộ diện tích cây trồng của trang trại. Với hệ thống nước tưới tự động, không những giúp vườn cam đủ lượng nước cần thiết mà chi phí nhân lực cũng giảm đi đáng kể.
Theo ông Trần Cẩn, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị, việc triển khai mô hình trồng cam theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm sẽ nâng cao nhận thức cho người dân trong việc trồng thâm canh cây cam nói riêng và cây có múi nói chung, giúp người dân nắm được các quy trình trồng, chăm sóc cam theo hướng hữu cơ, an toàn sinh học.
Hiện nay, sau 4 năm triển khai, vườn cam của gia đình chị Hoàng Thị Mỹ Châu đã cho thu hoạch lứa đầu, quả to ngọt, mọng nước. Vụ cam đầu tiên này, chị ước tính sản lượng cam đạt trên 5 tấn, với giá bán tại vườn 20.000đ/kg, thu về khoảng 100 triệu đồng. Nhận thấy cây cam phát triển tốt, cho chất lượng quả cao và giá trị kinh tế vượt trội so với các loại cây trồng khác, nhiều hộ dân trong vùng đã tìm đến mô hình của chị để học tập kinh nghiệm, chị Châu đều tận tình chia sẻ.
Th1108
Nở rộ phong trào trồng lúa lưu gốc
nguồn tin Báo nông nghiệp
Sau hơn 9.000 năm, cây lúa nước hàng năm giờ đây đã trở thành một loại cây lưu niên, sống lâu năm như là một tiến bộ mới nhằm tiết giảm chi phí sản xuất…
Trồng lúa lưu gốc (lúa chét) giảm tần suất làm đất có thể cho phép phục hồi cấu trúc đất, đồng thời cải thiện khả năng giữ nước, cộng đồng vi sinh vật và bảo vệ môi trường. Ảnh: The Land Institute
Điều này có nghĩa là nông dân có thể chỉ trồng một lần và thu hoạch đến tám vụ mà vẫn đảm bảo năng suất, một bước thay đổi quan trọng trong hệ thống nông nghiệp. Theo đó, từ khóa “ratooning”- hay còn gọi là sản xuất lúa chét, tức “công nghệ” trồng lúa nước bằng cách cắt phần lớn phần trên mặt đất của cây lúa nhưng vẫn để lại bộ gốc và rễ cho các vụ sau đang trở thành xu thế khá “hot” ở Trung Quốc và Uganda.
Một báo cáo mới trên tạp chí Nature Sustainability đã chia sẻ các kết quả nông học, kinh tế và môi trường của việc trồng lúa lưu gốc (lưu niên) trên khắp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hiện xu thế trồng lúa này đang làm thay đổi cuộc sống của hơn 55.752 hộ nông dân sản xuất nhỏ ở miền nam Trung Quốc và Uganda.
“Nông dân đang hè nhau áp dụng sản xuất giống lúa lưu gốc vì làm như vậy sẽ có lợi về mặt kinh tế, nhất là trong bối cảnh nông dân ở Trung Quốc (giống như nhiều nước) đang bị già hóa. Nhiều người dân nông thôn đều thích di cư đến các thành phố do trồng lúa rất tốn công chăm sóc và chi phí đầu vào cao”, giáo sư Erik Sacks, tại khoa Khoa học Cây trồng (Đại học Illinois) và là đồng tác giả của báo cáo, cho biết.
Ông Sacks, cùng với các cộng sự Fengyi Hu và Dayun Tao, bắt đầu bắt tay phát triển giống lúa lưu gốc mới vào năm 1999 với sự hợp tác giữa Học viện Khoa học Nông nghiệp Vân Nam và Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI). Trong những năm tiếp theo, dự án đã liên kết tiếp với Đại học Illinois, Đại học Vân Nam và Đại học Queensland (Australia) nhằm nghiên cứu sâu hơn dự án này.
Hình ảnh một ruộng lúa lưu gốc giống PR23 ở mùa thứ ba. Ảnh: The Land Institute
Các nhà nghiên cứu đã phát triển cây lúa lưu niên thông qua việc lai tạo, lai giống lúa hàng năm thuần hóa của châu Á với một loại lúa lâu năm hoang dã từ châu Phi. Tận dụng các công cụ di truyền hiện đại, nhóm nghiên cứu đã xác định một giống lai có triển vọng vào năm 2007, rồi trồng thử nghiệm trên diện rộng vào năm 2016 và cho ra đời giống lúa lưu niên thương mại đầu tiên có tên PR23 vào năm 2018.
Nhóm chuyên gia quốc tế tiếp đó đã dành 5 năm để nghiên cứu năng suất giống lúa lưu niên này và đối chứng với các giống lúa hàng năm tại các cánh đồng trên khắp tỉnh Vân Nam. Với một vài trường hợp ngoại lệ, năng suất lưu niên đạt 6,8 tấn/ ha, tương đương với lúa hàng năm là 6,7 tấn/ ha trong bốn năm đầu tiên. Sau đó năng suất bắt đầu giảm vào năm thứ 5 do nhiều yếu tố khác nhau.
Các nhà nghiên cứu khuyến nghị nông dân nên gieo sạ lại giống lúa lưu niên này sau chu kỳ 4 năm.
