Tin tức
Trái cây miền Tây sẽ “ngọt hơn”
Nguồn tin: báo Sài Gòn Giải Phóng
Nhà vườn ĐBSCL đang tranh thủ cơ hội để cải thiện chất lượng trái cây, tạo sự cạnh tranh với trái cây ngoại tại thị trường nội địa. Đồng thời, từng bước áp dụng các quy trình sản xuất nghiêm ngặt để nắm bắt cơ hội xuất khẩu.
Bưởi da xanh Bến Tre lần đầu tiên được xuất sang thị trường Mỹ. Ảnh: TÍN HUY
Những tuần qua, nhiều nhà vườn tại thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang trúng đậm mùa xoài cát Hòa Lộc, xoài keo. Với 3,2ha xoài, ông Chín Tươi (xã Vĩnh Xương, thị xã Tân Châu) đang thu hoạch xoài keo bán cho thương lái tại vườn với giá từ 8.000-14.000 đồng/kg, lợi nhuận cầm chắc vài trăm triệu đồng. Hàng chục nhà vườn ở xã Vĩnh Xương cũng thu hoạch xoài cát Hòa Lộc bán cho thương lái với giá 30.000 đồng/kg. Năng suất xoài cát Hòa Lộc từ 5-6 tấn/ha, nếu mức giá duy trì như hiện nay, nhiều nhà vườn có lãi đáng kể… Hiện, thị xã Tân Châu có gần 700ha trồng xoài, tập trung ở hai xã biên giới Vĩnh Xương, Phú Lộc…
Không chỉ ở An Giang, nhiều nhà vườn ở Đồng Tháp cũng đang có những bước tiến trong tiếp cận sản xuất xoài gắn với mã số vùng trổng để cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Hiện Đồng Tháp có gần 42.000ha trồng trái cây thì xoài chiếm 1/3 diện tích với khoảng 14.000ha, trong đó có hơn 300 mã số vùng trồng gắn với gần 6.000ha xoài. Đây cũng là vùng trồng chuyên xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, châu Âu, Trung Quốc… Theo ông Lê Quốc Điền, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Tháp, mục tiêu phát triển ngành hàng xoài Đồng Tháp vừa tháo gỡ các điểm nghẽn kỹ thuật, vừa thực hiện phát triển theo chuỗi giá trị ngành hàng, gia tăng chế biến sâu, chế biến công nghệ cao nhằm tăng giá trị sản phẩm.
Bên cạnh đó, nhiều nhà vườn ĐBSCL đang tập trung sản xuất theo hướng đạt các chuẩn VietGAP, GlobalGAP để xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc và các thị trường khó tính khác. Mới đây, thông tin bưởi da xanh chuẩn bị xuất khẩu theo đường chính ngạch sang thị trường Mỹ đã mở ra một cơ hội mới cho nhà vườn miền Tây. Bưởi da xanh là loại trái cây có diện tích tăng nhanh trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, hiện có gần 5.000ha. Ngành nông nghiệp Tiền Giang đã hình thành vùng chuyên canh cây ăn trái tập trung với sản lượng lớn, cung cấp cho thị trường. Tại xã Tân Mỹ Chánh, TP Mỹ Tho, đã có hơn 120ha bưởi trồng theo tiêu chuẩn VietGAP và doanh nghiệp bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Hiện ngành chức năng địa phương đang khuyến khích người dân chuyển đổi sang trồng bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP, công nghệ cao hướng tới xuất khẩu…
Tại Bến Tre, dự kiến cuối tháng 11-2022 sẽ xuất khẩu lô bưởi da xanh đầu tiên sang thị trường Mỹ. Theo bà Nguyễn Thị Hồng Thu, Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu (huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre), công ty phải mất 5 năm liên kết, phối hợp với 5 HTX sản xuất bưởi trên địa bàn tỉnh sản xuất theo chuẩn VietGAP. Dự kiến, công ty sẽ xuất khoảng 40 tấn bưởi sang thị trường Mỹ. Như vậy, bưởi da xanh Bến Tre là trái cây đầu tiên của ĐBSCL được xuất sang thị trường Mỹ. Trước đó, các loại trái cây của vùng ĐBSCL như xoài, nhãn, vải, thanh long, chôm chôm và vú sữa cũng được xuất sang những thị trường khó tính ở châu Âu. Theo ông Lâm Văn Lĩnh, Chi Cục phó Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Bến Tre, sự liên kết với nông dân, HTX xây dựng mã vùng trồng là câu chuyện sống còn của doanh nghiệp trong thời gian tới để đáp ứng các hàng rào kỹ thuật qua các tiêu chuẩn chất lượng. Trong đó tiêu chuẩn đầu tiên là thực hành nông nghiệp tốt và có mã vùng trồng rõ ràng để tăng thêm cơ hội xuất khẩu trái cây sang nhiều nước.
Theo Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), không ít diện tích trái cây ở ĐBSCL tăng thêm là chuyển từ đất lúa kém hiệu quả. Từ đầu năm đến nay, ĐBSCL có 73.530ha đất lúa chuyển đổi sang cây trồng khác, chủ yếu là cây ăn trái. Hiện nay cả nước có khoảng 1,13 triệu ha cây ăn trái, riêng ĐBSCL có 377.700ha, chiếm 1/3 diện tích. Cây ăn trái ở ĐBSCL đa dạng, mùa nào cũng có thu hoạch; trong đó, các đối tượng cây trồng chủ lực như sầu riêng, thanh long, xoài, chôm chôm, nhãn, bưởi, cam, mít, chuối, chanh… được nông dân đẩy mạnh đầu tư sản xuất và đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn.
Theo Bộ NN-PTNT, trong 10 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông sản chính đạt trên 18,8 tỷ USD, tăng 7,2%. Có 8 sản phẩm/nhóm sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD, trong đó riêng nhóm hàng trái cây đạt gần 2,8 tỷ USD. |
Th1123
Ứng dụng công nghệ cao trồng măng tây xanh
Nguồn tin: báo nông nghiệp
NINH THUẬN Do hội tụ nhiều thành phần dinh dưỡng, nên cây măng tây xanh được giới ẩm thực gọi là “rau vua”. Măng tây còn là cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Để cây măng tây xanh phát triển trên vùng đất Nam Trung bộ theo hướng bền vững, Viện nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố (Viện Nha Hố) đã xây dựng mô hình trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao tại 2 tỉnh Ninh Thuận và Khánh Hòa với diện tích 5ha.
Mô hình trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao của Viện Nha Hố đem lại hiệu quả kinh tế vượt trội. Ảnh: Minh Hậu.
Từ tháng 8/2018 đến tháng 12/2020, các mô hình trồng thử nghiệm để hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao tại khu vực Nam Trung bộ đã được triển khai. Theo đó, đã xác định bộ giống măng tây xanh năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện sản xuất trong khu vực. Bên cạnh đó, xác định loại phân hữu cơ sản xuất trong nước phù hợp cho trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao, xác định liều lượng bón và thời kỳ bón phân phù hợp, kết hợp kỹ thuật tưới nước nhỏ giọt tự động trên ruộng măng tây xanh.
Song song đó, xác định các biện pháp kỹ thuật giữ ẩm đất cho trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao trên vùng đất thành phần cơ giới nhẹ; kỹ thuật cắt ngọn và tỉa chồi thay thế cây mẹ phù hợp cho trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao giai đoạn kinh doanh, kỹ thuật quản lý dịch hại trên đồng măng tây.
Ngoài ra, Viện Nha Hố cũng đã hoàn thiện quy trình kỹ thuật thu hái và bảo quản măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao cho vùng Nam Trung bộ. Qua đó, xác định thời gian thu hoạch măng tây xanh thương phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm, năng suất và chất lượng măng cao nhất; các loại màng để bảo quản măng tây xanh thương phẩm thích hợp.
Sau khi hoàn thiện quy trình, trong năm 2019 và 2020, Viện Nha Hố đã mở 6 lớp tập huấn kỹ thuật tại huyện Ninh Sơn, huyện Ninh Phước, TP Phan Rang – Tháp Chàm (Ninh Thuận) và HTX Măng tây Ninh Hoà (Khánh Hoà). Thông qua các lớp đào tạo, tập huấn, nông dân được chuyển giao quy trình trồng và chăm sóc cây măng tây ứng dụng công nghệ cao, đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Trong năm 2020, Viện còn mở thêm 2 lớp đào tạo tại xã Nhơn Sơn (huyện Ninh Sơn) và phường Mỹ Hải (TP Phan Rang – Tháp Chàm) về áp dụng VietGAP cho cây măng tây. Qua đó, nông dân được đào tạo sản xuất cây măng tây theo VietGAP, các biểu mẫu và cách ghi chép, lưu giữ các thông tin trong quá trình sản xuất măng tây.
