Tin tức
Nuôi gà quế an toàn sinh học được giá, lãi cao
Nuôi gà quế an toàn sinh học được giá, lãi cao
Nuôi giun quế làm thức ăn cho gà làm chất lượng thịt gà săn chắc, thơm và ngọt hơn hẳn nuôi bằng thức ăn thông thường. Nuôi gà bằng giun quế còn được gọi là “gà quế” hiện là phong trào đang phát triển mạnh trên địa bàn huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Mô hình đã mang lại hiệu quả thiết thực cho nhiều hộ dân nơi đây.
Nhằm khuyến khích người nông dân phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa an toàn, ổn định và bền vững; năm 2016 Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thái Nguyên phối hợp với Trạm Khuyến nông huyện Phú Lương, UBND xã Yên Lạc xây dựng mô hình chăn nuôi gà thịt an toàn sinh học cho các hộ nuôi giun quế làm thức ăn cho gà.
Mô hình chăn nuôi gà thịt an toàn sinh học được thực hiện từ tháng 7/2016 tại 9 hộ dân xóm Ó, xã Yên Lạc (huyện Phú Lương). Quy mô thực hiện 2.500 con gà J – DABACO. Các hộ tham gia mô hình được hỗ chợ 60% giá giống và 40% vật tư (thức ăn, thuốc thú y…); được chuyển giao kiến thức khoa học – kỹ thuật về chăn nuôi gà an toàn sinh học từ khâu chọn mua con giống có chất lượng đến việc áp dụng quy trình vệ sinh, tiêu độc sát trùng chuồng trại, chăm sóc, nuôi dưỡng… Đặc biệt, gà trong mô hình được phòng các bệnh như Marek, Newcastle, Gumboro, đậu và cúm bằng tiêm vắc-xin.
Trong thời gian úm, gà được chăn bằng cám công nghiệp, cám viên dùng cho gà con. Sau 01 tháng tuổi thả gà ra vườn có hàng rào, lưới, tường bao quanh, tách biệt với nơi ở của con người. Gà nuôi thịt được sử dụng thức ăn bằng giun quế kết hợp với nguyên liệu sẵn có tại địa phương như cám gạo, bột ngô, bột đỗ tương… để nâng cao chất lượng sản phẩm, an toàn và hạ giá thành sản xuất.
Qua 4 tháng triển khai thực hiện, mô hình đã đạt được kết quả cao, tỷ lệ gà hao hụt ít, trọng lượng xuất chuồng bình quân đạt 2 kg/con, tiêu tốn và chi phí thức ăn thấp… Hiện nay giá gà thịt ổn định ở mức tương đối cao; gà quế được người dân địa phương bán với giá 90 nghìn đồng/kg hơi. Sau khi trừ các khoản chi phí về con giống, thức ăn và thuốc thú y, trung bình 100 con gà J – DABACO nuôi theo phương thức an toàn sinh học, nuôi bằng giun quế, người dân thu về 10 triệu đồng; hiệu quả cao hơn nhiều so với gà nuôi hoàn toàn bằng cám công nghiệp và nuôi thả theo truyền thống.
Ngày 16/11/2016, Trung tâm Khuyến nông Thái Nguyên tổ chức hội nghị tổng kết mô hình chăn nuôi gà thịt an toàn sinh học năm 2016. Tại hội nghị, các đại biểu và bà con nông dân đánh giá, sử dụng giun quế làm thức ăn cho vật nuôi là cách tốt nhất cung cấp protein chất lượng cao, giá rẻ cho vật nuôi, đặc biệt hiệu quả trong chăn nuôi gà.
Việc nuôi giun quế đã giải quyết được vấn đề thức ăn chất lượng cho chăn nuôi gà; trong khi nguồn thức ăn chính cho giun quế lại là các chất thải trong chăn nuôi như phân trâu, bò… và rác thải nông nghiệp. Ngoài ra phân giun quế còn là nguồn phân hữu cơ rất tốt để bón cho rau, màu… qua đó đã góp phần quan trọng làm sạch môi trường sống.
Chăn nuôi gà an toàn sinh học hạn chế dịch bệnh, đảm bảo an toàn cho đàn gà cũng như đảm bảo an toàn, sức khỏe cho người dân; tạo ra thực phẩm sạch cho người tiêu dùng, nâng cao thu nhập cho người chăn nuôi.
Từ hiệu quả mô hình mang lại, Trung tâm Khuyến nông Thái Nguyên khuyến khích người dân địa phương phát triển chăn nuôi gà an toàn theo quy mô gia trại, trang trại thành vùng chăn nuôi tập trung; tiến tới xây dựng thương hiệu cho gà quế Phú Lương. Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền, khuyến cáo nhân rộng mô hình nuôi giun quế chăn gà an toàn sinh học trên địa bàn tỉnh; nhằm mở ra hướng phát triển kinh tế mới cho người dân./.
Dương Trung Kiên
Trung tâm Khuyến nông Thái Nguyên
Th1128
Công nghệ gia tăng giá trị cho trùn quế
Công nghệ tăng giá trị cho giun quế
Hỏi: Trùn quế được nhiều nơi nuôi để làm thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm hoặc lấy phân bón cho cây trồng. Xin cho biết trùn quế còn có ứng dụng nào khác có giá trị cao hay không?
Đáp: Trùn quế, hay còn gọi là giun quế, có tên khoa học là Perionyx escavatus, họ Megascolecidae. Giun quế thường sống trong môi trường có nhiều chất hữu cơ đang phân hủy. Chúng được sử dụng rộng rãi trong việc chuyển hóa chất thảm ở Philippines, Australia và một số nước khác (Gurrero, 1983; Edwards, 1995). Năm 1986, Đại học Sư phạm 1 Hà Nội đã nghiên cứu thành công việc thuần hóa giun quế có trong tự nhiên ở Việt Nam. Hiện nay giun quế được nuôi công nghiệp theo trang trại với các quy mô vừa và nhỏ tại nhiều địa phương trong cả nước.
Kích thước giun quế khi trưởng thành từ 10 – 15 cm, tỉ trọng nước chiếm khoảng 80 – 85%, chất khô khoảng 15 – 20% trọng lượng cơ thể. Hàm lượng các chất (tính trên trọng lượng chất khô) cao nhất là protein (68 –70%), kế tiếp là đường (12 –14 %), lipid (7 – 8%) và tro (11 – 12%). Do có hàm lượng protein cao nên giun quế được xem là nguồn dinh dưỡng bổ sung quý giá cho các loại gia súc, gia cầm, thủy hải sản… Phân giun quế là loại phân hữu cơ sinh học, có hàm lượng dinh dưỡng cao, thích hợp cho nhiều loại cây trồng, không gây ra tình trạng “sốc” phân, yêu cầu trữ dễ dàng, đặc biệt thích hợp cho các loại hoa kiểng, làm giá thể vườn ươm và là nguồn phân thích hợp cho việc sản xuất rau sạch.
