Tin tức
Đăk Nông: hiệu quả từ mô hình ghép cải tạo vườn cà phê vối già cỗi
Cà phê là loại cây trồng được nhiều bà con ở vùng đất Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đăk Nông nói riêng lựa chon để phát triển kinh tế gia đình bởi nó thích hợp với điều kiện khí hậu, đất đai thổ nhưỡng nơi đây.
Tuy nhiên, việc chăm sóc đê cây cà phê cho năng suất cao luôn là vấn đề khiến bà con phải trăn trở suy nghĩ. Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật nhưng năng suất cà phê vẫn còn thấp, chưa tương xứng với những gì mà thiên nhiên ưu đãi. Nguyên nhân phần lớn do diện tích cà phê đã già cỗi, hoặc một số diện tích bị bệnh vàng lá do rễ bị nấm và tuyến trùng xâm nhập. Vấn đề khó khăn này đã được người dân trên địa bàn tỉnh Đăk Nông giải quyết bằng cách ghép cải tạo hoặc luân canh cây ngắn ngày rồi trồng mới. Ghép cải tạo hay trồng mới không phải lúc nào cũng thành công nếu không biết vận dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật và những kinh nghiệm thực tế của người trồng cà phê. Người tôi muốn nhắc đến là anh Đỗ Hoàng Yên ở thôn Đức An, xã Thuận An, huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông.
Dẫn chúng tôi đi thăm vườn cà phê của gia đình, anh Yên tâm sự: Cây cà phê được gia đình anh trồng từ năm 1996. Do chưa có nhiều kinh nghiệm, ban đầu gia đình anh mua giống không rõ nguồn gốc nên cây hay bị bệnh, nhất là bệnh rỉ sắt và đốm mắt cua. Vườn cà phê thường xuyên phải phun xịt thuốc phòng trừ sâu bệnh. Dù đã được đầu tư chăm sóc, chịu khó lao động nhưng do năng suất thấp chỉ đạt khoảng 2 tấn/ha. Sau khi trừ chi phí thì lợi nhuận thu được chỉ đủ trang trải cuộc sống và quay vòng đầu tư, không dư giả được bao nhiêu. Nhiều lúc anh đã nghĩ tới việc phải thay thế loại cây trồng khác để cải thiện cuộc sống gia đình.
Năm 2012, anh đã mạnh dạn cưa toàn bộ vườn cà phê với diện tích trên 1ha để ghép cải tạo bằng giống các giống cà phê mới năng suất cao hơn như dòng vô tính TR4 và dòng cà phê dây tại địa phương. Do nắm chắc kỹ thuật ghép và chăm sóc vườn sau ghép, tỷ lệ cây và chồi ghép đạt trên 96%, từ thực tế của gia đình mình, anh cho rằng, vườn cà phê giống ghép đã cho năng suất cao hơn 1,5 tới 2 lần so với trước khi ghép.
Sau khi ghép, mầm ghép phát triển tốt, mập mạp, khỏe mạnh. Sau 1 năm cây đã cho thu bói, nhưng anh đã bỏ lứa hoa đầu để cây cà phê tập chung dinh dưỡng nuôi cây, đến năm thứ 3 thì cây bắt đầu cho năng suất ổn định. Cà phê ghép có ưu điểm hơn cà phê già là khoảng cách giữa các chùm quả dầy, hạt to đều trong khi cây cà phê già hạt không đều, dễ bị dập nát. Đến nay, với 1ha cà phê ghép cho năng suất ổn định hơn 4 tấn nhân/ha. Với giá bán thấp như năm 2017 là 36.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, vườn cà phê của gia đình anh vẫn thu lãi trên 85 triệu đồng. Nhận thấy hiệu quả của cách làm này, anh cho biết sẽ ghép cải tạo dần 5 sào cà phê già còn lại để nâng cao hiệu quả kinh tế.
Những năm đầu anh thấy cây cà phê sau khi ghép vẫn còn xuất hiện sâu, bệnh nhưng những năm về sau thì bệnh ít dần nên đỡ tốn chi phí phun thuốc trị bệnh. Tùy vào năng suất thu hoạch mà anh sử dụng thêm phân bón phù hợp để bù lại năng suất đã mất đi giúp cây không bị kiệt sức. Gia đình anh thường dùng loại phân NPK 16:16:8 vào đầu mùa mưa, phân NPK 20:20:15 vào giữa mùa mưa. Nếu vụ nào cây cho trái nhiều thì cần bón thêm kali và phân bón lá để bổ sung thêm vi lượng cho cây. Đặc biệt anh rất chú trọng đến việc sử dụng phân chuồng ủ hoai để bón cho cây cà phê (10 – 15 kg phân chuồng ủ hoai/cây). Phân chuồng ủ hoai sẽ giúp cải tạo đất, giúp cây hấp thu dinh dưỡng tốt hơn.
Sử dụng biện pháp ghép cải tạo làm trẻ hóa cây cà phê là một biện pháp kỹ thuật đơn giản, vừa tiết kiệm chi phí sản xuất, vừa nâng cao hiệu quả canh tác. Thiết nghĩ bà con nên học hỏi để áp dụng biện pháp trên cho vườn cà phê già, năng suất thấp nhằm cải thiện hiệu quả kinh tế./.
Trịnh Đình Thâng
Trung tâm Khuyến nông Đăk Nông
Th910
Xung quanh hoạt chất glyphosate trong thuốc diệt cỏ: Bộ NN&PTNT đã dừng đăng ký mới
Sau vụ việc Tòa án cấp cao San Francisco (Mỹ) phán quyết Tập đoàn Monsanto thua kiện liên quan đến thuốc diệt cỏ Roundup chứa hoạt chất glyposate gây ung thư, ngày 14/8, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) – Bộ NN&PTNT Hoàng Trung đã thông tin rõ hơn về tình hình quản lý, sử dụng hoạt chất này tại Việt Nam.
Monsanto thua kiện, phải bồi thường 289 triệu USD vì thuốc diệt cỏ gây ung thư
Theo dõi sát sao
Ông Hoàng Trung cho biết, đối với thuốc BVTV nói chung và nhóm thuốc trừ cỏ, trong đó có hoạt chất glyphosate, từ lâu nay, Việt nam đã phải thực hiện đúng theo quy định của luật pháp cũng như thông lệ quốc tế. Theo ông Trung, phán quyết của tòa án California cho thấy, đây là một bước tiến rất khác so với trước. Trước đây, đã có nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề hoạt chất glyphosate có gây ảnh hưởng sức khỏe con người hay không và cho đến giờ phút này vẫn đang còn tranh cãi.