Theo TS Mai văn Hào, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố, áp dụng quy trình sản xuất cây giống măng tây xanh nhân bằng hạt mới giúp giảm chi phí đầu tư cho giống khoảng 50%, từ đó góp phần phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, thu nhập cho người dân địa phương.
Áp dụng quy trình canh tác, thu hái và bảo quản măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao giúp tiết kiệm phân bón, tiết kiệm nước tưới, phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu tại khu vực Nam Trung bộ. Đồng thời, hạn chế dùng thuốc BVTV có độ độc cao, góp phần bảo vệ nguồn thiên địch, giảm độc hại đối với người sản xuất và người tiêu dùng, giảm ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, quy trình thu hái và bảo quản măng tây thích hợp giúp tăng thời gian bảo quản, góp phần tăng tính chủ động về sản phẩm măng tây xanh phục vụ thị trường, tạo điều kiện phát triển sản xuất măng tây xanh ngày càng ổn định, có hiệu quả.
“Kết quả triển khai dự án sẽ là tiền đề định hướng phát triển vùng trồng măng tây xanh trong những năm tới trên địa bàn các tỉnh khu vực Nam Trung bộ. Đồng thời, giúp người dân tiếp thu và ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển vùng chuyên canh trồng măng tây xanh, giải quyết lao động, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người dân”, TS Mai Văn Hào chia sẻ.
Trong hơn 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã sản xuất trên 330.000 cây giống măng tây xanh cung cấp cho trồng thử nghiệm và sản xuất. Từ đó, người trồng măng tây đã sản xuất và cung ứng cho thị trường trên 120 tấn măng tây thương phẩm.
Từ kết quả nghiên cứu, hiện nay, để giảm giá thành sản xuất trong bối cảnh thiếu nhân công lao động, Viện Nha Hố đang tiếp tục triển khai mô hình nghiên cứu sản xuất măng tây xanh bón phân qua hệ thống tưới nước tiết kiệm, đồng thời dùng nguồn điện mặt trời để vận hành máy bơm. Bên cạnh đó, để giải quyết cỏ dại và giữ ẩm cho đất trồng măng tây xanh, Viện đã dùng nilon phủ hai bên luống…
Th1122
Mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím xuất khẩu
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Trái vú sữa tím của tỉnh Sóc Trăng không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn ở cả một số thị trường trên thế giới. Loại trái cây đặc sản này đầu tiên được xuất khẩu sang thị trường Mỹ vào năm 2018. Phát huy những thành quả đạt được, người dân một số địa phương trên địa bàn huyện Kế Sách (Sóc Trăng) đang mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím, đặc biệt là giống vú sữa tím tứ quý (cho trái quanh năm) nhằm đảm bảo sản lượng cung cấp cho thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu.
Ông Nguyễn Văn Thắng (bìa trái), xã Trinh Phú, huyện Kế Sách (Sóc Trăng) bên vườn vú sữa tím của gia đình đang vào giai đoạn bao trái. Ảnh: THÚY LIỄU
Để tìm hiểu thực tế việc nhà vườn mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím, chúng tôi đến tham quan vườn vú sữa của ông Nguyễn Văn Thắng, xã Trinh Phú, huyện Kế Sách, đúng lúc ông Thắng đang ngoài vườn bao trái vú sữa, nhằm bảo vệ trái không bị sinh vật gây hại tấn công. Ông Nguyễn Văn Thắng bộc bạch: “Tôi trồng 1ha vú sữa tím, tính đến nay vú sữa đã 8 năm tuổi, sản lượng trái thu về ước 20 tấn/năm, trừ hết các khoản chi phí cho lợi nhuận trên 200 triệu đồng/năm. Nếu so với các loại cây trồng khác thì trong những năm gần đây, trái vú sữa tím đem lại giá trị kinh tế tốt hơn, bởi nhà vườn áp dụng sản xuất trái theo quy trình VietGAP, giảm chi phí sản xuất và trái vú sữa “sạch” được doanh nghiệp thu mua xuất khẩu, nâng cao giá trị trái vú sữa, tăng thu nhập cho nhà vườn”.
Cũng là hộ dân canh tác vú sữa tím nhưng ông Trần Hữu Thắng, xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách chọn trồng cây vú sữa tím tứ quý. Hiện tại, diện tích vườn vú sữa tím 0,5ha của ông Thắng đã có 0,2ha đang giai đoạn cho trái, sản lượng trái thu về khoảng 14 tấn/năm, trừ chi phí lợi nhuận hơn 200 triệu đồng/năm. Ông Hữu Thắng chia sẻ: “Tôi trồng cây vú sữa tím tứ quý, bởi đây là loại cây cho trái quanh năm, đảm bảo nguồn thu nhập thường xuyên tại gia đình. Cùng với đó, trái vú sữa tím có nhiều đặc tính tốt như: trái không còn mủ khi chín, trái vú sữa có kích cỡ lớn, màu sắc đẹp và cây chống chịu độ mặn trong ngưỡng 3‰. Dự kiến hơn 1 năm nữa, vườn vú sữa 0,5ha của gia đình tôi sẽ cho trái đồng loạt, khi đó thu nhập từ vườn cây sẽ tăng lên gấp nhiều lần so với thời điểm hiện tại”.
Cách vườn vú sữa tím tứ quý của ông Hữu Thắng không xa là vườn vú sữa tím tứ quý của anh Trần Anh Văn, xã Nhơn Mỹ. Ông Anh Văn có vườn vú sữa tím tứ quý 1,6ha, đã cho trái hơn 2 năm qua. Ông Anh Văn chia sẻ: “Tôi chọn trồng vú sữa tím tứ quý, bởi đây là loại cây dễ trồng, nhẹ công chăm sóc, trái có giá trị kinh tế cao, cây cho trái quanh năm. Toàn bộ diện tích vườn trồng vú sữa tím trước đây là vườn nhãn tiêu da bò kém hiệu quả, tôi mạnh dạn cải tạo lại trồng vú sữa tím. Hiện tại, vườn cây vú sữa tím cho sản lượng trái ước 40 tấn/năm, được doanh nghiệp bao tiêu đầu ra, với giá 30.000 – 40.000 đồng/kg (tùy vào thời điểm thuận mùa và nghịch mùa). Sản lượng trái vú sữa như trên đem về thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Tôi dự định sẽ tiếp tục đầu tư mua thêm 2ha đất mở rộng diện tích trồng vú sữa tím tứ quý trong thời gian tới, nhằm cung ứng trái vú sữa tím phục vụ thị trường xuất khẩu”.
Thông tin cùng chúng tôi, ông Trần Anh Nhân – Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và Du lịch cộng đồng Mỹ Phước, xã Nhơn Mỹ cho biết: “Hợp tác xã có diện tích trồng vú sữa tím tứ quý hơn 30ha, trong đó có hơn 10ha đang cho trái và đã được cấp mã vùng trồng. Theo đó, trái vú sữa tím của hợp tác xã được doanh nghiệp ký kết hợp đồng thu mua quanh năm, với số lượng cung cấp từ 5 tấn – 10 tấn/tuần. Hiện tại, hợp tác xã đang tiếp tục mở rộng thêm thành viên tham gia vào hợp tác xã, nhằm tăng diện tích vú sữa trong hợp tác xã cũng như tăng sản lượng trái vú sữa cung ứng trên thị trường. Bên cạnh đó, thành viên trong hợp tác xã đang tiếp tục mở rộng diện tích trồng vú sữa tím, hứa hẹn thời gian tới sẽ hình thành vùng trồng vú sữa tím tứ quý lớn, cùng phương thức canh tác đáp ứng tốt thị trường xuất khẩu”.
Đồng chí Nguyễn Thành Phước – Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Sóc Trăng cho biết: “Diện tích vú sữa trên địa bàn tỉnh hơn 1.900ha, tập trung chủ yếu trên địa bàn huyện Kế Sách, với nhiều giống vú sữa, như: vú sữa lò rèn, vú sữa bơ hồng, vú sữa tím tứ quý… Với tiềm năng, lợi thế trong việc sản xuất trái vú sữa, đặc biệt là trái vú sữa tím xuất khẩu, bà con cần áp dụng kỹ thuật canh tác rải vụ cho trái vú sữa theo sự hướng dẫn của ngành chuyên môn. Vú sữa tím tứ quý là cây trồng quý vì cho trái quanh năm (một số giống vú sữa khác chỉ cho trái trong một khoảng thời gian), đáp ứng tốt thị trường trong nước và xuất khẩu. Vì vậy, bà con nông dân cần phát triển trồng vú sữa tím tứ quý, bởi đây là sản phẩm trái cây tiềm năng, phục vụ tốt cho thị trường xuất khẩu”.
