Tin tức
Người đưa cách làm nông nghiệp hữu cơ ở ‘trời Âu’ về xứ Thanh
Được chứng kiến cách làm nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn, tiết kiệm chi phí khi còn ở Cộng hòa Séc, chị Hoan đã quyết về quê lập nghiệp bằng chính mô hình này.
Ấp ủ cách làm ở xứ người
Sau hơn 20 năm bôn ba xứ người, chị Nguyễn Thị Hoan ở thôn Én Giang, xã Quảng Hợp (Quảng Xương, Thanh Hóa) mang theo dự định xây dựng trang trại sản xuất nông nghiệp theo hướng an toàn cho riêng mình và về nước lập nghiệp.
Chị Nguyễn Thị Hoan, thôn Én Giang, xã Quảng Hợp (Quảng Xương, Thanh Hóa), người tiên phong phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ, tuần hoàn ở địa phương. Ảnh: Trung Quân.
Chị Hoan chia sẻ: Trong thời gian sinh sống tại Cộng hòa Séc, được tận mắt chứng kiến cách làm, thụ hưởng những sản phẩm nông nghiệp chất lượng, an toàn, đã dấy lên trong chị suy nghĩ “tại sao mình không học hỏi, đưa cách làm nông nghiệp của họ về quê hương, vừa tạo được sản phẩm khác biệt trong bối cảnh vấn đề an toàn thực phẩm lúc bấy giờ đang rất nhức nhối, vừa tạo điều kiện cho những người thân của mình được sử dụng những sản phẩm chất lượng, an toàn”.
Năm 2015, vợ chồng chị về nước, kết hợp cùng một số người bạn đầu tư xây dựng trang trại sản xuất nông nghiệp tổng hợp trên cánh đồng trũng, người dân để hoang hóa tại xã Quảng Hợp (Quảng Xương). Tuy nhiên, sau một thời gian đi vào hoạt động, sự khác nhau về tư duy, định hướng không làm cho chị thỏa được ước mơ ấp ủ bấy lâu nay.
Đến năm 2019, chị quyết định tách ra làm riêng, tự xây dựng cho mình một trang trại sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ. Với kinh nghiệm, kiến thức tích lũy được, chị đấu thầu diện tích gần 2ha, đầu tư gần 3 tỷ đồng cải tạo đường giao thông; xây mới chuồng trại nuôi lợn, gà, vịt, ốc, cá, giun quế; lắp đặt 8.000m2 hệ thống nhà màng, nhà lưới để sản xuất dưa lưới và các loại rau ăn lá, rau gia vị.
Chị Hoan đầu tư xây dựng 500m2 chuồng nuôi giun quế để làm phân bón cho cây trồng, thức ăn cho chăn nuôi. Ảnh: Trung Quân.
Chị Hoan bộc bạch: Quyết định phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ thực sự là một quyết định khó khăn đối với vợ chồng chị. Bởi lẽ, qua tìm hiểu thị trường, chị nhận thấy người tiêu dùng trong nước đã nghe, biết đến nông nghiệp hữu cơ, nhưng để hiểu rõ, phân biệt được đâu là sản phẩm hữu cơ, không là hữu cơ và “chịu chi” để sử dụng sản phẩm đó còn rất hạn chế.
Trong khi đó, chi phí đầu tư cho sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ không hề nhỏ, quá trình canh tác phải tuân thủ nghiêm ngặt những yêu cầu về kỹ thuật… Tuy nhiên, được sự ủng hộ của gia đình, gạt đi những do dự, trang trại của chị vẫn kiên định đi theo con đường sản xuất nông nghiệp hữu cơ, an toàn.
Tiết kiệm 60% chi phí phân bón
Theo chị Hoan, việc lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hóa học về lâu dài không những làm tăng chi phí sản xuất mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe con người, gây nên hiện tượng chai đất, ô nhiễm môi trường… Do đó, để tạo ra sản phẩm chất lượng, tất cả các yếu tố trong quá trình canh tác đều phải được kiểm soát chặt chẽ.
Về đất trồng, đối với dưa lưới, trước khi đóng giá thể, đất được bổ sung phân giun quế, mùn cưa, men vi sinh, phơi kỹ lưỡng… Đối với vườn rau, đất được cày, phơi ải, diệt khuẩn, bón bổ sung phân đã ủ hoai mục, phân giun quế cho tơi xốp rồi mới tiến hành xuống giống.
Về nước tưới, chị khoan giếng với độ sâu hơn 100m, bơm qua hệ thống lọc để loại bỏ các tạp chất rồi mới đưa vào hệ thống tưới tự động cho cây.
Về phân bón, trang trại sử dụng toàn bộ bằng phân giun quế và phân bón hữu cơ. Ngoài ra, chị tận dụng, thu mua chuối, đu đủ chín ngâm ủ với men vi sinh thành dịch để tạo kali tự nhiên bón cho cây trồng.
“Phương pháp nuôi giun quế làm phân bón chị phải lên tận Phú Thọ để học. Cái hay của giun quế là sức ăn càng nhiều thì lượng phân tạo ra càng lớn. Chỉ với 500m2 nhà nuôi giun quế, trung bình mỗi năm trang trại của chị thu được tới khoảng 30 tấn phân, nhờ đó tiết kiệm được khoảng 60% chi phí so với việc sử dụng toàn bộ bằng phân bón hóa học”, chị Hoan chia sẻ.
Để phòng chống sâu bệnh gây hại, chị sử dụng các loại bẫy, thuốc BVTV sinh học để phun cho cây.
Vòng tuần hoàn khép kín
Chị Hoan cho biết: Để tạo ra sản phẩm chất lượng, bảo vệ môi trường xung quanh và tiết kiệm chi phí sản xuất, chị đã xây dựng trang trại theo hướng tuần hoàn khép kín. Các chất thải, phế phụ phẩm của trồng trọt sẽ được tận dụng triệt để để làm nguyên liệu cho chăn nuôi và ngược lại.
“Phân thải từ chăn nuôi lợn, gà, được đẩy xuống bể, ủ hoai mục cùng với men vi sinh dùng làm thức ăn cho giun quế và bón cho cây ăn quả, ngô… Phân của giun quế; thân giun (ngâm làm dịch giun) sử dụng bón cho dưa lưới, rau, làm thức ăn cho gà; rau, củ, quả loại, ngô, lúa được tận dụng làm thức ăn cho chăn nuôi…, cứ như vậy tạo thành một vòng tròn khép kín, không có chất thải ra ngoài môi trường”, chị Hoan cho hay.
