Tin tức
Hàng trăm ngàn chậu cúc tết chết yểu đó mua phải giống rởm
Người trồng cúc bán tết ở TX An Nhơn (Bình Định) đang “khóc đứng khóc ngồi” vì mua giống về trồng trong chậu cả tháng mà không phát triển. Hàng trăm ngàn chậu phải nhổ bỏ để trồng lại.
Tốn công tốn của đã đành, người trồng cúc đang đứng trước nguy cơ muộn mùa hoa tết. Cúc mà không ra hoa kịp bán tết thì chỉ có nhổ bỏ hoặc sang tháng Giêng năm sau cắt bán hoa bình gỡ gạc vốn.
Những chậu cúc pha lê của anh Đỗ Văn Hòa dù được cứu nhưng phần nhiều bị “trống chân”
Hàng trăm hộ dân ở đường phố Nguyễn Thị Minh Khai và khối Vĩnh Liêm thuộc phường Bình Định và phường Nhơn Hưng (TX An Nhơn) có truyền thống trồng cúc bán tết đang khốn đốn. Ngỡ cúc bị bệnh, họ tận tình cứu chữa bằng vô số loại thuốc BVTV, nhưng cây vẫn “đứng lì”. Nhổ lên thì thấy bộ rễ đã không phát triển mà còn chuyển màu đen, dưới đầu rễ nổi lên một cục trông như “cục u”. Biết là cây cúc đã bị bệnh “nan y” không thể cứu chữa, vậy là cả làng đồng loạt nhổ bỏ, trồng lại cây mới, thúc thuốc sinh trưởng để cầu may kịp bán vào dịp tết.
Vừa chăm những chậu cúc vừa được trồng lại khoảng 1 tháng nay, anh Nguyễn Ngọc Hoàng (52 tuổi) ở đường Nguyễn Thị Minh Khai, vừa rầu kĩ kể: Năm nay anh trồng 500 chậu cúc loại trung để bán tết. Mỗi chậu trồng 50 cây giống, với 200 chậu anh mua của nhà vườn Ngô Quốc Hưng ở thôn Biểu Chánh, xã Phước Hưng (huyện Tuy Phước) 10.000 cây cúc giống giá 2 triệu đồng.
Cúc được trồng vào chậu cả tháng trời mà không thấy cây phát triển, anh ngỡ cây bị bệnh, tích cực cho “ăn” thuốc BVTV nhưng vẫn không thấy chuyển biến. Nhổ thử vài chậu thì thấy bộ rễ đã chuyển màu đen. Biết là chẳng thể cứu chữa, anh đành nhổ bỏ toàn bộ và trồng cây giống mới.
Những chậu cúc chết của anh Nguyễn Ngọc Hoàng lúc chưa được trồng lại
“Tôi phải thuê 3 công lao động nhổ bỏ 200 chậu. Khi ấy đất đã bị nhiễm trùng nên phải thay đất, hoặc đảo đất rồi khử trùng xong mới trồng cây mới. Tốn 2 – 3 lần tiền mua giống và công, nhưng không hy vọng cúc ra hoa đúng dịp tết. Nếu phát triển bình thường thì bây giờ những chậu cúc đã cao gần cả mét, cắm cọc phụ được rồi. Do mất thời gian cả tháng nên giờ những chậu cúc được trồng lại nhỏ tí trông cứ như cây cải, kiểu này muộn tết là cái chắc”, anh Hoàng than thở.
Anh Nguyễn Ngọc Hoàng cố gắng chăm sóc những chậu cúc mới trồng lại
Cả khu đất rộng cạnh Cụm công nghiệp phường Bình Định có đến 7.000 chậu cúc cùng lâm cảnh như 200 chậu cúc của anh Nguyễn Ngọc Hoàng, vì cùng mua cúc giống tại nhà vườn Ngô Quốc Hưng. Người bị ít cũng 400 – 500 chậu như chị Cao Thị Nhung (400 chậu), anh Nguyễn Hoài An (300 chậu), Tô Thành Công (500 chậu), Phạm Thị Liên (400 chậu), anh Cao Hùng (550 chậu), người bị nhiều cả ngàn chậu như anh Nguyễn Ngọc Hải (1.000 chậu), anh Nguyễn Minh Tuấn (1.500 chậu), anh Lê Trung Hiếu (1.000 chậu)…
“Dân chuyên trồng cúc bán tết hàng năm chỉ đợi đến mùa này, năm nào mưa thuận gió hòa, mỗi hộ kiếm 100 – 200 triệu dành chi phí cho gia đình cả năm sau. Năm nay lâm tình cảnh như thế này cầm chắc chúng tôi sẽ mất mùa hoa tết, đồng nghĩa mỗi hộ mất đứt 100 – 200 triệu đồng”, anh Nguyễn Minh Tuấn bộc bạch.