Theo báo cáo mà Cục BVTV có được, Tập đoàn Monsanto đã làm khoảng 800 nghiên cứu liên quan đến thuốc trừ cỏ chứa glyphosate, để chứng minh rằng nó an toàn cho người sử dụng. Tuy nhiên, Viện Nghiên cứu Ung thư quốc tế (IARC) và một loạt cơ quan nghiên cứu khác đã xếp hoạt chất glyphosate vào nhóm 2A (nhóm có khả năng gây ung thư cao cho con người).
Cùng với chờ đợi phán quyết của tòa án, Cục BVTV sẽ liên hệ với các tổ chức quốc tế, các quốc gia đã ban hành lệnh cấm sử dụng hoạt chất glyphosate, nếu có đủ bằng chứng chứng minh hoạt chất này ảnh hưởng sức khỏe con người, Cục sẽ đề xuất loại bỏ ra khỏi danh mục.
Cục trưởng Cục BVTV Hoàng Trung
“Chính vì vậy, Cục BVTV rất quan tâm và theo dõi sát các vụ việc liên quan đến hoạt chất glyphosate. Từ tháng 4/2016, Bộ NN&PTNT đã xem xét và quyết định dừng cho đăng ký mới. Và đến nay vẫn đang tiếp tục dừng đăng ký mới” – ông Trung cho biết.
Trên cơ sở Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật có hiệu lực từ 1/1/2015, Cục BVTV đã tiến hành rà soát lại toàn bộ danh mục thuốc BVTV và cũng xác định các hoạt chất có đầy đủ bằng chứng về mặt khoa học gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, môi trường… để tiến hành loại bỏ khỏi danh mục được phép sử dụng. Đến nay, Cục BVTV đã loại bỏ 6 hoạt chất ra khỏi danh mục với số lượng tên thương phẩm là 1.024.
Vừa qua, Cục BVTV đã hoàn chỉnh 6 báo cáo kỹ thuật về 4 hoạt chất và 3 hoạt chất khác cũng đang được xem xét, trong đó có glyphosate để có đầy đủ bằng chứng báo cáo Bộ NN&PTNT cân nhắc, loại bỏ ra khỏi danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam. “Hiện nay chúng tôi đang tiếp tục hoàn thiện các báo cáo này, trên cơ sở góp ý của các hội đồng khoa học, các ý kiến phản biện từ các tổ chức, cá nhân có liên quan. Riêng báo cáo về hoạt chất glyphosate hiện có 2 luồng ý kiến khác nhau. Chính vì vậy, Cục BVTV rất thận trọng” – ông Trung cho biết thêm.
Sẽ loại bỏ nếu có đủ căn cứ khoa học
Hiện nay, lãnh đạo Bộ NN&PTNT, Cục BVTV đang theo dõi sát và chờ kết quả cuối cùng trong phiên xử phúc thẩm của Tòa án San Francisco, bang California trong 45 ngày tới. Theo ông Trung, nếu tại phiên tòa phúc thẩm, phán quyết giữ nguyên bản án tại phiên sơ thẩm thì được hiểu rằng họ có đầy đủ căn cứ về mặt khoa học kết luận hoạt chất glyphosate là chất gây ung thư cao đối với con người. “Cục BVTV coi đây là một căn cứ rất mạnh để tham mưu, báo cáo lãnh đạo Bộ NN&PTNT loại bỏ hoạt chất glyphosate” – ông Trung cho biết.
Theo Cục BVTV, hiện nay tại Việt Nam, hầu hết các sản phẩm thuốc BVTV có hoạt chất glyphosate đều do Monsanto phân phối cho các DN. Trong những năm qua, lượng glyphosate sử dụng ở Việt Nam rất lớn, mỗi năm khoảng 30.000 tấn, chiếm 30% lượng thuốc BVTV nói chung và chiếm 60% nhóm thuốc trừ cỏ. Glyphosate chủ yếu sử dụng cho cây trồng trên cạn.
Việc sử dụng thuốc hoạt chất glyphosate của nông dân trên địa bàn TP Hà Nội là rất ít. Bởi thuốc được khuyến cáo chỉ trừ cỏ trên đất không trồng trọt và trừ cỏ dại dưới mặt đất đối với diện tích trồng cây lâu năm. Bên cạnh đó, thuốc chứa hoạt chất glyphosate được xếp vào nhóm thuốc diệt cỏ không chọn lọc nên nếu phun trên diện tích đang sản xuất thì sẽ tiêu diệt các cây trồng mang màu xanh.
Tại các vùng trồng rau an toàn trên địa bàn TP, Chi cục BVTV đã phối hợp với các địa phương khuyến cáo nông dân không dùng thuốc hoạt chất glyphosate để trừ cỏ. Đồng thời, khuyến khích nông dân phòng trừ cỏ dại bằng các biện pháp như làm cỏ bằng tay, máy móc và sử dụng thuốc trừ cỏ sinh học.
Phó Chi cục trưởng Chi cục BVTV Hà Nội Lê Xuân Trường
nguon: báo kinh tế đô thị
Th906
Tập huấn kỹ thuật trồng chăm sóc cây cam đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
Theo thống kê hiện nay tỉnh Quảng Trị có 4.930,2 ha diện tích cây ăn quả, trong đó cây cam cho hiệu quả kinh tế khá cao (250 – 300 triệu đồng/ha). Trong những năm trở lại đây cây cam là loại cây giúp nhiều hộ gia đình xóa nghèo vươn lên khá giả. Đặc biệt tỉnh Quảng Trị có trên 23.000 ha đất đỏ Bazan, một loại đất thích hợp cho việc trồng các loại cây ăn quả, đặc biệt là trồng cam.
Tuy nhiên việc phát triển trồng cam tại Quảng Trị nhìn chung còn kém phát triển, tập trung chủ yếu ở vùng gò đồi K4, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, với diện tích 28,9 ha. Sản xuất còn nhỏ lẻ, chủ yếu người dân đang sản xuất tự phát, thiếu thông tin về khoa học kỹ thuật, thông tin thị trường, thiếu các chính sách ưu tiên cho việc phát triển loại cây này.