Ngoài các ứng dụng đã nêu, giun quế còn được dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp, y dược để sản xuất ra các loại thuốc hoặc sản xuất thực phẩm chức năng, phục vụ cho đời sống con người. Đây chính là các ứng dụng đem lại giá trị vượt trội cho giun quế.
Do có chứa Lumbrokinase (enzyme thủy phân fibrin, tác nhân gây ra chứng nghẽn mạch máu do đóng cục), giun quế đã được các nhà khoa học Việt Nam quan tâm nghiên cứu theo hướng ứng dụng trong điều trị bệnh tim mạch. Sáng chế của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Dao, Viện Công nghệ sinh học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, được cấp bằng số 1-0007434 ngày 26/01/2009 đưa ra quy trình và công thức sản xuất bột giun quế dùng để điều trị các bệnh do huyết khối gây ra như tắc mạch chi, nhồi máu cơ tim, nhồi máu não, nhồi máu phổi.
Quy trình sản xuất theo sáng chế như sau:
1. Chuẩn bị nguyên liệu
– Bột giun quế thu được bằng cách rửa sạch giun quế còn sống trong nước sạch và ngâm trong nước cất 2 giờ, ngâm liên tục từ hai đến ba lần. Sau đó, tiến hành nghiền loài giun quế này trong cối sứ chứa cát thủy tinh, hòa tan trong dung dịch nước muối sinh lý 0,9% NaCl, ly tâm ở tốc độ 3.000 vòng/phút trong thời gian 15 phút để loại bỏ phần cặn. Phần dịch nổi thu được được làm đông khô, sau đó bảo quản trong tủ đá. Sản phẩm khi dùng được trộn với tá dược là tinh bột theo tỷ lệ 1:1, sau đó xát cốm, và sấy khô trong tủ sấy có gió nóng ở nhiệt độ nằm trong khoảng từ 45°C đến 60°C. Sản phẩm thu được được nghiền thành bột, khử trùng và đóng gói trong túi nylon hai lớp.
– Bột gừng khô (Can khuông) có tên khoa học là Zingiber officinale Rose, có tính ấm, vị cay, thơm, chữa đau bụng lạnh, đầy hơi, chân tay lạnh, tê buốt. Khi kết hợp với bột giun quế sẽ tăng cường tác dụng thông máu, chống lạnh và tê bì tay chân. Bột gừng khô thu được bằng cách thái lát củ gừng tươi, phơi trong bóng râm mát rồi sấy khô, nghiền nhỏ thành bột mịn.
– Pluriamin là hỗn hợp gồm 18 loại axit amin tự nhiên thu được từ nhộng tằm khô theo phương pháp mô tả trong giải pháp hữu ích số HI-0014, mà tác giả đồng thời cũng là tác giả của sáng chế này.
– Tinh bột là tá dược vẫn thường được sử dụng trong ngành bào chế dược.
Trong bột giun có sẵn các axit amin bao gồm đủ 18 loại axit amin với hơn 40% là các axit amin không thay thế. Các axit amin này trong bột giun khô nằm trong khoảng 43-45% tính theo trọng lượng khô. Ngoài ra, vitamin (A, E, BI, C) và các nguyên tố đa vi lượng như canxi, natri, kali, phospho, sắt, kẽm, là các thành phần có sẵn trong bột giun và bột gừng khô nhưng với lượng rất nhỏ.
2. Phối trộn nguyên liệu, tạo công thức điều trị bệnh
Chế phẩm bột giun quế chứa các thành phần như sau:
Ví dụ 1: Sản xuất 1.000 g chế phẩm bột giun quế Perionyx escavatus I (chế phẩm I) có tác dụng làm tan nhanh cục máu đông:
• Bột giun quế: 350 g (tương đương 14.000 UI – đơn vị hoạt lực enzyme).
• Bột gừng khô: 10 g.
• Pluriamin: 250 g.
• Vitamin (A;B1;C;E): vi lượng.
• Các nguyên tố đa vi lượng Ca, p, Fe, Zn, Na, K, v.v..: dạng vết.
• Tinh bột: vừa đủ.
Ví dụ 2: Sản xuất 1.000 g chế phẩm bột giun quế Perionyx escavatus II (chế phẩm II) có tác dụng nâng cao thể lực cho những bệnh nhân đã bị bệnh lâu ngày, ăn uống hấp thu kém đồng thời ngăn ngừa chứng khó tiêu, đầy bụng ở những người nằm lâu ngày, ít vận động:
• Bột giun quế: 300 g (tương đương 12.000 UI – đơn vị hoạt lực enzyme).
• Bột gừng khô: 20 g.
• Pluriamin: 300 g.
• Vitamin (A;B1;C;E): vi lượng.
• Các nguyên tô đa vi lượng Ca, p, Fe, Zn, Na, K, v.v..: dạng vết.
• Tinh bột: vừa đủ.
Các nguyên liệu được phối trộn theo công thức được xác định tùy theo chế phẩm. Sau đó, toàn bộ hỗn hợp được đưa vào máy khuấy đảo đều trong thời gian 15-20 phút, sau đó sử dụng rây số 355 để thu được bột mịn (các thao tác được thực hiện trong buồng vô trùng, có điều hòa ở nhiệt độ trong khoảng 18-25°C.
Chế phẩm thu được có độ ẩm không lớn hơn 10%; tổng lượng nitơ amin không nhỏ hơn 1%; lượng tro sulfat không lớn hơn 15%; lượng nitrit, nitrat nằm trong mức độ cho phép; hoạt tính phân hủy fibrin không dưới 35UI/g, ở dạng bột mịn, tơi xốp, có mùi thơm như mùi quế và vị ngọt của đạm, màu trắng ngà, có thể dập thành viên, mỗi viên 0,3 g (tương đương 4,2UI/viên).
Một hướng đi khác của các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Phát triển sản phẩm thuộc Công ty TNHH Nam Dược khi phối hợp giun quế cùng các vị thuốc hạ áp khác như câu đằng, hạ khô thảo, huyền sâm,… vừa hạ huyết áp vừa dự phòng được tai biến, mang lại kết quả hỗ trợ điều trị tốt cho người bệnh, mở ra triển vọng phát triển các bài thuốc cho người tăng huyết áp. Chế phẩm này đã được sản xuất và phân phối rộng rãi dưới dạng viên uống thảo dược.
