Tin tức
Thu hút doanh nghiệp đầu tư cho nông nghiệp bền vững
Nguồn tin : Báo Long An
Được mệnh danh là “bệ đỡ”, ngành Nông nghiệp từng bước khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Bên cạnh những nông dân với cách làm hay, hiệu quả, góp phần đưa sản phẩm nông nghiệp đến với người tiêu dùng, thì có sự đồng hành của doanh nghiệp, doanh nhân. Thế nhưng, hiện nay, việc đầu tư của các doanh nghiệp, doanh nhân vào lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều hạn chế.
Bài 2: Doanh nghiệp gặp khó khi đầu tư vào nông nghiệp
Ngành Nông nghiệp (NN) có tiềm năng, lợi thế lớn với những sản phẩm, giá trị đã được khẳng định. Tuy nhiên, vấn đề thu hút đầu tư vào NN còn hạn chế, dư địa đầu tư còn rất lớn, nhiều doanh nghiệp (DN) chưa thật sự sẵn sàng nhập cuộc vào việc phát triển cũng như bứt phá mạnh hơn nữa của nền NN.
Doanh nghiệp góp phần tạo ra chuỗi giá trị nông sản lớn, khẳng định thương hiệu, tên tuổi của ngành Nông nghiệp Việt Nam
Chưa tương xứng với tiềm năng
Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) – Phạm Tấn Công cho biết, hiện cả nước có trên 50.000 DN đầu tư vào NN. Con số này còn rất khiêm tốn so với tổng số trên 900.000 DN đang hoạt động ở nước ta. Điều này cho thấy, việc thu hút DN đầu tư vào ngành NN vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế to lớn vốn có và trở thành “bài toán” cần lời giải ở nhiều địa phương, trong đó có Vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Long An – Nguyễn Văn Út, Vùng Đồng bằng sông Cửu Long là trung tâm lớn về sản xuất lúa, gạo, trái cây, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu ngành NN của cả nước. NN vùng này liên tục tăng trưởng nhờ khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế, trong đó có tỉnh Long An.
Hiện nay, thu hút đầu tư vào lĩnh vực NN có tiến triển, song vẫn thiếu yếu tố bền vững, chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế của vùng cũng như địa phương. Việc thu hút đầu tư vẫn theo chiều rộng, nhờ tăng diện tích, tăng vụ và các yếu tố đầu vào truyền thống như lao động, vốn, vật tư, nguồn lực tự nhiên,… mô hình tăng trưởng NN như hiện nay mới chỉ tạo ra được khối lượng nhiều nhưng giá trị chưa cao, hiệu quả sử dụng đất và tài nguyên còn thấp.
Bên cạnh đó, NN luôn là lĩnh vực đầu tư nhiều rủi ro khi luôn đối diện thách thức về biến đổi khí hậu, thiên tai khó lường, hạn và xâm nhập mặn luôn là nguy cơ tiềm ẩn; dịch bệnh, giá cả thị trường biến động; sự thay đổi nhu cầu, phương thức tiêu dùng đòi hỏi sự chuyển đổi phù hợp về tổ chức sản xuất, cơ cấu lại kênh phân phối, kết nối cung – cầu;…
Riêng tại tỉnh Long An, với diện tích đất sản xuất NN khoảng 300.000ha. Trong 9 tháng năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 17,16% GRDP của tỉnh. Tỉnh hiện là “ngôi nhà chung” của trên 16.500 DN đăng ký hoạt động, trong đó, lĩnh vực NN có trên 1.300 DN đăng ký hoạt động. Việc thu hút đầu tư vào NN tại Long An dù có chuyển biến nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển hiện nay.
Còn nhiều “điểm nghẽn”
Việc thu hút DN đầu tư vào NN vẫn còn những “điểm nghẽn” nhất định trong cơ chế, chính sách. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho việc thu hút DN đầu tư vào NN còn khó khăn, chưa tạo được sự an tâm để DN đồng hành, tham gia.
Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty (Cty) Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời – Huỳnh Văn Thòn chia sẻ: Thiếu thông tin minh bạch về chất lượng an toàn của sản phẩm, cụ thể là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật dẫn đến sản phẩm không đạt tiêu chuẩn vào thị trường khó tính. Đây là một vấn đề thực tế, nếu không được giải quyết thì DN Việt Nam sẽ bị thiệt thòi rất lớn, ví dụ như sản phẩm giá bán thấp, danh tiếng không được tốt.
Một rào cản lớn khác chính là chủ nghĩa bảo hộ, cụ thể là chính sách thuế bảo hộ của các quốc gia giàu đối với nông sản của các nước có nền NN còn hạn chế. Nếu các nước lớn không sử dụng quyền thương lượng quá lớn đối với các quốc gia nhỏ thì Việt Nam hoàn toàn có thể xuất khẩu nông sản tốt hơn trước, nhất là xuất khẩu gạo và bỏ được bảo hộ thì Việt Nam sẽ là nước sản xuất gạo phát triển.
Doanh nghiệp “chắp cánh” cho nhiều nông sản vươn cao, bay xa (Trong ảnh: Chuối của Công ty TNHH Huy Long An – Mỹ Bình đã vươn ra thế giới, tạo được chỗ đứng tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc,…)
Doanh nhân Võ Quan Huy (Cty TNHH Huy Long An – Mỹ Bình, huyện Đức Huệ) cho rằng, thời gian qua, ngành NN ghi nhận là “bệ đỡ” của nền kinh tế khi hàng hóa củng cố niềm tin với bạn bè quốc tế và người tiêu dùng trong nước. Nhiều sản phẩm NN Việt Nam nằm trong tốp 10 của thế giới như tiêu, cà phê, cao su, chế biến gỗ gia dụng,…
Tuy nhiên, nhiều DN, ngành hàng, nông dân còn gặp khó khăn trong vấn đề sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ như lĩnh vực trồng trọt hiện nay có nhiều mô hình khá thành công nhưng giá cả vật tư đầu vào tăng cao, thậm chí rất cao nhưng đầu ra không ổn định đã đẩy một số DN nhỏ, nông dân vào thế khó, bế tắc, không có người dẫn dắt, định hướng sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Theo Tổng Giám đốc Cty TNHH San Hà – Phạm Thị Ngọc Hà, để sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực chăn nuôi, Cty phải vượt qua nhiều khó khăn như khảo sát, tìm kiếm mặt bằng phù hợp, hội đủ điều kiện cho cây trồng, vật nuôi có thể phát triển được. Tiếp theo là thực hiện thương lượng, đền bù hoa màu, công trình trên đất,… để chuyển quyền sử dụng đất.
Tiếp đó là thủ tục đầu tư, xây dựng,… qua nhiều cơ quan và tốn thời gian, công sức. Việc xin phép xây dựng các công trình phục vụ trồng trọt, chăn nuôi công nghệ cao trên đất NN hiện nay khá vất vả. Tuy nhiên, muốn trồng trọt, chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao bắt buộc phải đầu tư xây dựng nhà lưới, nhà kính, chuồng trại hiện đại, kể cả nơi ở cho người chăm sóc.
Thực tế hiện nay là nhà đầu tư cho sản xuất sản phẩm sạch, công sức và chi phí cao hơn bình thường nhưng kết quả là sản phẩm có mẫu mã không bắt mắt dẫn đến khó tiêu thụ. Ngược lại, người tiêu dùng muốn mua sản phẩm sạch, an toàn nhưng không biết mua ở đâu. Bên cạnh đó, nếu đầu tư lĩnh vực NN mà phải tham gia đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thì rất khó thu hút DN tham gia vì đầu tư vào NN nhiều rủi ro, lợi nhuận thấp nhưng chi phí đất cao. Vấn đề về vốn cho NN xanh cũng là một thách thức không nhỏ,…
Theo Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế Nông nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) – Đoàn Đạt, 15 năm qua, kể từ khi Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 của Bộ Chính trị được ban hành, sự phát triển các DN trong NN vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển NN trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Một trong những nguyên nhân là môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thuận lợi, các chính sách hỗ trợ DN trong NN còn thiếu đồng bộ, chưa tạo động lực đủ mạnh để thu hút DN. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57-2018/NĐ-CP (NĐ số 57), ngày 17/4/2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích DN đầu tư vào NN, nông thôn. Tuy nhiên, quá trình tổ chức triển khai, thực hiện NĐ số 57 giai đoạn vừa qua gặp một số khó khăn, vướng mắc.
