Tin tức
Làm giàu từ xen canh sầu riêng trong vườn cà phê
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Nhờ xen canh sầu riêng trong vườn cà phê và áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, mỗi năm, gia đình anh Nheng (làng Ktu, xã Kon Gang, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) thu nhập khoảng 700 triệu đồng sau khi trừ chi phí.
Dẫn chúng tôi tham quan vườn sầu riêng trồng xen cà phê, anh Nheng cho biết: Trước đây, trong khi làm thuê, anh thấy người ta trồng xen 2 loại cây này rất hiệu quả. Trồng sầu riêng vừa làm cây che bóng, chắn gió cho cà phê, vừa đa dạng sản phẩm, hạn chế rủi ro khi biến động giá cả thị trường. Vì vậy, năm 2007, anh bàn với cha mình trồng xen 100 cây sầu riêng giống Dona và Ri6 vào 3,5 ha cà phê. Do chưa nắm vững kỹ thuật chăm sóc sầu riêng nên 30 cây bị bệnh rồi chết. “Không nản lòng, tôi đi tham quan một số nơi để tiếp tục học hỏi kinh nghiệm. Đồng thời, tôi tham gia các lớp tập huấn khuyến nông do xã, huyện tổ chức. Nhờ đó, sau 6 năm, cây sầu riêng bắt đầu ra hoa và cho thu bói. Hiện nay, vườn sầu riêng bắt đầu cho thu hoạch ổn định mỗi vụ 150-250 kg quả/cây”-anh Nheng cho hay.
Người dân tham quan vườn sầu riêng trồng xen cà phê của gia đình anh Nheng. Ảnh: Lê Nam
Theo anh Nheng, để sầu riêng và cà phê phát triển hài hòa, bổ trợ cho nhau, anh điều chỉnh lượng nước tưới, phân bón qua từng năm cho phù hợp. Đồng thời, anh đầu tư lắp đặt hệ thống tưới phun mưa tại gốc, mua máy bơm phun thuốc bảo vệ cho cây để giảm bớt công lao động. Ngoài ra, các công đoạn bón phân, tưới nước đến thu hoạch và chăm sóc cây sau thu hoạch được anh làm đúng quy trình kỹ thuật. Nhờ đó, vườn cây cho sản lượng cao, ổn định. Cứ vào giữa vụ là có thương lái đến đặt cọc, chốt giá mua cả vườn. “Vụ vừa rồi, với 70 cây sầu riêng, tôi thu hoạch được 16 tấn, bán cho thương lái với giá 45-50 ngàn đồng/kg. Sau khi trừ chi phí đầu tư, tôi thu lợi nhuận khoảng 500 triệu đồng, cộng thêm lợi nhuận từ cà phê gần 200 triệu đồng nữa. Hiện tại, bên cạnh 70 cây sầu riêng đang cho thu hoạch ổn định thì tôi đang trồng xen thêm 300 cây sầu riêng, một số cây bơ, mít, mắc ca trong vườn cà phê”-anh Nheng chia sẻ.
Thấy được hiệu quả từ mô hình này, nhiều hộ dân trong làng đã đến tham quan, học tập. Hiện toàn xã Kon Gang có khoảng 90 ha cây ăn quả được trồng xen trong vườn cà phê. Trong đó, riêng tại làng Ktu có hơn 50% hộ dân phát triển mô hình trồng xen, mỗi hộ trồng 30-50 cây ăn quả trong vườn cà phê. Anh Nheng cho hay: “Ai đến thăm vườn và muốn làm theo, tôi đều hướng dẫn tận tình từ kỹ thuật trồng, chăm sóc và mua hộ giống từ những nơi cung cấp đảm bảo chất lượng. Năm nay, bà con trong làng đang đặt tôi mua hộ 1.000 cây sầu riêng giống để trồng. Tôi làm được nên cũng mong muốn bà con cùng làm để phát triển kinh tế, hình thành vùng chuyên canh, từ đó thành lập nông hội và hướng đến xây dựng thương hiệu trái cây của xã, huyện”.
Anh Phinh (làng Ktu) cho biết: “Năm 2018, tôi nhờ anh Nheng mua hộ 100 cây sầu riêng giống và hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc. Vụ này, cây sầu riêng bắt đầu cho thu bói được hơn 5 tạ, bán được hơn 20 triệu đồng”. Tương tự, năm 2018, anh Dương (cùng làng) cũng học tập mô hình và trồng xen 30 cây sầu riêng trong gần 5 sào cà phê của gia đình. “Tôi thường xuyên đến vườn sầu riêng của anh Nheng để học tập cách chăm sóc, phòng trừ bệnh cho cây. Đến nay, vườn sầu riêng của tôi cũng bắt đầu cho thu bói. Tôi vừa mới hái bán cho thương lái hơn 3 tạ được 15 triệu đồng. Hy vọng khi cây sầu riêng bước vào kinh doanh, giá cả vẫn ổn định như bây giờ thì chỉ cần chăm sóc tốt 30 cây cũng có thể cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm”-anh Dương nhẩm tính.
Trao đổi với P.V, ông Phạm Văn Hảo-Chủ tịch UBND xã Kon Gang-cho biết: “Thời gian gần đây, người dân trong xã đã chủ động chuyển đổi cây trồng để nâng cao thu nhập. Các mô hình trồng xen cây ăn quả trong vườn cà phê rất phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương. Vì vậy, UBND xã chỉ đạo cán bộ chuyên môn, các thôn, làng tăng cường tuyên truyền, định hướng cho người dân học hỏi theo mô hình này. Trong điều kiện giá cả các mặt hàng nông sản biến đổi thất thường thì người dân sản xuất đa dạng các loại cây trồng sẽ có thu nhập ổn định, an toàn hơn”.
LÊ NAM
Th1213
Hiệu quả mô hình trồng dưa lưới công nghệ tưới nhỏ giọt
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Năm 2019, gia đình ông Trần Đình Yến (ở thôn Sơn Lộc 2, xã Cư Bao, TX. Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk) quyết định phá bỏ 6 sào cà phê, tiêu già cỗi để đầu tư xây dựng hệ thống nhà màng trồng dưa lưới ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt.
Ban đầu ông Yến trồng thử nghiệm 3.000 gốc dưa; tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm trong xử lý bệnh tuyến trùng trên cây, kỹ thuật thoát nước cho cây chưa đúng quy chuẩn nên vụ thu hoạch đầu tiên quả nhỏ, vỏ bị nứt, gia đình ông bị thua lỗ. Không nản chí, với sự giúp sức của con trai vốn là kỹ sư công nghệ sinh học, ông Yến tiếp tục đầu tư trồng dưa lưới ở vụ tiếp theo. Song song với đó, ông dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu thông tin trên sách báo, mạng Internet về kinh nghiệm trồng, chăm sóc dưa lưới.
Hiện nay, gia đình ông Yến đã đầu tư 5 nhà màng để trồng 6.000 gốc dưa. Để có nguồn thu nhập liên tiếp cũng như dễ xử lý sâu bệnh, ông trồng cây theo hình thức gối vụ, xen canh giữa các giai đoạn phát triển của cây. Mỗi năm gia đình ông Yến trồng được 3 vụ, nhờ áp dụng hiệu quả quy trình kỹ thuật nên vườn cây phát triển tốt, đạt năng suất cao, mỗi quả dưa nặng từ 1,2 – 1,8 kg, giá bán từ 25.000 – 35.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, mỗi vụ dưa mang lại cho gia đình ông nguồn thu gần 100 triệu đồng. Ngoài ra, ông còn trồng thử nghiệm 500 gốc dưa hấu không hạt để theo dõi và trồng đại trà vào vụ sau nếu đạt hiệu quả cao.