Ưu điểm vượt trội của việc trồng lúa lưu niên là nông dân không phải xuống giống theo mùa vụ hàng năm, nên có thể tiết kiệm được gần 60% công lao động và cắt giảm chi gần một nửa trong các khâu giống, phân bón và các chi phí vật tư đầu vào khác.
Ông Sacks nói: “Điều quan trọng nữa của vấn đề này là khi cả thế giới đang hướng tới mục tiêu cải thiện sinh kế nông dân trồng lúa nước, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Trong mùa vụ đầu tiên, về cơ bản mọi thứ đều giống nhau như năng suất, chi phí, coi như không có lợi thế nhưng từ vụ thứ hai và các vụ tiếp theo đã giảm giá thành sản xuất lúa rất lớn, bởi vì chúng ta không phải mua hạt giống, phân bón, không cần nhiều nước, cũng như ngày công. Đó chính là một lợi thế lớn”.
Theo các chuyên gia, lợi ích kinh tế của việc trồng lúa lâu năm có sự khác nhau giữa các địa điểm nghiên cứu, nhưng lợi nhuận dao động từ 17% đến 161% so với trồng lúa hàng năm. Ngay cả ở những địa điểm và những năm lúa lâu năm bị giảm năng suất tạm thời do sâu bệnh, nông dân vẫn đạt được lợi nhuận kinh tế lớn hơn so với trồng cây hàng năm.
Tiếp đến việc không phải làm đất hai lần một năm, trồng lúa lâu năm cũng mang lại những lợi ích đáng kể về môi trường khi nhóm nghiên cứu đã ghi nhận lượng cacbon và nitơ hữu cơ trong đất cao hơn được lưu trữ trong đất trồng lúa lâu năm. Ngoài ra, các thông số chất lượng đất khác cũng được cải thiện.
“Các loại cây hàng năm năng suất cao hiện nay thường yêu cầu loại bỏ hoàn toàn thảm thực vật trên bề mặt đất để bắt đầu vụ mùa mới và thường yêu cầu các loại đầu vào chính là lượng lớn thuốc trừ sâu và phân bón. Trong khi lúa lưu niên không chỉ mang lại lợi ích cho nông dân bằng cách cải thiện hiệu quả lao động và chất lượng đất, mà nó còn giúp bổ sung các hệ thống sinh thái cần thiết để duy trì năng suất trong thời gian dài”, giáo sư Hu, Trưởng khoa Nông nghiệp tại Đại học Vân Nam, cho biết.
Hiện các hợp phần khác của nghiên cứu vẫn đang tiến hành, bao gồm đánh giá khả năng chống chịu nhiệt độ của giống lúa lưu niên, với mục tiêu dự đoán ra vùng phát triển tối ưu của nó trên khắp thế giới. Theo đó, các thử nghiệm đã và đang được tiến hành tinh chỉnh đối với ba giống lúa lưu niên ở Trung Quốc và Uganda, nhằm nhanh chóng có được các tính trạng mong muốn như mùi thơm, khả năng kháng bệnh và chống chịu hạn để mở rộng phạm vi sản xuất trên quy mô toàn cầu.
Tim Crews, nhà khoa học trưởng tại The Land Institute, đồng tác giả nghiên cứu, cho biết: “Mặc dù những phát hiện ban đầu về lợi ích môi trường của lúa lưu niên là rất ấn tượng và đầy hứa hẹn, nhưng vẫn cần nhiều nghiên cứu và tài trợ hơn để hiểu được toàn bộ tiềm năng của nó.
“Các câu hỏi về khả năng hấp thụ carbon và cân bằng khí nhà kính trong các hệ thống trồng lúa lâu năm vẫn còn. Các nhà nghiên cứu cần phải đạt được tiến bộ trong việc trồng giống lúa nương lâu năm, điều này có thể hạn chế nạn xói mòn đất trên khắp Đông Nam Á. Thành tựu về giống lúa lưu niên được coi là bước tiến của nền nông nghiệp bền vững, thân thiện môi trường và có thể sửa chữa được “những sai sót của lịch sử”, theo ông Sacks.
(Phys.org)
Th1107
3 giống hoa lay ơn mới
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
3 giống hoa lay ơn mới do Viện Nghiên cứu Rau quả chọn tạo, có hoa đẹp, được người tiêu dùng ưa chuộng, chống chịu sâu bệnh tốt, hiệu quả trồng cao hơn hơn 20%.
3 giống hoa lay ơn mới gồm CF.22.03, CF.22.04, CF.21.09, do Ths Bùi Thị Hồng cùng cộng sự chọn tạo, được Viện Nghiên cứu Rau quả công bố chính thức từ đầu năm 2022.
Đặc điểm giống
Giống lay ơn CF.21.03 được chọn lọc từ tổ hợp lai hoa lay ơn 11A03 dòng C6. Thời gian sinh trưởng 85 – 95 ngày. Giống có khả năng sinh trưởng, phát triển khỏe. Chống chịu tốt sâu bệnh hại, nhất là với bệnh khô đầu lá. Năng suất trung bình đạt 180.000 – 200.000 cành hoa/ha. Chiều dài cành hoa 125 – 136cm. Số hoa/cành 16 – 17 bông. Hoa màu đỏ vàng. Đặc biệt, giống hoa này có khả năng trồng được trong vụ hè thu. Hiệu quả sản xuất tăng 21 – 25% so với đối chứng.