STINFO Số 12/2014
Th1122
Phân hữu cơ đối với cây trồng
Chất hữu cơ có vai trò rất lớn trong việc cải tạo độ phì của đất d
o thành phần chủ yếu của chất hữu cơ là C, H, O. Dưới tác dụng phân huỷ của vi sinh vật đất, các nguyên tố này dần dần chuyển thành chất mùn để cây trồng có thể sử dụng được. Chất hữu cơ liên kết với các hạt khoáng hình thành nên cấu trúc viên của đất, tạo tính tơi xốp cho đất, tăng khả năng giữ nước và dinh dưỡng trong đất. Ưu điểm của chất hữu cơ là ngoài cung cấp Đạm, còn cung cấp Lân, Kali và các nguyên tố vi lượng cho cây trồng. Đây là những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất cây trồng
Nguồn nguyên vật liệu hữu cơ có rất nhiều trong tự nhiên như các loại thực vật thân thảo, thực vật thủy sinh, tàn dư trong sản xuất nông nghiệp, …. tất cả đều có thể được sử dụng để bổ sung chất hữu cơ cho đất. Chất hữu cơ đóng một vai trò quan trọng, là dạng dưỡng chất nền rất quý cho các loại cây trồng, có vai trò duy trì các hoạt động trong đất và cây trồng một cách bền vững và lâu dài, cải thiện hiệu quả của phân bón sử dụng, kéo dài tác dụng của phân đạm như phân urea có thể tồn tại 60-80 ngày hoặc lâu hơn, cải thiện sự hút dinh dưỡng đặc biệt là lân và canxi, kích thích thành phần sống của đất, cung cấp tổng lượng dinh dưỡng cho việc giảm bệnh, côn trùng và tác động của sương giá, chất mùn hữu cơ là chất xúc tác làm tăng mức độ carbon trong đất. (Fred Magdoff and Ray R.Weil, 2004).
Theo Kueppe (2000), canh tác theo phương pháp hữu cơ cho hiệu quả cao là do các thành phần vi khuẩn, vi sinh vật. Hoạt động của chúng là có thể chuyển carbon thành dạng dễ hấp thu. Trong đó có nấm Mycorrhizae có khả năng giúp rễ cây hấp thu dinh dưỡng tốt hơn, loại nấm này phát triển mạnh ở những vùng đất hữu cơ, giúp cho đất ổn định hơn. Ngoài ra, canh tác theo phương pháp hữu cơ còn tạo môi trường sống tốt cho các thiên địch của sâu bệnh, các loại giun ….
Theo Fred và Ray (2004), khi canh tác liên tục cây trồng trên một chân đất, hàm lượng chất hữu cơ bị mất đi nhanh chóng. Tốc độ mất chất hữu cơ trong đất xảy ra rất nhanh khi đất mới được khai thác đưa vào sản xuất nông nghiệp, cần phải có biện pháp duy trì lượng hữu cơ trong đất.
Với các mục tiêu phát triển mở rộng diện tích gieo trồng rau an toàn, phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, ổn định, bền vững, … bà con nông dân thành phố đã được trang bị các kiến thức về thực hành sản xuất nông nghiệp tốttrên cây rau (VietGAP), kiến thức pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất, … Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất, một số nông dân vì muốn có hiệu quả nhanh nhất nên sử dụng phân bón vô cơ dạng đơn, hỗn hợp, chưa sử dụng phân hữu cơ hoặc sử dụng một lượng ít cho một số cây. Điều này, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường, và cân bằng sinh thái bị phá vỡ. Để khai thác tối ưu các chất dinh dưỡng, các quá trình sinh học diễn ra trong tự nhiên, … Sử dụng phân hữu cơ thường xuyên trong sản xuất nông nghiệp góp phần cân đối dinh dưỡng cho cây, giúp cây sinh trưởng khỏe, tăng sức đề kháng sâu bệnh, đảm bảo chất lượng sản phẩm, thời gian bảo quản sản phẩm thu hoạch được kéo dài hơn, hạ giá thành sản xuất, … đặc biệt là duy trì và nâng cao độ phì trong đất. Đây là một trong những biện pháp kéo dài chu kỳ sinh trưởng của cây, tạo ra sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời đảm bảo bền vững cho hệ thống môi trường, xã hội và kinh tế.
Nguồn trích dẫn: khuyến nông tphcm
Th1121
3 nguyên tắc bón phân cho cây mai ghép trồng chậu
Cây mai ghép trồng chậu thuộc loại cây kiểng vừa khó chăm sóc vừa phải bón phân phù hợp với điều kiện thời tiết cũng như tình trạng sinh trưởng của cây. Hay nói cách khác tùy vào cây khỏe sung túc hay đang suy yếu mà có chế độ bón phân thích hợp.
Cây mai ghép trồng trong chậu nếu được quan tâm và xử lý đúng kỹ thuật thì cây có thể sống ra hoa với thời gian kéo dài khoảng 8-10 năm, ngược lại thì cây mai ghép dễ bị nhiễm nấm bệnh sâu hại tấn công làm cây suy dần chết khô nhánh và chừng 4-5 năm là cây không còn cành nhánh nào cả.
1.Bón phân cây mai ghép thời kỳ sau tết
Sau khi cây ra hoa chơi tết thì cây đang trong giai đoạn mất dinh dưỡng, cần phải cắt bỏ hết trái hay hoa trên cây, sau đó thu gọn bớt những cành nhánh vươn dài.
Việc bón phân cho thời kỳ này là bón lót cùng với đất trồng mới khi thay chậu thay đất với mục đích giúp cây mai ghép phục hồi và phát triển cành mới lá mới.Vì vậy bón phân trong giai đoạn này lúc ban đầu cần sử dụng thêm thuốc kích thích ra rễ như Vitamin B1, surper roots kết hợp phân hữu cơ cao cấp như phân trùn quế, phân bò xử lý hoai mục, bánh dầu thủy phân, phân lân hữu cơ vi sinh Sông gianh…bón lót cho cây mai.
Sau thời gian khoảng 1,5- 2 tháng khi cây ra 2-3 đợt lá thì bón thêm phân DAP, super lân với liều lượng cây lớn là 1 muỗng canh, cây nhỏ dùng muỗng cà phê rải xung quanh gốc và tưới nước đầy đủ.Phân này giúp cây mai phát triển bộ rễ khỏe.