Mô hình dưa lưới mang lại thu nhập khá cho gia đình ông Yến.
Ông Yến chia sẻ, việc trồng dưa lưới trong nhà màng tuy mức chi phí đầu tư ban đầu khá lớn nhưng nhà nông sẽ sử dụng nhà màng được thời gian dài mới phải thay thế; thời gian sinh trưởng của dưa lưới tương đối ngắn, có thể canh tác nhiều vụ trong năm nên có thể thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đó, hệ thống màng lưới giúp cây trồng không phụ thuộc vào thời tiết mưa nắng, côn trùng không thể xâm nhập, giảm thiểu việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nên sản phẩm đảm bảo sạch, được người tiêu dùng ưa chuộng. Hơn nữa, hệ thống tưới nhỏ giọt có thể cung cấp phân bón, nước tưới tận gốc, đáp ứng nhu cầu sinh trưởng của cây trồng.
Không chỉ làm giàu cho gia đình, mô hình trồng dưa lưới của ông Yến còn tạo việc làm thường xuyên cho 5 nhân công của gia đình và lao động tại địa phương. Hiện tại, gia đình ông Yến đã xây dựng thương hiệu dưa lưới Nông Farm CACB cũng như đăng ký tham gia chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) nhằm nâng cao chất lượng cũng tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm.
Ninh Trang
Th1212
Kết nối cung cầu cho các HTX trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
Nguồn tin: báo Sài gòn giải phóng
Ngày 8-12, Liên minh Hợp tác xã (HTX) tỉnh Tiền Giang tổ chức Hội nghị kết nối cung cầu cho các HTX trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2022.
Tại hội nghị, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở NN-PTNT tỉnh Tiền Giang) đã thông tin đến các HTX về yêu cầu chung đối với vùng trồng xuất khẩu, đặc biệt là việc xây dựng mã số vùng trồng xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc.
Theo đó, các HTX có nhu cầu kết nối cần có lộ trình, chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định rõ những sản phẩm, hàng hóa cần kết nối, chất lượng, số lượng, thời điểm cung cấp. Các HTX cần tập trung nâng cao năng lực quản trị, điều hành, đổi mới tư duy, dám nghĩ, dám làm để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh chuyển đổi số, xúc tiến thương mại trên các sàn thương mại điện tử.
Th1212
Phát triển các vùng sản xuất tập trung phục vụ xuất khẩu
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
ĐỒNG NAI Nhằm thúc đẩy xuất khẩu nông sản, ngành nông nghiệp và PTNT tỉnh Đồng Nai đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp định hướng phát triển vùng sản xuất tập trung bền vững…
Theo Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Nai, tổng diện tích sầu riêng của Đồng Nai có gần 9,2 ngàn ha với hơn 8 ngàn ha đang cho thu hoạch, sản lượng đạt khoảng 50,2 ngàn tấn/năm. Trung Quốc là thị trường tiêu thụ chính chiếm khoảng 70%, còn lại 30% tiêu thụ trong nước. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 7 vùng trồng và 3 cơ sở đóng gói sầu riêng đã được cấp mã số, và được Tổng cục Hải quan Trung Quốc phê duyệt với tổng diện tích sầu riêng hơn 550ha. Ngoài ra, có 13 hồ sơ đăng ký mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích 787,7ha; có 5 cơ sở đóng gói đã gửi hồ sơ.
Để hỗ trợ xuất khẩu, ngành nông nghiệp và PTNT tỉnh Đồng Nai phối hợp đơn vị tư vấn xây dựng Đề án phát triển vùng sản xuất tập trung, dự kiến trình UBND tỉnh phê duyệt trong quý II/2023. Hiện Sở đã phối hợp với các địa phương, rà soát, định hướng phát triển các vùng sản xuất tập trung, với khoảng 300 vùng, 92 ngàn ha làm cơ sở tổ chức sản xuất tập trung, bền vững. Triển khai tổ chức sản xuất theo hình thức liên kết, sản xuất hàng hóa và gắn với tiêu thụ sản phẩm, với 181 chuỗi liên kết.
Th1207
Người trồng dưa háo hức chờ vụ Tết
Nguồn tin: Báo Bà Rịa – Vũng Tàu
Thời điểm này, người trồng dưa trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã xuống giống cho vụ Tết – vụ lớn nhất trong năm. So với vụ dưa Tết năm ngoái, chi phí đầu vào năm nay tăng khá cao. Do vậy, người trồng dưa kỳ vọng vụ này mưa thuận gió hòa, được mùa, được giá để có cái Tết đủ đầy.
Nông dân xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc chăm sóc dưa để chuẩn bị cho vụ Tết.
Chú trọng kỹ thuật, nâng cao chất lượng
Những ngày này, tại vườn trồng dưa lưới của gia đình bà Mai Thanh Hoa, ở ấp Tân Hòa, xã Long Tân, huyện Đất Đỏ, nhân công đang tất bất chăm sóc, xuống phân cho 7 sào dưa lưới phục vụ thị trường Tết Nguyên đán Quý Mão 2023. Sau khi dịch bệnh ổn định, thị trường sôi động trở lại, gia đình bà Hoa tăng diện tích sản xuất. Hiện nay, dưa đã xuống giống gần 20 ngày tuổi, dự kiến từ ngày 23 tháng Chạp, dưa sẽ bắt đầu cho thu hoạch để phân phối ra thị trường ngoài tỉnh.
Theo bà Hoa, khi lên ý tưởng khởi nghiệp cùng giống dưa lưới Hà Lan, ngoài việc đầu tư công nghệ với nhà màng, hệ thống tưới tự động, bà tập trung vào chất lượng, xây dựng thương hiệu riêng trên thị trường. Dù có vốn đầu tư ban đầu khá cao, nhưng nhờ ứng dụng công nghệ, kỹ thuật canh tác mới nên công chăm sóc giảm, sản phẩm an toàn, được thị trường ưa chuộng. Nếu đạt năng suất và giá cả ổn định, từ 4 – 5 vụ, người trồng dưa lưới có thể thu hồi vốn đầu tư ban đầu.
Đối với vụ dưa Tết, ngoài chất lượng, hương vị thơm ngon, người tiêu dùng còn quan tâm đến vẻ đẹp bên ngoài của trái dưa. Vì vậy, để có trái dưa to tròn, ngon và đẹp, thu hoạch đúng dịp Tết, cần chú ý đến nhiều yếu tố trong kỹ thuật canh tác. Dưa được sản xuất trong nhà màng sẽ giúp người trồng kiểm soát tốt hơn về các chỉ số thời tiết, nhiệt độ, cân nặng của trái, dưa được bảo vệ trước sâu bệnh nên mẫu mã cũng đẹp hơn so với trồng bên ngoài. Dù mới xuống giống, nhưng toàn bộ dưa vụ Tết nhà bà đã được thương lái đặt mua để xuất đi thị trường Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh.