Cũng theo chị Hoan, nhờ cách làm này mà các sản phẩm của trang trại từ chỗ ít người biết đến, hiện tại luôn trong tình trạng “cháy hàng” vì lượng đặt mua không ngừng tăng lên. Theo thống kê, trung bình 1 năm trang trại của chị xuất bán ra thị trường khoảng 5 tấn rau, củ các loại; hơn 20 tấn dưa vàng; 20 tấn lợn thịt; 6 tấn gia cầm, ốc giống hàng vạn con… Doanh thu trung bình của trang trại đạt gần 3 tỷ đồng/năm (chưa trừ chi phí); tạo công ăn việc làm cho 3 lao động thường xuyên và 6 lao động thời vụ.
Đặc biệt, năm 2020, trang trại của chị được cấp chứng nhận VietGAP. Năm 2021, sản phẩm dưa kim hoàng hậu của trang trại được công nhận sản phẩm OCOP 3 sao.
Chia sẻ về dự định trong thời gian tới, chị Hoan bộc bạch: Trang trại sẽ tiếp tục phát triển sản xuất theo hướng hữu cơ, tuần hoàn để tiến tới được cấp chứng nhận hữu cơ. Bên cạnh đó, mở rộng liên kết với các hộ dân có nhu cầu để tăng quy mô sản xuất, cung cấp ra thị trường những sản phẩm chất lượng, an toàn.
Nguồn tin: nongsanviet.nongnghiep.vn của Báo nông nghiệp
Th1019
Những tỷ phú làm giàu từ nông nghiệp đô thị ở vùng ven TP.HCM
Từ thực tế sinh động của phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, những năm qua tại TP.HCM đã dần hình thành một đội ngũ nông dân năng động, sáng tạo và dám nghĩ, dám làm, thích ứng hiệu quả với sự phát triển của hoạt động nông nghiệp đô thị.
Đây được xem là hình mẫu “người nông dân mới”, với đức tính cần cù, sáng tạo, hết lòng vì cộng đồng.
Nông dân canh tác linh hoạt – hái tiền tỷ ở phố thị
Ở ấp 4, xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, TP.HCM, nhiều người biết đến ông Vũ Đình Tứ, một tỷ phú nông dân thường xuyên giúp đỡ bà con địa phương. Cách đây hơn 7 năm, ông Tứ mạnh dạn đưa giống bưởi da xanh về trồng trên vùng đất phèn chua ở vùng ven thành phố và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Việc áp dụng đúng quy trình VietGAP mang lại chất lượng trái ngon, đồng đều, đẹp mã, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường.
Mô hình vườn ươm cây giống kết hợp vườn bưởi 60.000 m2 đã mang lại thu nhập ổn định cho ông Tứ khoảng 600 triệu đồng mỗi năm. Bên cạnh đó, vườn bưởi còn tạo công ăn việc làm cho 21 lao động địa phương với mức thu nhập của mỗi người trên 6 triệu đồng một tháng.
Ông Vũ Đình Tứ bên vườn bưởi da xanh ở huyện huyện Bình Chánh, TP.HCM.
Sở dĩ ông Tứ được nhiều người quý mến bởi ông luôn là hạt nhân nòng cốt tham gia ủng hộ quỹ hỗ trợ nông dân hàng năm, đóng góp kinh phí chăm lo cho người nghèo tại địa phương. Hàng năm, ông Tứ giúp đỡ ít nhất 11 hộ khó khăn về vốn, vật tư, kỹ thuật, kinh nghiệm chuyển đổi cây trồng để họ vươn lên khởi nghiệp, làm giàu. Năm 2022, ông Vũ Đình Tứ, là một trong số 28 gương điển hình được Hội Nông dân TP.HCM vinh danh.
Ông Tứ chia sẻ, trồng bưởi khó nhất vẫn là ổn định đầu ra. Là sản phẩm không mới và chịu sự cạnh tranh với nhiều địa phương khác, song bưởi da xanh trên vùng đất phèn của Bình Chánh cũng có những đặc trưng riêng. Quan trọng là làm sao đạt chất lượng, đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng và tận dụng được lợi thế về địa lý.
“Trước mắt thì chất lượng trái có độ ngọt đậm hơn, thứ hai là gần ở TP.HCM cũng là lợi thế, đây là thị trường tiêu thụ trái cây tốt hơn. Bưởi da xanh là loại trái cây thường được dùng để thờ cúng trong những ngày rằm hay mùng 1 nên sản phẩm của mình tập trung để cung cấp cho các hộ gia đình để người ta thờ cúng là nhiều, một phần dành cho để tiêu thụ cho ngày Tết” – ông Tứ nói.
Chị Trần Thị Kiều Thơ được nhiều người biết tới là nữ Phó Chủ nhiệm CLB Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi ở Phường Bình Chiểu, TP Thủ Đức.
Trong số những gương nông dân tiêu biểu trong hoạt động nông nghiệp đô thị ở TP.HCM có chị Trần Thị Kiều Thơ, ở khu phố 2, phường Bình Chiểu, TP Thủ Đức. Những năm qua, được tham gia các lớp sơ cấp nghề, chị Thơ áp dụng trồng bonsai, phôi bonsai, lan giống và nhân giống một số lan quý hiếm. Gom góp vốn liếng, chị Thơ xây dựng vườn lan và vườn trồng rau sạch trong nhà lưới theo phương pháp hữu cơ; xây dựng mô hình nhà mẫu trồng nấm rơm cho Hội Nông dân phường, kết hợp trồng bonsai và kinh doanh phòng trọ.
Với phương châm “sản phẩm tại chỗ, bán tại chỗ”, chị không tốn công vận chuyển, mỗi năm thu lời từ 200 – 300 triệu đồng sau khi trừ chi phí. Ngoài ra, thu nhập từ kinh doanh hoa, cây kiểng, bonsai từ 200 đến 300 triệu đồng và dịch vụ cho thuê phòng trọ thu được 1,2 tỷ đồng mỗi năm.
Chị Trần Thị Kiều Thơ cũng là Phó Chủ nhiệm CLB Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi phường Bình Chiểu, TP Thủ Đức. Ngoài việc chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực nông nghiệp, nữ nông dân này luôn giúp đỡ hộ nghèo, khó khăn, người già neo đơn, trẻ em khuyết tật tại Thủ Đức và một số địa phương khác như: Bến Tre, Mỹ Tho…
“Người nông dân để tạo ra được hoa lan thì rất cực, đòi hỏi nhiều kỹ thuật, phải đầu tư nhiều thì lợi nhuận mới cao. Diện tích của mình không được nhiều nên phải chuyển đổi thêm những mô hình khác, bonsai cây kiểng…. Tôi cùng nhiều anh em thành lập tổ sản xuất kinh doanh giỏi để huy động nhiều anh chị cùng làm” – chị Thơ bộc bạch.