Theo anh Tuấn, cả khu phố Nguyễn Thị Minh Khai có 25 hộ trồng cúc mua giống cùng 1 chỗ, cùng loại cúc đóa và cùng chết 1 lúc. Cách đây 1 tháng, cúc chết bị nhổ bỏ cả đống. Những chậu lớn phải trồng 100 cây giống, chậu nhỏ 50 cây. Tính bình quân 1.000 chậu cúc được trồng đến 70.000 cây giống. Riêng 7.000 chậu cúc của người dân phố Nguyễn Thị Minh Khai đã bị thiệt hại đến 490.000 cây giống.
Nếu không bị chết giống thì cúc của anh Nguyễn Ngọc Hoàng đã lớn như thế này
Không chỉ giống cúc đóa, mà cả giống cúc pha lê có xuất xứ từ nhà vườn Ngô Quốc Hưng cũng bị “chết yểu”. Anh Đỗ Văn Hòa (55 tuổi) ở đườn Ngô Gia Tự (phường Bình Định) mua 22.000 cây giống cúc pha lê để vào 200 chậu lớn. Tương tự như hàng trăm ngàn chậu cúc đóa bị chết khắp nơi, 200 chậu cúc pha lê của anh Hòa cũng lụi dần.
ĐÌNH THUNG
Nguồn: báo nông nghiệp
Th1117
Đưa chanh leo tím lên đồi, dân vùng biên đổi đời
Từ nguồn vốn chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) huyện Văn Lãng (Lạng Sơn) hỗ trợ 1 tỷ đồng, HTX Hòa Cường đã khai phá đất đồi để trồng chanh leo. Sau gần 1 năm triển khai, mô hình đã mang lại những hiệu quả thiết thực, mở ra hướng đi mới trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, giúp người dân vùng biên nâng cao thu nhập.
Những ngày đầu tháng 10.2018, có dịp về xã Tân Việt, huyện Văn Lãng hút vào mắt chúng tôi là khu đồi rộng hơn 6ha dọc theo tuyến Quốc lộ 4A trồng giống chanh leo tím Đài Loan hiện đang cho thu hoạch. Nhìn đồi chanh leo sai trĩu quả, ít ai biết được rằng, trước kia chỉ là quả đồi cằn cỗi, không đem lại hiệu quả kinh tế.
Để có được sự đổi thay ấy là cả sự nỗ lực của những thành viên HTX nông nghiệp Hòa Cường và hiệu quả từ nguồn vốn NTM.
Cả sườn đồi, nhìn đã mắt vườn chanh leo quả sai lúc lỉu.
Là HTX mới thành lập từ đầu năm 2017, 9 thành viên luôn suy nghĩ làm thế nào để phát triển kinh tế hiệu quả, nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích. May mắn tháng 11.2017, HTX nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của huyện Văn Lãng với số vốn 1 tỷ đồng trích từ nguồn vốn xây dựng NTM.
HTX thành lập tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động trong vùng với mức thu nhập ổn định.
Anh Nông Mạnh Cường, Giám đốc HTX cho biết: Trong quá trình thực hiện mô hình, HTX được sự quan tâm, tạo điều kiện, hướng dẫn tận tình của huyện. Theo đó, các thành viên HTX được cán bộ kỹ thuật của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đến hướng dẫn từ khâu trồng, chăm sóc đến làm giàn, thiết kế lô, đào hố, bón phân và thu hoạch.
Nhờ tuân thủ quy trình chăm sóc, hiện nay, vườn chanh leo phát triển tốt, sai quả, mẫu mã đẹp và cho thu hoạch những lứa đầu tiên. Đến nay, HTX đã thu hoạch được trên 20 tấn quả, với mức giá bán dao động từ 15 – 35 nghìn đồng/kg. Doanh thu tính đến thời điểm này đạt khoảng 600 triệu đồng. Năm nay, dự kiến sản lượng chanh leo của HTX ước đạt trên 30 tấn quả tươi.
Anh Cường – Giám đốc HTX thường xuyên kiểm tra sâu bệnh tại vườn.
Qua quá trình trồng và chăm sóc, anh Cường cho biết: Cây chanh leo khá dễ trồng, dễ chăm sóc, phải đầu tư làm giàn nhưng có thể sử dụng được lâu dài. Loại cây này cho thu hoạch quả liên tục 2-3 năm, sau đó mới phải trồng lại
“Đối với cây chanh leo, yêu cầu người trồng phải thường xuyên kiểm tra để phát hiện những cây chết và trồng bổ sung kịp thời. Đồng thời, thường xuyên làm sạch cỏ dưới giàn chanh leo và tưới nước cho cây, nhất là trong giai đoạn ra hoa và nuôi quả, nếu thiếu nước sẽ ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng quả”, anh Cường chia sẻ.