THÚY LIỄU
Th1118
Tiền Giang: Nâng sức cạnh tranh cho trái sầu riêng xuất khẩu
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Hiện nay, tỉnh Tiền Giang đã mở rộng diện tích vùng chuyên canh sầu riêng xuất khẩu lên 16.890 ha, tập trung tại các huyện, thị vùng kiểm soát lũ phía Tây: Huyện Cai Lậy, huyện Cái Bè, huyện Tân Phước và thị xã Cai Lậy. Trong đó, có trên 11.000 ha cho thu hoạch với năng suất bình quân trên 28 tấn/ha và sản lượng trên 312.000 tấn trái cung ứng thị trường trong và ngoài nước.
*Vùng chuyên canh sầu riêng mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội to lớn
Sầu riêng mang lại hiệu quả kinh tế cao, là nguồn nông sản hàng hóa giá trị xuất khẩu lớn, có lợi thế cạnh tranh của tỉnh. Qua khảo sát, 70% – 80% sản lượng sầu riêng được xuất khẩu, chủ yếu là thị trường Trung Quốc. Trong đó, có khoảng 20% sản phẩm được chế biến trước khi xuất khẩu. Với giá bán từ 60.000 đồng/kg trở lên, mỗi ha sầu riêng hiện cho lợi nhuận hàng tỷ đồng, cao nhất trong các loại cây ăn trái đặc sản của tỉnh.
Toàn vùng hình thành được 15 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp kiểu mới, thu hút gần 16.000 thành viên đang tích cực phát huy vai trò tập hợp nông dân, liên kết sản xuất, giải quyết đầu vào và đầu ra cho nông sản hàng hóa. Qua đó, tạo việc làm cho khoảng 02 vạn lao động nông nghiệp địa bàn vùng kiểm soát lũ.
Hợp tác xã chuyên canh sầu riêng Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy) đi đầu trong liên kết chuỗi giá trị. Theo ông Huỳnh Tấn Lộc, Giám đốc Hợp tác xã, trong nước, Hợp tác xã xây dựng chuỗi cung ứng sầu riêng cho các siêu thị Co.opmart, các chợ đầu mối, cửa hàng thực phẩm sạch. Ngoài nước thì liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản có uy tín như: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phạm Gia (Tiền Giang), Công ty Cổ phần AMEII Việt Nam – Hà Nội chuyên xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,… Nhờ vậy, hợp tác xã luôn tiêu thụ sầu riêng cho nông dân với giá cao hơn thị trường bên ngoài từ 10% – 15%.
Xã Tam Bình (huyện Cai Lậy) nhờ tiên phong xây dựng vùng chuyên canh sầu riêng hiệu quả cao được công nhận xã đầu tiên của tỉnh đạt chuẩn và ra mắt xã nông thôn mới vào năm 2015. Thị xã Cai Lậy có gần 6.500 ha vườn cây ăn trái, chủ yếu chuyên canh sầu riêng được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới vào năm 2020. Huyện Cai Lậy với hàng chục ngàn ha sầu riêng chuyên canh đang phấn đấu đến cuối năm 2022 đạt chuẩn và ra mắt huyện nông thôn mới… là minh chứng hiệu quả kinh tế – xã hội mà vùng chuyên canh sầu riêng mang lại cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân những địa bàn khó khăn trước đây phía đầu nguồn sông Tiền của tỉnh Tiền Giang.
*Nhiều giải pháp nâng sức cạnh tranh cho cây trồng đặc sản
Giai đoạn 2022 – 2025, địa phương giữ ổn định diện tích hiện có cùng với tập trung ứng dụng khoa học – công nghệ, khuyến khích nông dân thâm canh theo hướng VietGAP, GlobalGAP; tổ chức lại sản xuất… gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, thích ứng biến đổi khí hậu, nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của trái sầu riêng đặc sản trên thị trường cũng như an toàn, truy xuất nguồn gốc, bảo vệ môi trường sinh thái. Qua đó, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội và phát triển bền vững cho vùng chuyên canh sầu riêng.
Đến năm 2025, sản lượng khoảng 360.000 tấn trái, có 25% diện tích được công nhận an toàn (VietGAP, GlobalGAP), 50% diện tích được cấp mã số vùng trồng và tỷ lệ sầu riêng xuất khẩu chiếm 70% – 80% sản lượng.
Tỉnh đưa ra các nhóm giải pháp về hỗ trợ phát triển sản xuất; chú trọng chuyển giao khoa học – kỹ thuật giúp giảm chi phí đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu; xây dựng và phát triển hệ thống dịch vụ sản xuất và tiêu thụ sầu riêng gắn với xúc tiến thương mại và phát triển thị trường…
Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang hướng dẫn nông dân về kỹ thuật trồng sầu riêng an toàn VietGAP hoặc GlobalGAP, kỹ thuật ủ phân hữu cơ bón cho cây trồng, kỹ thuật tỉa cành, tạo tán, xử lý ra hoa rải vụ, tưới phun sương tự động tiết kiệm nước,…
Hiện nay, ước tính có 96,3% diện tích sầu riêng được cơ giới hóa khâu tưới nước, tăng gần 26% so thời điểm cách đây 05 năm (2017); diện tích sử dụng phân hữu cơ đạt trên 91%, sử dụng nấm Trichoderma.sp trong quá trình chăm sóc đạt gần 66%, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật gốc sinh học chiếm 67,5% diện tích… Hàng năm, có gần 6.800 ha sầu riêng áp dụng kỹ thuật xử lý rải vụ theo ý muốn (sản xuất vụ nghịch) cho năng suất cao hơn và bán được giá, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn vườn cây chính vụ từ 1,7 – 2,3 lần.
Toàn vùng cũng có gần 200 ha và sản lượng mỗi năm gần 6.000 tấn trái đạt tiêu chí VietGAP. Bộ Khoa học và Công nghệ đã cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Cai Lậy” cho Hội Làm vườn huyện Cai Lậy – địa phương có vùng chuyên canh sầu riêng lớn nhất tỉnh, mở ra một tương lai mới cho sự phát triển bền vững của cây ăn trái đặc sản đang giúp nông thôn vùng lũ Tiền Giang giàu đẹp hẳn lên.
Xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, mở rộng thị trường xuất khẩu được đẩy mạnh, tháo gỡ điểm nghẽn về đầu ra cho vùng chuyên canh sầu riêng. Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang… tích cực kết nối cung cầu, tìm kiếm và mở rộng thị trường cho trái sầu riêng thông qua các kênh phân phối lớn như: Các siêu thị, trung tâm thương mại (BigC, Co.opmart, Bách Hóa Xanh…), Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines). Tỉnh quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã chuyên canh sầu riêng dự, tìm kiếm cơ hội làm ăn tại các Hội chợ kết nối cung – cầu hàng hóa; phối hợp Cục Xúc tiến thương mại, Hiệp hội Rau quả Việt Nam hỗ trợ các doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia các Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia và quốc tế nhằm quảng bá, giới thiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ trái sầu riêng.
Đồng thời, nắm bắt thời cơ khi trái sầu riêng được chấp nhận xuất chính ngạch sang thị trường Trung Quốc và các thị trường khó tính khác trên thế giới. Để được xuất chính ngạch, toàn vùng đã được cấp 02 mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích gần 100 ha. Tỉnh đang tiếp tục nộp hồ sơ, chờ thẩm định trong những ngày tới 21 hồ sơ với khoảng 1.100 ha, ước sản khoảng 30.000 tấn trái.
Đáng mừng là tín hiệu vui từ việc xuất khẩu chính ngạch giúp giá sầu riêng niên vụ 2022 – 2023 tăng mạnh. Hiện thương lái thu mua tận vườn sầu riêng đầu vụ từ 75.000 – 80.000 đồng/kg, với giá này mỗi ha nông dân thu lãi ròng trên 01 tỷ đồng.