Khi cây đã phát triển tốt nhiều lá thì bón phân thêm 2-3 đợt Dynamic Lifter và phân hạt NPK 16.16.8 để tăng hàm lượng đạm cho cây, ( mỗi tháng một đợt với liều như phân DAP)
2. Bón phân cho cây mai ghép trong lúc chuẩn bị ra nụ từ tháng 5-8 âm lịch
Từ sau tháng 5 âm lịch là cây mai đã có bộ tán lá dầy và xanh, lúc này cây chuẩn bị sang giai đoạn ra nụ dưới mỗi nách lá. Do thời tiết đang vào mùa mưa nên thường xuyên phun thuốc BVTV phòng sâu bệnh khi thấy thời tiết bất thường như nấm hồng, nấm rễ, vàng lá, bọ trĩ, rầy rệp tấn công, thuốc BVTV dùng luân phiên như Validamicin, Carbenzim, topsinM, Cóc 85, secsàigòn, regant, Polytrin, …kết hợp phân bón lá như Trichoderma, B1, rong biển…
Bón phân cho cây mai ghép trồng chậu lúc này ưu tiên dùng phân luân phiên có hàm lượng kali hay phốt pho cao như KN03, KCL, super lân, phân dơi để cây mai tăng sức đề kháng và chuyển sang giai đoạn ra nụ.Lưu ý dùng liều lượng nhỏ vừa chia làm nhiều đợt cho cây mai hấp thu từ từ, không bón một lần với nhiều phân sẽ gây sốc phân cho cây.
3. Bón phân cho cây mai ghép chuẩn bị cho tết từ tháng 9 âm lịch đến trước khi lảy lá
Lúc này lá cây mai đã bắt đầu già đi, lá cây chuyển màu bớt xanh đi và dầy lên dần, không còn cho lá mới mà bắt đầu tập trung sức cho ra nụ ra hoa.
Thời kỳ này không bón phân đạm hay hữu cơ mà chỉ bón phân super lân theo liều lượng như trên nhằm làm dầy lá giữ cây mai không rụng lá.Thời gian bón phân lân hai đợt đến khi tháng 10 là ngưng hẳn và chỉ tưới nước vừa đủ.
Cây mai ghép trồng chậu đòi hỏi sự quan tâm chăm sóc và kinh nghiệm bón phân mới có được cây mai ghép ra hoa đúng tết như ý, với thời tiết bất thường như này nay thì người nghệ nhân chơi mai cũng phải mất ăn mất ngủ.
Nguồn :Trongraulamvuon.com
Th1119
Dùng phân trùn quế sao cho hiệu quả với cây trồng
Phân trùn quế được coi là loại phân bón thiên nhiên giàu dưỡng chất giúp kích thích mạnh mẽ sự tăng trưởng cho cây trồng. Phân trùn quế còn giúp cây trồng kháng bệnh hiệu quả, giữ độ ẩm tốt nhất cho cây. Để có được hiệu quả thu hoạch cao thì bạn cần biết cách sử dụng loại phân này.
Phân trùn quế giúp duy trì dinh dưỡng cho đất
Đối với các hạt nảy mầm: Trộn phân trùn và đất thường theo tỉ lệ 30:70 để trồng cây, hỗn hợp này có thể giúp hạt nảy mầm sớm và duy trì sự phát triển cho cây trong thời gian 3 tháng. Phân trùn còn có ưu điểm tăng tỉ lệ nảy mầm và tỉ lệ sống cho cây.
Đối với rau mầm: Sử dụng phân trùn quế như loại giá thể giử ẩm, vừa an toàn vừa sử dụng được nhiều lần.Chỉ cần lớp phân trùn quế mỏng từ 2-3 cm là có thể gieo hạt rau mầm.
Đối với rau ăn lá : Trộn thêm đất phù sa với tỉ lệ 1:1 để giúp đất trồng tơi xốp và thoát nước tốt. Đổ lớp đất trộn dầy từ 5-10 cm tùy vào loại rau ăn lá.
Rau tươi tốt và sạch bệnh khi dùng phân trùn đất
Lưu ý: Sau mỗi đợt cắt thu hoạch rau ăn lá có thể tiếp tục bón bổ sung trên mặt chậu lớp đất trộn dày 2-3 cm là đủ dinh dưỡng cho đợt rau mới.
Đối với cây kiểng lá, cây ăn trái: Dùng hỗn hợp trộn phân trùn quế với tro trấu xơ dừa tỉ lệ 1:1:0.5 để trồng và cho bổ sung trên mặt chậu luân phiên, cây phát triển nhanh, cho nhiều lá và màu sắc đẹp.
Vì phân trùn quế là phân hữu cơ cao cấp nên có sự phối trộn phù hợp từng loại cây trồng để cây hấp thu dễ dàng lại không lãng phí.
Dùng thay thế phân bón thông thường: Có thể dùng phân trùn làm loại phân bón lót cho cây, rau, quả. Đặc biệt, phân trùn quế còn được sử dụng dưới dạng lỏng, pha theo tỉ lệ 1:5 với nước phun lên cây và lá, giúp cây dễ hấp thu kháng được bệnh trên lá.
So sánh cách sử dụng phân trùn quế trên rau
Dùng cải tạo đất: Trong phân trùn có chứa kén trùn, khi kết hợp với đất ruộng, gặp điều kiện thuận lợi kén này lại sinh sôi nảy nở tạo ra một đội trùn mới. Chúng sẽ tiếp tục giúp cải tạo lại đất cho bạn.
Phân trùn quế còn được khuyến khích dùng khi trồng vườn rau sạch sân thượng hay trong các chậu nhựa trồng cây để tạo ra môi trường sống tốt nhất cho cây.
Nguồn: nhà vườn tại gia
Th1118
Cách làm dịch trùn quế ( trà trùn) để bón cây
1. Dịch phân giun quế (trà trùn) là gì và tác dụng của nó:
Trà trùn (dịch phân trùn quế) có nguồn gốc từ ngâm, ủ phân trùn trong nước. Trà trùn không chỉ cung cấp dinh dưỡng hữu cơ cho cây trồng mà còn có nhiều vi sinh vật có lợi giúp giảm hoặc kiểm soát dịch bệnh và tăng khả năng đề kháng của cây trồng.
2. Cách làm trà trùn
Bạn có thể tự “chế biến” trà trùn tại nhà bằng những vật tư sẵn có và tiết kiệm nhất.
Dụng cụ cần thiết gồm:
– 1 thùng sơn to, sạch.
– 1 túi vải (kích thước tùy lượng phân ngâm): túi vải này có tác dụng như trà túi lọc giúp tránh tắc vòi phun khi bón trà trùn bằng phương pháp phun qua lá.
– Một máy sục khí (dùng loại sục bể cá) (không nhất thiết phải có).