“Năm nay, tuy chi phí có tăng do phân bón và nhân công tăng, nhưng bù lại thị trường ổn định hơn năm ngoái. Đặc biệt, dưa lưới của chúng tôi được trồng trong nhà màng bảo đảm an toàn, mẫu mã đẹp nên được thương lái đặt mua từ trước, không phải lo về đầu ra. Dự kiến, chúng tôi sẽ cung ứng ra thị trường hơn 30 tấn dưa lưới trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão”, bà Hoa chia sẻ thêm.
Tại xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc, người trồng dưa cũng đang tất bật thuê nhân công chăm sóc vườn dưa lê phục vụ Tết. Bà Phạm Thị Thúy, ngụ ấp Hồ Tràm thông tin, năm nay bà xuống giống khoảng 6 sào đã được 1 tháng tuổi. Dưa này có thời gian thu hoạch khá nhanh, chỉ khoảng 75 ngày. Theo bà Thúy, vụ này thời tiết khá thuận lợi, song chi phí lại tăng khoảng 1,5 lần so với năm ngoái. Do đó, để có đầu ra ổn định, gia đình bà tập trung chăm sóc cho dưa bảo đảm chất lượng và mẫu mã, không chạy theo số lượng. “Chúng tôi hy vọng từ nay đến khi thu thu hoạch, thời tiết thuận lợi, dưa không bị sâu rầy, côn trùng, chuột bọ cắn phá, bán được giá cao để người dân đón cái tết sung túc, đủ đầy hơn”, bà Thúy cho hay.
Diện tích giảm
Bà Nguyễn Thị Kim Hiền, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Phước Thuận cho biết, địa phương có thổ nhưỡng đặc trưng là vùng đồng bằng ven biển, xen kẽ các dãy đồi cát thấp, khí hậu ôn hòa, mát mẻ nên rất thuận lợi cho việc trồng các loại dưa. Ngoài dưa hấu, dưa lê thông thường, các ruộng dưa đặc sản mới, hương vị lạ như dưa vàng kim cô nương, hoàng kim… cũng được các hộ trồng và phát triển ổn định mấy năm gần đây.
Dù mới xuống giống, vườn dưa lưới của gia đình bà Mai Thanh Hoa, xã Long Tân, huyện Đất Đỏ đã được thương lái đặt mua.
Tuy nhiên, diện tích trồng dưa vụ Tết trên địa bàn xã năm nay giảm phân nửa so với những vụ trước, chỉ còn khoảng 20ha. Nguyên nhân là do thời gian qua mưa nhiều khiến phần lớn diện tích trồng dưa của địa phương bị ngập trong thời gian dài, không thể canh tác. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư tăng, lo thời tiết thiếu ổn định nên nông dân e ngại đầu tư vụ Tết.
Theo ngành nông nghiệp, toàn tỉnh có khoảng 400ha trồng dưa các loại. 2 năm trở lại đây, diện tích trồng dưa vụ Tết có xu hướng giảm dần do chi phí đầu tư khá cao, khiến nhiều nông dân không còn mặn mà. Ngoài ra, đầu ra, giá cả còn phụ thuộc vào thị trường nên người dân không ồ ạt xuống giống vụ Tết mà chia ra thành nhiều đợt canh tác để có sản phẩm thu hoạch trước, trong và sau Tết nhằm tối ưu hóa lợi nhuận.
Bài, ảnh: HỒNG PHÚC
Th1206
Phổ biến quy định về mã số vùng trồng trái cây xuất khẩu
Nguồn tin: Báo Nông Nghiệp
Sau khi Trung Quốc công bố nhập khẩu chính ngạch sầu riêng Việt Nam, Cục Bảo vệ thực vật đã phối hợp với các địa phương phổ biến các quy định của Nghị định thư.
Triển khai ngay sau khi có Nghị định thư
Cuối tháng 7, Tổng cục Hải quan Trung Quốc thông báo các quy định, yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với sầu riêng tươi Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Sau khi có những quy định từ phía Trung Quốc đưa ra, Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT) đã phối hợp với Sở NN-PTNT các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên tổ chức tập huấn, phổ biến các văn phảm quy phạm pháp luật liên quan đến yêu cầu xuất khẩu.
Cụ thể, Cục Bảo vệ thực vật phối hợp với Sở NN-PTNT Đắk Lắk tổ chức “Hội nghị tập huấn hướng dẫn thiết lập mã số vùng trồng sầu riêng và cơ sở đóng gói xuất khẩu chính ngạch sầu riêng”. Tham dự hội nghị có 150 đại biểu là cán bộ các đơn vị trực thuộc, đại diện HTX, tổ hợp tác, doanh nghiệp đóng gói, chế biến sầu riêng xuất khẩu các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên.
Tại hội nghị, Cục Bảo vệ thực vật đã phổ biến quá trình đàm phán mở cửa thị trường đối với quả sầu riêng và Nghị định thư yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với quả sầu riêng xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc. Các quy định chung và yêu cầu cụ thể về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói sầu riêng.
Yêu cầu đối với cán bộ kỹ thuật tại cơ sở đóng gói sầu riêng, hướng dẫn giám định sinh vật gây hại tại cơ sở đóng gói và quy trình cấp mã số và ghi chép tại vùng trồng, cơ sở đóng gói, hướng dẫn sử dụng nhật ký điện tử My Dairy Farm.
Ngoài ra, các doanh nghiệp, HTX, nông dân cũng được tập huấn, hướng dẫn sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật tại vùng trồng, thu gom và xử lý vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật đã sử dụng, xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tại vùng trồng xuất khẩu.
Thời điểm Tổng cục Hải quan Trung Quốc thông báo các quy định xuất khẩu trúng vào thời điểm sầu riêng tại Đắk Lắk chuẩn bị vào vụ thu hoạch. Để kịp đưa những lô hàng sầu riêng đầu tiên vào Trung Quốc, UBND tỉnh Đắk Lắk đã có quyết định giao Sở NN-PTNT làm đầu mối phối hợp với các đơn vị trực thuộc Bộ NN-PTNT, các tổ chức, các nhân liên quan rà soát, đối chiếu các điều kiện của vùng trồng, cơ sở đóng gói sầu riêng để đáp ứng đầy đủ điều kiện, tiêu chuẩn phục vụ xuất khẩu.
Quyết định cũng yêu cầu, Sở NN-PTNT Đắk Lắk phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật hướng dẫn doanh nghiệp, người dân về quy định của mã vùng trồng, cơ sở đóng gói và hoàn thiện hồ sơ liên quan, sẵn sàng cung cấp khi Tổng cục Hải quan Trung Quốc đề nghị.
UBND tỉnh Đắk Lắk cũng yêu cầu Sở NN-PTNT chủ động phối hợp với các đơn vị của Bộ NN-PTNT thiết lập và đảm bảo các điều kiện kỹ thuật cần thiết với vùng trồng, cơ sở đóng gói tại địa phương để phục vụ công tác mở cửa thị trường, giải quyết các rào cản kỹ thuật và yêu cầu quy định khác của nước nhập khẩu.