Giống hoa lay ơn CF 21.03.
Giống lay ơn CF.21.04 chọn lọc từ tổ hợp lai hoa lay ơn 11A14 dòng I9. Thời gian sinh trưởng 90 – 100 ngày. Giống có khả năng sinh trưởng, phát triển khỏe. Chống chịu tốt với sâu bệnh hại, đặc biệt là không bị khô đầu lá. Chiều dài cành hoa đạt 135 – 148cm. Số hoa/cây 15 – 16 bông. Hoa màu hồng. Năng suất đạt 180.000 – 200.000 cành hoa/ha. Hoa được người sản xuất và người tiêu dùng chấp nhận cao. Hiệu quả trồng thâm canh tăng 21 – 23% so với đối chứng.
Giống hoa lay ơn CF.21.09 chọn từ tổ hợp lai hoa lay ơn 11A04 dòng J11. Thời gian sinh trưởng 90 – 100 ngày. Giống có khả năng sinh trưởng, phát triển khỏe. Chống chịu tốt với bệnh khô đầu lá nhẹ. Năng suất đạt 180.000 – 200.000 cành hoa/ha. Chiều dài cành hoa đạt 135 – 159cm. Số hoa/cành đạt 16 – 17 bông. Hoa màu hồng cam, được người sản xuất và thị trường chấp nhận cao. Hiệu quả trồng tăng 23 – 26% so với đối chứng.
Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh
Hoa lay ơn ưa khí hậu mát mẻ. Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng, phát triển từ 15 – 27 độ C. Nhiệt độ cao cây sinh trưởng kém, chất lượng hoa thấp, nhiều sâu bệnh hại. Lay ơn cũng là cây ưa sáng, cường độ ánh sáng thích hợp cho cây từ 20.000 – 25.000 lux, thiếu sáng cây bị vóng, hoa nhỏ, tỷ lệ hoa mù cao.
Đất trồng lay ơn phải là loại đất thịt nhẹ, độ pH 5,5 – 6. Lay ơn rất mẫn cảm với muối kim loại nặng, đặc biệt là hàm lượng chì cao. Cây lay ơn ưa ẩm nhưng không chịu được úng, ẩm độ đất thích hợp cho cây khoảng 70 – 75%, thiếu nước sẽ ảnh hưởng đến phân hoá hoa, thừa nước rễ bị tổn hại, củ thối, cây vàng úa và chết. Lay ơn khá mẫn cảm với không khí, đặc biệt là khí Clo và Flo. Những nơi nồng độ Clo và Flo cao sẽ làm cây lay ơn khô đầu lá. Do vậy, chọn điểm trồng hoa lay ơn cần tránh xa các khu công nghiệp và lò gạch.
Kỹ thuật trồng
Thời vụ trồng, các tỉnh miền Bắc trồng 2 vụ chính là tháng 8 – 9 và tháng 10 – 11; các tỉnh Bắc Trung Bộ trồng tháng 10 – 11. Đất cày phay nhỏ, dọn sạch cỏ, lên luống rộng 1 – 1,2m, cao 30cm, rãnh luống rộng 30 – 40cm. Tốt nhất trồng lay ơn trên đất vụ kế trước gieo cấy lúa nước.
Chọn củ giống có chu vi từ 8cm trở lên, không sứt vẹo, sạch bệnh và đã xử lý nảy mầm đều. Sau dùng dung dịch Mancozeb 2% (20g/20lit nước) ngâm củ giống 5 – 10 phút, vớt hong ráo nước, đem trồng ra ruộng sản xuất. Giống trồng theo các rạch xẻ ngang trên mặt luống, rạch cách rạch 25 – 30cm, sâu 12 – 15cm, trộn đều các loại phân bón lót xuống rạch, lấp đất dày 10 – 12cm. Mật độ trồng 20.000 – 21.000 củ/1000m2 (củ cách củ 10 – 12cm và lấp đất dày 2,5 – 3cm phủ kín củ).
Dòng lay ơn I9 trong tổ hợp tạo ra giống lay ơn 21.04.
Về tưới nước, có thể tưới rãnh hoặc tưới mặt, đảm bảo độ ẩm đất 70 – 75%, tránh để cây bị úng ngập, bao gồm úng cục bộ. Phân bón cho 1.000m2 gồm phân chuồng 2,5 – 3 tấn, vôi bột 80 – 100kg, đạm Uê 30kg, lân supe 90kg, Kali clorua 24kg; hoặc 75kg NPK, 8kg đạm Urê, 10kg Lân supe (bón lót), 9kg Kali kali clorua. Trong đó, bón lót toàn bộ phân chuồng, vôi và 50% phân lân, số phân còn lại chia bón 4 đợt theo bảng dưới
Đợt bón | Ngày sau trồng | Lượng phân (kg) | Lượng phân (kg) | Cây sau trồng | ||||
Urê | Supe lân | Kali | NPK | Urê | Kali | |||
10 – 15 | 10 | 10 | 2 lá | |||||
30 – 35 | 10 | 20 | 25 | 4 lá | ||||
50 – 55 | 10 | 15 | 12 | 25 | 4,5 | 6 lá | ||
70 – 75 | 12 | 15 | 4,5 | Trổ đòng |
Nên bón phân kết hợp xới xáo, làm cỏ và tưới ẩm cho tan phân. Bổ sung một số chất kích thích sinh trưởng như Atonik 1.8SL (15ml/16lít), SEAWEED rong biển (10g/16lít) và phun bón lá đầu trâu vào thời kỳ cây 2 – 6 lá. Khi cây mọc mầm, cần tỉa mầm phụ và để lại 1 mầm chính. Vun đợt khi 1 cây 3 lá. Vun cao chống đổ khi cây cao 40 – 50cm. Cắm cọc làm dàn theo mép luống, khoảng cách 1,5 – 2m/cọc, rồi dùng dây ni lông hoặc lưới đan sẵn căng giữa các cây, sau nâng dần dây/lưới phù hợp theo chiều cao của cây.