Trong đó, giai đoạn 2016-2020, ngân sách nhà nước còn hạn chế, các địa phương chủ yếu tập trung nguồn vốn bố trí cho kết cấu hạ tầng, còn ít nguồn vốn bố trí để thực hiện NĐ số 57. Đây được xem là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến NĐ số 57 triển khai chưa đạt mục tiêu đề ra.
Một số quy định tại NĐ số 57 còn chưa rõ hoặc chưa đồng bộ với các luật hiện hành như quy định miễn, giảm tiền sử dụng đất trùng lặp với ưu đãi theo quy định tại pháp luật đất đai; trình tự thực hiện quyết định chủ trương đầu tư của dự án còn có những cách hiểu khác nhau giữa quyết định chủ trương đầu tư theo Luật Đầu tư và NĐ số 57;…
Mặt khác, NN, kinh tế nông thôn hiện nay phát sinh một số yếu tố và yêu cầu mới, cần thiết sửa đổi, bổ sung chính sách đáp ứng bối cảnh mới cho phù hợp như các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới vừa được ký kết và bắt đầu có hiệu lực. Việc loại bỏ thuế suất với các mặt hàng nông sản chế biến sẽ khuyến khích công nghiệp thực phẩm đầu tư sản xuất các mặt hàng cho thị trường này, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu nông sản theo hướng gia tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến.
Các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được ký kết vừa tạo sân chơi mới, cơ hội mới, vừa tạo thách thức mới cho nông sản Việt Nam, nhất là nông sản hữu cơ và nông sản sạch,… Do vậy, cần thiết có chính sách hỗ trợ phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của DN NN, bảo đảm có thể chủ động, đủ khả năng hòa nhập khi các Hiệp định thương mại tự do được thực thi đầy đủ.
Chính sách khuyến khích DN đầu tư vào NN, nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Để tiếp tục thu hút, hỗ trợ mạnh hơn cho DN, ngoài việc tích cực triển khai NĐ của Chính phủ, đòi hỏi các bộ, ngành và địa phương trong tổ chức, triển khai chính sách hỗ trợ DN cần nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của DN, xác định thu hút được một DN NN “khởi nghiệp” chắc chắn sẽ tạo thêm sản phẩm cho NN, tạo thêm động lực cạnh tranh trong phát triển NN hướng tới các sản phẩm nông, lâm, thủy sản có chất lượng cao hơn. Từ đó, cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước trong điều hành tổ chức sản xuất NN, đặc biệt là đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho DN tiếp cận được với các hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước./.
Thanh Mỹ
Th1117
Trồng ”rừng” vú sữa Hoàng Kim
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Vú sữa Hoàng Kim, cây trồng mới tại Lâm Đồng đã cho thấy độ phù hợp về khí hậu, thổ nhưỡng. Một gia đình nông dân tại Thôn 5, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm đã có một vườn vú sữa Hoàng Kim trưởng thành, ra hoa, kết trái rất khả quan.
Gia đình chị Trần Minh Nguyệt Như Hoa – anh Nguyễn Minh Đức là một trong những hộ đầu tiên trên địa bàn Bảo Lâm trồng thử vú sữa Hoàng Kim. Năm 2019, sau khi cải tạo mảnh đất trồng cà phê, anh chị xuống giống 350 cây vú sữa Hoàng Kim, thứ trái cây có màu vàng tươi, vị ngọt mát, rất ít hột. Ngay từ khi xuống giống, do đã tìm hiểu về cây vú sữa Hoàng Kim, gia đình đã trồng khá thưa do anh Đức tìm hiểu thông tin cho thấy, cây vú sữa Hoàng Kim khi trưởng thành sẽ rất to. Và, sau 4 năm canh tác, cây vú sữa Hoàng Kim của gia đình anh chị đã rất lớn, với chiều cao lên tới 3- 4 m.
Vừa dùng sào thu hoạch những trái vú sữa vàng tươi, chị Như Hoa vừa nhận xét, ít loại cây trồng nào dễ chăm như cây vú sữa Hoàng Kim. Cây gần như không có sâu bệnh, không phải dùng bất cứ loại thuốc bảo vệ thực vật nào, chỉ cần tưới nước, bỏ phân đều đặn là đủ để cây sinh trưởng và phát triển tốt. Chị chia sẻ: “Nhiều người vào thăm nói vườn vú sữa Hoàng Kim nhà tôi như một mảnh rừng, mà đúng là trồng như trồng rừng thật. Hồi cây nhỏ thì còn phải chăm ít nhiều chứ từ năm 2022 tới nay, cây to, không cần phải chăm sóc gì, rất dễ sống”. Mảnh vườn 350 cây vú sữa Hoàng Kim cao ngợp, những tán lá to bản tạo nên một khung cảnh xanh mát.
Vú sữa Hoàng Kim bị côn trùng chích hút trái, khiến trái bị “tật”, vẹo, không đều và đẹp trái. Để phòng ngừa côn trùng chích trái, gia đình anh chị Như Hoa – Minh Đức tiến hành bọc trái sau khi thành hình. Theo chị Hoa, từ khi cây ra bông tới khi trái chín, có thể thu hoạch được là 3 tháng. Sau khi có bông được tầm 20 ngày, khi trái bằng ngón tay cái, gia đình tiến hành bọc trái bằng túi chuyên dụng. Túi sẽ giúp trái tránh được côn trùng, không bị chích hút cũng như lên màu vàng rạng rỡ. Khi thu hoạch, chỉ cần cắt luôn túi như bọc ngoài chống sốc, giúp việc bảo quản trái tốt hơn, mang đi xa không bị hỏng, dập.
Chị Như Hoa cho biết, vú sữa Hoàng Kim ra trái rải rác quanh năm nhưng vụ chính là vào giáp Tết Âm lịch. Từ năm 2021, anh chị đã được thu lứa bói. Vụ trái năm 2022, 350 cây vú sữa thu được 17 tấn trái, trung bình 50 kg/cây. Với giá bán tại vườn từ 25-35 ngàn đồng tùy size trái, gia đình có một khoản thu vừa phải. Chị Hoa nhận xét: “So với trồng các loại cây ăn trái có giá như sầu riêng, bưởi thì vú sữa Hoàng Kim thu nhập không bằng. Tuy nhiên, vú sữa ra trái rất nhanh, lại ít sâu bệnh, mức đầu tư thấp, người trồng rất khỏe. Vì vậy, gia đình vẫn giữ nguyên vườn vú sữa Hoàng Kim để có khoản thu nhập ổn định. Được thêm một điều là năng suất trái sẽ tăng từng năm, thu nhập sẽ ngày càng tốt hơn”.
Một điều chị Như Hoa nhấn mạnh là khác với nhiều loại trái, khi hái xuống khỏi cây, trái vẫn tiếp tục chín thì trái vú sữa Hoàng Kim khi rời khỏi thân cây gần như giữ nguyên chất lượng như khi còn trên cành. Trái rất khó chín thêm sau khi đã thu hoạch. Vì vậy, khi hái, chị chỉ chọn những trái đã chín thật sự. Chỉ khi hái chín, trái mới đạt độ ngọt, độ mềm cho phép, đến tay người tiêu dùng đạt chất lượng ngon ngọt nhất. Chị luôn khuyến cáo những gia đình trồng vú sữa Hoàng Kim cần thu hoạch khi trái chín hẳn, không hái trái ương vì sẽ không ngon, ảnh hưởng tới giá trị trái.