Thực hiện chương trình đào tạo ngoài mô hình trong chuỗi dự án “Xây dựng mô hình và chuyển giao quy trình sản xuất cam, bưởi an toàn gắn với chuỗi giá trị tại các tỉnh miền Trung” thuộc chương trình Khuyến nông Trung ương, từ 21-23/8/2018, tại thành phố Đông Hà, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Quảng Trị đã tổ chức lớp tập huấn về kỹ thuật trồng, chăm sóc cây cam đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho 35 cán bộ khuyến nông viên cơ sở, cộng tác khuyến nông và nông dân tại các xã trên địa bàn các huyện, thị trong toàn tỉnh.
Trong thời gian 3 ngày, các học viên đã được giảng viên trao đổi, thảo luận một số vấn đề mà bà con nông dân đang quan tâm trong quá trình triển khai trồng, chăm sóc trồng cây cam để đạt hiệu quả cao nhất. Trong quá trình trao đổi, thảo luận, giảng viên đã đi sâu và nhấn mạnh một số kỹ thuật trong quy trình sản xuất cam như: đánh giá và lựa chọn vùng sản xuất trồng cây cam; kỹ thuật trồng từ khâu chọn giống, cách trồng, tỉa cành tạo tán; kỹ thật bón phân ở từng thời kỳ sinh trưởng của cây. Các học viên cũng đã được hướng dẫn kỹ thuật nhận biết và phòng trừ sâu bệnh hại cho cây cam; kỹ thuật thu hoạch và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch.
Bên cạnh học lý thuyết, học viên còn được đi tham quan, học tập thực tế mô hình sản xuất cam Vân Du và cam Xã Đoài tại vùng gò đồi K4, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng. Tại đây các học viên được chủ hộ chia sẻ những kinh nghiệm sản xuất trong quá trình trồng và chăm sóc những giống cam này.
Học viên còn được đi tham quan, học tập thực tế mô hình sản xuất cam Vân Du và cam Xã Đoài
Thông qua tập huấn đã trang bị thêm những kiến thức về sản xuất cây ăn quả có múi đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho cán bộ khuyến nông và cộng tác viên khuyến nông để tuyên truyền, hướng dẫn bà con tại cơ sở một cách hiệu quả nhất, khuyến khích người dân tại địa phương biết, hiểu và áp dụng nhằm nâng cao năng suất, sản lượng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm từ đó nâng cao thu nhập và hiệu quả trên đơn vị diện tích cho nông hộ.
Phan Việt Toàn
Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị
Th901
Hơn 40.000 ha lúa Kiên Giang bị lũ đe dọa
Mấy ngày qua, mực nước ở khu vực một số xã vùng biên huyện Giang Thành (Kiên Giang) lên rất nhanh. Mặc dù không có mưa nhưng chỉ trong vòng một đêm mực nước ở các cánh đồng có thể lên từ 1 – 2cm.
Lực lượng bộ đội giúp người dân huyện Giang Thành (Kiên Giang) thu hoạch lúa chạy lũ
Điều đáng nói hơn là nhiều tuyến đê bao ở các xã thuộc huyện Giang Thành có thể bị nước đe dọa bất cứ lúc nào. Vụ hè thu năm nay, chỉ riêng xã Vĩnh Điều và Vĩnh Phú đã có hơn 3.000ha lúa được gieo sạ. Hiện chỉ có khoảng 1.000ha lúa có thể thu hoạch sớm chạy lũ. Vì vậy, đến thời điểm này, Đồn Biên phòng Vĩnh Điều (thuộc Bộ đội Biên phòng tỉnh Kiên Giang) đã đưa gần 200 lượt cán bộ, chiến sĩ giúp người dân thu hoạch hơn 70% diện tích lúa bị ngập nước ở các xã trên địa bàn…
Chiều 29-8, ông Nguyễn Văn Tâm, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang lo lắng: “Hiện tại nước lũ lên nhanh và đe dọa một số diện tích lúa ở huyện biên giới Giang Thành. Song, càng lo hơn khi ngày 31-8, xả lũ 2 đập Trà Sư và Tha La thì nước lũ sẽ tràn mạnh về vùng Tứ giác Long Xuyên của tỉnh Kiên Giang. Hiện tại, ở 3 huyện Hòn Đất, Kiên Lương và Giang Thành có khoảng 40.000 ha lúa hè thu còn hơn 1 tháng nữa mới tới kỳ thu hoạch; như vậy nếu nước lũ đổ về mạnh thì diện tích lúa trên sẽ rất nguy cơ. Tình hình cấp bách này, Sở NN-PTNT đang phối hợp cùng các huyện, các ngành liên quan… nhanh chóng gia cố đê bao, chuẩn bị sẵn sàng máy bơm rút nước; tuyên truyền cho người dân đề cao cảnh giác và theo dõi sát mực nước lũ để cùng nhau phòng chống. Quan điểm là nỗ lực hết sức nhằm bảo vệ 40.000 ha lúa, nếu trường hợp cấp bách lũ dâng cao thì sẽ chọn phương án “cứu” từng khu vực, từng ô bao… không để thiệt hại tràn lan”.
Lực lượng bộ đội giúp người dân huyện Giang Thành (Kiên Giang) thu hoạch lúa chạy lũ
Nước lũ từ Campuchia đổ mạnh về vùng biên giới An Giang, Kiên Giang… những ngày qua, gây ngập nhiều
Nguồn: báo SGGP
Th831
Phát triển nông nghiệp hữu cơ- nhiều mô hình hiệu quả
Mặc dù, đi sau nhiều quốc gia về các sản phẩm hữu cơ, nhưng sự nỗ lực của các doanh nghiệp và nông dân, đã đưa Việt Nam vào danh sách 170 quốc gia tham gia sản xuất sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
Đến nay, Việt Nam có 33 tỉnh, thành phố có sản xuất nông nghiệp hữu cơ.Nhiều chuyên gia nông nghiệp trong và ngoài nước đã nhận định, xu hướng chuyển đổi từ nền nông nghiệp hóa chất sang nền nông nghiệp xanh, hữu cơ là xu hướng tất yếu trước nhu cầu sử dụng thực phẩm sạch của người tiêu dùng hiện nay.