Phòng trừ sâu bệnh hại chính: Dùng thuốc Azimex 20EC hoặc Sherpa 25EC phòng trừ sâu khoang; thuốc Brightin 1.8EC hoặc Ortus 5SC trừ bọ trĩ; Anvil 5SC, Score 250EC trừ bệnh héo vàng. Riêng với bệnh khô đầu lá phải chọn trồng giống kháng bệnh, xa lò gạch và khu công nghiệp. Phun phòng sâu bệnh hại định kỳ 7 – 10 ngày/lần. Sử dụng thuốc theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
Dòng lay ơn J11 trong tổ hợp tạo ra giống lay ơn CF.21-09.
Thu hoạch, bảo quản
Thu hoa vào buổi sáng hoặc chiều tối khi cành có 1 – 2 hoa đã nhú màu. Cắt lấy cành hoa cách gốc 5 – 10cm và chừa lại 1 – 2 lá hoàn chỉnh. Nếu không cần giữ lại củ, có thể nhổ lấy cả củ. Sau xếp hoa thành từng bó có chiều dài cành và số bông trên cành tương đương nhau. Chú ý thao tác nhẹ nhàng, sao cho cành hoa không bị cong, gãy.
Bảo quản hoa, bọc kín đầu hoa đem dựng trong kho lạnh 6 – 8 độ C và ẩm độ 80 – 90% sẽ giữ được hoa khoảng 10 – 15 ngày. Hoặc đưa hoa bao kín đầu vào thùng xốp, xếp 1 lớp hoa xen 1 lớp đá và 5 ngày trộn đảo đá 1 lần cũng có thể bảo quản được 7 – 10 ngày.
Phạm vi áp dụng: Các địa phương Trung du miền núi phía Bắc, ĐBSH và Bắc Trung Bộ.
Th1107
Sản xuất nông nghiệp hữu cơ: Tìm hướng đi đúng để tạo đà
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
Thời gian qua, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, nông nghiệp tỉnh nhà đã và đang được thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững, từng bước khắc phục tình trạng quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu ổn định và dễ bị tổn thương do thiên tai, dịch bệnh.
Trồng cây ăn quả theo hướng hữu cơ tại Quang Mỹ Farm ở Hương Hồ (TP. Huế). Ảnh: Đăng Tuyên
Hiện nay, sản xuất nông nghiệp của Thừa Thiên Huế đã định hình và từng bước đi vào ổn định đối với một số loại cây trồng chủ lực như lúa, rau màu các loại, cây ăn quả… Các chính sách tích cực như Nghị quyết 20/2020/NQ-HĐND, Nghị quyết 30/2021/NQ-HĐND của HĐND tỉnh đã dành ngân sách hỗ trợ sau đầu tư từ 15-20 tỷ đồng/năm giúp phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ.
Gian nan tìm cách chứng nhận sản phẩm hữu cơ
Thực tế có 2 phương thức để có chứng nhận sản phẩm hữu cơ: Một là thuê các tổ chức chứng nhận bên thứ 3 trong và ngoài nước đánh giá, chứng nhận với chi phí rất cao. Qua khảo sát, cần 10 triệu đồng/ha chi phí chứng nhận đối với các tổ chức chứng nhận trong nước theo TCVN:11041- 2017. Vấn đề này là bất khả thi đối các mô hình hữu cơ quy mô nông hộ, tổ, nhóm vốn yếu thế; chỉ phù hợp với các tập đoàn lớn cũng như doanh nghiệp quy mô sản xuất lớn, hướng đến thị trường xuất khẩu.
Hai là, chứng nhận hữu cơ theo Hệ thống cùng tham gia đảm bảo chất lượng (Participatory Guarantee System -PGS) là một cơ chế đảm bảo chất lượng với chi phí thấp, giúp bảo đảm chất lượng nông sản và có thể khôi phục lòng tin của người tiêu dùng. Theo Liên đoàn các phong trào Nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (IFOAM) năm 2008, PGS là một hệ thống ở đó có sự tham gia của các bên liên quan vào đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm hướng vào thị trường địa phương. Người sản xuất được xác nhận sự tuân thủ dựa vào sự tham gia tích cực của các bên liên quan, bao gồm cả người sản xuất và người tiêu dùng trong hệ thống. Chi phí chứng nhận thấp, thậm chí không tốn chi phí phù hợp với quy mô sản xuất hữu cơ nông hộ, tổ, nhóm.