Bà K’Uỳnh – Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Lộc An cho biết, vườn vú sữa của gia đình anh chị Như Hoa – Minh Đức là một vườn cây ăn trái đặc sắc của xã. Vú sữa Hoàng Kim của gia đình cho trái thơm, ngọt, dễ bán trên thị trường, ít bị cạnh tranh. Trồng loại cây này tuy thu nhập không cao bằng sầu riêng, bưởi nhưng chi phí đầu tư thấp, chăm sóc nhẹ nhàng, ít công, thu nhập vẫn cao hơn trồng cà phê và nhiều loại cây trồng khác. Bởi vậy, Lộc An thường xuyên khuyến cáo nông dân đa dạng hoá cây trồng, tránh phụ thuộc vào một vài loại cây, giảm ảnh hưởng xấu nếu thị trường thay đổi.
Diệp Quỳnh
Th1117
Nâng chất lượng, hạ giá thành để ‘cứu’ ngành cá tra
Nguồn tin: Kinh tế Sài Gòn online
(KTSG Online) – Tuy có mức tăng trưởng xuất khẩu dương trong những tháng gần đây, nhưng cá tra vẫn đối diện với rất nhiều khó khăn. Do đó, để giúp ngành hàng này vượt qua khó khăn, hai vấn đề quan trọng cần giải quyết, đó là kiểm soát chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản xuất để gia tăng sức cạnh tranh…
Nâng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất để tăng sức cạnh tranh cho ngành cá tra. Ảnh: Trung Chánh
Thương lái Trung Quốc thuê nhà máy gia công, mượn “code” xuất khẩu!
Để quản lý chất lượng sản phẩm cá tra xuất khẩu, ngày 21-3-2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành thông tư số 07/2017/TT-BNNPTNT về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia “sản phẩm thuỷ sản- cá tra phi lê đông lạnh” (thông tư có hiệu lực từ ngày 5-5-2017- PV).
Theo đó, thông tư nêu trên quy định, tỷ lệ mạ băng đối với cá tra phi lê xuất khẩu không được lớn hơn 20% khối lượng tổng của sản phẩm và hàm ẩm (hàm lượng nước) không được lớn hơn 86% khối lượng tịnh của sản phẩm. Hai chỉ tiêu này được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định nhằm bảo vệ chất lượng sản phẩm cá tra phi lê xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, có không ít thương lái Trung Quốc vào Việt Nam “núp bóng” phía sau người Việt để thành lập công ty TNHH, sau đó, thuê nhà máy sản xuất gia công và thuê cả HS code để xuất khẩu tiểu ngạch vào quốc gia này. HS code (Harmonized Commodity Description and Coding System) hay còn gọi là mã HS là mã số của hàng hóa xuất, nhập khẩu theo hệ thống phân loại hàng hóa có tên là “hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa” để xuất khẩu.
Trao đổi với KTSG Online, ông Ong Hàng Văn, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần thuỷ sản Trường Giang cho biết, các nhà máy sản xuất thuỷ sản ngưng hoạt động hoặc làm ăn không hiệu quả đã chuyển hướng sang “sản xuất gia công” cho thương lái Trung Quốc. “Họ (thương lái Trung Quốc) vào lập công ty TNHH rồi thuê nhà máy để sản xuất gia công”, ông Văn nói và thông tin, doanh nghiệp sản xuất gia công sẽ được thương lái Trung Quốc trả 7.000-8.000 đồng/kg, trong khi đơn vị cho thuê “code” xuất khẩu được trả 5 triệu đồng/container.
Theo dẫn chứng của ông Văn, có một doanh nghiệp đã bán nhà máy cho Công ty cổ phần thuỷ sản Trường Giang, tức không còn sản xuất nữa, trong khi họ có “code” nên đã cho thuê để xuất khẩu.
Xét về mặt pháp lý, thương lái Trung Quốc có đủ các loại giấy tờ liên quan để xuất khẩu, tuy nhiên, theo ông Văn, việc này đang gây ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Bởi lẽ, thương lái Trung Quốc sản xuất sản phẩm chất lượng thấp để có giá cạnh tranh. “Họ bán tiểu ngạch qua biên giới nên giá nào cũng bán”, ông Văn nói và cho rằng, thương lái Trung Quốc bán rẻ đến mức các doanh nghiệp nhập khẩu chính ngạch của quốc gia này cũng… “chết”!.
Ông Trần Văn Hùng, người sáng lập Công ty TNHH Hùng Cá cho biết, tình trạng nâng tỷ lệ mạ băng và hàm ẩm trong sản phẩm cá tra đang bị một bộ phận lạm dụng để có giá rẻ. “Nhưng, việc này liệu có giúp chúng ta tồn tại hay không?”, ông đặt câu hỏi và lo lắng nói: “Mấy anh hạ giá để bán, rồi thêm phụ gia làm miếng cá “nhão nhẹt” như kem chuối, thì làm sao giữ được uy tín?”
Chính vì vậy, ông Hùng đề nghị, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội cá tra Việt Nam (VINAPA) cùng các đơn vị liên quan phải vào cuộc kiểm tra để bảo vệ chất lượng sản phẩm và uy tín của ngành cá tra Việt Nam.
Ông Phan Hoàng Duy, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thuỷ sản Cần Thơ (Caseamex) đồng quan điểm khi gợi ý, cần nhìn nhận lại về chất lượng sản phẩm. “Sản phẩm phục vụ người tiêu dùng, nhưng chế biến nước ra nhóc hết, thì làm sao họ dám ăn tiếp lần sau?”, ông nói.
Từ vấn đề nêu trên, ông Văn của Trường Giang đề nghị, cơ quan quản lý nhà nước phải kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng sản phẩm. “Đơn vị nào một năm không hoạt động nữa thì nên dẹp, thu hồi code, phải tổng kiểm tra lại hết”, ông đề nghị.
“Kéo” giá thành sản xuất xuống
Bên cạnh củng cố chất lượng sản phẩm, vấn đề quan trọng cần thực hiện để gia tăng sức cạnh tranh cho xuất khẩu cá tra Việt Nam là phải kéo giảm giá thành sản xuất.
Ông Duy của Caseamex, cho biết cá tra Việt Nam đã xuất khẩu đi khoảng 150 thị trường trên thế giới, trong đó, kết quả khả sát sơ bộ của đơn vị này cho thấy, người tiêu dùng mua cá tra Việt Nam do đây sản phẩm cá thịt trắng có giá cạnh tranh.
Tuy nhiên, sức cạnh tranh của sản phẩm cá tra Việt Nam đang ngày càng giảm khi các loại sản phẩm cùng phân khúc có giá sản xuất ngày càng thấp hơn.
Ông Nguyễn Văn Kịch, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần thuỷ sản Cafatex dẫn chứng, trước đây giá thành sản xuất cá tra Việt Nam thấp hơn cá minh thái Alaska, nhưng bây giờ cao hơn. “Trước đây, giá thành sản xuất cá tra chỉ 1 đô la Mỹ/kg, nhưng bây giờ đã là 1,2-1,3 đô la Mỹ/kg, cao hơn cá Alaska Pollock (cá minh thái Alaska- PV)”, ông Kịch nói và cho rằng, chi phí thức ăn, thuốc, xăng, dầu, điện, nước tăng khiến giá thành sản xuất tăng.
Ông Văn của Trường Giang thì dẫn chứng, trước dịch Covid-19 thức ăn cá tra có giá chỉ 10.000 đồng/kg, nhưng sau dịch đã “vọt” lên mức giá 13.000 đồng/kg. “Hiện có giảm trở lại, nhưng cũng hơn 12.000 đồng/kg”, ông cho biết và nói rằng, từ chỗ thức ăn chiếm 55-60% giá thành sản xuất cá tra, thì nay đã “nhảy” lên 70-80%.