Tuy nhiên, trước những áp lực về sản lượng, giải quyết bài toán kinh tế, thu nhập cho người sản xuất đã làm cho quá trình phát triển nền nông nghiệp hữu cơ gặp không ít khó khăn. Do đó, để nông nghiệp hữu cơ có cơ hội phát triển hơn nữa, các mắt xích trong chuỗi sản xuất đều phải dần hoàn thiện mới có thể mang lại hiệu quả cao nhất.
Bài 1: Nhiều mô hình hiệu quả
Đến nay, Việt Nam có 33 tỉnh, thành phố có sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Mặc dù, đi sau so với nhiều quốc gia trên thế giới về các sản phẩm hữu cơ, nhưng sự nỗ lực của nhiều doanh nghiệp cũng như nông dân, đã đưa Việt Nam vào danh sách 170 quốc gia tham gia sản xuất sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
Ngành trồng trọt vươn ra thị trường thế giới
Đến thời điểm này, nhiều loại sản phẩm cây trồng hữu cơ đã chính thức đặt chân đến nhiều thị trường thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc… như gạo Hoa Sữa của Công ty Viễn Phú Organic & Healthy Food (Cà Mau); lúa gạo với thương hiệu Tâm Việt của anh Võ Văn Tiếng ở tỉnh Đồng Tháp. Những thành tựu này đạt được một phần là nhờ vào sự cầu tiến của nông dân, đồng thời là tâm huyết lớn của các doanh nghiệp.
Theo anh Võ Văn Tiếng, nông dân sản xuất lúa hữu cơ tại huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, lúc khởi đầu sản xuất lúa hữu cơ anh gặp không ít khó khăn về vốn. Để có thể mở rộng diện tích sản xuất lên 10 ha, anh vừa sử dụng đất nhà, vừa nhờ sự hỗ trợ của chính quyền địa phương liên kết với các hộ nông dân khác để sản xuất.
Nguồn Bnews.vn
Nhưng sau thời gian nỗ lực, đã cho ra thương hiệu gạo hữu cơ Tâm Việt, được thị trường đón nhận. Với mỗi ha lúa hữu cơ, cho năng suất hơn 4 tấn/vụ, dù thấp hơn hơn cách sản xuất thông thường, nhưng lợi nhuận thu được hơn 18 triệu đồng/ha, cao hơn so với trồng lúa thông thường 8 triệu đồng/ha.
Đồng thời, trên ruộng lúa hữu cơ, nông dân có thêm thu nhập từ việc chăn nuôi vịt, cá, hoa màu mà không mất chi phí thức ăn. Trong thời gian tới, anh Tiếng sẽ đưa sản phẩm gạo hữu cơ Tâm Việt ra thị trường thế giới theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp nước ngoài.
Ngoài ra, cũng phải kể đến những doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam như Ecotiger (Tp.HCM) và Công ty TNHH Nghiên cứu sản xuất và cung ứng nông sản Viorsa (Tp.HCM) cũng tham gia vào chuỗi liên kết sản xuất hữu cơ này.
Theo ông Anthony Tô Hiển, Giám đốc điều hành khu vực Đông Nam Á, Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Xây dựng Ecotiger, công ty đã liên kết cùng nông dân sản xuất hữu cơ theo mô hình tôm – lúa tại Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu với năng suất hơn 4 tấn/ha, không có sự chênh lệch nhiều so với phương thức sản xuất lúa thông thường.
Cho đến nay, doanh nghiệp thu mua lúa hữu cơ cao hơn lúa canh tác thông thường 55%, giúp người sản xuất tăng lợi nhuận so với lúa thông thường gần 10 triệu đồng/ha. Sản phẩm gạo hữu cơ nông dân liên kết với Ecotiger đã nhận được các chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế của Mỹ (USDA), châu Âu (EU) và Nhật Bản (JAS).
Một hiệu quả nữa là chi phí sản xuất lúa hữu cơ giảm hơn so với canh tác thông thường, bởi vì nông dân không mất chi phí nhiều vào phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Qua quá trình khảo sát, chi phí cho 1 ha lúa hữu cơ mất 13 triệu đồng; còn đối với canh tác 1 ha lúa vô cơ là 14 triệu đồng. Như vậy, với việc giảm chi phí sản xuất, cho dù giá bán lúa hữu cơ ngang với lúa thông thường thì nông dân vẫn có lãi.
Th901
Thanh long Việt nam được phép nhập khẩu vào Úc
THANH LONG VIỆT NAM ĐƯỢC PHÉP NHẬP KHẨU VÁO ÚC
Chính phủ Úc vừa thông báo cho phép NK trái thanh long từ Việt Nam vào nước này. Đây là loại trái cây tươi thứ 3 của Việt Nam được phép XK sang Úc.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Úc, ngày 24/8 vừa rồi, Úc đã chính thức công bố cho phép NK trái thanh long Việt Nam. Như vậy, sau trái vải và xoài, thanh long là loại trái cây tươi thứ 3 của Việt Nam được Úc cho phép NK vào nước này. Việt Nam cũng là nước duy nhất cho đến nay được phép XK trái thanh long vào Úc.
Trước khi XK sang Úc, thanh long phải được Cục BVTV Việt Nam kiểm dịch và cấp giấy chứng nhận không bị nhiễm côn trùng trong diện kiểm soát an toàn sinh học (ATSH). Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật (KDTV) gốc phải đi kèm với mỗi lô hàng và phải được hoàn thành một cách chính xác.
Để chứng minh cho sự phù hợp với các yêu cầu này, trên giấy chứng nhận KDTV phải ghi rõ: “Trái cây trong lô hàng này được sản xuất tại Việt Nam phù hợp với các điều kiện NK thanh long tươi vào Úc và phù hợp với Chương trình ‘XK trái cây tươi của Việt Nam vào Úc’, đã được kiểm dịch và không có bất kỳ loại côn trùng nào trong diện kiểm soát ATSH của Úc”.
Thanh long tươi từ Việt Nam phải được xử lý trước khi vận chuyển hàng bằng phương pháp nhiệt hơi (VHT) với thời gian 40 phút ở nhiệt độ 46,5oC, độ ẩm 90% trở lên tại một cơ sở xử lý được Cục BVTV Việt Nam phê duyệt. Để chứng minh sự phù hợp với các yêu cầu này, trên giấy chứng nhận KDTV phải ghi rõ như sau: Chi tiết việc xử lý (ngày xử lý, nhiệt độ và thời gian xử lý); tên cơ sở đóng gói/xử lý và số đăng ký; số thùng trong lô hàng; số container và số niêm phong (đối với lô hàng vận chuyển bằng đường biển).