Theo Điều 17, Nghị định 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 của Chính phủ về Nông nghiệp hữu cơ: Khuyến khích nông dân, tổ chức, cá nhân tham gia Hệ thống bảo đảm cùng tham gia PGS. Tuy nhiên, vướng mắc theo Nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan không có hướng dẫn cách thức tổ chức, xây dựng hệ thống PGS cũng như phương thức chứng nhận PGS, gây lúng túng cho việc hình thành PGS tại các địa phương.
Trên địa bàn tỉnh đã thành lập ra liên nhóm PGS tại 3 huyện Phú Lộc, Quảng Điền và Phú Vang từ Dự án VIE433. Thế nhưng, những sản phẩm hữu cơ trên được bán theo giá nông sản thông thường do sản phẩm chưa được chứng nhận sản phẩm hữu cơ. Một số doanh nghiệp kinh doanh lại yêu cầu phải có chứng nhận sản phẩm hữu cơ để tiêu thụ trên thị trường có hiệu quả hơn. Vấn đề đặt ra là, phải thành lập Ban điều phối PGS cấp tỉnh tại Thừa Thiên Huế để tập hợp các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, các tổ hợp tác và nông hộ ở địa phương có tâm huyết tham gia vào phát triển nền nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh và chứng nhận sản phẩm hữu cơ.
Tạo sức lan tỏa nông nghiệp hữu cơ
Với sự hỗ trợ từ Dự án Thích ứng và chống chịu với biến đổi khí hậu VIE/433 của Chính phủ Luxembourg (2019) đã hình thành nên các tổ, nhóm nông dân PGS sản xuất rau hữu cơ liên kết nông hộ với diện tích 16,3ha (20 nhóm/181 hộ tham gia) tại các huyện Phú Vang, Phú Lộc, Quảng Điền. Cụ thể: sản phẩm rau má hữu cơ Quảng Thọ, rau hữu cơ Quảng Thành, Mỹ Lợi; gà Quảng Phước; lúa hữu cơ Phú Mỹ, Lộc An; dầu lạc Mỹ Á; góp phần thay đổi nhận thức của người dân về phương pháp canh tác từ vô cơ sang hữu cơ.
Hiện nay, toàn tỉnh đã có 42 hộ dân và 2 HTX đang hợp tác về phát triển chăn nuôi lợn hữu cơ an toàn sinh học (ATSH), liên kết theo chuỗi giá trị với hơn 300 lợn nái và 6.000 con lợn thịt tại các địa phương. Ngoài ra, khoảng 500ha diện tích lúa, ngô, đậu tương sản xuất hữu cơ theo chuỗi giá trị.
Cơ hội mở ra đối với sản xuất nông nghiệp hữu cơ Thừa Thiên Huế là khi Tập đoàn Quế Lâm, một công ty hàng đầu trong sản xuất, kinh doanh phân bón hữu cơ trên phạm vi cả nước mạnh dạn đầu tư nhiều dự án trong lĩnh vực hữu cơ tại tỉnh từ năm 2016: Hệ thống cửa hàng cung ứng sản phẩm nông sản hữu cơ (200 tỷ đồng); Nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, Dự án Tổ hợp chăn nuôi lợn an toàn sinh học 4F (Farm-Food-Feed-Fertilizer) tại xã Phong Thu, huyện Phong Điền với tổng vốn đầu tư 700 tỷ đồng; vùng sản xuất lúa hữu cơ và bao tiêu sản phẩm với diện tích 70ha tại Hợp tác xã nông nghiệp Phù Bài, thị xã Hương Thủy; mô hình hộ chăn nuôi an toàn sinh học 10-30 lợn thịt…
Cần nhiều giải pháp, vai trò
Cần có Đề án nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2026 và định hướng đến năm 2030. Đây là một lợi thế để giúp tỉnh xây dựng một nền nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái, góp phần ổn định đời sống cho người dân trên địa bàn tỉnh gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn và tái cơ cấu toàn diện ngành nông nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, nâng cao năng lực, khả năng tổ chức sản xuất, sức cạnh tranh trong chế biến, tiêu thụ nông sản của tỉnh.
Tiếp đến là phát huy vai trò của Hội Nông nghiệp hữu cơ tỉnh; tiến hành thành lập Ban điều phối PGS Huế cấp tỉnh chịu trách nhiệm thẩm định, chứng nhận PGS các sản phẩm nông sản hữu cơ theo TCVN:11041-2017, góp phần giải quyết vấn đề Chứng nhận hữu cơ ở quy mô nông hộ, tổ, nhóm sản xuất nông nghiệp hữu cơ lâu dài. Phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam để tranh thủ nguồn lực; giúp đào tạo, tập huấn về kiến thức nông nghiệp hữu cơ; chia sẻ kinh nghiệm, chứng nhận PGS và kết nối doanh nghiệp, chuỗi ngành hàng tiêu thụ; xây dựng mô hình liên kết… Bên cạnh đó, cần tích cực tìm kiếm hỗ trợ từ các dự án trong và ngoài nước (ADDA,VIE433), từ doanh nghiệp để có thêm nguồn lực phát triển và lan tỏa phong trào sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn rộng khắp. Công tác truyền thông giới thiệu, quảng bá các sản phẩm, mô hình hữu cơ để người tiêu dùng thấy được giá trị và hiệu quả của sản phẩm mang lại sức khỏe cho cộng đồng cũng cần được tăng cường…
Quang Hòa
Th1102
Vùng trồng sầu riêng của Đồng Nai đạt chuẩn xuất khẩu
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
Sau hơn 4 năm đàm phán và đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, ngày 19-9, Việt Nam vừa chính thức xuất khẩu chính ngạch lô sầu riêng đầu tiên vào thị trường Trung Quốc. Trước đó, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) đã chính thức phê duyệt 51 mã số vùng trồng, 25 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng của Việt Nam được phép xuất khẩu sang Trung Quốc.