– Nước sạch (với nước máy thành phố nên xả nước và khuấy vài lần từ hôm trước để giảm hàm lượng clo).
Dụng cụ làm trà trùn
Các bước
Bước 1: Đổ đầy xô nước máy, để trong 24 giờ cho clo bay hơi
Bước 2: Sục khí trong thùng nước khoảng 2h trước khi cho phân giun vào. Sục khí nên tiến hành trước khi cho phân giun vào nước để tăng hàm lượng oxy trong nước và giảm mức độ chlorine có thể có hại cho vi khuẩn có lợi. Nếu thùng ngâm ủ không chứa đủ oxy nó sẽ có mùi hôi và có thể gây hại cho cây trồng.
Bước 3: Cân lượng phân giun để đảm bảo tỉ lệ với lượng nước đã có. Tỉ lệ thích hợp là 1 phần phân giun với 10 phần nước.
Bước 4: Đổ toàn bộ lượng phân giun vừa cân vào túi vải đã được chuẩn bị trước và buộc miệng túi trước khi thả vào thùng ngâm. Cách này giúp làm ngập phân giun trong nước và có thể dễ dàng lấy bã phân ra khỏi thùng.
Bước 5: Cố định túi phân giun trong thùng bằng 1 thanh ngang đặt trên miệng thùng. Đặt thùng ngâm nơi thoáng mát, tránh ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp.
Bước 6: Ghi ngày, giờ bắt đầu ngâm.
Bước 7: Vớt túi phân sau khi ngâm 24 – 48 giờ. Nước trong thùng lúc này có màu nâu vàng.
Bước 8: Sử dụng dung dịch để phun, tưới. Dùng dung dịch ngay trong vòng 4-5 giờ. Nếu để lâu các vi sinh vật sẽ chết và dung dịch có mùi hôi.
3. Cách bón: Dịch phân giun thường được dùng phun hoặc tưới.
– Nếu phun bằng bình xịt, dịch phân giun cần được lọc trước khi cho vào bình phun.
– Trường hợp tưới gốc: dịch phân giun cần được tưới vào vùng rễ hữu hiệu (vùng hình chiếu của tán lá).
– Nên bón sớm trong ngày để lá kịp khô trước buổi tối giúp giảm nguy cơ gây bệnh trên lá. Bón định kỳ 5-10 ngày 1 lần cho hoa, quả, cây cảnh giúp tăng khả năng kháng bệnh.
– Thạc sỹ Vũ Thị Quyên – Học viện Nông nghiệp Việt Nam (nguồn nông nghiệp đô thị)
Th1118
Phân trùn quế nghe lạ mà quen
PHÂN TRÙN QUẾ NGHE LẠ MÀ QUEN
phân trùn quế thân thiện với môi tường như thế nào?
Phân trùn quế là loại phân bón thiên nhiên giàu dinh dưỡng có tác dụng kích thích sự tăng trưởng của cây trồng. Không giống như phân chuồng, phân trùn quế được hấp thu ngay một cách dễ dàng bởi cây trồng. Phân trùn quế không chỉ kích thích tăng trưởng cây trồng mà còn tăng khả năng duy trì giữ nước trong đất và thậm chí còn có thể ngăn ngừa các bệnh về rễ…
Thành phần dinh dưỡng của phân trùn quế
Với hàm lượng Protein thô chiếm từ 50 – 70% trọng lượng khô của cơ thể, hàm lượng đạm của Trùn quế tương đương với bột cá, thường được dùng trong thức ăn chăn nuôi và thủy sản. Cơ thể trùn quế còn hội đủ 12 loại Axit Amin và nhiều loại Vitamin, chất khoáng cần thiết cho gia súc, gia cầm và thủy sản. Đặc biệt trùn quế còn có các loại kích thích tố sinh trưởng tự nhiên mà trong bột cá không có. Thức ăn chăn nuôi có bột Trùn sẽ không có mùi tanh và khét của cá và dầu cá, có thể hấp dẫn vật nuôi, mà có thể bảo quản được lâu hơn thức ăn có dùng bột cá.
-Phân trùn quế là một loại phân hữu cơ 100%, được tạo thành từ phân trùn nguyên chất, là loại phân thiên nhiên giàu dinh dưỡng nhất mà con người từng biết đến.
-Phân trùn quế chứa một sinh vật có hoạt tính cao như vi khuẩn, nấm mốc. đặc biệt là hệ vi khuẩn cố định đạm tự do (Azotobacter), vi khuẩn phân giải lân, phân giải celluose và chất xúc tác sinh học. Vì thế hoạt động của các vi sinh vật lại tiếp tục phát triển trong đất.
-Phân trùn quế giàu những chất dinh dưỡng hòa tan trong nước và chứa đựng hơn 50% chất mùn được tìm thấy trong lớp đất mặt. Không như phân động vật, phân trùn có thể được cây trồng sử dụng ngay.
-Phân trùn quế cung cấp các chất khoáng cần thiết cho sự phát triển của cây trồng như đạm, lân, kali, canxi, magic. Nó cũng chứa mangan, đồng, kẽm, coban, borat, sắt.. Sự hữu dụng nhất là các chất này có thể được cây hấp thu ngay.không như những phân hữu cơ khác phải được phân hủy trong đất trước khi cây trồng hấp thụ.Sẽ không có bất cứ rủi ro ,cháy cây nào xẩy ra khi bón phân trùn quế.
-Chất mùn trong phân loại trừ được những độc tố, nấm hại và vi khuẩn có hại trong đất,nên nó có thể đẩy lùi những bệnh của cây trồng. Do vậy, phân trùn quế hạn chế khả năng gây hại cho cây trồng.
-Phân trùn quế có khả năng cố định các kim loại nặng trong chất thải hữu cơ. Điều này ngăn ngừa cây trồng hấp thu nhiều phức hợp khoáng hơn nhu cầu của chúng.
-Phân trùn quế có nồng độ PH=7 nên nó hoặt động như một rào cản, giúp cây phát triển trong đất ở độ pH quá cao hay quá thấp.
– Hàm lượng Humus(humic acid và fulvic acid) hay còn gọi là chất mùn trong phân trùn quế cao,đã tạo nên sự khác biệt lớn so với các phân hữu cơ khác, Humus gián tiếp giúp phân trùn tơi xốp hơn,nên cây trồng có thể dễ dàng hấp thu,khả năng giữ ẩm tốt hơn nên giảm lượng nước tưới khoảng 20-30%.Điều đặc biệt của humus là btạo liên kết phân tử với các thành phần đa, trung và vi lượng giúp giải phóng dinh dưỡng khoáng từ từ cho cây hấp thụ
-Phân trùn quế tăng khả năng giữ nước của đất vì phân trùn có dạng hình khối ,nó là những cụm khoáng chất kết hợp theo cách mà chúng có thể để chống sự xói mòn và sự va chạm cũng như khả năng giứ nước, góp phần làm cho đất tơi xốp và giữ ẩm được lâu.