Ngoài ra, theo anh Cường một trong những yêu cầu quan trọng giúp cây chanh leo sinh trưởng và phát triển tốt, thu hoạch thuận lợi là kỹ thuật làm giàn, giá đỡ.
“Các trụ bê tông phải được bố trí với khoảng cách hợp lý để giữ và kết nối các dây đỡ mặt giàn, giàn đỡ có chiều cao gần 2 m, thuận tiện cho người trồng khi thu hái quả”, anh nói.
Qua thời gian triển khai, thực hiện mô hình trên địa bàn xã Tân Việt cho thấy cây chanh leo rất phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với cây trồng truyền thống. Đặc biệt là sản phẩm chanh leo thu hoạch đến đâu, được xuất bán sang Trung Quốc hết đến đó với giá bán ổn định từ 15 – 35 nghìn đồng/kg.
Nhờ đó, mô hình không chỉ mang lại thu nhập cho xã viên HTX mà còn tạo việc làm thường xuyên cho 15 – 20 lao động địa phương với thu nhập 200.000 đồng/ngày. Nhận thấy hiệu quả thiết thực từ mô hình, thời gian tới HTX dự kiến mở rộng diện tích trồng thêm 10 ha.
Địa hình đồi dốc, nên sau khi thu hái những trái chanh leo sẽ được gánh xuống dưới và đóng thùng vận chuyển xuất sang Trung Quốc.
Ông Hoàng Văn Cao thôn Nà Cạn, xã Tân Việt cho biết: Trước đây, tôi chỉ ở nhà làm ruộng nên không có thu nhập ổn định, từ khi có HTX trồng chanh leo, tôi đã xin vào làm. Công việc chủ yếu là trồng cây, làm cỏ, tưới nước, bắc giàn, thu hoạch…, tiền công mỗi ngày 200.000 đồng. Nếu đi làm đều, tính ra cũng có thu nhập 6 triệu/tháng
Trao đổi với Dân Việt, ông Đinh Long Xuyên, Phó Trưởng phòng NN&PTNT huyện Văn Lãng cho biết: Đây là dự án trồng chanh leo với số vốn 1 tỷ đồng được huyện Văn Lãng hỗ trợ trích từ nguồn vốn xây dựng NTM của huyện, thêm vào đó là vốn HTX tự có và vốn vay. Là mô hình mới nên Phòng NN&PTNT cũng đã tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật và vườn cũng mới bắt đầu cho thu hoạch, chủ yếu xuất bán sang Trung Quốc.
Những trái chanh leo sau thu hoạch sẽ được bán đổ xô với giá tùy vào từng thời điểm nhưng trung bình là 30.000 đồng/kg, chủ yếu vẫn là xuất sang thị trường Trung Quốc.
Sau 1 năm trồng, bước đầu cho thấy cây chanh leo sinh trưởng khá tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu đất đai trên địa bàn huyện. Những hiệu quả ban đầu của HTX đã bước đầu góp phần nâng cao đời sống cho các thành viên HTX, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động trong vùng, đặc biệt mở ra hướng đi mới trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng của huyện.
Theo danviet.vn
Th1109
Giá trị của vỏ cà phê
Giá trị của vỏ cà phê
Vỏ cà phê nếu đem chế biến phân hữu cơ, bằng cách phối trộn thêm phân gia súc, gia cầm, phân cá, hay phế thải của lò mổ và ủ với nấm Trichoderma thì sẽ được một loại phân hữu cơ có chất lượng vượt trội nhiều loại phân hữu cơ nhập nội đắt tiền…
Theo kết quả phân tích về thành phần dinh dưỡng một số nguyên liệu có thể chế biến thành các loại phân hữu cơ của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp thì vỏ cà phê khô có chứa các thành phần dinh dưỡng sau: Chất hữu cơ chiếm 42,1%, đạm tổng số có 2,5%, 0,23% P205 và 3,15% K2O; chất trung lượng có 0,35% CaO, 1,49% MgO và 0,67% S…
Nếu so sánh với thành phần dinh dưỡng của than bùn khai thác tại Kiên Giang, Cà Mau hay Bà Rịa – Vũng Tàu thì vỏ cà phê chứa hàm lượng các thành phần này cao hơn khá rõ. Bình quân thành phần dinh dưỡng của than bùn ở 4 vùng thì chất đạm (N) chiếm 1,175%, chưa bằng 50% của vỏ cà phê, hay chất đạm trong vỏ cà phê cao hơn gấp 2 lần so với chất đạm có trong than bùn; chất lân (P) cao hơn từ 2 đến 4 lần, còn kali (K20) cao hơn hàng trăm lần.