Trong đợt đánh giá này, 100% vùng trồng và cơ sở đóng gói của Đồng Nai đăng ký tham gia đều đạt chuẩn và được cấp mã số xuất khẩu sầu riêng vào thị trường Trung Quốc. Cụ thể, toàn tỉnh đã có 7 mã số vùng trồng sầu riêng với quy mô 533 ha được cấp phép xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc.
Đồng hành cùng doanh nghiệp, nông dân
Năm 2022, Trung Quốc ban hành nhiều quy định mới về nhập khẩu các mặt hàng nông sản, đặc biệt là trái cây tươi. Trong đó, các yêu cầu phải đáp ứng truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm và quy định nghiêm ngặt về phòng, chống Covid-19.
Xuất khẩu trái cây tươi vào thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn nên mọi thay đổi về chính sách liên quan đến nhập khẩu ở thị trường này đều ảnh hưởng rất lớn đến thị trường rau, quả của Việt Nam.
Bà Trần Thị Tú Oanh, Phó chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt, Bảo vệ thực vật và Thủy lợi (Sở NN-PTNT) cho biết, để chuẩn bị cho công tác xuất khẩu chính ngạch sản phẩm sầu riêng sang thị trường Trung Quốc, ngày từ đầu năm 2021 Sở NN-PTNT đã phối hợp với cơ quan chuyên môn các huyện, thành phố tuyên truyền, hướng dẫn cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có nhu cầu xuất khẩu nông sản những quy định về cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói. Kết quả, tất cả các vùng trồng và cơ sở đóng gói trên địa bàn tỉnh đều đạt trong đợt đầu đánh giá, cấp mã số của Tổng cục Hải quan Trung Quốc. Thời gian tới, Chi cục tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, đào tạo tập huấn, kiểm tra, giám sát để nâng cao năng lực, nhận thức của người dân, doanh nghiệp trong việc tuân thủ, chuẩn hóa vùng trồng, cơ sở đóng gói.
Kết quả, trong đợt đánh đầu tiên của Tổng cục Hải quan Trung Quốc về vùng trồng và cơ sở đóng gói, Đồng Nai có 7 vùng trồng được cấp mã số gồm: HTX Thương mại dịch vụ nông nghiệp Xuân Định (H, Xuân Lộc); HTX sầu riêng Lò Than, Vùng trồng Nhân Nghĩa (H.Cẩm Mỹ); HTX Dịch vụ nông nghiệp Phú An; Tổ Hợp Tác Sầu riêng Phú Sơn (H.Tân Phú); HTX Nông nghiệp thương mại dịch vụ Xuân Lập; HTX Nông nghiệp – Dịch vụ – Thương mại Bình Lộc (TP.Long Khánh). 3 cơ sở đóng gói được cấp mã số gồm: Công ty TNHH sản xuất thương mại Thuận Hương (H.Định Quán); Cơ sở đóng gói Thanh Trung; Công ty TNHH xuất nhập khẩu An Lộc Phát (TP.Long Khánh).
Ông Liu Tác Sáng, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại sản xuất Thuận Hương cho biết, sầu riêng là mặt hàng xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao nên doanh nghiệp chủ động đăng ký được cấp mã số cơ sở đóng gói xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Vì xuất khẩu chính ngạch sẽ không còn lo tình trạng ùn ứ xe hàng khi Trung Quốc đóng cửa biên giới, giảm rủi ro trong vận chuyển, tiêu thụ, đảm bảo đầu ra ổn định hơn cho trái sầu riêng.