Tỉnh triển khai dự án “Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sầu riêng tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030”, nhằm nâng cao giá trị trái sầu riêng thông qua hình thành chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ, áp dụng khoa học – công nghệ, gắn kết sản xuất và kinh doanh, ứng dụng công nghệ xử lý sau thu hoạch, chế biến sâu và giảm tổn thất sau thu hoạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Mặt khác, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kỹ năng thương mại cho các hợp tác xã; hình thành phương thức sản xuất – tiêu thụ mới thông qua hợp đồng, nhân rộng mô hình Hợp tác xã sầu riêng Ngũ Hiệp… Từ đó, nâng cao thu nhập cho nông dân vùng chuyên canh và các đối tượng tham gia chuỗi liên kết; thực hiện thắng lợi mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp địa bàn kiểm soát lũ phía Tây theo hướng định hình nền nông nghiệp phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai và nông dân làm giàu.
Mộng Tuyết
Th1116
Sầu riêng nghịch vụ hiệu quả gấp đôi
nguồn tin Báo nông nghiệp
TIỀN GIANG Sầu riêng nghịch vụ có giá bán cao hơn từ 20 – 40 nghìn đồng so với chính vụ, cho hiệu quả kinh tế tăng gấp đôi so với chính vụ.
Sầu riêng nghịch vụ hiệu quả cao hơn từ 1,7 lần
Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, tỉnh hiện có khoảng 17.000ha cây sầu riêng. Trong đó khoảng 10.000ha cây đang trong thời kỳ kinh doanh, năng suất bình quân 28 tấn/ha. Thời gian qua, nông dân đã vận dụng kỹ thuật canh tác sầu riêng nghịch vụ nhằm rải vụ, mang lại hiệu quả rất cao.
Từ năm 2018 đến nay, trung bình diện tích rải vụ khoảng 6.787ha/năm, năng suất đạt từ 18 – 20 tấn/ha. Chênh lệch năng suất giữa xử lý rải vụ so với vụ thuận từ 0,5 – 2 tấn/ha; giá bán dao động từ 60.000 – 95.000 đồng/kg, chênh lệch giá bán tăng từ 20.000 – 40.000 đồng/kg. Sản xuất rải vụ thu hoạch nghịch vụ cho hiệu quả kinh tế cao hơn chính vụ trung bình từ 1,7 – 2,3 lần.
Hơn một tháng qua, giá trái sầu riêng nghịch vụ tại Tiền Giang ổn định từ 70.000 đồng/kg trở lên. Ảnh: Trọng Linh.
Hơn một tháng nay, trái sầu riêng nghịch vụ được các thương lái thu mua xô tại vườn với giá cao và ổn định, từ 70.000 đồng đến hơn 80.000 đồng/kg. Với mức giá ổn định như hiện nay, mỗi ha cây sầu riêng, nhà vườn có thu nhập khoảng 1 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, sản lượng thấp, nhất là sầu riêng đạt chuẩn để xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc vẫn không đủ số lượng để cung ứng cho đối tác. Bởi để trái sầu riêng được chấp nhận xuất chính ngạch sang thị trường Trung Quốc cần có mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói. Thời điểm này, tỉnh Tiền Giang mới có 2 mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích gần 100ha. Cơ quan chức năng cho biết đang tiếp tục nộp hồ sơ, chờ thẩm định trong những ngày tới 21 hồ sơ với diện tích khoảng 1.100ha, ước sản khoảng 30.000 tấn trái.
Ông Dương Trần Trọng Quang, Chủ tịch UBND xã Hội Xuân, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, địa phương có 600ha cây sầu riêng chuyên canh chia sẻ: Thời điểm này, đầu ra của trái sầu riêng rất ổn định, cung không đủ cầu. Ông Quang cũng cho biết hiện chỉ mới có khoảng ¼ diện tích sầu riêng nông dân xử lý bắt đầu có trái. Đến cuối tháng 11 (âm lịch), sầu riêng mới chín rộ, bà con rất phấn khởi.
Áp dụng đồng bộ kỹ thuật theo hướng hữu cơ
Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, công tác chuyển giao khoa học, kỹ thuật cho nông dân ứng dụng vào sản xuất là một trong những giải pháp làm giảm chi phí đầu tư, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm sầu riêng. Ngành NN-PTNT đã tổ chức nhiều lớp hướng dẫn cho nông dân về kỹ thuật trồng sầu riêng theo hướng an toàn, với các kỹ thuật phổ biến như ủ phân hữu cơ để bón sầu riêng, tạo tán, tỉa cành, xử lý ra hoa trái vụ, phủ bạt trong sản xuất, tưới phun sương.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các chế phẩm sinh học để xử lý phân chuồng, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, nấm Trichoderma sp. và các phế phụ phẩm trong sản xuất sầu riêng là những tiến bộ giúp bà con kiểm soát các loại nấm hại rễ, góp phần tạo nên cây sầu riêng khỏe, đạt năng suất cao và tiết kiệm chi phí. Đến nay, diện tích sử dụng phân bón hữu cơ đạt trên 90% diện tích; sử dụng nấm Trichoderma sp. chiếm gần 66%; sử dụng thuốc BVTV sinh học chiếm trên 68% diện tích sầu riêng trong vùng Đề án phát triển cây sầu riêng của tỉnh.
Ngoài ra, cơ giới hóa trong tưới nước được ứng dụng vào sản xuất sầu riêng ngày càng tăng, giúp tiết kiệm chi phí, gia tăng lợi nhuận cho nông dân. Đến cuối năm 2021, ước tính có trên 96% diện tích áp dụng cơ giới hóa trong tưới nước, tăng gần 26% so với năm 2017.
Thời gian tới, nhằm nâng cao giá trị trái sầu riêng, Sở NN-PTNT Tiền Giang cho biết: Tỉnh đã và đang triển khai dự án “Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sầu riêng tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030”. Qua đó hình thành chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ, áp dụng khoa học công nghệ, gắn kết sản xuất và kinh doanh, ứng dụng công nghệ xử lý sau thu hoạch, chế biến sâu và giảm tổn thất sau thu hoạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Th1114
Hành trình ‘cam Sài Gòn’ bén duyên đất Nam Đông
nguồn tin: Báo nông nghiệp
THỪA THIÊN – HUẾ Bây giờ, ‘cam Sài Gòn’ đã trở thành giống cây trồng chủ lực ở huyện miền núi Nam Đông. Nhưng ít ai biết, để có thành quả hôm nay là cả một chặng đường dài…
Cách đây hơn 40 năm, vùng núi rừng Nam Đông (Thừa Thiên – Huế) là điểm dừng chân của những hộ dân thuộc diện khó khăn sinh sống ở vùng ven đầm phá Cầu Hai (huyện Phú Lộc) và TP Huế di dân đến lập vùng kinh tế mới.
Tại huyện miền núi Nam Đông, vào thời điểm đó, những người đi xây dựng kinh tế mới không chỉ vượt qua khó khăn, phát triển kinh tế gia đình mà còn cùng với địa phương góp phần thay đổi diện mạo vùng đất này, trong số đó có gia đình ông Phan Văn Lâm trú ở xã Hương Xuân, huyện Nam Đông.
Năm nay, người trồng “cam Sài Gòn” ở huyện Nam Đông có một vụ mùa bội thu. Ảnh: Võ Dũng.
Đứng bên vườn “cam Sài Gòn” tiền tỷ rộng 4ha đang vào mùa thu hoạch, ông Lâm tự hào khoe đó là thành quả tích lũy suốt hơn 30 năm quyết tâm làm kinh tế mới của gia đình. Nhiều năm tích góp, đến nay, ông Lâm đã giải quyết được hầu hết các vấn đề kinh tế của gia đình, con cái được học hành, có công việc ổn định và đều có nhà, đất sản xuất. Điều mà theo nhiều người nếu không quyết tâm bám trụ làm kinh tế thì không thể có được.
Ông Lâm chia sẻ, lúc mới cùng gia đình lên định cư làm kinh tế mới ở Nam Đông muỗi nhiều vô kể. Nước cũng không có uống, gia đình ông phải đi tìm suối rất xa để lấy nước về sử dụng và phải dùng tiết kiệm. Đời sống khó khăn và sốt rét rừng khiến nhiều người chịu không nổi phải bỏ về quê. Tuy nhiên, cả nhà ông Lâm động viên nhau, cố gắng vượt khó, bám trụ lại để xây dựng đời sống mới.
Ông Lâm kể, nhiều người đã thắc mắc với ông tại sao cam trồng trên vùng đất Nam Đông lại có tên riêng “cam Sài Gòn” mà không phải tên khác. Đó là vào năm 1980, khi mới lên vùng đất Nam Đông lập nghiệp, bà con lúc đầu chỉ biết trồng mít, dứa, cây cau… Những năm sau, nhà nào có người vào Nam làm ăn cứ đến mỗi dịp lễ Tết về thăm quê đều đem một vài cây cam về tặng.