Theo ông Văn, tình hình dịch bệnh gia tăng cũng khiến nhu cầu sử dụng thuốc phòng trị bệnh tăng theo, từ 200 đồng/kg đã tăng lên 300-500 đồng/kg, thậm chí lên 800 đồng/kg đối với nhưng ao nuôi bị dịch bệnh nhiều.
Cũng theo ông Văn, cá tra nhiễm ký sinh trùng khiến cuống mật bị chai cứng, dẫn đến cá không thể tiết mật để tiêu hoá, khiến thức ăn bị tiêu hao nhiều hơn. “Bình thường hệ số thức ăn chỉ 1,55-1,6 thì hiện nay tăng lên 1,7-1,8 (tức để nuôi 1 kg cá tra nguyên liệu phải tiêu tốn đến 1,7-1,8 kg thức ăn- PV)”, ông dẫn chứng.
Chính vì vậy, theo ông, con đường để ngành cá tra tồn tại là phải hạ giá thành sản xuất. “Muốn vậy, phải giảm tỷ lệ hao hụt, tăng trưởng nhanh, giảm dịch bệnh, hệ số thức ăn thấp”, ông cho biết.
Để kéo giảm giá thành sản xuất cá tra, ông Dương Nghĩa Quốc, Chủ tịch VINAPA kiến nghị, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nên có ý kiến để Bộ Tài Chính giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi từ 2% như hiện nay xuống còn 0%.
Trong khi đó, bà Phạm Thị Thu Hồng, Phó tổng thư ký VINAPA, cho rằng cách đây tư 10 năm, đã có công trình nghiên cứu và ứng dụng thành công phương pháp cho ăn gián đoạn để hạ giá thành sản xuất cá tra. “Công trình này đã công bố và được ứng dụng từ cách đây 10 năm, cho nên, các doanh nghiệp, cơ sở nuôi nên áp dụng phương pháp này để hạ giá thành sản phẩm”, bà gợi ý.
Theo đó, phương pháp cho ăn gián đoạn được áp dụng theo cách thức một tuần nghỉ 2 ngày, tuy nhiên, kết quả đã được chứng minh qua thực tế là cá nuôi vẫn có tốc độ tăng trưởng đảm bảo như so với cho ăn liên tục. “Quan trọng nhất, hệ số tiêu hao thức ăn của phương pháp cho ăn gián đoạn giảm xuống còn 1,3-1,45”, bà Hồng cho biết và nói rằng, đơn vị này sẵn sàng hướng dẫn doanh nghiệp, cơ sở nuôi áp dụng để giúp giảm chi phí sản xuất cho ngành cá tra.
Trung Chánh
Th1117
TPHCM sẽ là nơi dẫn dắt câu chuyện tăng trưởng xanh
nguồn tin: Kinh tế sài gòn online
(KTSG Online) – Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), thay đổi theo xu hướng xanh có thể khiến doanh nghiệp phát sinh thêm chi phí, chính quyền mất thêm chi phí, nhưng nếu không thay đổi cách thức sản xuất thì doanh nghiệp sẽ bị đơn độc trong quá trình mà nhân loại đang hướng tới hành tinh xanh.
Với thế mạnh có hàng loạt các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu, chưa kể các cơ quan ngoại giao, tham tán thương mại, các tổ chức quốc tế, TPHCM phải là nơi dẫn dắt câu chuyện tăng trưởng và mới nhất đó là tăng trưởng xanh. Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan tại diễn đàn Mekong Connect 2023 với chủ đề “Kết nối chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị giữa vùng kinh tế TPHCM và ĐBSCL hướng tới nền kinh tế xanh và bền vững” diễn ra sáng 16-11.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh hiện nay tâm thức tăng trưởng xanh, tiêu dùng xanh đã ăn sâu vào tâm trí của người tiêu dùng. Đây là xu thế không thể nào đảo ngược. Sự thay đổi có thể khiến doanh nghiệp phát sinh thêm chi phí, chính quyền mất thêm chi phí, nhưng nếu không thay đổi cách thức sản xuất thì sẽ bị đơn độc trong quá trình mà nhân loại đang hướng tới hành tinh xanh.
“Vấn đề là chúng ta chủ động đón nhận hay thụ động đón nhận nó. Nếu chúng ta tự nghĩ rằng nó quá khó thì chúng ta mãi mãi không bao giờ làm được. Chúng ta phải thay đổi tâm thức. Tâm thức tiêu dùng xanh, tăng trưởng xanh đã ăn sâu vào suy nghĩ của con người và TPHCM sẽ là nơi dẫn dắt câu chuyện này”, ông Lê Minh Hoan nói.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan chia sẻ tại diễn đàn Mekong Connect 2023 diễn ra sáng 16-11. Ảnh: Minh Anh
Ông Võ Văn Hoan, Phó chủ tịch UBND TPHCM, cho biết năm 2023, sau những biến động lớn trên phạm vi toàn thế giới, những xu hướng mới đã hình thành và phát triển nhanh chóng, trong đó, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững là yêu cầu tất yếu, không thể đảo ngược.
Đến nay, thành phố cùng 13 tỉnh, thành vùng ĐBSCL tiếp tục đối thoại về kết nối chuỗi cung ứng hướng tới nền kinh tế xanh và bền vững. Thành phố xác định mối tương quan liên kết vùng chặt chẽ giữa TPHCM và các tỉnh, thành trong nhiệm vụ phát triển kinh tế hướng đến nền kinh tế xanh và bền vững.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Trúc Sơn, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban Nhân dân tỉnh Bến Tre cho rằng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt và trước những tác động từ tình trạng biến đổi khí hậu, từng địa phương, từng vùng không thể ứng phó riêng lẻ mà phải đi theo xu hướng tất yếu là liên kết vùng.
Minh chứng thời gian qua, các tỉnh, thành vùng ĐBSCL đã tiến hành liên kết với nhau để hình thành các tiểu vùng Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau.
Bên lề diễn đàn, các doanh nghiệp, nhà sản xuất, kinh doanh… đã gặp gỡ, trưng bày các sản phẩm theo xu hướng xanh, bền vững của thị trường. Ảnh: Minh Anh
Còn theo ông Trần Việt Trường, Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ, thời gian qua, ĐBSCL đã hình thành đa dạng các liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, như liên kết theo chuỗi giá trị; liên kết theo chuỗi sản xuất và chế biến; liên kết vận tải – logistics;… tuy nhiên, chủ yếu nhất vẫn là liên kết theo ngành, cụm ngành hàng chủ lực thủy sản, lúa gạo, cây ăn trái, rau màu.
“Thực tế, liên kết theo ngành, cụm ngành hàng chủ lực thời gian qua mang lại hiệu quả không cao, thiếu tính bền vững, vẫn còn tình trạng “bẻ kèo” hợp đồng khi giá cả thị trường thay đổi. Các hình thức liên kết còn lại chỉ dừng ở giai đoạn thử nghiệm”, ông Trường nói.
Cũng theo Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ, trong sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL luôn thiếu hụt nguồn cung ứng giống cây trồng chất lượng, thiếu năng lực kỹ thuật, cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp chưa được đầu tư đồng bộ.Đặc biệt, vùng ĐBSCL đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường tiêu thụ. Các kênh phân phối chưa được phát triển, rất khó tiếp cận các kênh bán lẻ…Do đó, việc hình thành các chuỗi liên kết giá trị có tính chuyên nghiệp cao là rất cần thiết, làm hạn chế việc mất đồng bộ về cung cầu, khắc phục tính dễ bị tổn thương, gây đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa.
Ông Trần Việt Cường cho rằng để nhanh chóng xây dựng chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị giữa vùng kinh tế TPHCM và ĐBSCL hướng tới nền kinh tế xanh và bền vững, Chính phủ cần sớm phê duyệt Đề án Trung tâm Liên kết sản xuất chế biến tiêu thụ nông nghiệp vùng ĐBSCL tại TP Cần Thơ.