HTX Thương mại dịch vụ nông nghiệp Xuân Định (H, Xuân Lộc) được cấp mã số vùng trồng xuất khẩu đi Trung Quốc. Ảnh: Phan Anh
Tính chuyện đường dài
Tại Hội nghị “Triển khai xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc” diễn ra vào ngày 12-9, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh, cần chuẩn bị cho hành trình đi xa, đem lại giá trị cao cho ngành hàng sầu riêng. Ở đây không phải chỉ bán trái sầu riêng mà còn xây dựng hình ảnh sầu riêng Việt Nam đến thị trường đông dân, khó tính là Trung Quốc. Đồng thời, thông qua câu chuyện trái sầu riêng nhìn lại chuỗi giá trị ngành hàng nông sản, nhìn lại lợi thế, tiềm năng, rủi ro, thách thức từ bên ngoài. Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói: “Muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì đi cùng nhau. Chúng ta phải biết dựa vào nhau, nương tựa nhau, thay vì cạnh tranh, chen chúc nhau. Đây là cách để đưa trái sầu riêng phát triển ở thị trường Trung Quốc”.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cũng nhấn mạnh, một lần bất tín là vạn lần bất tin. Do đó, cần xây dựng nền nông nghiệp minh bạch, bắt đầu từ câu chuyện của trái sầu riêng qua việc chuẩn hóa giống, quy trình, thị trường, kiến thức, tri thức người nông dân… Ngành nông nghiệp cần phải tập huấn, chuẩn hóa cho người nông dân, tránh tình trạng giả mạo truy xuất nguồn gốc; xây dựng niềm tin và trách nhiệm giữa doanh nghiệp với nông dân dưới sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước…
Nhân rộng mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói để đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm cây ăn trái chủ lực cũng là định hướng tỉnh Đồng Nai đang tập trung triển khai trong thời gian tới. Theo báo cáo của Sở NN-PTNT tỉnh, thời gian qua, Ngành nông nghiệp đã tập trung hỗ trợ nông dân, HTX, doanh nghiệp xây dựng mã vùng trồng, mã cơ sở đóng gói xuất khẩu cho những cây trồng chủ lực trên địa bàn tỉnh. Chỉ tính riêng từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã có 7 mã số vùng trồng sầu riêng và đang tập trung giám sát và hoàn thiện hồ sơ trình công nhận mới 12 mã vùng trồng chuối, sầu riêng xuất khẩu. Toàn tỉnh cũng đã có 5 cơ sở đóng gói chuối và sầu riêng được cấp mã số xuất khẩu và 19 cơ sở đóng gói đang chờ được phê duyệt để cấp mã số xuất khẩu.
Để đủ điều kiện được cấp mã số, các cơ sở đóng gói phải xây dựng quy trình đóng gói theo yêu cầu của nước nhập khẩu từ khâu nhập hàng, xử lý trái cây, khu chứa nguyên liệu đến kho thành phẩm đều phải đảm bảo vệ sinh…Đặc biệt, trái cây xuất khẩu đều phải có tem truy xuất nguồn gốc; thùng đựng phải dán nhãn với đầy đủ thông tin về sản phẩm, nơi sản xuất hoặc mã số vùng trồng, tên hoặc mã số cơ sở đóng gói…
Theo Phó giám đốc Sở NN-PTNT Trần Lâm Sinh, lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 120 mã số vùng trồng xuất khẩu đi thị trường Trung Quốc, Mỹ, EU, Úc, New Zealand…với tổng diện tích hơn 24 ngàn ha. Tính đến nay, toàn tỉnh đã có 53 mã số cơ sở đóng gói đi thị trường Trung Quốc, Mỹ, EU, Úc, New Zealand…
Phan Anh
Th1028
Vườn sầu riêng hữu cơ bạc tỷ trên đất trũng
TÂY NINH – Qua bàn tay kiến thiết, vận dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, ông Tống Thanh Đức (Tây Ninh) đã biến vùng đất trũng thành vườn cây ăn quả xanh mướt.
Vườn sầu riêng hữu cơ bạc tỷ của ông Đức trên vùng đất trũng. Ảnh: Trần Trung.
Chủ tịch Hội Nông dân xã Truông Mít, ông Nguyễn Tiến Dũng cho biết, thành quả ông Đức có được hôm nay chính là nhờ niềm đam mê nông nghiệp và cách làm bài bản. Ông rất chịu khó tìm hiểu khoa học kỹ thuật qua nhiều kênh khác nhau rồi tự mình đi tìm hiểu các nơi. Mô hình nào không biết, ông lại đi tìm người giỏi hơn để nhờ tư vấn, giúp đỡ. Từ mô hình của ông Đức, Hội Nông dân xã Truông Mít thường xuyên tuyên truyền, giới thiệu cho nông dân các địa phương khác đến tham quan, học hỏi.
Dẫn chúng tôi thăm dấu tích của vùng đất trũng còn tồn tại sau khi được chuyển đổi sang cây ăn trái và hoa màu cùng cây công nghiệp dài ngày, ông Đức cho biết, ngày trước, cao su, lúa và đậu phộng là những loại cây trồng chủ lực trên địa bàn xã. Với quan niệm đã làm nông nghiệp là phải có đất, nhờ mủ cao su được giá, hoa màu và cây lương thực trúng mùa, nhiều năm như thế ông tích cóp dần để mở rộng thêm đất canh tác.
Với triết lý “cây không đụng lá, cá không chạm đuôi”, ông Đức đã lên liếp rất khoa học. Ảnh: Trần Trung.
Nhưng lợi thế cây trồng chủ lực không lâu bền mãi. Trong khoảng thời gian gần chục năm, giá cao su duy trì ở mức thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nông dân trồng cao su tiểu điền. Tương tự, cây đậu phộng cũng vậy. Ngày trước ít ai trồng đậu phộng trúng mùa và đạt năng suất như ông Đức. Thế nhưng thời giá bấp bênh, khó cạnh tranh, đậu phộng không còn là lựa chọn ưu tiên của người dân.
Theo ông Đức, chuyển đổi cơ cấu cây trồng là chủ trương của tỉnh Tây Ninh nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân. Từ những năm 2000, ông và nhiều nông dân cũng bắt đầu chuyển đổi trên vườn đất của mình. Trên diện tích 25ha, ông Đức chỉ duy trì 8ha cao su, 6ha lúa và đậu phộng. Phân nửa diện tích còn lại ông Đức trồng 8ha sầu riêng, 2ha nhãn tiêu da bò và 1ha trồng tre lấy măng.