Đối với vận chuyển bằng đường biển, số container và số niêm phong phải được xác nhận và ghi trên giấy chứng nhận KDTV hoặc trên chứng từ thương mại (ví dụ trên vận đơn). Nếu được xác nhận trên vận đơn thì số chứng nhận KDTV cũng phải được ghi rõ. Bất cứ lô hàng nào không có giấy chứng nhận KDTV đầy đủ hoặc chứng từ ghi không nhất quán với nhãn hàng thì sẽ bị giữ lại cho đến khi Bộ Nông nghiệp Úc tham vấn với Cục BVTV Việt Nam để làm rõ và ra quyết định.
Bên cạnh đó, thanh long phải không có côn trùng và bệnh dịch. Trái thanh long cũng không được lẫn các chất ô nhiễm, bao gồm lá cây, cành cây, đất, hạt cỏ dại, mảnh vụn và các loại thực vật khác, trừ 1cm cuống của trái thanh long. Mỗi lô hàng phải được đảm bảo tình trạng kiểm dịch trong khi vận chuyển bằng các lựa chọn đóng gói đảm bảo. Bao bì phải được làm từ vật liệu tổng hợp hoặc vật liệu chế biến cao nếu có nguồn gốc thực vật. Bao bì không được làm bằng nguyên liệu thực vật chưa qua chế biến chẳng hạn như rơm. Các thùng carton hoặc kiện hàng đơn lẻ phải được dán nhãn với một số nhận dạng duy nhất để thuận tiện cho việc truy xuất nguồn gốc. Nếu bị phát hiện có dấu hiệu của bệnh dịch, lô hàng sẽ bị Bộ Nông nghiệp Úc giữ lại và đánh giá rủi ro về ATSH để xác định các lựa chọn cho nhà NK. Lựa chọn đó có thể là thông quan, xác định thêm, xử lý, tái xuất, hoặc tiêu hủy.
Bộ Nông nghiệp Úc có thể rà soát chính sách NK thanh long từ Việt Nam bất cứ lúc nào sau khi thương mại bắt đầu hoặc khi tình trạng sâu bệnh và KDTV tại Việt Nam bị thay đổi.
(Theo Thanh Sơn – Báo Nông nghiệp Việt Nam). ')}
Th831
Cách bón phân để sầu riêng không bị sượng
Những hộ chuyên canh sầu riêng có thể thu lợi nhuận từ 100 – 200 triệu đồng/1.000m2. Tuy nhiên, làm sao cho sầu riêng không bị sượng cũng là một bài toán cần lưu ý.
Sầu riêng là một trong những loại trái cây nhiệt đới đặc sản được trồng nhiều ở miền Nam và ĐBSCL, tập trung ở các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Đồng Nai… Những hộ chuyên canh sầu riêng có thể thu lợi nhuận từ 100 – 200 triệu đồng/1.000m2.
Tuy nhiên, người sản xuất sầu riêng vẫn gặp những khó khăn như: Giá bán không ổn định, giá phân bón tăng cao, phát sinh nhiều dịch bệnh như bệnh chảy nhựa cây, đốm bồ hóng, mốc hồng… Đặc biệt là hiện tượng trái sầu riêng bị sượng vẫn còn rất phổ biến.
Nguyên nhân là do rối loạn sinh lý trong quá trình phát triển làm giảm phẩm chất trái. Hay trong kỹ thuật canh tác, cách bón phân cho cây không đúng lúc hoặc làm mất cân bằng dinh dưỡng cũng gây nên sầu riêng bị sượng.
Những lưu ý của chúng tôi sau đây về bón phân cho cây sầu riêng nhằm giúp bà con nông dân tham khảo có cơ sở khoa học để nâng cao năng suất, phẩm chất trái, hiệu quả sản xuất và giảm bớt tác hại các loại bệnh nói trên:
Khi bón phân cần lưu ý giai đoạn cây non cần nhiều chất đạm (N) và lân (P). Cần có những loại phân hỗn hợp được sản xuất cân đối cho từng giai đoạn. Đến lúc cây cho trái cần bón nhiều phân kali (K) để giúp cho việc phát triển chất lượng trái. Điều này cũng có khả năng giảm hiện tượng trái bị sượng do trong thời kỳ nuôi trái, giữa lá non và trái có sự cạnh tranh chất dinh dưỡng làm cho trái phát triển kém, dẫn đến một số múi trong trái bị sượng. Cho nên, trong thời kỳ này không nên hạn chế bón đạm để kích thích chồi non phát triển.
Khi cây còn nhỏ thì bón lót 50gram/cây (khoảng 5 muỗng canh) phân hỗn đầy đủ N-P-K (14-14-14) hoặc phân đơn trộn đúng theo tỷ lệ này chia đều cho mỗi cây 50gram rồi phủ một lớp đất mỏng lấp phân, đặt cây trồng và tưới nước. Tỷ lệ phân bón sẽ gia tăng khi cây càng lớn. Bón với tỷ lệ NPK là 12:4:7 với liều lượng 1kg/cây trong 5 năm đầu. Gia tăng dần liều lượng này hàng năm cho đến 4 kg/cây trong năm thứ 12 trở lên.
Cách bón: Trong điều kiện bình thường, phân bón được rải quanh gốc bón đều quanh dưới tán cây xa hơn đường kính tán cây một ít. Cộng với tưới nước hòa tan phân vào đất. Trong điều kiện trồng trên đất dốc, phân bón được bón vào nhiều hố nhỏ đào quanh tán cây và lấp đất lại. Hoặc đào rãnh đều quanh tán cây và rải phân rồi lấp đất cộng với tươi nước ẩm.
Ngoài ra cần chú ý bón thêm phân hữu cơ như phân gà, phân bò, heo… hoai mục với lượng từ 15 – 30kg/cây/năm. Nhiều nghiên cứu cho thấy có thể giúp tăng năng suất, chất lượng trái cây và giảm tình trạng bệnh nứt thân, chảy nhựa, sượng trái khi bón phân hữu cơ kết hợp chế phẩm Trichoderma.