Theo Đề án, Trung tâm này dự kiến xây dựng với quy mô 300 ha, được chia thành hai khu với 10 chức năng hoạt động. Đặc biệt, đề án có các cơ chế đặc thù theo Nghị quyết số 45/NQ-QH được áp dụng hai hình thức ưu đãi đầu tư nổi bật về thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền thuê đất.
“Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư tại Trung tâm liên kết được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong thời gian 15 năm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Thứ 2, miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản tối đa không quá 3 năm kể từ ngày có quyết định cho thuê đất; sau thời gian miễn tiền thuê đất của thời gian xây dựng cơ bản, được miễn tiền thuê đất 15 năm và giảm 50% tiền thuê đất trong 7 năm tiếp theo”, ông Trường chia sẻ và kiến nghị Bộ NN&PTNT sớm thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án.
Minh Anh
Th1114
Tiên phong trồng cam theo hướng hữu cơ
Nguồn tin: báo Lâm Đồng
Thay cho vườn cà phê trên đất đồi năng suất không cao, một đôi vợ chồng nông dân đã thay thế bằng một đồi cam ngọt mát. Trồng cam theo hướng hữu cơ, những người nông dân đang làm giàu chính đáng ngay trên mảnh đất quê hương.
Vợ chồng anh chị Vũ Thiện Tài- Đỗ Thị Mỹ bên vườn cam đang chính vụ
TRỒNG CAM HỮU CƠ TRÊN ĐẤT ĐỒI
Tại Thôn 6, xã Tân Lâm, huyện Di Linh, bà con rất quan tâm tới vườn cam canh của gia đình anh Vũ Thiện Tài và chị Đỗ Thị Mỹ. Đây là mô hình trồng cam trên đất dốc đầu tiên của thôn và đang vào chính vụ thu hoạch, với những trái cam lúc lỉu trên cành. Anh Vũ Thiện Tài chia sẻ, mảnh đất vốn trồng cà phê, do công chăm quá nhiều, cà phê đất đồi cũng không đẹp như cà phê đất thấp nên anh chị quyết tâm chuyển dịch sang các loại cây trồng khác. Nghiên cứu kỹ, anh Tài về vùng cam canh, mua cam giống về trồng. Đó là năm 2020, những cây cam canh giống được trồng xuống mảnh đất trước đó phủ đầy cà phê.
Trên mảnh đồi rộng 3 ha, anh xuống 1,2 ha cam với số lượng 1.700 cây. Trước khi trồng, anh đào hố và cho phân hữu cơ, giúp cây cam đủ dinh dưỡng trong thời gian đầu. Sau vài tháng, khi cây cam con bắt đầu bén rễ, việc chăm sóc trở nên đơn giản vì cam ít bệnh tật, chỉ cần theo dõi sát quá trình sinh trưởng của cây để có biện pháp phòng ngừa hợp lý. Anh Tài cho biết: “Cây cam canh trồng trên đất đồi rất đẹp vì đất thoát nước tốt, không ảnh hưởng tới rễ. Trồng tại vùng Tân Lâm, cam còn khỏe hơn trồng tại đất gốc Vân Canh, Hoài Đức, Hà Nội”.
Anh Vũ Thiện Tài cũng cho biết thêm, vì cây cam canh ưa phân hữu cơ nên việc chăm sóc cũng rất tiện lợi vì anh chị xác định trồng cam theo hướng hữu cơ, mang lại cho người tiêu dùng một quả cam có chất lượng tốt. Nguyên vùng đồi, anh Tài hoàn toàn không cắt cỏ, chỉ dùng máy cắt khi cỏ quá cao. Cỏ giúp giữ đất, chống xói mòn, lại giữ được độ ẩm cho gốc cam. Cam canh muốn khỏe, muốn có trái ngọt phải bón nhiều phân hữu cơ và một số dung dịch như đậu nành xay, bắp xay trộn nước bỏ trực tiếp vào gốc. Anh Tài cũng chia sẻ, trồng cam canh không thể để tự nhiên mà cây ra trái đồng loạt, sai trái, đều trái; phải có nhiều kỹ thuật như cắt nước làm trái, khoanh gốc…, cây mới ra trái và giữ trái. Khi mua giống, người bán cũng chuyển giao kỹ thuật cho anh. Còn lại, trong quá trình trồng cam, anh mày mò tự tìm và rút kinh nghiệm. Một cách xử lý sâu bệnh hiệu quả mà anh Tài chia sẻ: “Cây cam canh chỉ sợ sâu vẽ bùa, nhất là khi ra đợt đọt non. Bởi vậy cần chú ý, khi cây ra đọt thì phun thuốc ngừa, sâu sẽ không hoạt động. Thuốc phun ngừa đều là thuốc sinh học, có hiệu quả khi phun ngay từ khi chưa có dấu hiệu. Chứ để đến khi có sâu, lá bị vẽ bùa rồi thì phải dùng thuốc nặng mà cây vẫn kém phát triển”.
• GIỮ GÌN GIÁ TRỊ CHO TRÁI CAM
Năm 2023, vườn cam của anh chị Vũ Thiện Tài- Đỗ Thị Mỹ cho thu rộ sau năm 2022 thu bói lác đác. Theo tính toán của chị Mỹ, 1000 cây cho trái, anh chị có thể thu được 30 tấn. Hiện tại, mỗi tuần anh chị thu hoạch từ 300 – 400 kg, thương lái tới tận vườn mang đi với giá 40 – 45 ngàn đồng/kg. Chị Mỹ cho biết, cam canh trồng ở Di Linh ngọt thanh, không đắng, ít xơ và đặc biệt không có hạt, rất phù hợp với người già và trẻ nhỏ. Vụ cam chính là vụ tháng 10, bắt đầu thu từ nay tới Tết âm lịch. Tuy nhiên, gia đình chị đã học hỏi và qua năm sẽ xử lý cam ra trái vụ chiêm, vụ tháng 5, dù năng suất thấp nhưng giá rất cao. Chị Mỹ thông tin: “Riêng cam của gia đình là hái chín hẳn, khi cả trái lên màu vàng hết, không còn đốm xanh gia đình mới hái. Cam hút hàng, có thương lái yêu cầu hái cam chín vừa để tăng năng suất nhưng gia đình tôi cương quyết yêu cầu hái chín hẳn. Trái cam chín hẳn mới đủ độ ngọt, không xơ, không đắng, người tiêu dùng ăn ngon. Trồng cây bán trái mình cũng phải giữ thương hiệu cho cam Tân Lâm”.
Ngoài 1,2 ha cam, anh chị còn đang trồng thêm 5 sào cam Vinh với 700 gốc, cũng đang cho bói lác đác. Cam Vinh trồng trên đất đồi cũng cho trái ngon không kém tại quê gốc, vị trái ngọt đậm, chua nhẹ, thơm và mọng nước. Qua năm 2024, chị Mỹ tính toán gia đình có thể đạt 50 tấn trái cam canh và 10 tấn trái cam Vinh. Và gia đình cũng đang tiếp tục trồng nốt diện tích cam canh để có thêm sản phẩm phục vụ thị trường.
Ông Lê Trường Sơn – Phó Chủ tịch HĐND xã Tân Lâm, huyện Di Linh đánh giá, gia đình anh chị Vũ Thiện Tài – Đỗ Thị Mỹ là nông hộ giỏi, làm ăn chăm chỉ, thu nhập ổn định tại địa phương. Mô hình trồng cam của anh chị đã góp phần giới thiệu đến bà con thêm một loài cây ăn trái, bên cạnh các cây trồng truyền thống như cà phê, sầu riêng.
Diệp Quỳnh
Th1114
Số hóa canh tác, lão nông biến đất cằn thành vườn bưởi Diễn trĩu quả
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
HÀ NỘI Ở tuổi ‘xế chiều’, ông Diện vẫn rất nhạy bén ứng dụng công nghệ số vào chăm sóc vườn bưởi. Bên cạnh đó, ông còn tuân thủ tốt canh tác theo VietGAP, hướng hữu cơ.