Vào vụ thu hoạch, người đi hái cam thuê cho các chủ vườn ở huyện Nam Đông có thu nhập từ 250.000 đến 300.000 nghìn đồng/ngày công. Ảnh: Võ Dũng.
Nhận thấy cây cam dễ trồng, thích hợp thổ dưỡng, lại cho quả ngọt và có mùi thơm rất đặc biệt nên người dân ở địa phương thay nhau trồng trên rẫy, vườn, rồi chiết cành, nhân giống, sau đó cam được trồng khắp tất cả các xã trong huyện miền núi Nam Đông. Cũng từ đó, bà con gọi giống cam đó là “cam Sài Gòn” cho đến tận hôm nay.
“Lúc đầu nhiều người chưa quen, bây giờ nhà vườn nào trồng cam ở huyện Nam Đông điều gọi giống cam địa phương là “cam Sài Gòn” để phân biệt với các loại cam khác có nguồn gốc từ xã Đoài (cam Vinh) hay cam Cao Phong”, ông Phan Văn Lâm giải thích cặn kẽ.
Còn với ông Phan Thế Xê, 61 tuổi, trú thôn 9 xã Hương Hòa (huyện Nam Đông), chính nhờ giữ giống “cam Sài Gòn” mà đến nay ông được các chủ vườn đặt cho biệt danh “tỷ phú cam”. Hơn 30 năm, ký ức của những ngày đầu theo gia đình lên vùng đất mới lập nghiệp vẫn còn vẹn nguyên.
5 năm đầu khi bắt tay vào khai hoang là quãng thời gian khó khăn bộn bề đối với gia đình ông Xê. Giải quyết xong vấn đề sốt rét thì việc trồng cây lương thực ngắn ngày không còn cho năng suất. Cái đói, nghèo luôn hiện hữu, bệnh tật rình rập, nhiều lúc ông muốn buông xuôi để trở về quê cũ. Tuy nhiên, sự động viên, chia sẻ của những người cùng chí hướng và với quyết tâm chiến thắng đói nghèo, đến nay, gia đình ông Xê đã có hơn 7ha cam, trong đó chủ yếu vẫn là giống “cam Sài Gòn” đặc trưng.
“Cam Sài Gòn” đã giúp nhiều người dân Thừa Thiên – Huế đổi đời trên quê hương mới. Ảnh: Võ Dũng.
Ông Phan Thế Xê nhớ lại: Hồi đó bà con trồng theo phong trào. Ông cũng vậy, cho nên năm 2005, ông bắt đầu trồng giống cam địa phương mà người dân ở đây vẫn quen gọi là cam Sài Gòn. Vụ đầu, ông trồng 300 gốc, vụ bói thu được 25 triệu đồng. Thời điểm đó, với vợ chồng ông 25 triệu đồng là rất lớn, có ngủ mơ cũng không thấy được.
Thắng lợi, ông mạnh dạn đầu tư thêm. Đến mùa “cam Sài Gòn” đơm hoa, cả gia đình mừng, hoa cam trắng cây, tưởng sẽ được mùa lớn, nhưng chẳng may năm đó thời tiết không thuận, trời mưa to, cam hỏng hết, nhà ông chặt bỏ cây, ôm một món nợ. Nhiều anh em kỹ sư thấy ông buồn, mới dành thời gian để chia sẻ. Nghe chuyện của ông, anh em đã tìm hiểu, chỉ nguyên nhân của sự thất bại. Không ngại khó, ông chuyển sang trồng cam trái vụ. Dành hết vốn liếng, cộng thêm số tiền vay mượn từ người thân, vợ chồng ông mua 4ha đất đồi để trồng thử. Chưa yên tâm, ông mua hẳn một dàn máy vi tính, nối mạng, mày mò học thêm kỹ thuật chăm sóc… Sau 3 năm “ăn cam, ngủ cam”, ông đã bán được lứa cam bói đầu tiên. Năm tiếp theo, thương lái đã bắt đầu tìm đến vườn.
Số tiền bán cam được ông quay vòng, tái đầu tư nên đến nay, gia đình ông đã có hơn 1.000 gốc cam. Vụ cam đầu tiên năm 2015, ông thu hoạch được 48 tấn, trung bình 1,2 tạ/cây, giá bán từ 18 đến 25 nghìn đồng/kg, doanh thu đạt khoảng một tỷ đồng.
Th1109
‘Điểm danh’ 7 loại cây ăn trái chủ lực trong kế hoạch phát triển ngắn hạn
Nguồn tin : Báo nông nghiệp
Tỉnh Vĩnh Long “điểm danh” 7 loại cây ăn trái chủ lực sẽ được chú trọng phát triển, xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc trong thời gian tới.
Mới đây, Bộ NN-PTNT đã ban hành Quyết định 4085/QĐ-BNN-TT về việc phê duyệt Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030. Theo đề án này, tỉnh Vĩnh Long được xác định là một trong những địa phương phát triển 7 loại cây ăn trái chủ lực, gồm: Xoài, nhãn, cam, bưởi, chôm chôm, sầu riêng, mít, để cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tỉnh Vĩnh Long đã xây dựng thành công thương hiệu riêng “Bưởi năm roi Mỹ Hòa”. Ảnh: Kim Anh.
Theo Sở NN-PTNT tỉnh Vĩnh Long, toàn tỉnh hiện có trên 62.000 ha diện tích trồng cây ăn trái, so với cách đây 5 năm diện tích này tăng lên đáng kể. Trong đó, mặt hàng bưởi năm roi, sầu riêng đang tạo nên thế mạnh xuất khẩu tương đối tốt cho tỉnh. Để triển khai có hiệu quả Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030, UBND tỉnh Vĩnh Long đã giao Sở NN-PTNT tỉnh phối hợp với các địa phương triển khai thực hiện.
Đối với bưởi năm roi của tỉnh Vĩnh Long đã quá nổi tiếng, được trồng nhiều tại các vùng ven sông Hậu như: TX Bình Minh, huyện Tam Bình, Trà Ôn và Bình Tân. Hiện nay, mặt hàng này đã xây dựng được mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói và có thương hiệu riêng “Bưởi năm roi Mỹ Hòa”. Bên cạnh đó, địa phương có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh làm cầu nối để trực tiếp đưa mặt hàng bưởi năm roi tỉnh Vĩnh Long xuất khẩu đến nhiều quốc gia.
Tuy nhiên, do thời gian canh tác lâu năm, các giống bưởi có phần suy yếu, gây ảnh hưởng đến chất lượng trái bưởi. Chi Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Long hiện đang thực hiện công tác cải tạo, phục tráng lại giống bưởi. Đồng thời, đơn vị cũng tập trung cải tạo, nâng cao độ phì nhiêu, khử các mầm bệnh trong đất. Cũng như thực hiện một số mô hình cải thiện chất lượng đất trồng thông qua việc sử dụng phân hữu cơ, nấm đối kháng để sử dụng trong đất.
Với cây sầu riêng, ngành nông nghiệp tỉnh xác định, công tác xây dựng mã số vùng trồng đáp ứng điều kiện xuất khẩu chính ngạch là việc cần thiết. Ông Nguyễn Vĩnh Phúc, Chi Cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Long cho hay, kể từ thời điểm sầu riêng trở thành mặt hàng xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc, đã có nhiều doanh nghiệp tìm đến tỉnh Vĩnh Long để đặt vấn đề liên kết tiêu thụ, hỗ trợ xây dựng mã số vùng trồng.
Ông Phúc thông tin thêm, trong giữa tháng 11, sẽ có một cuộc hội thảo triển khai quy trình xây dựng mã số vùng trồng sầu riêng. Thông qua đó, các doanh nghiệp sẽ trực tiếp trao đổi với nông dân về việc tạo vùng nguyên liệu chính trong mã số vùng trồng, tập trung chủ yếu ở các huyện: Vũng Liêm, Mang Thít, Trà Ôn, Tam Bình và Bình Tân.
Cây cam cũng vươn lên trở thành mặt hàng cây ăn trái thế mạnh của tỉnh Vĩnh Long, với tổng diện tích canh tác trên 10.000 ha. Ảnh: Kim Anh.