Vỏ cà phê khô có chứa rất nhiều thành phần dinh dưỡng giúp cải tạo đất
Các nguyên tố trung lượng cũng cao hơn hàng chục lần so với các loại than bùn ở các địa danh kể trên. Nhưng khi sản xuất phân hữu cơ thì phần lớn các cơ sở đều tìm kiếm vật liệu than bùn mà còn ít chú ý đến loại nguyên liệu từ vỏ cà phê. Có lẽ do nguồn than bùn có trử lượng dồi dào hơn và có sẵn quanh năm; trong lúc vỏ cà phê phải đợi đến mùa mới có sẵn.
Ở Việt Nam vào những năm được mùa, diện tích cà phê chiếm đến 670.351 ha, những năm giá cà phê thiếu hấp dẫn thì diện tích vẫn còn chiếm đến 655.817 ha. Lấy năng suất bình quân cả nước là 2,7 tấn/ha, thì hàng năm sản lượng cà phê cả nước có đến trên 1,7 triệu tấn. Lấy mức tỷ lệ nhân là 65% thì hàng năm có đến khoảng 620.000 tấn vỏ cà phê có thể sử dụng làm phân bón có chất lượng khá tốt. Số lượng vỏ cà phê này nếu tận dụng triệt để tương đương với 33.000 tấn phân đạm, một khối lượng dinh dưỡng rất đáng kể.
Số lượng vỏ cà phê này nếu đem chế biến phân hữu cơ, bằng cách phối trộn thêm phân gia súc, gia cầm, phân cá, hay phế thải của lò mổ và ủ với nấm Trichoderma thì sẽ được một loại phân hữu cơ có chất lượng vượt trội nhiều loại phân hữu cơ nhập nội đắt tiền mà các doanh nghiệp đang hăm hở tìm kiếm mua về bán lại với giá rất đắt, nhưng do người nông dân ưa chuộng hàng ngoại nên vẫn sẵn sàng mua để sử dụng.
Đã có một thí nghiệm chế biến phân hữu cơ bằng phương pháp thủ công theo công thức trộn 35% phân gà, 35% phân heo với 30% vỏ cà phê phơi khô đã xử lý với vôi, có bổ sung 250ml EM, 0,5kg Trichoderma, 5kg SA và 15kg phân lân cho 1 tấn phân hữu cơ (60% độ ẩm).
Sau 3 tháng lấy mẫu phân tích cho thấy loại phân ủ này đạt chất lượng rất tốt, phân có chứa thành phần các chất dinh dưỡng hảo hạng. Ví dụ, thành phần chất hữu cơ 39,1%, axit Humic chiếm 5,48%, đạm tổng số chiếm 1,89%, lân hữu hiệu 2,19%, Kali hữu hiệu 2,53%, CaO tổng số 5,87%, MgO tổng số 1,53%. Trong phân lại chứa tổ hợp các vi sinh có lợi tiếp tục tạo thêm nguồn dinh dưỡng dễ tiêu cung cấp cho cây trong cả vụ nên cây trồng khỏe mạnh, năng suất khá cao. Tác giả (Lâm Văn Hà 2017) chế biến loại phân này đã thực nghiệm bón bổ sung với phân khoáng cho cà phê vối ở Di Linh, Lâm Đồng.
Sau 3 vụ thí nghiệm cho thấy nền có bón bổ sung 10 tấn phân hữu cơ nói trên cùng với nền phân khoáng, so với công thức chỉ bón phân khoáng cho cà phê thì chất lượng của đất được cải thiện rất tốt. Cụ thể số lượng giun đất tăng gấp 2,5 lần so với nền chỉ bón phân khoáng, sinh khối giun tăng gấp 7,56 lần, các vi sinh vật phân giải cellulose cũng tăng 1,7 lần, kết quả mang lại độ xốp cho đất tốt hơn.
Thí nghiệm cũng cho thấy nếu chỉ bón phân khoáng liều càng cao thì sinh khối giun đất càng giảm, mật độ vi sinh có lợi cũng giảm. Từ đấy tác giả kết luận rằng sử dụng 30% vỏ cà phê đã xử lý để chế biến ra loại phân hữu cơ nói tên, rồi dùng 10 tấn phân hữu cơ này phối hợp với 320kg N + 100kg P205 + 350kg K2O/ha bón cho cà phê vối vừa có tác dụng cải tạo đất vừa mang lại năng suất cà phê cao hơn nền chỉ bón phân khoáng là 14,6%.
GS.TS Mai Văn Quyền
Th1026
Áp lực sâu bệnh trước vụ điều mới, nhà nông căng thẳng lo âu
Thời tiết diễn biến thất thường, sâu bệnh bùng phát khiến những người nông dân trồng điều chưa bao giờ hết âu lo. Ghi nhận trước vụ điều mới 2018 cho thấy, diện tích điều nhiễm sâu bệnh vẫn xuất hiện ở nhiều địa phương.
Trong khi đó, mới đây lại xuất hiện thông tin sâu đục thân, đục cành hoành hành cây điều trên diện rộng.