Anh Nguyễn Đình Tuyến, nông dân trẻ khởi nghiệp, sản xuất kinh doanh giỏi của Quận Bình Tân có nhiều đóng góp tích cực cho địa phương.
Dành 135 tỷ đồng hỗ trợ nông nghiệp đô thị
Phó Chủ tịch thường trực Hội Nông dân – ông Đoàn Văn Thanh đánh giá, không chỉ có 28 gương nông dân tiêu biểu năm 2022 vừa được tôn vinh, TP.HCM còn có rất nhiều gương nông dân có sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao. Họ là những gương đi đầu trong các loại hình sản xuất nông nghiệp đô thị có hiệu quả, cần được khuyến khích, biểu dương và nhân rộng. Đặc biệt, họ không chỉ sản xuất kinh doanh giỏi, làm giàu cho bản thân mà còn có trách nhiệm và nghĩa vụ với xã hội, với cộng đồng dân cư thôn xóm.
Quá trình phát triển để nông nghiệp TP.HCM theo hướng đô thị hiện đại, bền vững không thể không nhắc đến vai trò hội viên nông dân, nhân tố tích cực góp phần cùng TP.HCM phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo công tác an sinh. Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp và các cấp hội sẽ tiếp tục đồng hành hỗ trợ nông dân về vốn. Với quỹ hỗ trợ nông dân hiện có khoảng 135 tỷ đồng, đủ đáp ứng cho nhu cầu vay vốn phát triển sản phẩm sạch, chất lượng cao, đảm bảo sức khỏe và thân thiện với môi trường.
Việc xây dựng chương trình giới thiệu sản phẩm tiêu biểu với những sản phẩm mới, chất lượng cao hằng năm cũng đang được thực hiện nhằm hỗ trợ nông dân, các đơn vị sản xuất nông nghiệp.
Ông Nguyễn Văn Tủi, Phó Giám đốc Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân thuộc Hội Nông dân TP.HCM cho biết: “Bốn năm nay, chúng tôi đã chọn ra được khoảng 110 sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu. Đây là những sản phẩm chế biến sâu, tức là trong lĩnh vực nông nghiệp, người nông dân áp dụng khoa học công nghệ, đảm bảo an toàn và sản xuất theo quy trình ứng dụng công nghệ cao và tập trung vào hoạt động chế biến sau thu hoạch”.
Năm 2022 có 1/3 trong số 30 sản phẩm nông nghiệp của các nông dân tiêu biểu TP.HCM là sản phẩm chế biến sâu. Đây là tín hiệu đáng mừng cho ngành nông nghiệp đô thị của TP.HCM trong xu hướng phát triển sản phẩm nông nghiệp chế biến sâu để tăng cường tiêu thụ và nâng cao giá trị sản phẩm từ bàn tay, khối óc và tâm huyết của những người nông dân trong thời hội nhập./.
Nguồn tin: Nguyễn Quang/VOV-TP.HCM
Th1015
Nông dân đầu tư tiền tỉ trồng rau công nghệ cao
Bằng niềm đam mê, nhiệt huyết của bản thân, ông Nguyễn Văn Bé Lượm, ở ấp Phú Lễ, xã Phú Tân, huyện Châu Thành, đã tự nghiên cứu, mày mò xây dựng cho mình vườn rau khí canh trụ đứng. Đây là nông dân đầu tiên trong huyện tiên phong ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất rau.
Bình quân mỗi vụ rau trồng theo phương pháp khí canh của ông Lượm chỉ tầm 15 ngày cho thu hoạch.
Khoảng 2 tháng nay, nhiều người qua lại tuyến đường Gỗ, ấp Phú Lễ, xã Phú Tân, vô cùng ngỡ ngàng khi tận mắt chứng kiến được vườn rau công nghệ cao mà trước giờ chỉ được nhìn thấy trên báo, đài hoặc trong những chuyến du lịch, tham quan ở các địa phương khác.
Tận dụng khoảng sân trống trước nhà, ông Bé Lượm đã đầu tư hơn 300 triệu đồng để thực hiện vườn rau sạch ứng dụng công nghệ khí canh trụ đứng với quy mô hiện tại hơn 320 trụ.
Ông Bé Lượm chia sẻ: “Tôi ấp ủ mô hình sản xuất công nghệ cao đã rất lâu rồi nhưng chưa có điều kiện thực hiện. Cách đây 2 năm, sau khi sang tỉnh khác học tập mô hình sản xuất rau công nghệ cao, trở về tôi quyết tâm thực hiện mô hình này”.
Theo ông Bé Lượm, ngày khởi nghiệp, ông chỉ có vỏn vẹn 20 triệu đồng làm vốn đầu tư. Để tiết kiệm chi phí, ông không thuê người thực hiện mà bản thân tự tìm hiểu, nghiên cứu, thiết kế và thực hiện tất cả các công đoạn của vườn rau từ việc tạo hệ thống trụ, ống dẫn nước, hệ thống tưới phun tự động… Sau nhiều lần rút tỉa kinh nghiệm, ông mạnh dạn đầu tư và cho ra đời vườn rau công nghệ cao đầu tiên trên địa bàn huyện với quy mô 700 trụ rau.
Khi vườn rau bắt đầu thu hoạch rộ đợt đầu tiên thì dịch Covid-19 bùng phát, thời điểm đó, cả tỉnh thực hiện giãn cách xã hội nên vụ rau đó gia đình ông bán chỉ được một phần. Vừa qua thời gian đó, vườn rau gia đình lại trúng ngay dự án quy hoạch của huyện phải thu hồi đất nên gia đình ông di chuyển chỗ ở từ thị trấn Mái Dầm sang xã Phú Tân.
Tuy gặp phải nhiều khó khăn, trở ngại nhưng với đam mê và quyết tâm của bản thân, sau thời gian ổn định cuộc sống tại nơi ở mới, ông lại bắt tay vào việc tạo lập lại vườn rau. Hiện tại, ông đã đầu tư được 328 trụ rau. Vụ rau đầu tiên cũng sắp cho thu hoạch.
“Tôi rất thích trồng rau và cứ luôn ao ước có vườn rau công nghệ cao như vậy. Được sự ủng hộ của gia đình nên tôi càng quyết tâm thực hiện cho bằng được. Dù có nhiều khó khăn, trở ngại nhưng không làm tôi nản chí. Hiện nay, tôi đang tiếp tục mở rộng quy mô vườn rau. Với diện tích đất hiện tại quanh nhà, tôi đang tiến hành lắp đặt thêm khoảng 1.300 trụ rau khí canh, nâng quy mô vườn rau khoảng 2.000 trụ”, ông Bé Lượm chia sẻ.