Lão nông nhạy bén ứng dụng công nghệ số
Đến thăm vườn bưởi xanh mướt, sai trĩu quả, chuẩn bị cho thu hoạch của gia đình ông Lê Hữu Diện ở thôn Trung Cao, xã Trung Hòa (Chương Mỹ, TP Hà Nội), chúng tôi thực sự ấn tượng với cách làm của nông dân này.
Ông Diện cho biết, năm 2005, ông chuyển đổi 4 sào đất gò đồi khó canh tác của gia đình sang trồng 140 gốc bưởi Diễn. Thời gian đầu ông gặp không ít khó khăn vì vốn ít, kinh nghiệm và kỹ thuật chưa có khiến cây bưởi còi cọc, chậm phát triển. Không nản chí, ông nghiên cứu tài liệu, sách báo, internet, đi tham quan học hỏi các mô hình trồng bưởi Diễn đã thành công trong và ngoài tỉnh.
Bên cạnh đó, ông Diện còn tích cực tham gia các khóa học trồng cây ăn quả công nghệ cao do Thành phố, huyện tổ chức và được hướng dẫn tỉ mỉ về phương pháp canh tác, nhất là kỹ thuật trồng, chăm sóc cây ăn quả có múi bằng công nghệ sinh học (sử dụng phân bón hữu cơ, không dùng thuốc bảo vệ thực vật).
Sau khi 4 sào bưởi trồng đầu tiên cho thu nhập khá, năm 2014, ông Diện tiếp tục đấu thầu thêm 2ha đất gò đồi hoang hóa cằn cỗi ở địa phương để trồng bưởi Diễn.
Mặc dù đã chủ động đào ao sát vườn bưởi để lấy nước tưới nhưng việc tưới từng cây cho cả vườn bưởi vừa tốn công mà tưới trước khô sau, độ ẩm không đều. Để khắc phục điều này, ông Diện đã đầu tư 120 triệu đồng để lắp đặt hệ thống tưới nước tự động điều khiển bằng phần mềm trên điện thoại di động. Từ khi ấy, chỉ cần ngồi nhà bấm nút, sau 30 phút, diện tích 2ha với 300 cây bưởi Diễn đã được “tắm” đều.
Theo ông Diện, việc sử dụng hệ thống tưới nước tự động điều khiển bằng phần mềm trên điện thoại di động có nhiều ưu điểm vượt trội, giúp điều chỉnh được áp suất, lưu lượng nước tưới đồng đều cho toàn bộ các gốc cây ở những vị trí, địa hình khác nhau theo ý muốn; độ văng của dòng nước lên tới 36m, trong khi chi phí lắp đặt hợp lý với túi tiền của bà con nông dân.
Ngoài việc tiết kiệm được chi phí nhân công tưới nước so với phương pháp thủ công, chỉ cần vài thao tác nhẹ nhàng, hệ thống tưới tự động còn tưới rải đều 100% vườn bưởi bất kể ngày hay đêm, nước tưới thấm sâu hơn. Nhờ đó, vườn bưởi cho năng suất, chất lượng quả cao hơn rõ rệt, quả bưởi có mẫu mã đẹp hơn, độ tươi của quả bưởi được duy trì lâu hơn nên có thể vận chuyể đi tiêu thụ đến các địa phương xa mà không ảnh hưởng đến chất lượng. Vì vậy giá bán bưởi của vườn ông Diện luôn cao và ổn định.
Hệ thống tưới nước tự động tại vườn bưởi của gia đình ông Diện được thiết kế, lắp đặt đồng bộ gồm tủ điều khiển điện tử, bộ điều khiển và giám sát được kết nối mạng internet với smartphone. Người vận hành sẽ cài đặt, thiết lập các thông số nhằm duy trì, kiểm soát trạng thái hoạt động, sự ổn định của toàn bộ hệ thống. Máy bơm nước được lắp đặt nhằm tăng áp suất nước, giúp cung cấp đủ nước. Bộ lọc có chức năng loại bỏ toàn bộ các tạp chất, rong rêu có trong nguồn nước. Ống dẫn nước chuyển nước từ nguồn đến toàn bộ khu vực vườn bưởi. Van điện từ được dùng để đóng/mở dòng nước cho hệ thống tưới.
Thành công nhờ kiên trì với canh tác hướng hữu cơ
Ngoài số hóa hệ thống tưới, ông Diện cũng chuyển hướng chăm sóc vườn bưởi Diễn từ vô cơ sang hướng hữu cơ, sử dụng phân bón hữu cơ, chế phẩm sinh học để phòng trừ sâu bệnh.
Để thực hiện mục tiêu xây dựng thương hiệu và chuỗi giá trị sản phẩm của mình, ông Diện luôn tuân thủ quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.
Chia sẻ về kỹ thuật chăm sóc cây bưởi Diễn, ông Diện bật mí: Vào tháng 12 hàng năm, sau khi thu hoạch xong quả, gia đình ông tiến hành dọn vườn, tỉa cành, phun rửa cây và phun ủ mầm hoa. Đồng thời, cây bưởi sẽ được “cho ăn” phân hữu cơ ủ hoai mục, đậu tương, ngô nghiền, quả chuối xay nhuyễn… để tiết kiệm chi phí, hạn chế tối thiểu phân bón hóa học, đồng thời tăng sức đề kháng cho cây, giúp cây khỏe mạnh, chống chịu sâu bệnh tốt…
Khoảng tháng 2 năm sau, khi cây bưởi ra hoa, ông Diện tiến hành phun kích hoa, đồng thời tiến hành thụ phấn bổ sung để tăng tỷ lệ đậu quả trên cây bưởi Diễn. Sau đó, dùng chế phẩm sinh học để phun phòng các loại bệnh trên cây bưởi như thán thư, sâu đục thân, sương mai, rỉ sắt, nhện đỏ, rệp…
Khoảng tháng 3 – 4 khi cây bưởi ra quả non, ông lại tiến hành bón thêm lượng nhỏ phân NPK, Kali, tỉa loại bỏ những quả dị tật, méo mó, những chùm quá nhiều quả cũng tỉa bớt, tốt nhất chỉ để lại 1 – 2 quả.
“Số lượng quả bưởi để lại trên cây tùy theo kích cỡ, tuổi cây. Cây bình thường thì để 100 quả đổ lại, nếu cây to thì 150 quả. Nếu để quả quá nhiều cây bưởi sẽ không đủ chất dinh dưỡng để nuôi quả. Vào những ngày thời tiết nắng nóng, tôi thường tưới 2 lần trong ngày là sáng và tối. Để quả bưởi đạt chất lượng, tất cả các khâu từ chăm bón, phòng bệnh cho đến thu hoạch đều rất quan trọng”, ông Diện cho hay.
Cũng theo ông Diện, năm 2020, ông tham gia vào Hợp tác xã Nông nghiệp sạch Đức Hậu Lưu Quang. Tại đây, gia đình ông được hỗ trợ về kỹ thuật chăm sóc cây bưởi, có các kỹ sư nông nghiệp về hỗ trợ, tư vấn 1 lần/tháng để sản phẩm quả bưởi có năng suất, chất lượng tốt nhất.
Tại vườn bưởi Diễn của gia đình ông Diện, mỗi cây bưởi được đánh dấu theo số thứ tự để tiện theo dõi, khi cây bị bệnh sẽ được tổ kỹ thuật của Hợp tác xã đến tận vườn để hướng dẫn cách xử lý. Quy trình chăm sóc như bón phân, phun phòng trừ sâu bệnh, tưới nước đều có sổ nhật ký để ghi chép; mua phân bón ở đâu, loại gì, bón bao nhiêu… đều được ghi chép rõ ràng, tỉ mỉ để hàng tháng Hợp tác xã đến kiểm tra sổ sách.