Gây hại nặng ở vườn điều trồng bằng hạt
Trên thực tế, sâu đục thân, đục cành trên điều thuộc loài xén tóc đã từng có lịch sử gây hại nặng ở nhiều tỉnh. Tại Lâm Đồng, từ năm 2012 – 2014, sâu đục thân, đục cành gia tăng mạnh tại huyện Đạ Huoai, chủ yếu gây hại trên cây điều 5 – 8 tuổi. Cục bộ, một số vườn có tỉ lệ cây bị hại 100%, gây thiệt hại nặng nề về năng suất, một số diện tích đã phải phá bỏ.
Tăng cường tỉa cành tạo tán, vệ sinh vườn vẫn là biện pháp quan trọng để phòng trừ sâu bệnh hại trên cây điều.
“Sau thời gian tích cực phòng chống bọ xít muỗi, thán thư; các vườn điều đang phục hồi tốt. Nhưng để bảo vệ vườn điều cho niên vụ mới đạt hiệu quả cao, các tỉnh trồng điều phải lên kế hoạch, dự trù kinh phí cũng như phối hợp các đơn vị liên quan tổ chức tập huấn, để phòng trừ tốt sâu bệnh hại”. Ông Lê Văn Thiệt – Cục phó Bảo vệ thực vật
Năm 2018, thời tiết diễn biến phức tạp khi nắng, mưa xen kẽ, độ ẩm không khí cao tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh gây hại. Theo thống kê của 3 huyện phía Nam: Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên; sâu đục thân, cành trên điều gia tăng mạnh từ tháng 9 đến nay. Hiện toàn tỉnh đã có 832ha bị nhiễm, trong đó Đạ Tẻh nhiễm gần 620ha.
So với cùng kỳ năm 2016 – 2017, diện tích nhiễm bệnh sâu đục thân, cành ít biến động. Tuy nhiên, loại này gây hại nặng ở các vườn điều của bà con dân tộc thiểu số, vốn ít đầu tư chăm sóc hoặc các vườn điều trồng bằng hạt từ 10 năm tuổi trở lên.
Theo Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Đồng Nai, sâu đục thân tuy chỉ gây hại cục bộ nhưng xuất hiện ở khắp các vùng trồng trong tỉnh. Các vườn điều ít tỉa cành tạo tán thường bị thiệt hại nặng hơn các vườn khác vì sâu có nơi trú ngụ để hoàn tất vòng đời ngay trong thân cây, gây hại từ năm trước sang năm sau.
Với lịch sử từng gây hại nặng ở khu vực Đông Nam Bộ, nhóm sâu đục thân, cành đang có xu hướng gia tăng nên rất đáng quan tâm, nhất là với nhiều nông dân chưa có kinh nghiệm xử lý bệnh hại đục thân, cành.
Tại huyện Đồng Phú (Bình Phước), lão nông Năm Thống kể, từ cuối tháng 9, trên cây điều xuất hiện những con sâu trắng bám trên thân. Trong vườn, nhiều gốc điều bị xì mủ, một số cây điều bắt đầu chết. “Tôi biết sâu đục thân gây thiệt hại lớn cho cây điều, song không nắm rõ chu kỳ sinh trưởng, phát triển của nó nên không có cách phòng, chống triệt để” – ông Thống băn khoăn.
Sâu bệnh còn nhiều
Theo thạc sĩ Lê Thúc Long – chuyên viên Sở NNPTNT tỉnh Bình Phước, sâu đục thân, cành là đối tượng thường xuyên có mặt nhưng không phải nông dân nào cũng biết rõ cách xử lý.
Loại sâu bệnh này chủ yếu đẻ trứng vào tháng 3 – 4 hàng năm, khi mùa vụ điều thu hoạch xong. Nhiều nơi, nhất là nông dân người dân tộc Stiêng, Tày thường không quan tâm chăm sóc vườn cũng như tỉa cành tạo tán để cho bọ xén tóc có môi trường tiếp tục duy trì vòng đời.
Bình Phước có tổng diện tích trồng điều 134.200ha. Thực tế điều tra cho thấy, Bình Phước chỉ mới phát hiện diện tích điều bị nhiễm sâu đục thân, cành khoảng 800ha chứ không phải 22.000ha như một số thông tin trước đó. “Tuy nhiên, Sở NNPTNT tỉnh vẫn đang tăng cường cập nhật tình hình, thực hiện các biện pháp cấp bách để hỗ trợ bà con phòng trừ sâu bệnh; đặc biệt trong điều kiện biến đổi khí hậu khó lường và áp lực sâu bệnh đang gia tăng hiện nay” – ông Long cho biết.
Theo Cục Bảo vệ thực vật, nguồn nguyên liệu điều trong nước cung cấp cho các nhà máy luôn trong tình trạng thiếu hụt do diện tích cây trồng lâu năm già cỗi, cho năng suất thấp. Thời tiết không thuận khiến nhiều loại sâu bệnh hại phát sinh những năm qua, ảnh hưởng nặng đến năng suất và chất lượng hạt điều.