Cũng theo ông Bé Lượm, trồng rau khí canh có rất nhiều ưu điểm so với phương pháp trồng rau truyền thống. Cái lợi đầu tiên là tiết kiệm được diện tích đất sản xuất. Với hơn 300 trụ rau của ông hiện tại chỉ tốn khoảng 400m2 diện tích đất nhưng sản lượng rau cho thu hoạch tương đương với 1.000m2. Mỗi trụ rau trong một năm có thể sản xuất được khoảng 24 vụ rau ăn lá các loại như: cải ngọt, cải xanh, xà lách… so với trồng trên đất thì một năm chỉ sản xuất tối đa khoảng 7 vụ, do phải cần thời gian xử lý đất sau mỗi vụ. Bên cạnh đó, nhờ việc ứng dụng công nghệ khí canh tưới phun tự động nên rất nhẹ công chăm sóc rau, đồng thời người trồng cũng chủ động hơn trong việc kiểm soát chế độ dinh dưỡng cho cây nên năng suất, sản lượng rau cũng đạt hơn. Rau sử dụng dinh dưỡng từ dung dịch thủy canh, trong nhà màng, không phun thuốc hóa học diệt sâu bọ nên an toàn và tốt hơn cho sức khỏe người sản xuất lẫn người tiêu dùng.
Tuy nhiên, cái khó của mô hình này là kinh phí đầu tư quá lớn, nên đa phần nông dân ngán ngại áp dụng. Bình quân mỗi trụ rau có chi phí đầu tư khoảng 1 triệu đồng. Bên cạnh đó, đầu rau của rau hiện nay chủ yếu vẫn bán cho các chợ, chưa có sự chênh lệch giá so với rau trồng truyền thống.
Ông Bé Lượm cho biết: “Mong muốn của tôi hiện nay là xây dựng được thương hiệu để làm điều kiện tìm các nguồn tiêu thụ rau sạch như: siêu thị, cửa hàng rau sạch, bếp ăn tập trung… Nếu có được đầu ra như vậy thì sản phẩm rau sản xuất ra mới bán được đúng giá trị của nó”.
Theo ông Đỗ Trung Nam, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Châu Thành, mô hình trồng rau bằng phương pháp khí canh hiện nay chưa phổ biến tại địa phương. Tuy nhiên, đây là mô hình có tiềm năng phát triển bền vững do đáp ứng được xu thế sản xuất an toàn, tiêu dùng thực phẩm an toàn của người dân. Do vậy, Hội Nông dân huyện đang làm đầu mối phối hợp với cơ quan chuyên môn để giúp mô hình xây dựng thương hiệu, tìm đầu ra cho rau và quảng bá giới thiệu công nghệ sản xuất giúp nông dân có nhu cầu tiếp cận và nhân rộng.
Với sự quyết tâm của ông Bé Lượm cộng với sự vào cuộc hỗ trợ nhiệt tình từ Hội Nông dân huyện Châu Thành sẽ góp phần cho mô hình phát triển hơn. Tin rằng trong thời gian tới đây, khi mà sản phẩm rau sạch từ công nghệ khí canh của gia đình ông Bé Lượm có được thương hiệu sẽ giúp nâng giá trị sản phẩm, tạo đầu ra ổn định. Thành công của mô hình này cũng sẽ tạo động lực để nông dân mạnh dạn thay đổi phương pháp sản xuất, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ góp phần xây dựng nên nông nghiệp hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của xã hội.
Nguồn: Mỹ An – Báo Hậu Giang
Th1014
Đắk Nông: Bảo vệ cây trồng hiệu quả bằng biện pháp sinh học
Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hóa học đã để lại những tác hại xấu trong sản xuất nông nghiệp. Do đó, nhiều nông dân đã tự điều chế thuốc BVTV sinh học để phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, giúp sản xuất an toàn, hiệu quả.
Từ nhiều năm nay, việc sử dụng thuốc BVTV hóa học để phòng trừ sâu hại cho cây trồng đã trở thành vấn nạn, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sản xuất, tác động xấu đến môi trường.
Thuốc BVTV hóa học cũng làm cho chất lượng nhiều loại sản phẩm nông nghiệp giảm sút do tồn dư chất cấm, nên khó tiêu thụ, nhất là đối với thị trường xuất khẩu.
Gia đình ông N.V.S, ở xã Trường Xuân, có gần 1,6 ha hồ tiêu. Cuối năm 2019, gia đình ông được địa phương vận động sản xuất theo hướng hữu cơ, bước đầu áp dụng quy chuẩn VietGAP.
Để làm quen dần với quy trình sản xuất an toàn này, ông S bắt đầu hạn chế sử dụng phân bón vô cơ, thuốc BVTV hóa học độc hại, thuốc diệt cỏ. Thay vào đó, ông dùng các chế phẩm hữu cơ để phòng trừ sâu hại cho vườn tiêu.
Người dân xã Trường Xuân (Đắk Song) phòng trừ sâu hại cho vườn tiêu bằng thuốc BVTV sinh học
Tháng 4/2020, vườn tiêu của gia đình ông S xuất hiện bọ xít lưới, bọ xít muỗi cắn phá lá non, gié hoa, chuôi trái. Do nóng lòng, ông S đã dùng thuốc diệt muỗi phun cho vườn tiêu.
Hậu quả, trong 2 vụ thu hoạch liên tiếp, sản phẩm hồ tiêu của ông không được đối tác bao tiêu đầu ra vì tồn dư chất hóa học. Từ thiệt hại này, ông S đã quyết định đoạn tuyệt với thuốc BVTV hóa học.
Còn gia đình ông Vũ Quang Chiểu, ở thôn 10, xã Trường Xuân, từ nhiều năm nay luôn tuân thủ quy trình sản xuất nông nghiệp sạch. Các loại sâu hại trong vườn cây đều được ông khống chế tốt bằng các chế phẩm sinh học.
Cách sản xuất này cũng giúp các loài côn trùng có ích sinh sôi, sản phẩm như hồ tiêu, cà phê, bơ… luôn an toàn, đạt chất lượng cao. Hầu hết sản phẩm của ông đều được bao tiêu đầu ra với giá cao hơn giá thị trường.
Ông Chiểu cho biết: “Từ nhiều năm nay, chúng tôi nói không với thuốc BVTV hóa học. Từ ngày dùng chế phẩm sinh học, tôi tiết kiệm được rất nhiều chi phí sản xuất và cũng tốt hơn cho sức khỏe”.
Cũng theo ông Chiểu, chế phẩm sinh học có giá thành rẻ, không chỉ giúp nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn không gây ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe con người, vật nuôi.
Ông Nguyễn Văn Thanh, xã Nam Bình (Đắk Song), dùng chế phẩm sinh học phòng trừ sâu hại trên cây trồng
Mặc khác, chế phẩm sinh học không gây tính kháng thuốc với sâu hại, không làm tổn hại nhiều đến quần thể thiên địch có ích, không cần phun nhiều lần mà vẫn duy trì hiệu quả.