Hiện tại, khu vườn 2ha với 300 gốc bưởi Diễn của ông Diện được trồng theo quy trình VietGAP, cho thu hoạch 25 tấn quả/năm. Với giá bán bưởi loại 1 từ 35.000 – 39.000đ/kg, loại 2 từ 25.000 – 30.000đ/kg, trung bình mỗi năm ông Diện thu về khoảng 400 triệu đồng, sau khi trừ tất cả chi phí, ước lãi hơn 250 triệu đồng. Bên cạnh đó, gia đình ông Diện còn tạo công ăn việc làm thời vụ cho 5 lao động địa phương với thu nhập 350.000 đồng/người/ngày.
Th1111
Nông dân tất bật chuẩn bị trái cây, rau màu phục vụ tết
Nguồn tin: Báo Long An
Gần 2 tháng nữa là đến Tết Dương lịch năm 2024. Như mọi năm, vào thời điểm này, nhiều nông dân trên địa bàn tỉnh Long An tất bật chuẩn bị trái cây, rau màu nhằm cung cấp cho thị trường mùa tết.
Th1111
Xoài Đồng Tháp xuất đi hơn 10 nước
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
ĐỒNG THÁP Đồng Tháp là tỉnh có diện tích trồng xoài lớn nhất vùng ĐBSCL, sản lượng bình quân đạt trên 115.000 tấn quả/năm và được xuất khẩu đi hơn 10 nước trên thế giới.
Trồng xoài VietGAP
Theo UBND tỉnh Đồng Tháp, xoài là 1 trong 5 ngành hàng chủ lực chọn để thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp của địa phương, bao gồm lúa, cá tra, xoài, hoa kiểng và sen. Đặc biệt những năm gần đây ngành hàng xoài ở Đồng Tháp được ứng dụng công nghệ vào sản xuất như rải vụ, thụ phấn bông xoài 70% diện tích, bao trái xoài gần 90% diện tích nhằm giúp xoài ra trái quanh năm.
Tính đến nay diện tích trồng xoài của Đồng Tháp đạt hơn 14.000ha gồm 3 giống chủ lực như Cát Chu, Tượng da xanh và Cát Hòa Lộc. Xoài được trồng ở 12/12 huyện, thành phố của tỉnh Đồng Tháp, nhưng tập trung nhiều nhất ở huyện Cao Lãnh là 4.100ha và TP Cao Lãnh là 3.400ha, huyện Thanh Bình 1.700ha và huyện Lấp Vò 1.300ha… Sản lượng bình quân đạt trên 115.000 tấn/năm và được xuất khẩu đi hơn 10 nước trên thế giới.
Những ngày đầu tháng 11 này, chúng tôi đến HTX xoài Mỹ Xương, ở huyện Cao Lãnh – hiện nay là thời điểm nhà vườn bắt đầu thu hoạch xoài nghịch vụ để cung cấp cho thị trường. Hầu hết các hộ trồng xoài ở đây đều áp dụng kỹ thuật bao trái và nhiều nhà vườn đã tập tành mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.
Ông Võ Việt Hưng, giám đốc HTX xoài Mỹ Xương cho biết: Nếu như trước đây, nhà vườn chỉ dựa vào kinh nghiệm, tập quán hay nhờ vào sự hỗ trợ của thuốc BVTV, phân hóa học và các chất kích thích thì ngày nay, việc trồng xoài phải dựa vào quy trình sản xuất an toàn, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật như sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, mã số vùng trồng, đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường xuất khẩu để có đầu ra ổn định.
Sở hữu vườn xoài rộng 1,5ha đang cho trái, ông Võ Hữu Hiền, xã viên HTX xoài Mỹ Xương cho biết, từ khi sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP gia đình ông đã giảm được khoảng 80% các loại phân thuốc hóa học. Trước đây thông thường mỗi vụ ông phải tốn từ 8 – 10 lần phun thuốc BVTV mà sản lượng chỉ đạt từ 15 – 16 tấn/ha thì hiện tại, chỉ cần 1 – 2 lần nhưng sản lượng lại đạt đến 20 tấn/ha. Một lợi ích nữa là khi áp dụng kỹ thuật bao trái để không bị côn trùng gây hại nên trái xoài rất đẹp và bán được giá cao. Xoài sản xuất theo quy trình kỹ thuật, đảm bảo an toàn có giá cao hơn từ 10.000 – 15.000 đồng/kg và luôn hút hàng, trong khi xoài không đạt chuẩn có khi không tiêu thụ được, nhất là ở thời điểm thu hoạch rộ.
Theo tính toán của những nhà vườn nơi đây, trồng xoài có thể thu lợi nhuận gấp 5-6 lần trồng lúa. Trung bình 1 cây xoài cho thu hoạch khoảng 100 – 200kg, sau khi trừ hết các chi phí người trồng lãi từ 250 – 300 triệu đồng/ha/vụ.
295 vùng trồng xoài được cấp mã số
Cấp mã số vùng trồng là giai đoạn rất quan trọng để có thể tiến đến việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông sản, gắn chặt với quy trình sản xuất đạt chất lượng, đáp ứng yêu cầu của các thị trường nhập khẩu nông sản hiện nay.
Theo ông Lê Quốc Điền, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Đồng Tháp, hiện toàn tỉnh có 295 vùng trồng xoài được cấp mã số vùng trồng tương ứng 8.300ha tập trung chủ yếu ở huyện Cao Lãnh và TP. Cao Lãnh. Trung Quốc là thị trường lớn đã được cấp 252 mã số vùng trồng (trên 7.000 ha). Ngoài ra, xoài Đồng Tháp còn được cấp mã số vùng trồng xuất khẩu sang các nước phát triển đã góp phần đẩy mạnh việc hình thành và mở rộng vùng chuyên canh xoài.
Bên cạnh đó, hiện đã có 5 doanh nghiệp đăng ký cấp mã số cơ sở đóng gói xoài trên địa bàn tỉnh, 1 mã số đang hoạt động và 4 mã số đang chờ phê duyệt. Việc áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất nông nghiệp tốt (GAP), sản xuất đủ điều kiện an toàn thực phẩm hoặc sản xuất theo hướng hữu cơ được khuyến khích. Tuy nhiên, diện tích thực hiện còn khá khiêm tốn. Trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp hiện có 486ha đạt chứng nhận VietGAP (33 cơ sở) và 2 ha đạt chứng nhận hữu cơ (Công ty TNHH Chú Chín).
“Hiện nhiều thị trường nhập khẩu yêu cầu nông sản phải được truy xuất nguồn gốc, mà để truy xuất được nguồn gốc thì phải được cấp mã số vùng trồng. Thị trường Trung Quốc lâu nay được cho là dễ tính nhưng nay cũng đã có nhiều rào cản kỹ thuật đối với nông sản nhập khẩu từ nước ta. Vì vậy, muốn tăng xuất khẩu nông sản thì quá trình sản xuất cần phải thay đổi để thích ứng và vượt qua các rào cản đó.
Tại vùng trồng xoài Đồng Tháp đến nay đã có hàng ngàn hecta được cấp mã số vùng trồng, đa phần những vùng này phục vụ cho xuất khẩu, trong đó xuất sang thị trường Trung Quốc khá thuận lợi”, ông Lê Quốc Điền, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Đồng Tháp khẳng định.
Th1030
Niên vụ cà phê 2023-2024: Bảo đảm tỷ lệ cà phê được hái chín trên 85%
Nguồn tin: báo Đăk Lăk
UBND tỉnh vừa ban hành Chỉ thị nhằm bảo đảm cho việc sản xuất, thu hoạch, chế biến và tiêu thụ cà phê niên vụ 2023-2024 đạt hiệu quả cao.
Theo đó, UBND tỉnh yêu cầu Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố chỉ đạo các phòng, ban liên quan, UBND các xã, phường, thị trấn, các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh cà phê trên địa bàn lập kế hoạch và tăng cường công tác bảo vệ nghiêm ngặt diện tích cà phê đến kỳ thu hoạch; tăng cường công tác tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân không thu hái cà phê xanh, bảo đảm tỷ lệ cà phê chín khi hái đạt trên 85% (trường hợp tận thu cuối vụ, tỷ lệ quả chín tối thiểu đạt 80%). Đồng thời, có biện pháp xử lý nghiêm đối với các trường hợp thu hái, mua bán cà phê non; hướng dẫn người dân chuẩn bị sân phơi, máy sấy đề phòng trường hợp thời điểm thu hoạch gặp mưa kéo dài ảnh hưởng đến chất lượng cà phê.