Do nắng nóng kết hợp mưa nhiều, bọ xít, muỗi chích hút tạo vết thương là nguyên nhân gia tăng nhanh diện tích nhiễm bệnh thán thư. Tính đến giữa tháng 10.2018, diện tích nhiễm thán thư lúc cao điểm tăng lên gần 54.420ha (tăng hơn 1.120ha so cùng kỳ năm 2017). Trong đó, diện tích nhiễm nặng lên gần 1.300ha, tập trung ở các tỉnh có diện tích điều lớn như Bình Phước, Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận…
Với bọ xít muỗi, diện tích nhiễm lúc cao điểm 51.317ha, giảm gần 7.000ha so cùng kỳ 2017. Với sâu đục thân, cành, diện tích nhiễm cao điểm là 3.252ha, giảm 30ha so cùng kỳ 2017.
Theo ông Đỗ Văn Vấn – Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam, số liệu trên cho thấy sâu đục thân, cành chỉ là đối tượng gây hại thứ yếu. Đến tháng 11 mới bắt đầu vào vụ điều mới nhưng hiện tại, một số vườn điều đã bắt đầu trổ hoa. Các địa phương cần tiếp tục lưu ý các loại sâu bệnh có vòng đời ngắn như bọ xít, muỗi, thán thư và sâu đục trái.
Theo dự báo của Trung tâm khí tượng thủy văn, đến cuối năm, khu vực phía Nam, thời tiết sẽ chuyển dần từ khí hậu pha lạnh sang pha nóng (El Nino) với xác suất khoảng từ 60-70%. Ông Lê Văn Thiệt – Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật cho rằng nếu khi mùa mưa kết thúc sớm như dự đoán, hiện tượng mưa trái mùa sẽ giảm. Đây là tin vui đối với cây điều đang bắt đầu trổ bông.
Theo Nguyên Vỹ (Dân Việt)
Th1018
Thanh Long sạch trụ vững trong khó khăn
Trong khi thanh long trồng đại trà rớt giá xuống 500-1.000 đồng/kg, thanh long VietGAP, GlobalGAP 22.000 đồng/kg vẫn bán ào ào.
Tỉnh Bình Thuận hiện có 30 hợp tác xã và 2 liên hiệp hợp tác xã thanh long với diện tích canh tác hơn 3.000 ha. Đây là những địa chỉ sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP luôn bảo đảm được giá bán cao dù thị trường chung rớt giá thê thảm.
Hàng “sạch” giá cao
Trong khi hàng trăm hộ trồng thanh long Bình Thuận phải cắn răng đổ bỏ hàng trăm tấn thanh long vì giá bán rẻ như cho thì cũng ở đây, các vườn trồng thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP vẫn bán được giá cao. Ông Võ Văn Chiến, thành viên của hợp tác xã Thanh long GlobalGAP Thuận Tiến (xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc), cho biết hơn nửa tháng nay, nhiều hộ trồng thanh long phải đổ bỏ vì không có người mua nhưng hơn 10 tấn thanh long của vườn nhà ông vẫn bán được 22.000 đồng/kg đúng theo cam kết ủy thác xuất khẩu sang thị trường châu Âu từ đầu năm.
Thanh long “sạch” vẫn trụ vững trong cơn bão rớt giá
Hợp tác xãThanh long GlobalGAP Thuận Tiến có 11 thành viên. Trong 2 năm qua, đơn vị đã liên kết được với đối tác xuất thanh long qua các thị trường châu Âu như: Đức, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha… Theo ông Trần Đình Trung, giám đốc hợp tác xã, các hộ trong hợp tác xã phải cam kết sản xuất theo đúng yêu cầu của đối tác. Do tuân thủ nghiêm quy trình sản xuất, việc hợp tác rất thuận lợi từ mấy năm nay, nhờ vậy, các thành viên yên tâm sản xuất mà không lo về giá cả và đầu ra.
Hiện toàn tỉnh Bình Thuận có 30 hợp tác xã và 2 liên hiệp hợp tác xã trồng thanh long. Trong quá trình hoạt động, các hợp tác xã rất chú trọng việc xây dựng thương hiệu thanh long sạch bằng cách dán tem chỉ dẫn địa lý, tem QR code truy xuất nguồn gốc, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, làm cầu nối giúp nông dân tiếp cận với các thị trường mới ngoài Trung Quốc. Thanh long Bình Thuận đang tiêu thụ trên thị trường dưới dạng tươi, trong đó chỉ 15% sản lượng tiêu thụ nội địa, còn lại xuất khẩu. Để xuất khẩu chính ngạch, thanh long phải được sản xuất sạch, truy xuất được nguồn gốc, qua chiếu xạ, kiểm tra nhiều tiêu chí về an toàn thực phẩm… Trong nhiều năm nay, sản lượng xuất khẩu chính ngạch chỉ chiếm 2%-3% tổng sản lượng thanh long do người trồng chưa cung ứng được sản phẩm “sạch” theo tiêu chuẩn nhà nhập khẩu yêu cầu.