Thời gian gần đây, cây cam cũng vươn lên trở thành mặt hàng cây ăn trái thế mạnh của tỉnh Vĩnh Long, với tổng diện tích canh tác trên 10.000 ha. Ông Phúc đánh giá, đây là cây trồng có tốc độ tăng cao nhất so với các loại cây trồng khác của tỉnh. Cùng với đó thì năng suất và sản lượng cũng tăng mạnh, phát triển nhiều nhất ở các huyện Trà Ôn, Tam Bình và Vũng Liêm. Để cây cam mang lại lợi nhuận bền cho bà con nông dân, ông Phúc cho hay, ngành nông nghiệp tỉnh hiện đang triển khai thí điểm một số mô hình chuyển giao sản xuất theo hướng GAP, hữu cơ, với sự đồng hành của doanh nghiệp, nông dân đã có khuynh hướng trồng cam thưa, đảm bảo tăng thời gian khai thác của cây cam.
Sau thời gian cây khoai lang gặp khó khăn về tiêu thụ, một số nông dân trên địa bàn huyện Bình Tân đã chuyển sang phát triển cây mít. Để mặt hàng này thoát ra khỏi tình trạng mất giá, khó khăn đầu ra, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh đang xây dựng kế hoạch tạo vùng nguyên liệu chính thống, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng, cũng như nghiên cứu một số giải pháp phòng trị bệnh xơ đen của cây mít để triển khai cho bà con nông dân.
Ngành nông nghiệp tỉnh sẽ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ và doanh nghiệp triển khai quản lý truy xuất nguồn gốc và tiêu thụ cây ăn trái chủ lực của tỉnh. Ảnh: Kim Anh.
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, hiện đang có doanh nghiệp Đông Phát Food hoạt động trong lĩnh vực chế biến mít sấy. Do đó, ngoài việc xuất khẩu tươi phục vụ cho thị trường Trung Quốc, trái mít cũng như các sản phẩm phụ của cây mít có thể tận dụng cung cấp cho nhà máy chế biến. Đặc biệt, khoảng 50% sản lượng mít trên địa bàn tỉnh đều được doanh nghiệp này thu mua.
“Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp tỉnh sẽ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ triển khai quản lý truy xuất nguồn gốc cũng như phối hợp với các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ có mã số vùng trồng. Chủ trương của ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long là mã số vùng trồng là tài sản của người dân. Vì vậy, bà con phải sử dụng và bảo vệ tài sản của mình. Qua đó, người dân sẽ ý thức hơn trong việc xây dựng mã số vùng trồng để đáp ứng thị trường, tránh đi những rủi ro trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm”, ông Nguyễn Vĩnh Phúc chia sẻ.
Tuy chưa phải là cây trồng chủ lực, thế nhưng cây dứa hiện đang manh nha phát triển ở vùng đất phèn huyện Trà Ôn với diện tích khoảng 5ha, làm nguyên liệu cho nhà máy chế biến xuất khẩu. Ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long đang xem xét đưa cây dứa vào định hướng phát triển vùng cây cây ăn trái, đăng ký nhãn hiệu và xây dựng thương hiệu cho cây dứa Bưng Sẩm ở xã Hòa Bình, huyện Trà Ôn.
Th1108
Bỏ tiêu trồng cam theo hướng hữu cơ, thắng lớn
nguồn tin Báo nông nghiệp
QUẢNG TRỊ Chuyển đất trồng tiêu bị dịch bệnh sang trồng cam, có sự hỗ trợ kỹ thuật của khuyến nông theo quy trình hữu cơ, tưới nhỏ giọt, vườn cam đã cho quả sai trĩu.
Cam là một trong những cây ăn quả có múi mang lại giá trị kinh tế cao và đang dần khẳng định vị thế trong sản xuất nông nghiệp ở Quảng Trị. Sau gần 4 năm triển khai, mô hình trồng thâm canh cam đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm do Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị triển khai được đánh giá là hướng đi mới, đầy triển vọng.
Ấn tượng đầu tiên khi ghé thăm vườn cam của gia đình chị Hoàng Thị Mỹ Châu ở thôn Cam Phú, xã Cam Thành, huyện Cam Lộ là một màu xanh tươi mát, với những cây cam trĩu quả, mọng nước đang vào vụ thu hoạch đầu tiên.
Vườn cam của gia đình chị Châu cho quả đồng đều, sai trĩu ngay vụ đầu thu hoạch. Ảnh: Việt Toàn.
Dẫn chúng tôi tham quan vườn, chị Châu cho biết, đây là mô hình cam trồng mới áp dụng tưới nhỏ giọt. Các giống cam đưa vào mô hình là cam Xã Đoài lòng vàng và cam V2 chín muộn với quy mô 1,2ha. Đây là mô hình gia đình chị được Trung tâm Khuyến nông tỉnh hỗ trợ cách đây 4 năm trước.
Vùng đất này trước đây gia đình chị trồng tiêu nhưng do lâu năm, giống nhiễm bệnh, thoái hóa. Muốn chuyển hướng để cải tạo vườn tạp, chọn cây trồng thích hợp hơn, năm 2018, gia đình chị là một trong các hộ dân được Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị cho đi tham quan học tập kinh nghiệm trồng cam tại tỉnh Nghệ An.
Sau khi tham quan tìm hiểu, thấy cam là cây triển vọng và có khả năng phù hợp với vùng đất của gia đình, được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông tỉnh, anh chị đã tham gia vào mô hình trồng cam thuộc chương trình Khuyến nông Trung ương, nằm trong chuỗi dự án “Xây dựng mô hình và chuyển giao quy trình sản xuất cam, bưởi an toàn gắn với chuỗi giá trị tại các tỉnh miền Trung”.
Theo đó, Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị đã triển khai nhiều lớp tập huấn cho hộ tham gia thực hiện mô hình và các hộ dân trong vùng về kỹ thuật trồng, thâm canh cam đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Hướng dẫn cho bà con về kỹ thuật trồng mới, chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh an toàn sinh học trên cây cam; hỗ trợ hộ tham gia mô hình 100% giống, 50% vật tư gồm phân bón và thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học. Cử cán bộ chỉ đạo kỹ thuật hướng dẫn các hộ tham gia mô hình thực hiện từng khâu trong quá trình triển khai mô hình.
Với sự hỗ trợ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị, vườn cam rất sạch bệnh. Ảnh: Việt Toàn.
Chị Châu vui mừng chia sẻ: Tôi tham gia mô hình của Trung tâm Khuyến nông tỉnh từ năm 2018, gia đình được hỗ trợ cây giống, phân bón hữu cơ và được cán bộ hướng dẫn về quy trình kỹ thuật chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh cho cây cam. Để phòng ngừa sâu bệnh và đảm bào chất lượng sản phẩm, gia đình chị không sử dụng thuốc BVTV hóa học, không sử dụng phân bón hóa học mà thay vào đó là phân bón hữu cơ và thuốc BVTV sinh học. Mặc dù có tốn kém hơn nhưng lại rất an toàn cho người chăm sóc, cho cây cam và sản phẩm cam.
Trong quá trình triển khai mô hình, gia đình anh chị đã áp dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học vào vườn cam, áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt để xây dựng vườn cam sạch bệnh, nâng cao năng suất, chất lượng, góp phần phát triển cây cam theo hướng an toàn, bền vững.
Bên cạnh việc chọn giống, phân bón, nước tưới đặc biệt quan trọng, trong khi đó với địa hình đồi dốc, diện tích rộng thì cung cấp lượng nước đủ cho cây cam sinh trưởng và phát triển là bài toán khó, đặc biệt là trong những giai đoạn quan trọng như ra hoa, đậu quả, nuôi quả tình trạng thiếu nước sẽ ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng quả.
Được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông tỉnh, gia đình chị đã lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt quanh gốc cho toàn bộ diện tích cây trồng của trang trại. Với hệ thống nước tưới tự động, không những giúp vườn cam đủ lượng nước cần thiết mà chi phí nhân lực cũng giảm đi đáng kể.
Theo ông Trần Cẩn, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị, việc triển khai mô hình trồng cam theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm sẽ nâng cao nhận thức cho người dân trong việc trồng thâm canh cây cam nói riêng và cây có múi nói chung, giúp người dân nắm được các quy trình trồng, chăm sóc cam theo hướng hữu cơ, an toàn sinh học.
Hiện nay, sau 4 năm triển khai, vườn cam của gia đình chị Hoàng Thị Mỹ Châu đã cho thu hoạch lứa đầu, quả to ngọt, mọng nước. Vụ cam đầu tiên này, chị ước tính sản lượng cam đạt trên 5 tấn, với giá bán tại vườn 20.000đ/kg, thu về khoảng 100 triệu đồng. Nhận thấy cây cam phát triển tốt, cho chất lượng quả cao và giá trị kinh tế vượt trội so với các loại cây trồng khác, nhiều hộ dân trong vùng đã tìm đến mô hình của chị để học tập kinh nghiệm, chị Châu đều tận tình chia sẻ.