TS Nguyễn Công Thành
Theo Dân Việt, komix.vn
Th829
5 nguyên tắc vàng khi bón phân
1. Bón đúng chủng loại phân
– Cây trồng yêu cầu phân gì thì bón phân đó. Phân bón có nhiều loại, nhưng có 3 loại chính là đạm – N, lân – P, kali – K. Lưu huỳnh (S) cũng rất cần nhưng với lượng ít hơn. Mỗi loại có chức năng riêng. Bón phân không đúng yêu cầu, không phát huy được hiệu quả còn gây hại cho cây.
– Bón đúng không những đáp ứng được yêu cầu của cây mà còn giữ được ổn định môi trường của đất. Ở đất chua tuyệt đối không bón những loại phân có tính axit cao quá ngưỡng và trên nền đất kiềm không bón các loại phân có tính kiềm cao quá ngưỡng.
2. Bón đúng nhu cầu sinh lý của cây
– Nhu cầu dinh dưỡng của cây trồng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển. Có loại cây ở giai đoạn sinh trưởng cần kali hơn đạm; cũng có loại cây ở thời kỳ phát triển lại cần đạm hơn kali. Bón đúng loại phân mà cây cần mới phát huy hiệu quả.
– Trong suốt thời kỳ sống, cây trồng luôn luôn có nhu cầu các chất dinh dưỡng cho sinh trưởng và phát triển, vì vậy khi bón phân nên chia ra bón nhiều lần theo quy trình và bón vào lúc cây phát triển mạnh, không bón một lúc quá nhiều. Việc bón quá nhiều phân một lúc sẽ gây ra thừa lãng phí, ô nhiễm môi trường, cây sử dụng không hết sẽ làm cho cây biến dạng dễ nhiễm bệnh, năng suất chất lượng nông sản thấp.
– Bón phân có 3 thời kỳ: bón lót trước khi trồng (hay bón hồi phục sau khi cây thu hoạch vụ trước), bón thúc (nhằm thúc đẩy quá trình sinh trưởng của cây, tạo nhành lá mới), bón rước hoa (đón đòng), có nơi còn bón bổ sung khi tạo hạt, nuôi trái.
3. Bón đúng nhu cầu sinh thái
– Bón phân là hình thức bổ sung vào đất chất dinh dưỡng cho cây trồng. Ngoài ra, còn có các vi sinh vật đất phân hủy các chất hữu cơ sẵn có hoặc cố định N từ không khí vào đất. Nhiều nhà khoa học Nga, Trung Quốc, Đức, Nauy cho rằng bón phân còn có tác dụng kích thích hoạt động của tập đoàn vi sinh vật đất. Nhờ đó cây được tăng cường cung cấp lượng các chất dinh dưỡng cân đối hơn. Bón phân không những cần cho cây trồng mà còn giúp cho vi sinh vật đất phát triển hữu hiệu hơn.
– Bón đúng loại phân, bón đúng thời cơ, bón đúng đối tượng làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với hạn, rét, thời tiết bất thường của môi trường và với sâu bệnh gây hại (ví dụ phân kali). Bón phân không phải lúc nào cũng để cung cấp dinh dưỡng thúc đẩy cây trồng phát triển mà còn có trường hợp phải dùng phân để tác động hãm bớt tốc độ sinh trưởng nhằm tăng tính chịu đựng của cây trước các yếu tố xấu phát sinh.
4. Bón đúng vụ và thời tiết
Mùa vụ, nhiệt độ và thời tiết rất ảnh hưởng đến hiệu quả của phân bón, mưa làm rửa trôi, trực di phân bón, nắng khô làm phân bón không tạo được môi trường dinh dưỡng để tiêu, cây không phát triển, thối hoa, quả.
5. Bón đúng phương pháp
– Có 2 loại phân bón: Phân bón gốc và phân bón lá. Tùy từng loại cây mà có phương pháp bón thích hợp. Với phân bón gốc thì bón vào hố, rãnh theo vành tán lá hoặc rải đều trên mặt đất. Với phân bón lá thì phun đều trên lá, nếu ướt được cả 2 mặt lá thì càng tốt.
Nguồn KS TRẦM ANH KIỆT
Th402
Thông báo về việc xác nhận thông tin mạo danh
THÔNG BÁO GỬI QUÝ KHÁCH HÀNG, ĐỐI TÁC
v/v: Xác nhận thông tin mạo danh
Kính gửi : Quý Khách hàng, đối tác, đại lí trên toàn quốc
Hiện nay, có rất nhiều đơn vị THƯƠNG MẠI phân trùn quế đã mạo danh trực thuộc trại TRÙN QUẾ PHƯỚC HIỆP. Các đơn vị đó cho nhân viên đi chào hàng, cung cấp các sản phẩm phân trùn quế nuôi chưa đủ tháng ( còn lẫn phân bò) và dịch trùn quế ra thị trường dưới danh nghĩa là công ty thuộc TRÙN QUẾ PHƯỚC HIỆP. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến Quý khách hàng, đối tác cũng như ảnh hưởng đến uy tín của trại trùn chúng tôi.
Nay trại TRÙN QUẾ PHƯỚC HIỆP kính gửi thông báo này đến đại lí, đối tác, quý khách hàng trên toàn quốc xác nhận: trại TRÙN QUẾ PHƯỚC HIỆP là cơ sở nuôi trùn quế và cung cấp phân trùn quế, dịch trùn quế tại địa chỉ : Ấp Phước Hòa, Xã Phước Hiệp, Huyện Củ Chi, Tp HCM. Tất cả các NHÃN sản phẩm: phân trùn quế, dịch trùn quế đều để địa chỉ trên và chỉ có một CƠ SỞ DUY NHẤT, một website duy nhất là www.trunque.vn. Những sản phẩm của các công ty khác không trực thuộc đơn vị chúng tôi, và trại trùn Phước Hiệp không chịu trách nhiệm về chất lượng của các sản phẩm mạo danh trại trùn. Chúng tôi sẽ làm công văn gửi cơ quan có thẩm quyền “ tố cáo” các đơn vị đang mạo danh trực thuộc trại trùn để đảm bảo quyền lợi cho quý khách hàng, đối tác, đại lí.