Sở NN-PTNT tăng cường áp dụng công nghệ thông tin để quản lý vùng trồng, cơ sở đóng gói trên nền tảng cơ sở dữ liệu quốc gia do Cục Bảo vệ thực vật xây dựng. Đồng thời, phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật ban hành quy trình phòng trừ dịch hại đối với cây sầu riêng trồng xen trong vườn cà phê, hồ tiêu,… đặc biệt là các loại sinh vật gây hại mà Trung Quốc quan tâm, hướng dẫn sử dụng phầm mềm quản lý từ khâu sản xuất đến xuất khẩu sản phẩm.
Nâng cao nhận thức về các quy định xuất khẩu
Còn tại Đắk Nông, Cục Bảo vệ thực vật sẽ phối hợp với Sở NN-PTNT tổ chức chương trình tập huấn thiết lập và cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói cho các tỉnh Tây Nguyên vào ngày 7-8/12.
Chương trình sẽ tập huấn cho các doanh nghiệp, HTX, người dân về quy định mã vùng trồng, cơ sở đóng gói, các yêu cầu về vùng trồng xuất khẩu và cơ sở đóng gói. Tại đây, chuyên gia của Phòng thuốc BVTV Cục Bảo vệ thực vật sẽ phổ biến các quy định về việc sử dụng thuốc BVTV tại vùng trồng, thu gom và xử lý vỏ bao bì thuốc BVTV đã sử dụng.
Các học viên cũng sẽ được hướng dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình giám sát dư lượng thuốc BVTV tại vùng trồng xuất khẩu; Quy trình cấp mã số vùng trồng cũng như cơ sở đóng gói, hồ sơ của cơ quan quản lý, hồ sơ của vùng trồng và cơ sở đóng gói. Phổ viến các quy định về đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nông sản nguồn gốc thực vật xuất khẩu vào Trung Quốc theo Lệnh 248; An toàn thực phẩm trong nông sản vào Trung Quốc theo Lệnh 249.
Đặc biệt, hội nghị sẽ giới thiệu và hướng dẫn các học viên sử dụng, trải nghiệp sử dụng nhật ký điện tử My Farm diary cùng phần mềm quản lý nhà đóng gói.
Cục Bảo vệ thực vật đặt mục tiêu sau chương trình tập huấn, các doanh nghiệp, HTX, người dân tại Tây Nguyên sẽ nắm rõ được quy định về mã vùng trồng, cơ sở đóng gói để phục vụ cho việc xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc.
Trước đó, để phổ biến về các quy định xuất khẩu theo Nghị định thư đã ký kết giũa Bộ NN-PTNT Việt Nam và Tổng cục Hải quan Trung Quốc, Cục Bảo vệ thực vật đã đề nghị Sở NN-PTNT các tỉnh, thành phố tuyên truyền video clip hướng dẫn xây dựng mã vùng trồng và cơ sở đóng gói.
Theo Cục Bảo vệ thực vật, hiện công tác cấp và giám sát mã vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói đáp ứng theo quy định của nhiều nước nhập khẩu phục vụ truy xuất nguồn gốc đang được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ trên toàn quốc, nhằm cung cấp, hướng dẫn thông tin một các trực quan và dễn tiếp cận tới các đối tượng khác nhau tham gia chuỗi xuất khẩu, Cục Bảo vệ thực vật đã xây dựng 5 video clip gồm: Quy định cấp, thu hồi mã số vùng trồng/cơ sở đóng gói và hướng dẫn xuất khẩu chanh leo, sầu riêng sang thị trường Trung Quốc.
Tại Đắk Nông, để hướng dẫn, thiết lập, giám sát và quản lý mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói nông sản phục vụ xuất khẩu triên địa bàn, UBND tỉnh này đã yêu cầu các sở ngành tăng cường công tác phổ biến các quy định của Nghị định thư.
UBND tỉnh Đắk Nông yêu cầu Sở NN-PTNT chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác hỗ trợ, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá phát triển mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, công tác quản lý, giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói đã được cấp mã số theo đúng hướng dẫn của Bộ NN-PTNT. Chú trọng tổ chức thực hiện các chương trình quản lý sinh vật gây gại tại các vùng trồng, cơ sở đóng gói được cấp mã số để đảm bảo duy trì đáp ứng các quy định kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm.
Tỉnh Đắk Nông yêu cầu các đơn vị chuyên môn chủ động phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật thiết lập và đảm bảo các điều kiện kỹ thuật cần thiết đối với các vùng trồng, cơ sở đóng gói tại các địa phương trên địa bàn tỉnh để phục vụ công tác mở cửa thị trường, giải quyết các rào cản kỹ thuật và xử lý các thông báo không tuân thủ quy định kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm. Ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý vùng trồng và cơ sở đóng gói trên nền tảng Cơ sở dữ liệu Quốc gia do Bộ NN-PTNT xây dựng.
Th1205
Nông dân chật vật trong “cơn bão” vật tư nông nghiệp
Nguồn tin: báo Sài gòn Giải Phóng
Giá vật tư nông nghiệp tăng “phi mã”, thậm chí có nông dân chua xót nói: “Chưa bao giờ thấy vật tư nông nghiệp giảm giá trong suốt năm 2022”. Vụ lúa thu đông vừa qua, trong nhiều lý do nông dân để đất trống có lý do sợ thua lỗ vì giá vật tư tăng quá cao. Nông dân trồng lúa, cây ăn trái, nuôi tôm không thể “bỏ đất trống mãi”.
Mô hình lúa hữu cơ kết hợp nuôi tôm càng xanh của HTX Long Hiệp (huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh) đạt hiệu quả cao. Ảnh: TÍN DI
Chỉ tăng và tăng
Ông Phạm Công Danh (xã Mong Thọ, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) nói như mếu: “Hơn 10 năm trồng 8ha lúa, chưa bao giờ thấy giá phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giảm, chỉ có tăng ít hay nhiều mà thôi. Trước đây, phân urê khoảng 400.000-500.000 đồng/bao (loại 47kg/bao), giờ vọt hơn 1 triệu đồng/bao. Với chi phí sản xuất tăng, vụ lúa thu đông này dù được mùa, nhưng lợi nhuận vẫn không thể nào cao như những vụ trước”.
Theo ông Danh, gần đây giá vật tư nông nghiệp tăng gấp đôi, ảnh hưởng đến sản xuất và lợi nhuận của nông dân. Đặc biệt, tháng trước giá xăng dầu tăng cao, nông dân tăng thêm khoản chi phí trong sản xuất và khâu vận chuyển. Còn bà Nguyễn Thúy Nga (xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp) lo lắng khi giá vật tư nông nghiệp, nhất là phân bón tăng chưa có điểm dừng. “Mỗi hécta lúa phải bón từ 600-700kg phân các loại. Vụ lúa rồi, lợi nhuận đã giảm 40% vì giá phân bón tăng. Hiện nay tất cả các loại phân bón tiếp tục tăng cao, nguy cơ vụ đông xuân 2022-2023 sắp tới sẽ bị lỗ vốn nếu giá lúa không tăng”, bà Nga chia sẻ.