-Phân trùn quế làm giảm hàm lượng dạng Acid carbon trong đất và gia tăng nồng độ Nito trong một trạng thái cây trồng có thể hấp thụ được.
– IAA(Indol Acetic Acid)có trong phân trùn quế là một trong những chất kích thích hữu hiệu giúp cây trồng phát triển tốt.
CÁCH SỬ DỤNG PHÂN TRÙN QUẾ:
Đối với các hạt nảy mầm: Trộn phân trùn và đất thường theo tỉ lệ 30:70 để trồng cây, hỗn hợp này có thể giúp hạt nảy mầm sớm và duy trì sự phát triển cho cây trong thời gian 3 tháng. Phân trùn còn có ưu điểm tăng tỉ lệ nảy mầm và tỉ lệ sống cho cây.
Đối với rau mầm: Sử dụng phân trùn quế như loại giá thể giử ẩm, vừa an toàn vừa sử dụng được nhiều lần.Chỉ cần lớp phân trùn quế mỏng từ 2-3 cm là có thể gieo hạt rau mầm.
Cây ăn trái: Bón 0,5-1kg/cây, 1 – 2lần/năm, tùy vào tuổi của cây.
Cây tiêu: Bón 1-2kg/nọc tiêu, 1-2 lần/năm
Đối với rau ăn lá : Trộn thêm đất phù sa với tỉ lệ 1:1 để giúp đất trồng tơi xốp và thoát nước tốt. Đổ lớp đất trộn dầy từ 5-10 cm tùy vào loại rau ăn lá.
Lưu ý: Sau mỗi đợt cắt thu hoạch rau ăn lá có thể tiếp tục bón bổ sung trên mặt chậu lớp đất trộn dày 2-3 cm là đủ dinh dưỡng cho đợt rau mới.
Đối với cây kiểng lá, cây ăn trái: Dùng hỗn hợp trộn phân trùn quế với tro trấu xơ dừa tỉ lệ 1:1:0.5 để trồng và cho bổ sung trên mặt chậu luân phiên, cây phát triển nhanh, cho nhiều lá và màu sắc đẹp.
Dùng thay thế phân bón thông thường: Có thể dùng phân trùn làm loại phân bón lót cho cây, rau, quả.
. Làm phân bón nước: Lấy 1kg phân trùn cho vào thùng nhựa cùng với 10 lít nước, dùng máy bơm oxy (loại nhỏ dùng sục khí cho hồ cá) sục 24 – 36h, sau đó lấy nước cho vào bình xịt, xịt cho tất cả các loại cây, có tác dụng như loại phân bón lá rất tốt, ngoài ra còn có tác dụng ngăn ngừa sâu bệnh, còn phần bã bón cho cây bình thường.
Như là chất điều hòa chất:Nếu bạn bỏ phân trùn và tưới nước thường xuyên vào một vùng đất cằn cõi đã được cuốc lên ,thì lớp đất này sẽ cải tạo đáng kể (3 000 – 3500kg/ha).
Như là phân bón:Bỏ phân trùn trực tiếp quanh gốc cây (không gây hư hại cây nếu dùng nhiều)bón lót cho cây ,rau,quả các loại sẽ tạo ra một loại thực phẩm hảo hạng và đạt năng suất cao.
Như là nhà cải tạo đất :Vì phân trùn chứa đựng hàng ngàn kén trùn/kg nên khi ta bón phân trùn vào đất ,gặp điều kiện thuận lợi ,kén trùn sẽ nở ra và sinh sống nên nơi đó đất luôn màu mỡ và tơi xốp.
Nguồn: vattunongsan.com
Th1116
Giải pháp hạn chế tác hại nhiễm mặn đến cây ăn trái
Hiện nay mặn đã xâm nhập sâu vào nội đồng, gây ảnh hưởng xấu đến vườn cây ăn trái của các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long. Khả năng chịu mặn của các loại cây trồng rất khác nhau, tùy thuộc vào giống, loài cây, tùy thuộc vào tuổi cây, tình trạng sinh trưởng của cây, tùy thuộc vào độ mặn của nước tưới, số lần tưới … Do đó, để hạn chế thấp nhất những thiệt hại cho cây trồng, các nhà vườn cần lưu ý những vấn đế sau:
1.Tác hại của việc cây ăn trái bị nhiễm mặn:
Khi cây ăn trái bị nhiễm mặn sẽ làm cho cây không hút được nước, không hấp thu được dinh dưỡng, nếu bị nặng sẽ làm cây bị ngộ độc, cây héo và chết. Do đó, nếu tưới nước mặn cho cây khi nồng độ mặn vượt qua ngưỡng chịu đựng của cây sẽ ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng, năng suất, chất lượng của trái cây, nếu bị nặng sẽ làm chết cây.
2.Khả năng chịu mặn của một số giống cây ăn trái:
– Nhóm chịu mặn dưới 0,1%: sầu riêng, măng cụt, bòn bon
– Nhóm chịu mặn từ 0,14 – 0,2%: cacao
– Nhóm chịu mặn từ 0,2 – 0,3%: cam chanh, bưởi, chuối
– Nhóm chịu mặn từ 0,3 – 0,4%: xoài, dừa. Xoài ghép trên gốc xoài ghép xanh, gốc xoài Châu Hạng Võ có khả năng chịu mặn đến 0,6%.
– Nhóm chịu mặn từ 0,4 – 0,6%: cam quýt ghép gốc cam 3 lá, Xoài Châu hạng Võ, me
– Nhóm chịu mặn từ 0,6 – 1%: Sapo, Mãng cầu xiêm ghép gốc bình bát.
Trên đây là ngưỡng gây hại khi cây vườn cây ăn trái bị nhiễm mặn. Tuy nhiên, cây còn nhỏ, cây đang mang lá non, mang trái thì cây có sức chịu đựng kém hơn cây trưởng thành có bộ lá già. Ngoài ra, nếu chúng ta tưới nước mặn nhiều lần và nhiều nước trong mỗi lần tưới thì nồng độ mặn trên mặt liếp sẽ tăng;
3. Các giải pháp hạn chế tác hại của mặn đến cây ăn trái:
– Đo kiểm tra độ mặn trước khi bơm nước tưới cây.