Th1108
Nở rộ phong trào trồng lúa lưu gốc
nguồn tin Báo nông nghiệp
Sau hơn 9.000 năm, cây lúa nước hàng năm giờ đây đã trở thành một loại cây lưu niên, sống lâu năm như là một tiến bộ mới nhằm tiết giảm chi phí sản xuất…
Trồng lúa lưu gốc (lúa chét) giảm tần suất làm đất có thể cho phép phục hồi cấu trúc đất, đồng thời cải thiện khả năng giữ nước, cộng đồng vi sinh vật và bảo vệ môi trường. Ảnh: The Land Institute
Điều này có nghĩa là nông dân có thể chỉ trồng một lần và thu hoạch đến tám vụ mà vẫn đảm bảo năng suất, một bước thay đổi quan trọng trong hệ thống nông nghiệp. Theo đó, từ khóa “ratooning”- hay còn gọi là sản xuất lúa chét, tức “công nghệ” trồng lúa nước bằng cách cắt phần lớn phần trên mặt đất của cây lúa nhưng vẫn để lại bộ gốc và rễ cho các vụ sau đang trở thành xu thế khá “hot” ở Trung Quốc và Uganda.
Một báo cáo mới trên tạp chí Nature Sustainability đã chia sẻ các kết quả nông học, kinh tế và môi trường của việc trồng lúa lưu gốc (lưu niên) trên khắp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hiện xu thế trồng lúa này đang làm thay đổi cuộc sống của hơn 55.752 hộ nông dân sản xuất nhỏ ở miền nam Trung Quốc và Uganda.
“Nông dân đang hè nhau áp dụng sản xuất giống lúa lưu gốc vì làm như vậy sẽ có lợi về mặt kinh tế, nhất là trong bối cảnh nông dân ở Trung Quốc (giống như nhiều nước) đang bị già hóa. Nhiều người dân nông thôn đều thích di cư đến các thành phố do trồng lúa rất tốn công chăm sóc và chi phí đầu vào cao”, giáo sư Erik Sacks, tại khoa Khoa học Cây trồng (Đại học Illinois) và là đồng tác giả của báo cáo, cho biết.
Ông Sacks, cùng với các cộng sự Fengyi Hu và Dayun Tao, bắt đầu bắt tay phát triển giống lúa lưu gốc mới vào năm 1999 với sự hợp tác giữa Học viện Khoa học Nông nghiệp Vân Nam và Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI). Trong những năm tiếp theo, dự án đã liên kết tiếp với Đại học Illinois, Đại học Vân Nam và Đại học Queensland (Australia) nhằm nghiên cứu sâu hơn dự án này.
Hình ảnh một ruộng lúa lưu gốc giống PR23 ở mùa thứ ba. Ảnh: The Land Institute
Các nhà nghiên cứu đã phát triển cây lúa lưu niên thông qua việc lai tạo, lai giống lúa hàng năm thuần hóa của châu Á với một loại lúa lâu năm hoang dã từ châu Phi. Tận dụng các công cụ di truyền hiện đại, nhóm nghiên cứu đã xác định một giống lai có triển vọng vào năm 2007, rồi trồng thử nghiệm trên diện rộng vào năm 2016 và cho ra đời giống lúa lưu niên thương mại đầu tiên có tên PR23 vào năm 2018.
Nhóm chuyên gia quốc tế tiếp đó đã dành 5 năm để nghiên cứu năng suất giống lúa lưu niên này và đối chứng với các giống lúa hàng năm tại các cánh đồng trên khắp tỉnh Vân Nam. Với một vài trường hợp ngoại lệ, năng suất lưu niên đạt 6,8 tấn/ ha, tương đương với lúa hàng năm là 6,7 tấn/ ha trong bốn năm đầu tiên. Sau đó năng suất bắt đầu giảm vào năm thứ 5 do nhiều yếu tố khác nhau.
Các nhà nghiên cứu khuyến nghị nông dân nên gieo sạ lại giống lúa lưu niên này sau chu kỳ 4 năm.
Ưu điểm vượt trội của việc trồng lúa lưu niên là nông dân không phải xuống giống theo mùa vụ hàng năm, nên có thể tiết kiệm được gần 60% công lao động và cắt giảm chi gần một nửa trong các khâu giống, phân bón và các chi phí vật tư đầu vào khác.
Ông Sacks nói: “Điều quan trọng nữa của vấn đề này là khi cả thế giới đang hướng tới mục tiêu cải thiện sinh kế nông dân trồng lúa nước, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Trong mùa vụ đầu tiên, về cơ bản mọi thứ đều giống nhau như năng suất, chi phí, coi như không có lợi thế nhưng từ vụ thứ hai và các vụ tiếp theo đã giảm giá thành sản xuất lúa rất lớn, bởi vì chúng ta không phải mua hạt giống, phân bón, không cần nhiều nước, cũng như ngày công. Đó chính là một lợi thế lớn”.
Theo các chuyên gia, lợi ích kinh tế của việc trồng lúa lâu năm có sự khác nhau giữa các địa điểm nghiên cứu, nhưng lợi nhuận dao động từ 17% đến 161% so với trồng lúa hàng năm. Ngay cả ở những địa điểm và những năm lúa lâu năm bị giảm năng suất tạm thời do sâu bệnh, nông dân vẫn đạt được lợi nhuận kinh tế lớn hơn so với trồng cây hàng năm.
Tiếp đến việc không phải làm đất hai lần một năm, trồng lúa lâu năm cũng mang lại những lợi ích đáng kể về môi trường khi nhóm nghiên cứu đã ghi nhận lượng cacbon và nitơ hữu cơ trong đất cao hơn được lưu trữ trong đất trồng lúa lâu năm. Ngoài ra, các thông số chất lượng đất khác cũng được cải thiện.
“Các loại cây hàng năm năng suất cao hiện nay thường yêu cầu loại bỏ hoàn toàn thảm thực vật trên bề mặt đất để bắt đầu vụ mùa mới và thường yêu cầu các loại đầu vào chính là lượng lớn thuốc trừ sâu và phân bón. Trong khi lúa lưu niên không chỉ mang lại lợi ích cho nông dân bằng cách cải thiện hiệu quả lao động và chất lượng đất, mà nó còn giúp bổ sung các hệ thống sinh thái cần thiết để duy trì năng suất trong thời gian dài”, giáo sư Hu, Trưởng khoa Nông nghiệp tại Đại học Vân Nam, cho biết.
Hiện các hợp phần khác của nghiên cứu vẫn đang tiến hành, bao gồm đánh giá khả năng chống chịu nhiệt độ của giống lúa lưu niên, với mục tiêu dự đoán ra vùng phát triển tối ưu của nó trên khắp thế giới. Theo đó, các thử nghiệm đã và đang được tiến hành tinh chỉnh đối với ba giống lúa lưu niên ở Trung Quốc và Uganda, nhằm nhanh chóng có được các tính trạng mong muốn như mùi thơm, khả năng kháng bệnh và chống chịu hạn để mở rộng phạm vi sản xuất trên quy mô toàn cầu.
Tim Crews, nhà khoa học trưởng tại The Land Institute, đồng tác giả nghiên cứu, cho biết: “Mặc dù những phát hiện ban đầu về lợi ích môi trường của lúa lưu niên là rất ấn tượng và đầy hứa hẹn, nhưng vẫn cần nhiều nghiên cứu và tài trợ hơn để hiểu được toàn bộ tiềm năng của nó.
“Các câu hỏi về khả năng hấp thụ carbon và cân bằng khí nhà kính trong các hệ thống trồng lúa lâu năm vẫn còn. Các nhà nghiên cứu cần phải đạt được tiến bộ trong việc trồng giống lúa nương lâu năm, điều này có thể hạn chế nạn xói mòn đất trên khắp Đông Nam Á. Thành tựu về giống lúa lưu niên được coi là bước tiến của nền nông nghiệp bền vững, thân thiện môi trường và có thể sửa chữa được “những sai sót của lịch sử”, theo ông Sacks.
(Phys.org)
Th1107
3 giống hoa lay ơn mới
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
3 giống hoa lay ơn mới do Viện Nghiên cứu Rau quả chọn tạo, có hoa đẹp, được người tiêu dùng ưa chuộng, chống chịu sâu bệnh tốt, hiệu quả trồng cao hơn hơn 20%.
3 giống hoa lay ơn mới gồm CF.22.03, CF.22.04, CF.21.09, do Ths Bùi Thị Hồng cùng cộng sự chọn tạo, được Viện Nghiên cứu Rau quả công bố chính thức từ đầu năm 2022.