Ngăn chặn tình trạng trục lợi, tăng giá vật tư nông nghiệpTheo Sở NN-PTNT tỉnh Tiền Giang, ngành đang tăng cường tổ chức các cuộc thanh tra chuyên ngành, thanh tra việc chấp hành quy định pháp luật về sản xuất, kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, không để tình trạng trục lợi, tăng giá hoặc vận chuyển, sản xuất, kinh doanh, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ. Cụ thể là tăng cường lấy mẫu kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm phân bón. Thông báo kế hoạch sản xuất, lịch thời vụ, quy mô sản xuất các loại cây trồng đến doanh nghiệp, đại lý, cửa hàng vật tư nông nghiệp để chủ động cân đối, cung ứng giống, phân bón… đáp ứng kịp thời cho sản xuất. |
Trong 6 tháng gần đây, giá phân bón tăng rất cao, có những loại tăng giá trên 100%. Chẳng hạn, giá phân urê là 16.000 đồng/kg, trong khi cùng kỳ các năm chỉ khoảng 6.700 đồng/kg. Nhiều chủ đại lý phân bón cũng than khó vì các loại phân bón tăng gần gấp đôi, khiến việc kinh doanh rất khó khăn. Ông Nguyễn Phước Hưng, chủ đại lý phân bón Hưng Lợi (xã Mỹ Lâm, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang) cho hay, hiện tại giá phân urê khoảng 960.000 đồng/bao, giá kali sản xuất trong nước cũng đã gần 800.000 đồng/bao… So với cùng kỳ năm trước, giá các loại phân bón tăng ít nhất 80% trở lên, trong đó tăng cao nhất là urê trên 125%, phân DAP tăng 150%.
Ông Trần Văn Việt, Giám đốc HTX Nuôi tôm công nghiệp Thành Công (xã Tân Dân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) cho biết: “Nông dân nuôi tôm đối diện với nhiều khó khăn như thời tiết, dịch bệnh và đặc biệt là giá thức ăn tăng cao. Từ khi xảy ra đại dịch Covid-19 đến giờ, giá thức ăn cho tôm đã nhiều lần điều chỉnh tăng. Vì vậy, nông dân thu hoạch rơi vào thời điểm giá tôm thấp thì sẽ thua lỗ”.
Tìm giải pháp thích ứng
ĐBSCL có gần 3 triệu hécta trồng lúa, cây ăn trái và nuôi thủy sản, nhu cầu sử dụng hàng triệu tấn vật tư nông nghiệp trong năm. Riêng vụ lúa đông xuân 2022-2023, ĐBSCL xuống giống hơn 1,5 triệu ha lúa. Tính toán sơ bộ của các sở NN-PTNT trong vùng, cần khoảng 1 triệu tấn phân và khoảng 10.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật. Cùng với giá vật tư tăng vọt, diễn biến giá xăng dầu càng làm nông dân thêm lo lắng. Trong bối cảnh đó, ngành nông nghiệp và các địa phương trong vùng đang nỗ lực giúp nông dân áp dụng đồng bộ các giải pháp sản xuất tiến bộ để giảm lượng giống và lượng phân bón.
Ngay khi giá vật tư nông nghiệp tăng vọt, Bộ NN-PTNT và các tỉnh, thành vùng ĐBSCL đã khẩn trương tăng cường tập huấn, hướng dẫn nông dân sử dụng phân bón cân đối, tiết kiệm; tăng cường sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ nhằm giảm dần hoặc thay thế phân bón vô cơ…
Theo Bộ NN-PTNT, có 40.000-60.000ha lúa/vụ ở ĐBSCL đã áp dụng các mô hình sản xuất theo hướng tiết kiệm vật tư nông nghiệp, thân thiện với môi trường như: sản xuất lúa hữu cơ, sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP, canh tác lúa thông minh, sản xuất lúa an toàn sử dụng khoáng tự nhiên không phun thuốc thuốc bảo vệ thực vật… Hầu hết các mô hình sản xuất lúa đều giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Sản phẩm từ các mô hình này có đầu ra ổn định, tăng thu nhập, tạo được vùng nguyên liệu, đảm bảo sức khỏe người sản xuất, giảm ô nhiễm môi trường, hướng đến sản xuất bền vững. So với ruộng không áp dụng theo quy trình, các mô hình này đã giúp nông dân đạt lợi nhuận cao hơn ruộng không áp dụng mô hình từ 3-8 triệu đồng/ha. Đây được xem là giải pháp thiết thực giúp nông dân thích nghi và duy trì lợi nhuận tối thiểu từ sản xuất lúa. Tuy nhiên, diện tích áp dụng các mô hình này vẫn còn ở mức khiêm tốn, cần nhanh chóng nhân rộng các mô hình này là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Theo ý kiến của các nhà khoa học và nhiều nông dân, các địa phương cần tăng cường kiểm soát giá phân bón bán buôn ở các đại lý vật tư, nhất là kiểm soát chặt mức “hoa hồng” ở mức vừa phải, không để tăng quá cao. Ngoài ra, hiện hàng ngàn nông dân trồng lúa, trồng cây ăn trái có hợp tác với doanh nghiệp (bao tiêu sản phẩm), thì giá vật tư do doanh nghiệp cung cấp thường thấp hơn mua ở các đại lý 5%-15%. Đây là cách làm hay cần nhân rộng để giảm trung gian ở các đại lý, giúp giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận cho nông dân.
GS-TS VÕ TÒNG XUÂN:Sử dụng phân bón thân thiện với môi trườngCần phân định rõ ĐBSCL có 3 vùng nông nghiệp chính: Vùng thượng nguồn – nước ngọt quanh năm; vùng giữa – ngập sâu trong mùa mưa, khô hạn trong mùa nắng, nước mặn có thể xâm nhập; vùng ven biển – nước ngọt trong mùa mưa, nước mặn-lợ trong mùa nắng. Theo đó, sản xuất lúa ở vùng thượng nguồn có hệ thống thủy lợi cần áp dụng kỹ thuật canh tác an toàn thực phẩm chất lượng cao, bón lót phân hữu cơ vi sinh có pha ít phân khoáng NPK, bón thúc và nuôi đòng với lượng phân khoáng vừa phải. Vùng giữa đồng bằng gồm lúa, thủy sản, mương liếp trồng cây ăn trái, cần tăng cường áp dụng phân bón hữu cơ vi sinh kết hợp ít phân khoáng và thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Vùng ven biển, là vùng sản xuất bền vững nhất: lúa chất lượng cao xen nuôi tôm càng xanh trong mùa mưa và nuôi thủy sản nước lợ/mặn trong mùa nắng. Vùng này cần sản xuất giống lúa chất lượng cao và ngon cơm được sản xuất theo phương pháp an toàn thực phẩm gắn với sử dụng phân hữu cơ vi sinh kèm một ít phân khoáng. |
PGS-TS DƯƠNG VĂN CHÍN, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL:Sản xuất hữu cơ nên tính đến yếu tố thị trườngCác bộ, ngành cần có các giải pháp phù hợp để thích ứng với vật tư nông nghiệp tăng giá trên thế giới. Vùng ĐBSCL cần tập hợp các HTX trong vùng và thuyết phục các nông dân xã viên áp dụng mô hình: Giảm 50% lượng phân bón sử dụng bằng cách chôn vùi phân bón xuống sình nhưng năng suất lúa vẫn không giảm theo nhiều kết quả nghiên cứu khoa học trên thế giới và trong nước. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là một phong trào rộng khắp thế giới. Nhiều nước trên thế giới cũng ưu tiên phát triển nông nghiệp hữu cơ. Việt Nam đã có những thành tựu bước đầu. Diện tích nuôi trồng hữu cơ gia tăng qua từng năm, các ngành hữu quan đã xây dựng tiêu chuẩn để đạt sản phẩm hữu cơ, nhiều công ty dịch vụ trong nước cũng như quốc tế đang làm dịch vụ chứng nhận hữu cơ tại Việt Nam. Nông nghiệp hữu cơ là một chân trời rộng mở. Tuy nhiên nên lưu ý, muốn phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững nên tính đến yếu tố thị trường. |
Ông NGUYỄN THANH TRUYỀN, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnhLong An: Hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vậtĐiều cần thiết hiện nay là tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng phân bón tiết kiệm, tận dụng phân chuồng, phân hữu cơ vi sinh…, bón phân phù hợp theo nguyên tắc 4 đúng: Đúng loại, đúng lúc, đúng liều lượng và đúng cách sử dụng. Theo đó, ngành nông nghiệp địa phương đã tăng cường hướng dẫn nông dân quy trình quản lý dịch hại tổng hợp ngay trên đồng ruộng theo vòng đời phát triển của cây lúa. Nông dân được thấy, hiểu và áp dụng, từ đó hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, bảo vệ được số lượng thiên địch cần thiết, bảo vệ môi trường, sức khỏe con người và giảm chi phí sản xuất. Ngoài ra, ngành tiếp tục tuyên truyền cho người dân nguyên tắc 4 đúng khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật: đúng chủng loại, đúng liều lượng và nồng độ, đúng thời điểm, đúng kỹ thuật. |
Th1205
Thu nhập tốt nhờ xử lý khóm trái vụ trên đất mặn phèn
Nguồn tin: báo Nông Nghiệp
HẬU GIANG Dù trên đất mặn phèn, cây khóm (dứa) vẫn thích nghi tốt, cho năng suất, chất lượng cao. Nếu xử lý khóm cho trái nghịch mùa, nông dân bán giá cao, thu nhập rất tốt.