– Nếu nước mặn vượt trên ngưỡng chịu đựng của cây trồng thì đợi con nước kém hoặc nước ròng (lúc này độ mặn giảm thấp) đo kiểm tra độ mặn, nếu nước tốt thì bơm nước vào mương vườn và đóng cống trữ nước lại trong mương. Lưu ý, lớp nước trên mặt ít mặn hơn lớp nước phía dưới.
– Khoảng 15 và 30 âm lịch, khi nước sông dâng cao, nên đóng chặt cống đập, không để nước xâm nhập vào mương vườn vì lúc này nước sẽ có độ mặn cao. Nếu nước mặn đã lỡ xâm nhập vào mương thì nên đóng cống và bơm tháo nước ra, đợi nước có triều thấp, kiểm tra lại độ mặn, nếu nước tốt thì bơm vào trữ trong mương vườn.
– Tủ gốc (nếu có điều kiện thì che chắn cả mặt liếp) để giảm bốc hơi nước cho liếp.
– Hạn chế tưới nước cho cây: Giảm số lần tưới và lượng nước tưới ở mức thấp nhất. Chỉ tưới cho cây với lượng nước rất ít, đủ cho cây không bị héo lá vì tưới nhiều lần và tưới nhiều nước, chúng ta đã đưa nhiều muối lên trên vườn cây ăn trái.
– Chú ý không để mặt đất bị khô nứt.
– Bón phân, cung cấp dinh dưỡng cho cây:
+ Bón phân qua rễ: Cung cấp phân đạm, Kali để tăng khả năng chịu mặn của cây. Sử dụng phân đạm dạng Urea, hoặc SA và Kali trắng K2SO4.
+ Bón vôi bột CaO hoặc thạch cao CaSO4
+ Phun phân bón lá chứa nhiều đạm và Kali như KNO3 hay các loại phân bón lá khác.
– Phun hormone để giúp tăng khả năng hút nước cho cây: Phun các chất có hoạt chất là Brassinosteroid như: Nyro 0.01SL, Comcat 150WP, Super Humic…
– Cung cấp vi sinh vật vùng rễ qua các loại phân hữu cơ vi sinh.
Ghi chú: Có thể sử dụng dụng cụ đo độ mặn đơn giản với giá thấp hơn 100.000 đồng/chiếc hoặc Khúc xạ kế với giá từ trên 1 triệu đến trên 2 triệu đồng/chiếc tùy thuộc vào hãng sản xuất và chất lượng sản phẩm.
TS. Trần Thanh Phong
Th1115
Những tác dụng của nấm men chức năng trong khẩu phần heo con
Protein huyết tương sấy phun được sử dụng phổ biến trong các khẩu phần ăn của heo con trên thế giới, tuy nhiên đã có một giải pháp thay thế khả dụng ở dạng nấm men chức năng. Các thử nghiệm quan sát thấy những tác dụng của nấm men chức năng có tiềm năng thay thế sản phẩm máu sấy phun trong thức ăn cho heo con.
Protein huyết tương sấy phun (SDPP) là một nguyên liệu được sử dụng rộng rãi trong các khẩu phần cho thú non, và việc áp dụng nó mang lại hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên, với mục tiêu nâng cao an toàn thực phẩm và an toàn sinh học của ngành chăn nuôi toàn cầu, nhu cầu sử dụng SDPP bắt đầu suy giảm. Có một số vấn đề quan ngại liên quan đến ngành chăn nuôi heo; một mặt đã có báo cáo cho rằng SDPP có thể gây ra bệnh tiêu chảy cấp ở heo (PED), mặt khác SDPP phát sinh các vấn đề về tương đồng sinh học. Mặc dù chưa có kết luận rõ ràng về việc SDPP gây ra PED, nhưng việc thay thế SDPP trong khẩu phần ăn của thú non đang ngày càng thu hút được nhiều sự quan tâm của ngành chăn nuôi trên toàn thế giới.
Ứng dụng nghiên cứu vào việc thay thế SDPP
Angel đã dành nhiều năm cho nghiên cứu này và ứng dụng khả năng của phụ gia nấm men để thay thế một phần hoặc hoàn toàn SDPP. Thí nghiệm thay thế một phần SDPP được tiến hành gồm 32 heo con 18 ngày tuổi. Trong 14 ngày thí nghiệm heo con ăn khẩu phần ăn dặm chứa 2% SDPP được thay thế bằng sản phẩm nấm men 2%. Việc bổ sung phụ gia nấm men làm giảm lượng SDPP yêu cầu trong thức ăn dặm và cải thiện hiệu quả tăng trưởng của heo con cai sữa sớm (Hình 1).
Trong thí nghiệm thứ hai, 3% SDPP trong thức ăn dặm được thay thế hoàn toàn bằng sản phẩm nấm men trong khẩu phần ăn của 24 heo con 21 ngày tuổi. Thí nghiệm này được tiến hành trong 14 ngày một lần nữa cho thấy thay thế hoàn toàn SDPP trong thức ăn dặm không những không làm giảm hiệu suất tăng trưởng của heo con đang cai sữa, mà còn khuyến khích các phản ứng tích cực thông qua việc cải thiện tăng trọng và lượng ăn vào trung bình hàng ngày
Tăng tính hấp dẫn của thức ăn
Hương vị của peptide và nucleotide trong sản phẩm nấm men làm cho thức ăn hấp dẫn hơn. Các thử nghiệm cho thấy sản phẩm này có thể tiếp tục làm tăng tính hấp dẫn của thức ăn và từ từ cải thiện lượng ăn vào. Ngoài ra, sản phẩm có thể được dùng như một nguồn dinh dưỡng acid nucleic ngoại sinh trong khẩu phần heo con vì hàm lượng acid nucleic vốn có trong sản phẩm cao. Trong giai đoạn heo con tăng trưởng, bổ sung nucleotide giúp tiết kiệm thời gian và năng lượng cho việc tổng hợp acid nucleic, và sau cùng là thúc đẩy sự tăng trưởng ở heo con.
Đối với chức năng bảo vệ đường tiêu hóa, acid nucleic trong nấm men không chỉ giúp tăng bề mặt hấp thu ở đường ruột bằng cách cải thiện chiều cao nhung mao ruột (Hình 3), mà còn thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của các tế bào đường ruột bằng cách tác động đến sự phân chia và phân hóa tế bào, cải thiện hoạt lực của enzyme đường ruột v.v, nhằm mục đích cải thiện sức khỏe đường ruột.
Hình 3 – Tác dụng của nấm men đối với sự phát triển nhung mao ruột ở heo con.