Ông Nguyễn Văn Thanh, ở xã Nam Bình (Đắk Song) cho biết, chế phẩm sinh học thường được bà con nông dân làm từ các nguyên liệu hữu cơ sẵn có như: tỏi, ớt, gừng, riềng, sả…
Các chế phẩm này được ngâm, pha chế với một số loại men vi sinh để làm thuốc BVTV. Hỗn hợp này có chứa axít hữu cơ, có khả năng gây ức chế, xua đuổi, tiêu diệt côn trùng với hiệu suất cao, không gây ngộ độc cho cây trồng và người sản xuất.
Cách pha chế thuốc BVTV khá đơn giản. Bà con chỉ cần dùng các loại nguyên liệu nói trên rồi nghiền nát, ngâm với rượu. Sau khoảng 15 ngày, bà con có thể dùng để phun lên các loại cây trồng.
Qua thực tế, tại các vùng sản xuất cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả, rau xanh ở Đắk Song, Đắk R’lấp, Đắk Glong, Krông Nô…, việc sử dụng chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng đều đạt kết quả cao.
Nguồn: Kim Ngân – Báo Đăk Nông
Th1011
Trồng chè hướng hữu cơ: Lợi ích nhân 3, lợi nhuận nhân 2
THÁI NGUYÊN Nhiều hợp tác xã làm chè tại Thái Nguyên đã chuyển hình thức canh tác sang hướng hữu cơ từ nhiều năm nay, thành quả thu được lớn hơn mong đợi.
Tiên phong trồng chè hữu cơ
Ông Bùi Trọng Đại, Giám đốc HTX Trà và Du lịch cộng đồng Tiến Yên (ở xóm Thái Sơn 2, xã Tân Cương, TP Thái Nguyên) chia sẻ: Ông tiếp quản công việc làm chè của gia đình từ năm 2000 đến nay.
Ngay từ thời điểm đó, ông thấy rằng việc sử dụng hình thức canh tác cũ, tất cả từ phun thuốc trừ sâu đến bón phân đều là hóa học đã khiến cho thiên địch như giun, dế, nhện… không sống được. Trong khi đó đất đai bị chai cứng, nước ô nhiễm, dẫn tới sức khỏe người dân bị ảnh hưởng, nhiều loại bệnh ngoài da cho tới bệnh nặng, bệnh hiểm nghèo xuất hiện.
Nhận thức được nguy hiểm từ chất hóa học gieo rắc cho nhiều thế hệ, ông Đại cùng người thân trong gia đình và các hộ liên kết sản xuất ngày đêm suy nghĩ việc thay đổi hình thức sản xuất an toàn với con người, thân thiện với môi trường.
Đó cũng chính là lý do từ trước năm 2010, HTX chè Tiến Yên đã bắt đầu canh tác chè theo hướng hữu cơ rất sớm khi rất ít người sản xuất theo hình thức này ở Thái Nguyên. Đến nay, đơn vị này có diện tích trồng chè hơn 10ha, tất cả đã được chứng nhận VietGAP và đang trong quá trình làm quy trình để được công nhận là sản phẩm chè hữu cơ.
Ông Bùi Trọng Đại, Giám đốc HTX Trà và Du lịch cộng đồng Tiến Yên đã sản xuất chè theo hướng hữu cơ từ trước năm 2010. Ảnh: Toán Nguyễn.
Ông Đại phấn khởi nói: “Người dân chúng tôi sinh sống giữa vùng chè Tân Cương, nhờ sớm làm chè hữu cơ nên môi trường ở khu vực này trong lành, không còn mùi khó chịu của thuốc trừ sâu hóa học bay khắp nơi như trước. Nguồn nước giờ cũng cơ bản sạch, an toàn và nước giếng vẫn là nguồn nước sinh hoạt, ăn uống hàng ngày của người dân. Người dân trong xóm đã từ lâu không có người bị bệnh ung thư hay bệnh hiểm nghèo liên quan tới việc ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước.
Nhiều người dân ở xóm Thái Sơn 2 gắn bó cả cuộc đời với công việc chăm sóc và thu hoạch chè, họ chính là những người cảm nhận rõ nhất về những ưu việt trong việc canh tác chè theo hướng hữu cơ”.
Bà Loan, năm nay đã gần 60 tuổi và gắn bó cả cuộc đời với cây chè cho biết: Trước đây dùng phân hóa học, nhất là thuốc trừ sâu hóa học khiến người lúc nào cũng khó chịu, ngứa ngáy, mệt mỏi cả với người tiếp xúc trực tiếp hoặc sinh sống quanh những đồi chè. Nhưng những năm trở lại đây, khi không dùng chất hóa học nữa mà chuyển sang hữu cơ, thấy sức khỏe mọi người tốt hơn, hoạt bát hơn. Giờ mọi người làm chè phấn khởi, an tâm sản xuất mà không lo lắng độc hại nữa.
Người lao động an tâm làm việc mà không còn lo độc hại của thuốc trừ sâu và phân hóa học. Ảnh: Đào Thanh.
Kiên trì theo hướng hữu cơ
Ông Nguyễn Thanh Dương, Giám đốc HTX Chè trung du Tân Cương (TP Thái Nguyên) cho biết: Từ năm 2017 đến nay, 100% diện tích đất trồng chè của HTX đã chuyển hình thức canh tác theo hướng hữu cơ. Thời gian đầu thực hiện vô cùng khó khăn, vì mất khoảng 6 tháng sản lượng giảm sâu do cây chè bị thiếu chất.
Vấn đề khác khiến bà con nản lòng là tình trạng sâu bệnh hoành hành với mật độ cao. Những vấn đề nói trên làm cho người trồng chè bị thất thu, thậm chí không được thu hoạch, nhiều xã viên chán nản và muốn quay lại hình thức canh tác cũ.
Tuy nhiên, lãnh đạo HTX Chè trung du Tân Cương đã động viên bà con kiên trì, vì các chế phẩm hữu cơ như vỏ đỗ, vỏ cây, mùn cưa, phân xanh, phân chuồng, lạc dại, rơm rạ… cần có thời gian để phân hủy, cải tạo đất. Bà con không dùng thuốc trừ sâu hóa học độc hại nữa, thay vào đó là chế phẩm sinh học có nguồn gốc là thảo mộc. Sau một thời gian, những thiên địch có lợi phát triển, cũng là lúc sâu bệnh được giải quyết.