Thanh long Bình Thuận tăng giá trở lại
Sau hơn một tuần giảm giá mạnh, chỉ còn 500-1.000 đồng/kg mà không có người mua, hiện giá thanh long ở Bình Thuận đã tăng trở lại. Chị Trần Thị Gái – chủ vựa thanh long ở xã Hàm Thắng, huyện Hàm Thuận Bắc – cho biết từ ngày 11-10, thanh long loại 1 được vựa thu mua khoảng 7.000-8.000 đồng/kg, loại 2 khoảng 5.000-6.000 đồng/kg.
Theo lý giải của đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Thuận, hiện nay việc thu hoạch thanh long đợt cuối đã kết thúc, sản lượng không còn nhiều như trước nên giá bán nhích lên. Mặt khác, việc vận chuyển hàng hóa tại cửa khẩu với Trung Quốc đã thông suốt, giao thương hàng hóa thuận lợi. Dự báo trong những ngày tới, giá thanh long Bình Thuận có thể tăng.
Giá thanh long rục rịch tăng trở lại càng khiến nhiều hộ nông dân tiếc nuối vì không còn hàng để bán.
Chị Nguyễn Thị Hà (xã Hàm Mỹ, huyện Hàm Thuận Nam) chua xót nói: Lúc giá thanh long xuống thấp kêu mãi không thương lái nào tới mua. Trái hư, gia đình chờ không được phải chặt bỏ hết. Giờ giá tăng trở lại thì không còn gì để bán. Ông Nguyễn Văn Tám (xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc) thì buồn rầu cho biết vụ mùa này, vườn nhà ông có khoảng 5.000 trái. Không bán được cho ai, ông phải chặt bỏ hết trái chín để dưỡng cành cho kịp làm thanh long nghịch vụ. Giờ ngồi nhìn giá tăng càng buồn hơn.
Phải phát triển sản xuất “sạch”
Ông Phan Văn Tấn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Thuận, cho rằng để thanh long Bình Thuận phát triển hiệu quả và bền vững, bên cạnh việc mở rộng tìm kiếm thị trường chính ngạch, cần phải phát triển sản xuất thanh long theo quy trình sạch, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.
Theo Việt Khánh (Báo NLĐ)
Th1015
Con số người chết vì ung thư ở làng rau
Cuộc điều tra nhanh của NNVN ở một xã nông nghiệp điển hình tại tỉnh Hải Dương đã chỉ rõ sự khác nhau giữa chuyện ốm đau và tuổi thọ của người dân chuyên trồng lúa và người dân chuyên trồng rau…
Tiếng kèn, tiếng trống vừa thôi nỉ non, ai oán, giọng ông trưởng ban tang lễ đã vang lên rõng rạc: “Kính thưa hương hồn anh Nguyễn Văn Bờ (đã đổi tên). Kính thưa gia đình tang quyến. Kính thưa các cụ ông, các cụ bà, các ông, các bà cùng toàn thể nhân dân trong thôn… Anh Nguyễn Văn Bờ sau thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù đã được các bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc nhưng do bệnh quá hiểm nghèo, đã lìa trần vào hồi…”. Đó là cảnh thường thấy tại đám tang của những bệnh nhân ung thư ở một thôn chuyên trồng rau tại xã Hưng Đạo (huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương).
Tâm sự của một người chuyên viết điếu văn
Hưng Đạo có 3 thôn, dân số khá tương đồng, đều khoảng trên dưới 4.000 người, điều kiện địa lý, xã hội tương đối giống nhau, đều không gần nhà máy, xí nghiệp hóa chất hay ô nhiễm nào, đều dùng chung một nguồn nước máy nên rất thích hợp cho cuộc điều tra nhanh của tôi.
Ông Nguyễn Thanh Tâm – trưởng thôn Ô Mễ thống kê trung bình mỗi năm làng có khoảng 30 – 32 người chết với 3 nguyên nhân chính: Chết già, chết bệnh hiểm nghèo và chết do tai nạn. Là người chuyên viết điếu văn nên ông nhận thấy gần đây số người chết vì bệnh hiểm nghèo mà đặc biệt là ung thư đang gia tăng nhanh chóng.
Như nhà trưởng thôn có 5 sào ruộng, nếu trước đây mỗi năm cấy 2 vụ lúa, mỗi vụ phun trung bình 2 lần thuốc BVTV, tính theo thời giá hiện nay hết khoảng 80.000 – 100.000 đồng/sào. Giờ chuyển sang trồng rau mỗi vụ 2 tháng phun 5 lần, mỗi vụ dưa hấu 2 tháng phun 5 – 6 lần, tổng hết khoảng 500.000 đồng/sào. Hàng ngàn hộ dân trong thôn cùng đổ thuốc xuống ruộng nên trên đồng, dưới mương cá, cua, tôm, ốc bản địa giờ đây gần như mất sạch chỉ còn sót lại mấy loài ngoại lai như rô phi, ốc bươu vàng.