Khi nhận được thông tin công ty nào đó trực thuộc trại TRÙN QUẾ PHƯỚC HIỆP, quý khách hàng, đối tác, đại lí vui lòng phản hồi qua hotline 0909.822.037-0898.135.970- 0908.822.037.
Chân thành cảm ơn quý khách hàng, đối tác, đại lí đã tin tưởng và ủng hộ trại trùn trong suốt 15 năm qua. Kính chúc quý khách hàng, đối tác, đại lí nhiều sức khỏe và kinh doanh thuận lợi.
Trân trọng./.
Củ Chi, 02/04/2017
Chủ Cơ Sở
Nguyễn Văn Dụm
Th310
Chất hữu cơ ( HC)- organic matter(OM)
1.Sơ lược về chất hữu cơ, mùn hữu cơ và thang đánh giá độ phì nhiêu của đất.
* Chất hữu cơ của đất:
Toàn bộ các hợp chất hữu cơ có trong đất được gọi là chất hữu cơ của đất.
Có thể chia chất hữu cơ của đất làm 2 phần:
(1) Những tàn tích hữu cơ chưa bị phân giải (rễ, thân, lá cây, xác động vật) vẫn giữ nguyên hình thể.
(2) Những chất hữu cơ đã được phân giải. Phần hữu cơ sau có thể chia thành 2 nhóm:
Phân loại chất hữu cơ, mùn hữu cơ
+ Nhóm những hợp chất hữu cơ ngoài mùn: Nhóm hữu cơ ngoài mùn gồm những hợp chất có cấu tạo đơn giản hơn như: protit, gluxit, lipit, lignin, tanin, sáp, nhựa, este, rượu, axit hữu cơ, anđehit… Nhóm này chỉ chiếm 10% – 15% chất hữu cơ phân giải nhưng có vai trò rất quan trọng với đất và cây trồng.
+ Nhóm các hợp chất mùn: Nhóm các hợp chất mùn bao gồm các hợp chất hữu cơ cao phân tử, có cấu tạo phức tạp, nhóm này chiếm 85% – 90% chất hữu cơ được phân giải, bao gồm 3 thành phần chính: axit humic, axit fulvic và hợp chất humin.
* Thang đánh giá chất lượng hữu cơ và mùn trong đất:
Chất mùn hữu cơ trong đất được coi là một tiêu chí để đánh giá độ phì nhiêu của đất.
Số lượng: Mùn = C% x 100 / 58 = C% X 1,724
– Đất đồng bằng :
+ Mùn nghèo: < 1% + Mùn trung bình : 1 - 2 % + Mùn giàu: > 2%
– Đất đồi núi
+ Mùn rất nghèo: < 1% + Mùn nghèo: 1 - 2% + Mùn trung bình: 2 - 4% + Mùn giàu: 4 - 8 % + Mùn rất giàu: > 8%
Hàm lượng hữu cơ và mùn biến động rất lớn giữa các loại đất, nhìn chung các loại đất nông nghiệp có hàm lượng hữu cơ và mùn không cao. Đa số đất đồi núi của nước ta có hàm lượng chất hữu cơ từ nghèo, có khoảng 20% diện tích đất có hàm lượng chất hữu cơ rất nghèo. Ðất có hàm lượng chất hữu cơ và mùn cao nhất là các đất trên núi cao, quanh năm mây mù che phủ, hoặc đất lầy thụt quanh năm ngập nước, các đất này có hàm lượng OM >= 6%. Ðất nghèo chất hữu cơ nhất là các đất cát hoặc đất bạc màu.
* Tỷ lệ phân giải chất hữu cơ (C:N):
Tỷ lệ C:N được sử dụng một cách rộng rãi như là một chỉ số đánh giá tốc độ phân hủy chất hữu cơ sau khi chúng được bón xuống đất. Những chất hữu cơ có tỉ lệ C:N cao chẳng hạn 40% Carbon và 0.5% Nitơ, sẽ phân hủy chậm hơn so với những chất hữu cơ có tỉ lệ C:N thấp, chẳng hạn 40% Carbon và 4% nitơ. Hàm lượng hữu cơ trong đất sẽ tăng lên nếu chất hữu cơ bổ sung có tỉ lệ C:N cao, vì không có đủ nitơ để sự phân hủy được hữu hiệu. Hơn thế nữa, hàm lượng nitơ thay vì được khoáng hóa bổ sung, lại bị giảm đi do quá trình bất động hóa nitơ của vi khuẩn, do chất hữu cơ bổ sung không có đủ nitơ để chúng phát triển. Chất hữu cơ bổ sung có tỉ lệ C:N thấp sẽ được phân hủy tọn vẹn và nhanh chóng với nitơ được khoáng hóa. Một số nitơ sau khi được khoáng hóa có thể được sử dụng trở lại để phân hủy những chất hữu cơ có tỉ lệ C:N cao trước đó chưa phân hủy được. Bởi vậy, hàm lượng chất hữu cơ trong môi trường nhiều khi sẽ bị giảm đi do quá trình phân hủy vật chất hữu cơ có tỉ lệ C:N thấp mới được thêm vào.
C/N = mức độ phân giải chất hữu cơ
< 8: kiệt > 12: yếu
8 – 12: trung bình
10: cân đối
Mùn/N: 12 -16
H/F : acid humic/acid fluvic > 1
2. Tác dụng của mùn hữu cơ đối với cây trồng:
Chất hữu cơ là phần quý nhất của đất, nó không chỉ là kho dinh dưỡng cho cây trồng mà còn có thể điều tiết nhiều tính chất đất theo hướng tốt, ảnh hưởng lớn đến việc làm đất và sức sản xuất của đất.
Vai trò của chất hữu cơ lớn đến mức vấn đề chất hữu cơ của đất luôn luôn chiếm một trong những vị trí trung tâm của thổ nhưỡng học và đã dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Tác dụng của mùn hữu cơ đối với cây trồng
Chất mùn hữu cơ trong đất ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và năng suất của cây trồng thông qua các đặc tính lý, hóa và sinh của đất như:
– Bản thân chất mùn hữu cơ cung cấp chất đạm, lân, lưu huỳnh và các chất vi lượng một cách từ từ cho cây trồng.