Sau khoảng 6 tháng, khi cây chè bắt đầu hút được dưỡng chất từ các chế phẩm hữu cơ thì sản lượng chè bắt đầu được khôi phục. Sau hơn 1 năm, lượng dưỡng chất trong đất đã được duy trì ổn định thì hiệu quả thấy rõ, sản lượng đạt tương đương với dùng phân hóa học, nhưng chất lượng đảm bảo an toàn tuyệt đối. Lớp vỏ cây, vỏ đỗ, mùn cưa tạo thành lớp mùn dày giữ ẩm cho cây, chất dinh dưỡng tự nhiên được thẩm thấu trong đất giúp cho mầm chè mọc tươi tốt hơn, mập hơn.
Th1010
Phụ phẩm rơm rạ – nguồn lợi to lớn
Hằng năm, lượng phụ phẩm rơm rạ được thải ra từ sản xuất lúa ở nước ta rất lớn, nhất là tại ÐBSCL, nơi đang cung cấp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Với sản lượng lúa hàng năm đạt hơn 24 triệu tấn, ÐBSCL cũng có lượng rơm rạ ở mức tương đương…
Nguồn rơm rạ dồi dào
Theo Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), hằng năm ước tính nước ta có khoảng 45 triệu tấn rơm khô, 8 triệu tấn trấu, 30-50 triệu phế phụ phẩm thực vật khác. Tổng khối lượng phế phụ phẩm trong trồng trọt lên trên 100 triệu tấn/năm, với hầu hết là xác hữu cơ như thân, lá, vỏ hạt… tất cả đều chứa đựng lượng dinh dưỡng rất tốt, có thể hoàn trả, cải tạo bồi dưỡng lại cho đất. Với khối lượng này, nếu không quản lý và sử dụng tốt sẽ gây nên một sự lãng phí. Theo tính toán của các chuyên gia nông nghiệp và môi trường, con số lãng phí hằng năm có thể lên tới vài trăm nghìn tỉ đồng. Bên cạnh đó, lượng phế phụ phẩm này không sử dụng đúng mục đích có thể gây ô nhiễm môi trường (đất, không khí và nước) do hoạt động vùi lấp yếm khí, xử lý bừa bãi hay đốt bỏ…
Th1010
Tiền Giang: Sầu riêng tăng giá mạnh
Tại tỉnh Tiền Giang, sầu riêng bắt đầu tăng giá mạnh cách đây hơn 01 tháng, với mức tăng khoảng 15.000 – 25.000 đồng/kg. Hiện thương lái thu mua các loại sầu riêng tại vườn với giá dao động từ 60.000 – 75.000 đồng/kg. Tuy nhiên, còn khoảng 02 tuần nữa, sầu riêng trên địa bàn tỉnh mới vào mùa thu hoạch rộ. Tỉnh hiện có khoảng trên 17 ngàn ha sầu riêng, với năng suất đạt từ 20 – 23 tấn/ha; trong đó có khoảng 100 ha sầu riêng đã được cấp mã số vùng trồng.
Sầu riêng đang tăng giá mạnh.
Theo ông Nguyễn Văn Mẫn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với trái sầu riêng xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc ký kết giữa Bộ NN&PTNT Việt Nam và Tổng cục Hải quan Trung Quốc được thông qua. Vừa qua, đã có hàng chục tấn sầu riêng của Việt Nam xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho giá sầu riêng tăng mạnh thời gian gần đây. Đồng thời, là niềm vui chung của ngành Nông nghiệp và tự hào cho người trồng, tiêu thụ sầu riêng của Việt Nam nói chung và tỉnh Tiền Giang nói riêng.
Giám đốc Sở NN&PTNT cho rằng, việc xuất khẩu sầu riêng chính ngạch sang thị trường Trung Quốc là cơ hội để nông dân nâng cao giá trị sản xuất sầu riêng; bởi chi phí trung gian giảm, lợi nhuận sẽ tăng. Ngành Nông nghiệp đã và đang khẩn trương hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương hoàn chỉnh các thủ tục cần thiết để được cấp mã số vùng trồng và mã số đóng gói.
Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp xây dựng kế hoạch tập huấn kỹ thuật canh tác cho người dân theo hướng an toàn, thực hiện nghiêm ngặt các quy định mà Nghị định thư đã ký kết, có kế hoạch cung ứng phù hợp, hướng đến xuất khẩu bền vững.
Nguồn: Thùy Trang – Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Th1007
Giá ure tại Mỹ, Trung Đông tăng quanh 3%
Cập nhật lúc 16h ngày 06/10/2022
Dữ liệu từ Trading Economics cho thấy giá ure trên sàn Chicago (Mỹ) ngày 5/10 là 765 USD/tấn, tăng gần 3% so với ngày trước đó sau khi lao dốc từ mức 865 USD/tấn vào ngày 28/9.
Diễn biến giá ure trên sàn Chicago, Mỹ. Nguồn: Trading Economics
Giá ure tương lai tại Trung Đông là 645 USD/tấn, cao hơn 3,2% so với ngày 4/10. Trước đó, ngày 29/9, giá ure tại khu vực này là 680 USD/tấn, lao dốc trong ngày 30/9 và tăng trở lại trong những ngày gần đây.
Diễn biến giá ure tại Trung Đông. Nguồn: Investing.com
Giá ure, DAP tại Trung Quốc không biến động do Trung Quốc đang trong kỳ nghỉ lễ Quốc khánh.
Theo 2Nông, dịch Covid-19 đã để lại ảnh hưởng đến mức nền các nguyên liệu thô dùng để sản xuất phân bón. Đa số các mỏ khai thác nguyên liệu thô dùng để sản xuất mặt hàng này đều nằm trong vùng bất ổn chính trị khiến việc vận chuyển các loại nguyên liệu này ra thị trường khó khăn. Còn đối với các mỏ không nằm trong vùng bất ổn như Trung Quốc, Canada, năng suất chỉ vừa đủ nhu cầu nội địa và một vài nước trong khu vực.
Trang này nhận định rằng mặt bằng cung cấp các nguyên liệu thô dùng để sản xuất phân bón trên thế giới hiện đang mất thế cân bằng và thiếu hụt trầm trọng. Thực tế cho thấy, các tập đoàn lớn chuyên sản xuất kali trên thế giới đã cắt sản lượng sản xuất khoảng 2 triệu tấn. Hiện nay giá phân Kali trên thế giới đã ở mức 1.000-1.500 USD/tấn.
Còn đối với Trung Quốc, nước sản xuất phốt pho lớn nhất thế giới, giá photpho vàng và trắng vụt tăng từ cuối tháng 2 năm nay trở lại đây. Theo đó, nhiều chuyên gia đánh giá khả năng cao là giá photpho vàng có thể duy trì ở mức khoảng 5.500-6.000 USD/tấn cho tới hết năm nay.