Tăng cường khả năng miễn dịch
Các thành phần đảm nhiệm chức năng tăng cường miễn dịch trong sản phẩm nấm men là beta-glucans, acid nucleic và peptide. Beta-1, 3/1, 6-glucan giúp tăng cường miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể ở heo con, tăng mật độ kháng thể và cuối cùng là tăng sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật.
Tiến hành một thí nghiệm trong 28 ngày gồm 80 heo con 21 ngày tuổi, bổ sung 2% nấm men thay thế cho 4% SDPP ban đầu trong thức ăn dặm. Khi đã thay thế 2% SDPP, huyết thanh globulin miễn dịch (IgA và IgM) được tăng lên đáng kể, điều này cho thấy thay thế một phần SDPP bằng phụ gia nấm men có thể thúc đẩy miễn dịch ở heo con (Hình 4).
Hình 4 – Tác dụng của nấm men và SDPP đối với miễn dịch dịch thể ở heo con (g/L).
Hầu hết các tế bào miễn dịch không thể tổng hợp đủ nucleotide. Nghiên cứu cho thấy việc bổ sung các nucleotide ngoại sinh có thể thúc đẩy sự biểu hiện tế bào lympho B và kháng nguyên tế bào Th ở chuột đang cai sữa, đẩy mạnh sự phân hóa và hoàn thiện của tế bào lympho ruột. Vì vậy, khi số lượng các nucleotide tổng hợp bị hạn chế do heo con stress, việc bổ sung các acid nucleic từ nấm men có thể giúp duy trì tốt chức năng của các tế bào lympho ở heo con cai sữa. Các peptide thúc đẩy sự phát triển của chức năng miễn dịch và tăng cường chỉ số miễn dịch của các cơ quan ở heo con cai sữa sớm.
Tất cả những thí nghiệm nghiên cứu ở trên cho thấy tiềm năng của sản phẩm nấm men, đầu tiên là đóng vai trò của một acid nucleic và thứ hai là một nguồn protein cho thú non. Sản phẩm này có thể thay thế một phần hoặc hoàn toàn SDPP mà không làm ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng của heo con, và sau cùng là tiết kiệm chi phí cho nhà sản xuất.
Biên dịch: Ecovet team
Th1112
Vai trò mùn hữu cơ đối với cây trồng
Chất hữu cơ trong đất thường được phân ra làm hai dạng là chất mùn và không phải mùn, trong đó chất mùn chiếm nhiều hơn. Dựa vào tính chất hòa tan trong trong kiềm hoặc acid mà chất mùn lại được phân lập ra mùn fulvic acids, mùn humic acids và mùn humin. Trước đây, nhiều nhà khoa học cho rằng chất mùn được thành lập chỉ do tiến trình sinh học, nhưng trong vài thập niên trở lại đây, vai trò xúc tác của các chất vô cơ trong sự thành lập chất mùn đã được biết đến. Thí dụ như Fe và Al oxides vô định hình đã thúc đẩy sự hình thành mùn humic acids. Đất Mollisols giàu Fe và Al nên có nhiều chất hữu cơ hơn những đất khác là do Al kết hợp với mùn humic acids hình thành hợp chất Al-humates rất bền kháng lại sự phân hủy của vi sinh vật đất. Vai trò xúc tác của Mn oxides trong việc trùng hợp chất phenol để thành lập mùn humic acids đã được nghiên cứu nhiều. Những cation bases cũng làm ổn định mùn humic acids. Chính vì vậy, những đất giàu Ca thường có nhiều chất hữu cơ hơn đất nghèo Ca. Khoáng sét cũng thúc đẩy sự tích tụ chất mùn trong đất, nên đất có sa cấu mịn mhiều chất hữu cơ hơn đất thịt hoặc cát. Nguyên lý chung được nhiều nhà khoa học đất và sinh lý thực vật đồng ý là sự sinh trưởng và năng suất của cây trồng được quyết định bởi dưỡng chất khoáng, nước, không khí trong đất, và điều kiện khí hậu như ánh sáng và nhiệt độ. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy chất mùn hữu cơ cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng của cây trồng. Mối tương quan giữa hàm lượng, chất lượng của chất mùn trong đất và năng suất cây trồng đã được khẳng định. Chất mùn đã thúc đẩy sự sinh trưởng của cây trồng qua việc cải thiện đặc tính lý, hóa và sinh của đất như sau: – Chất mùn cung cấp dưỡng chất N, P và S và nguyên tố vi lượng từ từ cho cây trồng. Chất mùn có khả năng trao đổi cation (CEC) và có khả năng kết hợp với nhiều ion kim loại nên giúp đất kềm giữ cation tốt hơn. Thông thường đất nông nghiệp có hàm lượng mùn ít hơn nhiều so với thành phần khoáng, nhưng CEC của chất mùn lại cao hơn (trên một đơn vị) nên CEC của đất có nguồn gốc từ mùn bằng với CEC có nguồn gốc từ khoáng. Nhờ chất mùn mà các cation dinh dưỡng trong đất ít bị rửa trôi. Những cation dinh dưỡng nầy sau đó được cây hấp thụ khi cần thiết. – Chất mùn cải thiện cấu trúc của đất, vì thế cải thiện tỉ số không khí/nước ở vùng rễ, giúp sự di chuyển của nước trong đất dễ dàng hơn, và giữ nhiều nước hơn. – Chất mùn làm tăng mật số vi sinh vật đất, bao gồm cả vi sinh vật có lợi. Ngoài ra, mùn còn có vai trò của kích thích cho cây trồng phát triển: – Chất mùn kích thích hạt nẩy mầm và thúc đẩy sự tăng trưởng của cây con. – Chất mùn kích thích sự tượng rễ và sự phát triển của rễ khi được bón vào đất hay phun lên lá. – Phun chất mùn lên lá làm gia tăng sự phát triển của chồi, tăng trọng lượng thân, rể và lá, tăng năng suất cây trồng. Chất mùn trong đất là một chỉ thị tốt tình trạng dinh dưỡng đạm của đất đối với cây trồng. Trên 95% đạm trong lớp mặt của hầu hết các loại đất là ở dạng hữu cơ, vì vậy chất hữu cơ của đất có tương quan rất chặt với đạm tổng số của đất, nhưng đạm hữu dụng cho cây lại kém tương quan với chất hữu cơ hoặc đạm tổng số trong đất. Thành phần di động của chất mùn MHA và CaHA có liên quan đến khả năng phân hủy chất hữu cơ của vi sinh vật, nên có thể có vai trò quan trọng trong sự khoáng đạm của đất, và có thể được dùng để đánh giá tình trạng đạm hữu dụng của đất đối với cây trồng. PGS.TS NGUYỄN BẢO VỆ.
Th1130