Tuy trồng trên đất trũng nhưng cây vẫn cần được tưới nước hợp lý để sinh trưởng phát triển ổn định. Ảnh: Trần Trung.
Trong số diện tích chuyển đổi, sầu riêng là cây trồng ông Đức tâm đắc nhất. Ông Đức kể, từ 5 năm trước, vùng đất này vẫn còn là vùng trũng thấp. Ông mua đất rồi mướn xe đào mương, lên liếp rồi trồng toàn bộ giống sầu riêng Ri6. Hớp ngụm trà thơm, ông Đức bộc bạch, với triết lý “cây không đụng lá, cá không chạm đuôi”, khác các tỉnh ở miền Nam và Tây Nguyên, ông trồng sầu riêng với mật độ thưa, chỉ khoảng 100 cây/ha. Mương nước giữa các luống trồng sầu riêng cũng được ông cơi nới rộng rãi so với các vườn đã tham qua ở các tỉnh miền Tây Nam bộ.
Ngoài ra, giữa thời điểm phân hóa học đa dạng, dễ dàng tìm mua để xử lý cho cây trái vườn nhà thì lão nông này lại từng bước chuyển dần sang dùng phân hữu cơ. Ông Đức quan niệm, sử dụng phân hóa học nhiều khiến đất đai bị thoái hóa, chi phí lại cao, còn phân hữu cơ vừa an toàn, vừa tốt cho cây và đất, người tiêu dùng ăn sầu riêng vườn nhà ông cũng an tâm hơn.
Ông Đức tự hào bên vườn sầu riêng xanh tốt của mình. Ảnh: Trần Trung.
Hiện nay, vườn sầu riêng của ông Đức có khoảng 1.000 gốc, trong đó phần lớn đang cho trái, năng suất khoảng 20 tấn/ha. Trong vụ sầu riêng 2022 vừa qua, ông thu về khoảng 2 tỉ đồng sau khi trừ chi phí. “Hồi trước sử dụng phân hữu cơ ít, còn bây giờ chiếm 2/3 lượng phân cho vườn. Phân hóa học dùng ít lại, chủ yếu không để thiếu chất. Mình xem cây như con người. Anh em nào không biết thì đến đây, tôi sẵn sàng tư vấn. Một là phải lên liếp trồng sầu riêng như thế nào cho có hiệu quả. Thứ hai là loại giống gì mà trồng được để xuất khẩu, bán được giá. Hiện tôi trồng sầu riêng Ri6, ngoài tiêu thụ trong nước, thị trường Trung Quốc rất thích ăn loại này…”, ông Đức tâm sự.
Tại địa phương, ông Đức cũng là hội viên năng nổ khi thường xuyên tham gia công tác Hội Nông dân, tích cực hỗ trợ hội viên nghèo và bà con có hoàn cảnh khó khăn. Ông Đức là một trong những mạnh thường quân có đóng góp rất lớn ở địa phương.
Hơn 10 năm nay, ông Đức luôn là gương điển hình tiên tiến, là nông dân sản xuất kinh doanh giỏi cấp xã, huyện cũng như cấp tỉnh. Từ nỗ lực và sự đóng góp cho địa phương, ông Đức vinh dự được bình chọn là Nông dân Việt Nam xuất sắc 2022.
Nguồn tin: báo nông nghiệp
Th1027
Hậu Giang: 99 vùng trồng đã được cấp mã số để phục vụ xuất khẩu
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Ông Võ Xuân Tân, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp tỉnh Hậu Giang cho biết, trong sản xuất nông nghiệp việc ứng dụng khoa học, công nghệ rất là cần thiết, cũng như vấn đề truy xuất nguồn gốc, sản xuất làm sao nông sản có mã số vùng trồng. Quy trình sản xuất gắn với truy xuất nguồn gốc là rất quan trọng.
Cây sương sáo của Phụng Hiệp đã được cấp mã số vùng trồng.
Thời gian qua, ngành nông nghiệp tỉnh đã thực hiện và cấp mã số vùng trồng để phục vụ xuất khẩu. Tính đến thời điểm hiện tại có 99 vùng trồng đã được cấp mã số, trong đó 40 mã số vùng trồng trên cây mít, 19 mã số vùng trồng trên cây xoài, 18 mã số vùng trồng trên cây nhãn, 10 mã số vùng trồng trên cây dưa hấu, 4 mã số vùng trồng trên cây chanh, 4 mã số vùng trồng trên cây chôm chôm, 2 mã số vùng trồng trên cây sương sáo, 1 mã số vùng trồng trên cây bưởi, 1 mã số vùng trồng trên cây lúa.
Ngoài ra, trong 9 tháng đầu năm, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã tiến hành giám sát 61 vùng trồng, gồm: 2 vùng trồng xoài xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ, Hàn Quốc, Australia, Newzealand và 1 vùng trồng chanh xuất khẩu sang thị trường châu Âu, 39 vùng trồng mít, 14 vùng trồng xoài, 4 vùng trồng chôm chôm và 1 vùng trồng nhãn xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Tin, ảnh: MỘNG TOÀN
Th1116