Vùng đất Hỏa Tiến (TP Vị Thanh, Hậu Giang) xưa nay vốn nhiễm phèn, nhiễm mặn, kén cây trồng. Nông dân chủ yếu sống bằng cây khóm, cây mía và tràm. Nhưng cây mía giá cả bấp bênh, còn tràm thì trồng gần chục năm mới thu hoạch. Chỉ còn cây khóm là “cứu cánh” cho nông dân trên vùng đất khó.
Điển hình như gia đình ông Lê Thanh Nghiệp ở ấp Vị Thắng trước đây không ít lần thua lỗ vì trồng mía, nên chuyển sang cây khóm. Đến nay, với kinh nghiệm hơn 10 năm trồng khóm, ông Nghiệp là người thành công với cách xử lý cho trái ra mùa nghịch, bán được giá cao.
Ông Nghiệp cho biết, giống khóm gia đình chọn trồng là giống Queen, với đặc điểm cho trái to, cuống ngắn, hốc mắt hơi sâu, lõi nhỏ, thịt màu vàng đậm, ít xơ, ít nước, ăn giòn và ngọt thanh. Vườn khóm nhà ông Nghiệp từ lúc trồng đến 12 tháng cây bắt đầu cho trái, trung bình trọng lượng trái từ 1,5 – 2kg, cho năng suất trung bình 20 tấn/ha.
Cũng theo ông Nghiệp, lúc đầu kinh tế gia đình còn eo hẹp nên ông vay ngân hàng 60 triệu đồng về làm vốn. Với phương châm lấy ngắn nuôi dài, ai thuê gì hai vợ chồng ông Nghiệp làm đó để lấy tiền tu bổ vào ruộng khóm. Khi ruộng khóm phát triển tốt, ông Nghiệp bắt đầu canh mùa vụ.
“Theo kinh nghiệm tôi đúc kết được, vào những tháng 6, 7, 9 và tháng 11 giá khóm cao tột đỉnh nên bà con canh thu hoạch vào những tháng đó là hốt bạc”, ông Nghiệp chia sẻ.
Ông Nghiệp cho biết thêm, khâu quan trọng nhất là làm đất, nếu để cỏ dại mọc nhiều trên đất khóm thì tiền thuê nhân công làm cỏ còn cao gấp đôi số tiền làm đất ban đầu. Kế đó, ông Nghiệp chọn giống khóm cho trái to, dài, sạch bệnh, ít bị chết cây.
“Người trồng khóm nên thường xuyên thăm ruộng, nếu phát hiện cây bị bệnh, thay vì cố gắng phun thuốc cứu cây, bà con nên nhổ bỏ, trồng mới bằng cây khác. Bởi vì, tiền nông dân mua thuốc phun cây còn đắt hơn một cây khóm giống nhiều lần”, ông Nghiệp nói.
Ông Nghiệp tiết lộ thêm, để giảm chi phí đầu vào, ông sử dụng phân hữu cơ kết hợp với vô cơ theo tỷ lệ 7/3. Sử dụng phân hữu, ngoài giảm được chi phí, vườn khóm của ông Nghiệp còn xanh tốt, tỷ lệ trái to, đạt năng suất. Nhờ vậy, ruộng khóm rộng 2 ha nhà ông Nghiệp sau khi trừ hết chi phí vẫn còn lãi gần 200 triệu đồng.
Không những sản xuất giỏi, ông Nghiệp còn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm cho bà con trong xóm làm theo và đã thành công.
Bà Đoàn Thị Sương, ngụ cùng địa phương phấn khởi cho biết: “Gia đình tôi vừa thu hoạch 15 công khóm (1 công = 1.000m2), được khoảng 30 tấn trái, thương lái đến mua tại ruộng với giá 10 nghìn đồng/trái (khóm loại nhất). Sau khi trừ hết chi phí, tôi bỏ túi khoảng 150 triệu đồng”.
Bà Sương chia sẻ thêm, cây khóm dễ trồng, phát triển tốt trên đất phèn, chi phí lại thấp. Bình quân 1 công đất bà Sương trồng khoảng 2 nghìn cây giống, mỗi cây cách nhau từ 6 – 7cm. Sau khi trồng cây được 1 tháng tuổi, bà Sương bắt đầu tưới phân kích thích ra rễ. Tiếp đó, đều đặn mỗi tháng bà Sương tưới phân hữu cơ dưỡng cây một lần. Sau 12 lần tưới phân, ruộng khóm bà Sương bắt đầu cho cho trái.
Theo tính toán của bà Sương, vốn đầu tư vào một công đất khóm, từ lúc trồng đến khi thu hoạch chỉ tốn khoảng 5 – 8 triệu đồng, trong khi bán được giá, lợi nhuận đến 15 triệu đồng. Vì vậy, năm tới bà Sương dự định sẽ mở rộng diện tích trồng khóm thêm khoảng 1ha và tiếp tục xử lý cho ruộng khóm ra trái nghịch mùa.
“Tháng mùa nghịch, khóm bán có giá từ 10 nghìn đồng/trái trở lên, thương lái mua cũng ít dạt hàng, nhờ vậy nông dân chúng tôi mới có lãi”, bà Sương thổ lộ.