– Chất mùn hữu cơ được xem như là một kho tích trữ dưỡng chất từ phân hóa học Vai trò nầy rất quan trọng, giúp hạn chế việc mất phân sau khi bón vì nếu không chúng bị bốc hơi hoặc rửa trôi đi. Những chất dinh dưỡng được mùn hữu cơ giữ lại nầy sau đó được phóng thích cho cây hấp thụ khi cần thiết.
– Chất mùn hữu cơ cải thiện cấu trúc của đất, làm đất có nhiều lổ rỗng hơn vì thế đất trở nên thông thoáng, giúp sự di chuyển của nước trong đất được dễ dàng, và giử được nhiều nước hơn.
– Chất mùn hữu cơ làm tăng mật số vi sinh vật trong đất, bao gồm cả vi sinh vật có lợi.
Tác dụng của chất hữu cơ đối với cây trồng
Ảnh hưởng của chất mùn đến sự sinh sinh trưởng của cây trồng không phải chỉ đơn thuần bằng những cách trên mà còn có vai trò kích thích cho cây trồng phát triển. Tính kích thích nầy là do sự hiện diện của những chất có chức năng như là những chất điều hòa sinh trưởng thực vật có trong mùn hữu cơ, có hoạt tính tương tự như IAA, Gibberillin, cytokinin. Hoặc là những chất ngăn cản sự phân hủy auxin. như:
– Chất mùn hữu cơ kích thích sự nẩy mầm của hạt và sự tăng trưởng của cây con. Vai trò của chất mùn hữu trong trong việc thúc đẩy sự nẩy mầm của hạt và sự phát triển của cây con đã được nghiên cứu nhiều.
– Chất mùn hữu cơ kích thích sự tượng rễ và sự phát triển của rễ. Tùy thuộc vào chất lượng và số lượng của chất mùn mà mức độ kích thích có khác nhau.
– Chất mùn hữu cơ còn kích thích sự phát triển của chồi.
3. Một số nguồn cung cấp chất hữu cơ dùng làm phân bón hoặc bón trực tiếp cho cây trồng:
a/ Đất mùn hữu cơ từ các ao hồ lâu năm (than bùn): được hình thành do sự tích tụ và phân huỷ không hoàn toàn tàn dư thực vật trong điều kiện yếm khí xảy ra liên tục. Bao gồm cỏ, lau, lách, cây bụi, cây thân gỗ, kết hợp với quá trình kiến tạo địa chất, quá trình bồi tụ, lắng đọng phù sa đã chôn vùi kể cả cây thân gỗ, làm cho hữu cơ tích tụ thành các lớp và tạo thành than bùn.
Hàm lượng hữu cơ tùy theo đặc điểm địa chất, thảm thực vật, thời gian phân hủy yếm khí, sau khi xử lý (phơi khô, nghiền sàng…) được tạm phân loại theo các tiêu chuẩn sau:
Than bùn hữu cơ
+ Than bùn loại 1: Hữu cơ: 30-35% – Màu sắc: đen than – Độ mịn: qua sàng 3,5mm – Độ ẩm: 20-30%
+ Than bùn loại 2: Hữu cơ: 17-25% – Màu sắc: đen nhạt lẫn nâu – Độ mịn: qua sàng 3,5mm – Độ ẩm: 20-30%
+ Than bùn loại 3: Hữu cơ: nhỏ hơn 16% – Màu sắc: nâu đen – Độ mịn: qua sàng 5mm – Độ ẩm 20-35%.
Với các loại than mùn trên chúng ta có thể bón trực tiếp cho cây trồng, trộn cùng đất trồng, dùng làm nguyên liệu để sản xuất phân trộn, phân hữu cơ khoáng, phân hữu cơ vi sinh…
b/ Mùn bã mía từ các nhà máy chế biến mía đường: Các thành phần còn lại sau đường (bã mía, bùn lọc, váng bọt và mật rỉ) đều là phụ phế liệu của nhà máy đường chiếm 29 ÷ 38% khối lượng cây mía, trong đó thành phần bã mía chiếm tỉ khối nhiều nhất (25 ÷ 30% khối lượng cây mía).
+ Với tổng hàm lượng các chất hữu cơ chưa phân hủy từ 35 – 45%, mùn bã mía cần phải được ủ hoai mục trước khi bón cho cây trồng.
+ Hoặc dùng nguyên liệu để chế biến phân hữu cơ vi sinh: Bổ sung vi sinh vật phân giải xenlulo, vi sinh vật khử mùi hôi, ủ lên men, bổ sung vi sinh vật cố định đạm, phân giải lân, bổ sung khoáng đa lượng, trung vi lượng, axit humic… Hàm lượng chất hữu cơ trong thành phẩm thu được từ 10 – 30%.
c/ Vỏ cà phê thô: Hàm lượng hữu cơ > 30%
+ Cần được ủ hoai mục, không nên bón trực tiếp cho cây trồng, hiệu quả thấp và dễ lây nguồn gây bệnh cho cây trồng.
+ Dùng làm nguyên liệu để sản xuất phân bón hữu cơ sinh sinh: Diệt mầm bệnh, tăng quá trình phân hủy xác bã thực vật, gia tăng hàm lượng hữu cơ, tăng sức sống của các vi sinh vật có ích trong phân hữu cơ, bổ sung nấm đối kháng, bổ sung khoáng đa lượng.
4/ Các hợp chất sau khi đã được tách chiết từ mùn hữu cơ hàm lượng cao: Axit humic, Axit Fulvic, Axit Amin (Amino Axit)…: Hàm lượng axit humic đậm đặc từ 20 – 80%.
Axit Humic
5/ Một số nguồn hữu cơ, phân hữu cơ truyền thống:
* Phân chuồng: ưu điểm là chứa đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng đa, trung và vi lượng.
* Phân rác: loại phân này làm từ rơm, rạ; thân lá các cây ngô, đậu, đỗ, vỏ lạc, trấu…
* Phân xanh: tên gọi chung các cây hoặc lá cây tươi được ủ hay vùi thẳng xuống đất để bón ruộng.
* Khô dầu: là bã còn lại sau khi hạt đã ép lấy dầu.
* Tro: Tro là chất còn lại của một số vật sau khi cháy hết và thường có màu xám. Trong nông nghiệp một số nguyên liệu thực vật như cây: sắn, bông, ngô, lá dừa, mạt cưa, v.v… sau khi bị đốt có tỷ lệ tro và chất dinh dưỡng khá cao.
nguồn: camnangcaytrong.com
Th911