Là nước phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhập khẩu, giá các mặt hàng có chứa kali, photpho ở Việt Nam cũng sẽ ở mức cao theo tình hình thế giới. Theo Binhdien.com, giá kali Belarus loại hồng đỏ là 1,8 triệu đồng/100 kg, tăng 40% so với đầu năm.
Giá ure Phú Mỹ hiện là 1,47 triệu đồng/100 kg, so với mức 1,73 triệu đồng/100 kg hồi đầu năm. Theo SSI Research, về nhu cầu, do quý III là mùa thấp điểm của ngành trồng trọt, giá ure giảm, nhưng sẽ tăng trở lại vào quý IV khi vụ Đông Xuân bắt đầu. Nhu cầu tăng sẽ kéo theo giá ure tăng.
Nguồn: chuyên trang Người đồng hành (ndh.vn)
Th1005
ĐBSCL: Quy trình sản xuất phân hữu cơ từ rơm và ứng dụng vào thực tế
CẦN THƠ Ở ĐBSCL việc xử lý rơm rạ tại đồng ruộng bằng chế phẩm sinh học dùng làm phân bón hữu cơ đang mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Mô hình ủ phân hữu cơ tại TP Cần Thơ. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Tận dụng nguồn phế, phụ phẩm trong nông nghiệp
Mỗi năm vùng ĐBSCL sản xuất được khoảng 24 triệu tấn lúa thì cũng có chừng ấy tấn rơm rạ thải ra đồng ruộng. Tận dụng nguồn phế, phụ phẩm trong nông nghiệp làm phân hữu cơ vừa góp phần làm sạch đồng ruộng, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, vừa có nguồn phân hữu cơ bón cho đất. Đó là những lợi ích trước mắt và lâu dài cho nông dân khi thực hành nông nghiệp tuần hoàn, nguồn nguyên liệu này cần được xem là đầu vào quan trọng, kéo dài chuỗi giá trị gia tăng trong nông nghiệp.
Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt: Trong 3 năm gần đây theo tổng kết của Cục Trồng trọt, nếu để lại toàn bộ rơm rạ trên ruộng, kết hợp với mật độ sạ thưa, chúng ta có thể giảm 50% lượng phân bón hoặc 50% thuốc BVTV. Thậm chí nhiều hộ không phải phun thuốc BVTV vì không còn sâu bệnh trên đồng ruộng. Mô hình này đã áp dụng ở An Giang với diện tích 50 ha, Thái Nguyên 140 ha, Thanh Hóa hơn 100 ha và được đông đảo người dân ủng hộ, đánh giá cao.
Tại một số địa phương, mô hình xử lý rơm rạ tại đồng ruộng bằng chế phẩm sinh học để dùng làm phân bón hữu cơ thay vì mua phân NPK. Người dân giữ lại rơm rạ không đốt, dùng sản phẩm sinh học xử lý, thậm chí không cần thời gian cách ly mà vẫn ngăn chặn được hiện tượng ngộ độc hữu cơ do rơm rạ gây ra, giảm được lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật cho cây lúa.
Người dân không đốt đồng giữ lại rơm rạ dùng sản phẩm sinh học xử lý làm phân hữu cơ. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Hiện có một số nghiên cứu chưa được công bố như tận dụng trái cây thải loại làm phân bón. Một số tỉnh có cửa khẩu như An Giang có số lượng xoài thải loại rất lớn tại các chợ cửa khẩu, gây ô nhiễm môi trường đang được nghiên cứu, chế biến thành phân bón phục vụ cho chính địa phương. Tuy nhiên, chi phí để xử lý các phế phụ phẩm trong nông nghiệp hiện nay vẫn còn lớn so với thu nhập của nông dân, dẫn tới thực trạng mất đi lượng hữu cơ và dinh dưỡng cây trồng khổng lồ. Từ đó gây ô nhiễm nguồn nước và không khí, còn đất trồng ngày càng bị thiếu hụt hữu cơ, thoái hóa trầm trọng.
Ở ĐBSCL việc xử lý rơm rạ tại đồng ruộng bằng chế phẩm sinh học để dùng làm phân bón hữu cơ thay vì mua phân NPK đang mang lại hiệu quả cao. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Tập huấn quy trình sản xuất phân hữu cơ từ rơm
Tại phường Tân Hưng, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ, Chi cục Trồng trọt và BVTV TP Cần Thơ vừa phối hợp với các đơn vị hữu quan tổ chức tập huấn quy trình sản xuất phân hữu cơ từ rơm.
Bà Phạm Thị Minh Hiếu, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV TP Cần Thơ cho biết: Rơm rạ của bà con nông dân được gom từ đồng ruộng, hoặc phụ phẩm rơm rạ (sau khi trồng nấm) đều có thể tận dụng làm phân hữu cơ. Tại buổi tập huấn, bà con nông dân được các giảng viên đến từ Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế IRRI, Trường Đại học nông Lâm TP. HCM và Trường Đại học Tiền Giang hướng dẫn quy trình thực hiện ủ phân hữu cơ từ rơm cùng với phân bò và hướng dẫn sử dụng máy đảo trộn luống ủ.
Nói về cách ủ phân hữu cơ bà Phạm Thị Minh Hiếu đưa ra kỹ thuật cụ thể đề hướng dẫn bà con nông dân ủ phân để làm phân hữu cơ phục vụ lại cho cây trồng. Trước nhất việc phối hợp ủ phân rơm và phân bò, tỷ lệ tương ứng giữa 2 loại nguyên liệu này là 6/4, tuy nhiên còn phụ thuộc vào ẩm độ nguyên liệu.
Trong thực tế, luống ủ có thể thêm đất (giàu N), khi đó thành phân trong luống ủ gồm 60% rơm, 30% phân bò, 10% đất, được tính với cùng ẩm độ. Kích thước mặt cắt luống ủ phụ thuộc vào kích thước và năng suất của máy trộn. Đối với máy trộn liên hợp với máy kéo 30 – 35 HP, mặt cắt luống ủ với bề rộng chân luống 1,2 m, chiều cao 0,7m. Đối với rơm sau trồng nấm (50 – 60%) và phân bò (60 – 70%), tỷ lệ phối trộn tương ứng là 1,2:1, với C/N = 26,1.
Trong 3 năm gần đây, theo tổng kết của Cục Trồng trọt nếu để lại toàn bộ rơm rạ trên ruộng, kết hợp với mật độ sạ thưa có thể giảm 50% lượng phân bón hoặc 50% thuốc BVTV. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Trong trường hợp sử dụng rơm khô 14% và phân bò khô 30% thì tỷ lệ tương ứng là 1:1, với C/N = 29.4. Trường hợp ủ rơm sau trồng nấm với ẩm độ 60 – 70 % và phân bò khô 10% thì tỷ lệ phối trộn theo khối lượng tương ứng là 5,6:1. Lượng men vi sinh là 5 lít, được hòa trộn với nước và phun vào luống ủ.