Cũng theo bà Sương, ngoài dùng để ăn tươi, ngày nay khóm được chế biến thành nhiều mặt hàng khác như nước khóm ép, khóm sấy khô, kẹo, mứt, nước giải khát… Ngoài ra, khóm là nguyên liệu nấu ăn quen thuộc của nhiều người với những món ăn từ khóm như canh chua cá rô, thịt ba rọi xào khóm, khóm kho cá…
Ông Trương Hữu Vịnh, Chủ tịch Hội Nông dân xã Hỏa Tiến cho biết, khoảng 3 năm lại đây, do tác động của biến đổi khí hậu, mặt nước dâng cao ảnh hưởng đến năng suất của một số loại hoa màu tại địa phương. Riêng cây khóm vẫn phát triển tốt, giá bán ổn định nên Hội Nông dân xã đã hướng dẫn kỹ thuật cho bà con chuyển đổi sang trồng khóm để cải thiện kinh tế hộ gia đình. Bên cạnh đó, địa phương cũng đã thành lập 2 HTX để thông qua đó xây dựng thương hiệu khóm Cầu Đúc, xã Hỏa Tiến tiến xa hơn nữa trên thị trường.
Theo Sở NN-PTNT Hậu Giang, cây khóm được xác định là một trong 4 loại cây trồng chủ lực của tỉnh. Trong năm 2022, diện tích khóm xuống giống toàn tỉnh hơn 3 nghìn ha, sản lượng ước tính đạt hơn 37 nghìn tấn; kế hoạch đến năm 2023, sản lượng toàn tỉnh nâng lên trên 48 nghìn tấn.
Theo đề án quy hoạch của tỉnh Hậu Giang, xã Hỏa Tiến quy hoạch trở thành vùng trồng khóm với 100% diện tích. Đến nay, có khoảng 80% diện tích toàn xã chuyển đổi từ cây khác sang khóm. Hướng tới, tỉnh tiếp tục xây dựng thương hiệu khóm Cầu Đúc để nâng cao khả năng cạnh tranh, mang lại giá trị kinh tế, xã hội và có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc địa phương.
Th1202
Nơm nớp vụ rau Tết
Nguồn tin : báo Nông Nghiệp
BÌNH ĐỊNH Nông dân Bình Định hiện đã xuống giống vụ rau Tết Nguyên đán Quý Mão 2023, đứng trước dự báo đầu tháng 12 này sẽ có mưa lớn, người trồng rau không khỏi lo lắng.
Rau Tết dự báo tăng giá
Để kịp cung ứng cho người tiêu dùng vào dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023, hiện nay nông dân các vùng rau lớn ở Bình Định đã xuống giống các loại rau ăn quả như khổ qua, đậu bắp, đậu cô ve, đậu Hòa Lan, súp lơ, riêng dưa leo có thời gian sinh trưởng chỉ 40 ngày nên bà con chưa xuống giống. Những diện tích trồng rau ăn lá nông dân luân canh quanh năm, nhưng vụ rau chuẩn bị cung ứng cho người tiêu dùng trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023 sắp tới mang đến cho người trồng rau sự hồ hởi, bởi dự báo Tết này rau xanh sẽ lên giá.
Những vùng rau ở Bình Định đang hồ hởi vào vụ rau Tết. Ảnh: V.Đ.T.
Trong những ngày này, vùng rau an toàn Thuận Nghĩa thuộc Thị trấn Phú Phong (huyện Tây Sơn, Bình Định) trở nên sôi động hẳn, bởi bà con đang hối hả xuống các loại rau ăn quả để kịp bán Tết. Theo ông Quách Văn Cầu, Giám đốc HTX Nông nghiệp Thuận Nghĩa, trong 10 ngày nay, hôm nào thời tiết thuận lợi là bà con ra đồng xuống giống rau, vùng rau trở nên náo nhiệt hơn những ngày bình thường. Bởi, vụ rau này có ý nghĩa sẽ mang lại những khoản tiền để bà con sắm sanh rượu thịt, mua rim mứt cho gia đình ăn Tết và quần áo mới cho con cái.
Hiện vùng rau Thuận Nghĩa có 19,5ha được công nhận là rau an toàn, có 9 nhóm cùng sở thích sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP với 244 thành viên. Bà Lê Thị Phu, người có thâm niên sản xuất rau ở Thuận Nghĩa hiện đã xuống giống hơn 2 sào hành (500m2/sào) và 3 sào rau ăn lá.
Bà Phu chia sẻ: “Tôi luôn ý thức chấp hành quy trình sản xuất để cho ra sản phẩm rau theo tiêu chuẩn VietGAP. Trước khi sản xuất, tôi chuẩn bị kỹ từ khâu làm đất, trong quá trình rau sinh trưởng, tôi chăm sóc rau theo đúng quy trình để rau cho năng suất, chất lượng cao kịp bán Tết. Làm ăn cả năm, cuối năm có dư giả hay không người trồng rau ở đây đều kỳ vọng vào vụ rau Tết nên vụ rau này bà con tập trung đầu tư cho những vồng rau của mình ghê lắm!”.
Nỗi lo mưa lũ uy hiếp
Theo ông Quách Văn Cầu, Giám đốc HTX Nông nghiệp Thuận Nghĩa, mấy ngày nay trời hửng nắng, người trồng rau ở Thuận Nghĩa rủ nhau ra đồng làm đất, vun luống chuẩn bị sản xuất vụ rau Tết. Thế nhưng khi nghe dự báo thời tiết về đợt mưa lớn sẽ xảy ra vào đầu tháng 12/2022, người trồng rau ở Thuận Nghĩa vô cùng lo lắng, nhiều người đã dừng xuống giống các loại rau ăn quả. Những diện tích đã làm đất, lên vồng, bà con lấy bạt nilon phủ những vồng đất lại để tránh bị mưa làm trôi đất, đợi hết mưa lấy bạt ra bắt đầu xuống giống, những vồng rau ăn quả đã xuống giống cũng được bà con tủ lại để tránh bị trôi giống.
“Những diện tích rau ăn quả đã xuống giống được 10 ngày nay không còn lo trôi mất giống, chỉ sợ những diện tích vừa xuống giống trong những ngày cuối tháng 11. Tuy những diện tích trồng rau ăn quả không sợ mất giống nhưng nếu gặp mưa lớn quá sẽ bị ảnh hưởng đến sinh trưởng, mất năng suất”, ông Cầu lo lắng.
Người trồng rau ở huyện An Lão cũng không ngoại lệ, hiện đang rất lo lắng khi các loại rau trồng bán Tết như bắp cải, dưa leo, khổ qua, củ cải trắng, ớt, hành, xà lách… đã xuống giống từ đầu tháng 10 âm lịch (25/10 dương lịch).
Bà Võ Thị Hương, người có thâm niên 20 năm trồng rau ở thôn Tân Lập, xã An Tân (huyện An Lão) hiện đang trồng hơn 5 sào dưa leo, khổ qua, đến nay, khổ qua đã bắt đầu ra trái lứa đầu. Hiện khổ qua đang được thương lái mua tại vườn với giá từ 16.000 – 18.000đ/kg. Theo bà Hương, nếu giá này ổn định kéo dài đến Tết, mỗi sào khổ qua bà sẽ có thu nhập 10 triệu đồng, cầm chắc có cái Tết ấm áp.