Đặc điểm giống
Giống lay ơn CF.21.03 được chọn lọc từ tổ hợp lai hoa lay ơn 11A03 dòng C6. Thời gian sinh trưởng 85 – 95 ngày. Giống có khả năng sinh trưởng, phát triển khỏe. Chống chịu tốt sâu bệnh hại, nhất là với bệnh khô đầu lá. Năng suất trung bình đạt 180.000 – 200.000 cành hoa/ha. Chiều dài cành hoa 125 – 136cm. Số hoa/cành 16 – 17 bông. Hoa màu đỏ vàng. Đặc biệt, giống hoa này có khả năng trồng được trong vụ hè thu. Hiệu quả sản xuất tăng 21 – 25% so với đối chứng.
Giống hoa lay ơn CF 21.03.
Giống lay ơn CF.21.04 chọn lọc từ tổ hợp lai hoa lay ơn 11A14 dòng I9. Thời gian sinh trưởng 90 – 100 ngày. Giống có khả năng sinh trưởng, phát triển khỏe. Chống chịu tốt với sâu bệnh hại, đặc biệt là không bị khô đầu lá. Chiều dài cành hoa đạt 135 – 148cm. Số hoa/cây 15 – 16 bông. Hoa màu hồng. Năng suất đạt 180.000 – 200.000 cành hoa/ha. Hoa được người sản xuất và người tiêu dùng chấp nhận cao. Hiệu quả trồng thâm canh tăng 21 – 23% so với đối chứng.
Giống hoa lay ơn CF.21.09 chọn từ tổ hợp lai hoa lay ơn 11A04 dòng J11. Thời gian sinh trưởng 90 – 100 ngày. Giống có khả năng sinh trưởng, phát triển khỏe. Chống chịu tốt với bệnh khô đầu lá nhẹ. Năng suất đạt 180.000 – 200.000 cành hoa/ha. Chiều dài cành hoa đạt 135 – 159cm. Số hoa/cành đạt 16 – 17 bông. Hoa màu hồng cam, được người sản xuất và thị trường chấp nhận cao. Hiệu quả trồng tăng 23 – 26% so với đối chứng.
Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh
Hoa lay ơn ưa khí hậu mát mẻ. Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng, phát triển từ 15 – 27 độ C. Nhiệt độ cao cây sinh trưởng kém, chất lượng hoa thấp, nhiều sâu bệnh hại. Lay ơn cũng là cây ưa sáng, cường độ ánh sáng thích hợp cho cây từ 20.000 – 25.000 lux, thiếu sáng cây bị vóng, hoa nhỏ, tỷ lệ hoa mù cao.
Đất trồng lay ơn phải là loại đất thịt nhẹ, độ pH 5,5 – 6. Lay ơn rất mẫn cảm với muối kim loại nặng, đặc biệt là hàm lượng chì cao. Cây lay ơn ưa ẩm nhưng không chịu được úng, ẩm độ đất thích hợp cho cây khoảng 70 – 75%, thiếu nước sẽ ảnh hưởng đến phân hoá hoa, thừa nước rễ bị tổn hại, củ thối, cây vàng úa và chết. Lay ơn khá mẫn cảm với không khí, đặc biệt là khí Clo và Flo. Những nơi nồng độ Clo và Flo cao sẽ làm cây lay ơn khô đầu lá. Do vậy, chọn điểm trồng hoa lay ơn cần tránh xa các khu công nghiệp và lò gạch.
Kỹ thuật trồng
Thời vụ trồng, các tỉnh miền Bắc trồng 2 vụ chính là tháng 8 – 9 và tháng 10 – 11; các tỉnh Bắc Trung Bộ trồng tháng 10 – 11. Đất cày phay nhỏ, dọn sạch cỏ, lên luống rộng 1 – 1,2m, cao 30cm, rãnh luống rộng 30 – 40cm. Tốt nhất trồng lay ơn trên đất vụ kế trước gieo cấy lúa nước.
Chọn củ giống có chu vi từ 8cm trở lên, không sứt vẹo, sạch bệnh và đã xử lý nảy mầm đều. Sau dùng dung dịch Mancozeb 2% (20g/20lit nước) ngâm củ giống 5 – 10 phút, vớt hong ráo nước, đem trồng ra ruộng sản xuất. Giống trồng theo các rạch xẻ ngang trên mặt luống, rạch cách rạch 25 – 30cm, sâu 12 – 15cm, trộn đều các loại phân bón lót xuống rạch, lấp đất dày 10 – 12cm. Mật độ trồng 20.000 – 21.000 củ/1000m2 (củ cách củ 10 – 12cm và lấp đất dày 2,5 – 3cm phủ kín củ).
Dòng lay ơn I9 trong tổ hợp tạo ra giống lay ơn 21.04.
Về tưới nước, có thể tưới rãnh hoặc tưới mặt, đảm bảo độ ẩm đất 70 – 75%, tránh để cây bị úng ngập, bao gồm úng cục bộ. Phân bón cho 1.000m2 gồm phân chuồng 2,5 – 3 tấn, vôi bột 80 – 100kg, đạm Uê 30kg, lân supe 90kg, Kali clorua 24kg; hoặc 75kg NPK, 8kg đạm Urê, 10kg Lân supe (bón lót), 9kg Kali kali clorua. Trong đó, bón lót toàn bộ phân chuồng, vôi và 50% phân lân, số phân còn lại chia bón 4 đợt theo bảng dưới
Đợt bón | Ngày sau trồng | Lượng phân (kg) | Lượng phân (kg) | Cây sau trồng | ||||
Urê | Supe lân | Kali | NPK | Urê | Kali | |||
10 – 15 | 10 | 10 | 2 lá | |||||
30 – 35 | 10 | 20 | 25 | 4 lá | ||||
50 – 55 | 10 | 15 | 12 | 25 | 4,5 | 6 lá | ||
70 – 75 | 12 | 15 | 4,5 | Trổ đòng |
Nên bón phân kết hợp xới xáo, làm cỏ và tưới ẩm cho tan phân. Bổ sung một số chất kích thích sinh trưởng như Atonik 1.8SL (15ml/16lít), SEAWEED rong biển (10g/16lít) và phun bón lá đầu trâu vào thời kỳ cây 2 – 6 lá. Khi cây mọc mầm, cần tỉa mầm phụ và để lại 1 mầm chính. Vun đợt khi 1 cây 3 lá. Vun cao chống đổ khi cây cao 40 – 50cm. Cắm cọc làm dàn theo mép luống, khoảng cách 1,5 – 2m/cọc, rồi dùng dây ni lông hoặc lưới đan sẵn căng giữa các cây, sau nâng dần dây/lưới phù hợp theo chiều cao của cây.
Phòng trừ sâu bệnh hại chính: Dùng thuốc Azimex 20EC hoặc Sherpa 25EC phòng trừ sâu khoang; thuốc Brightin 1.8EC hoặc Ortus 5SC trừ bọ trĩ; Anvil 5SC, Score 250EC trừ bệnh héo vàng. Riêng với bệnh khô đầu lá phải chọn trồng giống kháng bệnh, xa lò gạch và khu công nghiệp. Phun phòng sâu bệnh hại định kỳ 7 – 10 ngày/lần. Sử dụng thuốc theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
Dòng lay ơn J11 trong tổ hợp tạo ra giống lay ơn CF.21-09.
Thu hoạch, bảo quản
Thu hoa vào buổi sáng hoặc chiều tối khi cành có 1 – 2 hoa đã nhú màu. Cắt lấy cành hoa cách gốc 5 – 10cm và chừa lại 1 – 2 lá hoàn chỉnh. Nếu không cần giữ lại củ, có thể nhổ lấy cả củ. Sau xếp hoa thành từng bó có chiều dài cành và số bông trên cành tương đương nhau. Chú ý thao tác nhẹ nhàng, sao cho cành hoa không bị cong, gãy.
Bảo quản hoa, bọc kín đầu hoa đem dựng trong kho lạnh 6 – 8 độ C và ẩm độ 80 – 90% sẽ giữ được hoa khoảng 10 – 15 ngày. Hoặc đưa hoa bao kín đầu vào thùng xốp, xếp 1 lớp hoa xen 1 lớp đá và 5 ngày trộn đảo đá 1 lần cũng có thể bảo quản được 7 – 10 ngày.
Phạm vi áp dụng: Các địa phương Trung du miền núi phía Bắc, ĐBSH và Bắc Trung Bộ.
Th1125