Do nguyên liệu rơm với ẩm độ cao hơn yêu cầu nên không phun thêm nước quá trình đảo trộn. Còn đối với trường hợp nguyên liệu là rơm khô và đất ruộng với tỷ lệ 7:3, quy về cùng ẩm độ 30%, 0,5% URE, 1% P, 0,3% K và 0,2% mật rỉ đường, 1% men vi sinh dạng nước và 1% men vi sinh dạng bột.
Sau khi làm mát, khoảng 45 ngày sau đảo trộn lần đầu, thành phẩm là phân hữu cơ sẵn sàng cho sử dụng. Sản phẩm với ẩm độ 30 – 40%, có thể được phân loại qua sàng tạp chất lớn. Phân hữu cơ trong giai đoạn thông thoáng và làm mát. Sản phẩm phân hữu cơ từ rơm chất lượng thành phẩm phân hữu cơ được đánh giá qua các chỉ tiêu về các thành phần C, N, P, K, tỷ lệ C/N, độ pH, độ ẩm.
Từ các kết quả thí nghiệm đối với nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau, tỷ lệ C/N của thành phẩm 13 – 14.5, độ pH: 6.8 – 7.2, độ ẩm 35 – 40%, sau đó được trải đều trong nhà để giảm ẩm độ đến 30% trước khi phối trộn làm giá thể hoặc phơi nắng đến ẩm độ 14% trước khi qua quá trình ép viên nén.
Th1004
Vườn trái cây ‘khó tính’ nơi vùng ven
Yêu thích nông sản sạch và đam mê trải nghiệm các mô hình sinh thái vườn, anh Hồ Quốc Trạng (Ấp 6, xã Tân Thành, TP Cà Mau) đã mang những loài cây “khó tính” bén rễ trên vùng đất ngập phèn. Hứa hẹn sau khi hoàn thiện, nông trại nhỏ xinh này sẽ là một địa điểm check in hấp dẫn ở vùng ngoại ô thành phố.
Táo bạo chuyển đổi hơn 7.000 m2 vườn tạp sang đầu tư nông trại nhà lưới trồng nông sản sạch, tất bật hàng ngày chăm sóc 50 gốc táo Thái, 150 gốc nho và gần 1.000 dây dưa lưới cho mùa Tết năm nay – tất cả cho thấy tâm huyết cùng công sức bỏ ra của chàng nông dân trẻ trên chính mảnh đất quê nhà.
Trong các loại cây tại vườn, táo Thái là cây dễ thích nghi nhất, sau 4 vụ thu hoạch, trung bình mỗi cây cho năng suất từ 6-7 kg, bán ra thị trường với giá từ 30.000-40.000 đồng/kg.
Bắt đầu thực hiện ý tưởng từ khoảng thời gian dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp (đầu năm 2021), nhận thấy mảnh đất sau nhà bấy lâu nay trồng các loại cây lâu năm không hiệu quả, anh Trạng mạnh dạn cho san lấp, đầu tư 2 nhà lưới để thực hiện dự án dưa lưới. Với số vốn đầu tư ban đầu cho 2 nhà lưới khoảng 250 triệu đồng, anh được Phòng Kinh tế thành phố hỗ trợ 30% chi phí đầu tư. Có được bệ đỡ, anh tiếp tục tìm tòi trên các trang mạng xã hội, các cơ sở cung cấp giống tại Cần Thơ để mua các loại giống: táo Thái, nho kẹo, nho Pháp, nho ngón tay về trồng.
Anh Trạng cho biết: “Các loại cây trồng tại đây chủ yếu được tôi sử dụng chế phẩm sinh học, phân bón hữu cơ để chăm sóc nên chi phí khá cao. Kinh nghiệm chăm sóc, đa phần tôi tìm tòi trên các trang mạng, chủ động liên hệ đến các nhà vườn có kinh nghiệm để học hỏi, cũng như nhờ họ tư vấn cách xử lý, phòng trừ các loại sâu bệnh trên cây”.
Ðể chủ động nguồn nước tưới tiêu, anh Trạng đầu tư hẳn ao chứa nước mưa để tưới cây, hệ thống tưới nước cũng được thiết kế vòi phun tự động tuỳ theo đặc tính mỗi loại cây để gia giảm lượng nước tưới.
Ðến nay, sau gần 2 năm gầy dựng nông trại sạch cho riêng mình, sau 4 vụ thu hoạch táo, 1 vụ thu hoạch nho và 2 vụ dưa lưới cho thấy hiệu quả kinh tế rất khả quan. Ðặc biệt là vườn dưa lưới trĩu quả được anh cẩn thận chăm sóc, cùng các hạng mục đang dần hoàn thiện, dự kiến sẽ mở cửa đón khách tham quan vào dịp Tết Nguyên đán sắp tới.
“Sắp tới đây tôi sẽ đầu tư thêm vườn rau thuỷ canh, kết hợp làm thêm các khu ăn uống, ao cá để du khách đến tham quan, trải nghiệm. Tôi mong muốn nơi đây không chỉ là điểm đến cây nhà lá vườn mà còn hướng khách tham quan tiếp cận và trải nghiệm nông nghiệp sạch. Chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức về các loài cây để nhân rộng mô hình, tạo điểm nhấn cho địa phương, góp phần thực hiện các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới nâng cao. Nhưng muốn thực hiện được, tôi mong sẽ nhận được sự hỗ trợ về vốn”, anh Trạng chia sẻ dự định.
Ông Trần Quốc Tộc, Phó bí thư Ðảng uỷ xã Tân Thành, thông tin, mô hình của anh Hồ Quốc Trạng cũng là mô hình thí điểm đầu tiên của xã, sau 2 vụ thu hoạch mang lại kết quả rất khả quan khi người trồng chủ động được thời tiết, năng suất cao, ít can thiệp các loại thuốc bảo vệ thực vật, diện tích sử dụng đất ít mà chất lượng nông nghiệp được nâng cao. Việc phát triển du lịch vườn hoàn toàn phù hợp với định hướng của địa phương, người dân cũng có một địa điểm để vui chơi vào các dịp cuối tuần. Trước đây, Quỹ Hỗ trợ nông dân của Hội Nông dân tỉnh đã hỗ trợ tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp của xã 800 triệu đồng. Tuy nhiên, để đầu tư sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao cần có nguồn chi phí lớn, khiến người dân ngần ngại. Chúng tôi mong muốn sẽ có nguồn vốn lãi suất thấp để ưu tiên sản xuất nông nghiệp thì người dân sẽ đồng tình rất cao./.
Nguồn tin: Hữu Nghĩa – Báo Cà Mau
Th1021