UBND tỉnh cũng yêu cầu Sở NN-PTNT chủ động phối hợp với UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn triển khai Kế hoạch phần mềm quản lý ngành hàng cà phê; tổ chức đánh giá kết quả thực hiện tái canh cà phê, rà soát điều chỉnh kế hoạch tái canh; phối hợp với Sở Công Thương và các địa phương trong việc kiểm soát chất lượng cà phê đảm bảo an toàn thực phẩm trước khi đưa ra tiêu thụ ở các thị trường…
Thu hoạch cà phê ở Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Công bằng Ea Tu. |
Sở Công thương tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi gian lận thương mại trong thu mua, chế biến, tiêu thụ cà phê; tuyên truyền, khuyến khích các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh cà phê đầu tư đổi mới công nghệ chế biến, bảo quản nhằm bảo đảm chất lượng cà phê sau thu hoạch; thường xuyên nắm bắt giá cả, dự báo tình hình diễn biến thị trường để thông tin kịp thời; chủ động tham mưu, đề xuất UBND tỉnh có biện pháp xử lý thích hợp khi thị trường cà phê có những biến động bất thường để hạn chế thiệt hại cho nông dân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; thường xuyên thực hiện công tác xúc tiến tiêu thụ nông sản với các tỉnh, thành phố trong cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xúc tiến tiêu thụ cà phê của tỉnh niên vụ năm 2023-2024…
Chế biến cà phê sau thu hoạch ở Trang trại cà phê Aeroco. |
UBND tỉnh giao Công an tỉnh chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ, công an các huyện, thị xã, thành phố phối hợp chặt chẽ với UBND các huyện, thị xã, thành phố và các đơn vị có liên quan trong việc xây dựng và triển khai phương án bảo vệ cà phê; xử lý nghiêm các trường hợp trộm cắp cà phê và các đối tượng tự tổ chức giao dịch trung gian trái phép gây thiệt hại cho nông dân và doanh nghiệp.
Đề nghị Cục Quản lý thị trường Đắk Lắk tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động thu mua, tiêu thụ cà phê; ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi ép giá, ép cân để trục lợi.
Đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh Đắk Lắk chỉ đạo các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh tiếp tục ưu tiên nguồn vốn cho các tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất, thu mua, chế biến và xuất khẩu cà phê trong niên vụ 2023-2024, nhất là nguồn vốn vay để đầu tư tái canh cà phê, đầu tư máy móc thiết bị chế biến, hệ thống xử lý nước thải; hỗ trợ lãi suất đối với vốn vay cho những doanh nghiệp đầu tư nhằm đổi mới trang thiết bị công nghệ theo sự chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh để đảm bảo được mục tiêu, kế hoạch đề ra.
Minh Thuận
Th1026
Hiệu quả từ mô hình sản xuất chè hữu cơ
Nguồn tin: Báo Thái Nguyên
Nắm bắt xu hướng tiêu dùng sản phẩm xanh, sạch của khách hàng, cũng như nhằm đảm bảo sức khỏe cộng đồng, cân bằng môi trường sinh thái, từ năm 2020, HTX chè Thủy Thuật, xã Phúc Trìu (TP. Thái Nguyên) đã chuyển từ làm chè VietGAP sang canh tác chè hữu cơ, với diện tích 5ha.
Các đơn vị, tổ hợp tác sản xuất chè trên địa bàn tỉnh đến tham quan, trao đổi kinh nghiệm sản xuất chè hữu cơ tại HTX chè Thủy Thuật. |
Anh Ngô Viết Thuật, Giám đốc HTX chè Thủy Thuật, cho biết: HTX được thành lập tháng 6-2017, với 15 thành viên, chuyên sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP, với diện tích 7ha. Đến năm 2020, được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông Thái Nguyên, 5/7ha diện tích sản xuất chè của HTX được thay đổi toàn bộ quy trình chăm sóc từ khâu bón phân, phun tưới, đảm bảo 100% không sử dụng phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật. Không có bất kỳ chất tạo màu, tạo hương, tạo vị nào trong quá trình chế biến.
Dẫn chúng tôi đi thăm đồi chè phía sau nhà, chị Nguyễn Thị Thủy, thành viên HTX, giới thiệu: Toàn bộ diện tích chè canh tác hữu cơ được chúng tôi phân thành các lô để dễ quản lý, theo dõi, đảm bảo từng khâu phải được chăm sóc kỹ lưỡng, tỉ mỉ. Về bón phân, mỗi năm đồi chè sẽ được đào rãnh để bón phân chuồng ủ mục 2 lần, vào khoảng tháng 1 và đầu tháng 5. Sau đó sẽ bón rải gốc chè bằng phân hữu cơ. Sau mỗi lứa hái từ 10-15 ngày, bà con tiếp tục bón hỗn hợp gồm đậu tương nghiền trộn đường hoặc mật mía, bột ngô trộn với men vi sinh, ủ trong vòng 10 ngày.
Ngoài ra, cây chè có thể được bón đạm cá, chuối ủ để thay thế. Khi phát hiện cây chè bị sâu bệnh, dùng các chế phẩm vi sinh xua đuổi sinh học, thảo mộc. Các thành viên HTX cũng dùng vỏ cây keo, cây guột để vùi vào gốc chè nhằm tránh cỏ dại mọc lên và giữ ẩm, tạo độ phì nhiêu cho đất.
Theo lời chị Thủy, khi mới áp dụng canh tác hữu cơ, các thành viên trong HTX phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều. Bởi làm chè hữu cơ cần bỏ nhiều công sức nhưng năng suất chè giảm hẳn trong vòng hơn 1 năm đầu. Cụ thể, nếu trước 1 sào chè, bình quân thu được khoảng 22kg chè khô, thì giờ chỉ được từ 12-15kg. Thị trường lúc đó nhiều người chưa quan tâm đến chè hữu cơ, khách buôn giảm hẳn…
Nhờ sự hỗ trợ nhiệt tình của cán bộ khuyến nông cũng như sự kiên trì của bà con, đến nay, cây chè đã sinh trưởng, phát triển ổn định, chất lượng, giá thành chè được nâng lên. Sản phẩm chè của HTX hiện đã có mặt trên nhiều sàn giao dịch thương mại điện tử. Hiện nay, HTX tiêu thụ trên 5 tấn chè búp khô/năm, với giá bán từ 250 nghìn đồng đến 3 triệu đồng/kg, tuỳ từng sản phẩm. Theo tính toán, trung bình 1ha chè hữu cơ đạt trên 475 triệu đồng/năm, cao hơn sản xuất thông thường 120 triệu đồng.
Theo đánh giá của các thành viên HTX, khi sản xuất chè hữu cơ, hệ sinh thái nương chè đã được cải thiện đáng kể, đất đai trở nên phì nhiêu hơn. Ngoài ra, bà con cũng yên tâm hơn khi sản xuất, không lo ảnh hưởng đến sức khỏe. Không khí trong khu vực không còn bị ô nhiễm.
Với những nỗ lực của Ban Giám đốc và các thành viên, đến nay, HTX chè Thủy Thuật đã có các sản phẩm chè được chứng nhận OCOP 3 sao, 4 sao. Vùng chè của HTX được chứng nhận mã số vùng trồng… Đặc biệt, cuối năm 2022, sản phẩm chè của HTX được các đơn vị chuyên môn chứng nhận là sản phẩm hữu cơ phù hợp với các yêu cầu tiêu chuẩn sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam; được Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam tặng Bằng khen do có thành tích xuất sắc trong phát triển sản phẩm nông nghiệp hữu cơ năm 2023..
Th1118