Ở vùng rau an toàn của HTX Nông nghiệp Phước Hiệp (huyện Tuy Phước), nơi có 13ha chuyên canh cây rau theo hướng VietGAP hiện cũng đã xuống giống 6ha các loại rau ăn quả như khổ qua, đậu bắp, đậu Hòa Lan, những diện tích còn lại bà con trồng rau ăn lá được sản xuất thường xuyên hết vụ này đến vụ khác, luân canh quanh năm. Riêng cây dưa leo ở vùng rau Phước Hiệp bà con chưa trồng, bởi thời gian sinh trưởng của dưa leo chỉ 40 ngày là cho quả, nên người trồng rau ở đây đợi qua đợt mưa đầu tháng 12 dương lịch tới đây mới bắt đầu xuống giống.
“Hầu hết rau ở đây đều được trồng trên vồng, nếu mưa nhỏ thì không sợ bị ngập, nhưng mưa lớn chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, còn nếu xảy ra lũ lớn thì cầm chắc các vùng rau sẽ tan tác, bởi huyện Tuy Phước được mệnh danh là “rốn lũ” của tỉnh Bình Định”, ông Phạm Long Thăng, Giám đốc HTX Nông nghiệp Phước Hiệp chia sẻ.
“Trên địa bàn Bình Định hiện có 50 nhóm cùng sở thích về sản xuất rau an toàn với diện tích trên 100ha. Trong đó, có 20 nhóm cùng sở thích được thành lập từ các HTX Nông nghiệp Phước Hiệp (huyện Tuy Phước), Thuận Nghĩa (huyện Tây Sơn) và Nhơn Thọ (thị xã An Nhơn). Các nhóm cùng sở thích lấy thương hiệu “Lá Lành” để cung cấp sản phẩm ra thị trường. Các nhóm sản xuất rau an toàn được đào tạo, thực hành sản xuất theo hướng VietGAP, cải thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của thị trường”, ông Trần Văn Phúc, Giám đốc Sở NNPTNT Bình Định cho hay.
Th1129
Sản xuất an toàn, hữu cơ và kết nối tiêu thụ cho 300 hợp tác xã
Nguồn tin: báo Nông Nghiệp
SƠN LA 300 HTX với khoảng 800 sản phẩm nông sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc sản xuất theo quy trình an toàn, hữu cơ và được liên kết, kết nối tiêu thụ bền vững.
Ngày 22/11 tại Vân Hồ (tỉnh Sơn La), Trung tâm Kiểm nghiệm – Kiểm chứng và Tư vấn chất lượng Nông lâm thủy sản (RETAQ, thuộc Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và Thủy sản (Bộ NN-PTNT) đã ký kết chương trình phối hợp với Trung tâm hỗ trợ Khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo Quốc gia (Cục Quản lý doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ, Bộ KH-CN) và Làng Nông nghiệp khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo quốc gia Techfest.
Mô hình Trạm xanh xử lý phụ phẩm nông nghiệp tại Vân Hồ, Sơn La. Ảnh: Anh Cường.
Mục tiêu của chương trình phối hợp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX và các hộ sản xuất nông sản trong mạng lưới Techfest nâng cao chất lượng sản phẩm, tập huấn và tư vấn cho các chủ thể thực hiện quy trình trồng trọt và chế biến tiên tiến (VietGAP, hữu cơ, sản phẩm thiên nhiên, OCOP…) nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp, hướng đến sản xuất nông nghiệp “thuận thiên”, bền vững.
Tại mô hình Trạm xanh xử lý phụ phẩm nông nghiệp tại Vân Hồ, Sơn La, nông dân mang phụ phẩm đến Trạm để đổi lấy phân hữu cơ, bón lại chính vườn cam của họ. Đây là giải pháp hợp tác hiệu quả để xử lý gần 160 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp của Việt Nam.
Sau gần 2 năm triển khai, đến nay, Hệ sinh thái Làng nông nghiệp Techfest quốc gia đã kết nối 300 HTX sản xuất nông sản với nhiều nguồn lực khác nhau. Qua đó, khoảng 800 sản phẩm nông sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã được sản xuất theo quy trình an toàn, hữu cơ và được kết nối, liên kết tiêu thụ bền vững.
Đối với riêng tỉnh Sơn La, hiện có hơn 3.000 doanh nghiệp và 700 HTX với 84 nghìn ha cây ăn quả, đứng thứ 2 toàn quốc về diện tích; tổng sản lượng trái cây hàng năm của tỉnh hơn 400 nghìn tấn. Với mục tiêu đẩy mạnh phát triển, liên kết chuỗi và mở rộng thị trường, tỉnh rất cần sự hợp tác, hỗ trợ để phát triển, chế biến sâu và tiêu thụ nông sản địa phương, hướng đến xuất khẩu.
Bà Nguyễn Thị Thu, Trưởng Làng Nông nghiệp Techfest quốc gia cho hay: “Kết nối đầu ra thành chuỗi phân phối nông sản an toàn bền vững là một nhiệm vụ trọng tâm của chúng tôi. Đến nay, 300 HTX, doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng, Quảng Ninh… đã được kết nối với 30 cửa hàng và 400 đại lý tiêu thụ nông sản tại các thành phố lớn. Qua đó, hơn 800 sản phẩm nông sản ở nhiều tỉnh, thành phố đã tạo được đầu ra”.
Tuy nhiên, vấn đề được cả cơ quan quản lý và các chủ thể quan tâm là tính thực chất của các chứng nhận chất lượng nông sản để hướng tới nông nghiệp “thuận thiên”, an toàn.
TS Đặng Văn Cường, Trung tâm RETAG cho rằng: Chúng ta đang đẩy mạnh nhiều giải pháp giúp các chủ thể thực hiện sản xuất, trồng trọt, chế biến theo quy trình chất lượng tiên tiến như VietGAP, HACCP, hữu cơ, thiên nhiên, OCOP… Tuy nhiên, việc cấp được chứng nhận này mới chỉ đi được phân nửa chuỗi. Sau đó là phải kiểm tra, giám sát các chủ thể có tiếp tục làm đúng quy trình hay không, có tiếp tục đào tạo nâng cao năng lực cho họ để họ tự biết cách quản trị tốt, biết mở rộng thị trường, biết bảo vệ nhau để giữ uy tín sản phẩm hay không thì hầu như chưa làm được nhiều.
Bản thân việc cấp chứng nhận cho các chủ thể cũng cần đánh giá lại toàn diện và quản lý chặt. Ví dụ huyện Hàm Yên (Tuyên Quang) vừa rồi, gần 6.800ha cam, bưởi, trong đó đặc biệt là dòng cam sành đặc sản đang có nguy cơ chết hàng loạt do việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu không đúng quy trình. Do đó, bản thân các đơn vị đánh giá, cấp chứng nhận sản xuất tiên tiến cần làm chặt chẽ, giám sát định kỳ.
Với sản phẩm OCOP, Bộ NN-PTNT quản lý 16/26 nhóm ngành hàng, do đó cần có hoạt động cụ thể về công tác kiểm nghiệm, đánh giá chất lượng các sản phẩm đã được gắn sao OCOP, đặc biệt là các sản phẩm 4 – 5 sao để giữ uy tín các chứng nhận, giúp các chủ thể yên tâm, tiếp tục đầu tư vào sản xuất an toàn, “thuận thiên”.
Th1215