Thế còn con người? 18 năm làm trưởng thôn là biết bao nhiêu lần ông Tâm ngồi viết và đọc điếu văn cho người đã khuất. Thôn không có quỹ hiếu mà đoàn cán bộ quân dân chính của ông đi viếng chỉ có 1 gói chè, 1 thẻ hương, 1 hộp nến trị giá khoảng 30.000 đồng nhưng số đó không là gì nếu so với giá trị ngày công của họ bỏ ra. Đoàn quân dân chính ấy gồm 25 người từ chi ủy, trưởng phó thôn, đại diện các ban ngành đi đưa đám gần trọn nửa buổi. 1 đám tính ra hết hơn 10 công. 1 năm thôn hơn 30 đám vị chi hết hơn 300 công.
Tuổi thọ của dân trong thôn theo ông Tâm tổng kết tuy có nâng lên nhưng xưa kia khỏe đến chết, giờ ốm oặt ẹo mãi mới “đi”: “Xưa trung bình người ta chỉ ốm khoảng 3 tháng rồi chết, giờ thời gian ốm trung bình phải hơn 1 năm rồi mới chết, nhiều người nằm 4 – 5 năm thậm chí hơn 10 năm đến thối da, thối thịt…”.
Trên giấy tờ và trong thực tế
Đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của thuốc BVTV đến sức khỏe người nông dân tại xã Hưng Đạo” do GS.TS Nguyễn Văn Song, cử nhân Vũ Thị Thanh Thủy và các cộng sự thực hiện vào giữa năm 2017 đã phần nào hé mở lý do bệnh tật và tuổi thọ của người dân nơi đây. Nhóm chọn 2 thôn Xuân Nẻo và Ô Mễ để tiến hành điều tra 100 hộ dân đồng thời thu thập số liệu tại Trạm y tế xã và thống kê của Trung tâm y tế huyện làm đối chứng.
Lượng thuốc BVTV sử dụng của làng rau gấp nhiều lần làng lúa
Tứ Kỳ có 27 xã, thị trấn trong đó Hưng Đạo là một trong số những trọng điểm về sản xuất nông nghiệp. Theo kết quả tổng hợp của Trung tâm y tế trong 2 năm 2015 – 2016 toàn huyện có tổng cộng 456 người mắc ung thư các loại, trong đó xã Hưng Đạo năm 2015 chiếm 3,8%, năm 2016 chiếm 6,91%/tổng số người mắc.
Nhìn chung tỷ lệ người dân của xã mắc bệnh ung thư ngày một tăng: “Số người tử vong và nguyên nhân tử vong do mắc bệnh ung thư của cả xã Hưng Đạo tập trung lớn vào thôn Ô Mễ với 80 người chết (chiếm 41, 7%), 40,32% trong số người chết đó là do mắc bệnh ung thư trong vòng ba năm 2014 – 2016.
Sau thôn Ô Mễ là thôn Xuân Nẻo, một thôn cũng có quy mô diện tích sản xuất rau chỉ ngay sau thôn Ô Mễ với 62 người chết (chiếm 32,3%), 26 trường hợp trong số 62 người chết đó là do ung thư trong vòng ba năm.
Thôn Lạc Dục với đặc điểm sản xuất nông nghiệp chủ yếu là lúa và kết hợp nuôi trồng thủy sản, trong ba năm gần đây thôn có tỷ lệ số người chết và tử vong do mắc bệnh ung thư thấp nhất.
Đặc biệt trong ba thôn tại xã, thôn Ô Mễ có tỷ lệ mắc bệnh ung thư và tử vong do ung thư nhiều nhất, đồng thời qua điều tra tại xã cho thấy nam giới thường mắc bệnh hơn nữ giới.
Giải thích nguyên nhân này là do đa số chủ hộ là nam giới thường tham gia sản xuất nông nghiệp là chính…”.
Cũng nhóm nghiên cứu, nhận định: “Con số thống kê (bệnh nhân ung thư) của toàn huyện trên ở mức tương đối vì còn có trường hợp muốn đạt thành tích mà xã tổng hợp báo cáo lên Trung tâm y tế huyện chưa thật sự đầy đủ”.
Nhưng Bác sĩ Nguyễn Văn Tố – Trạm trưởng Trạm y tế Hưng Đạo lại lý giải theo hướng khác mà tôi thấy hợp lý hơn: “Con số tử vong do ung thư của Trạm y tế xã thống kê là từ xin số liệu của xã do người nhà họ cung cấp khi ra làm giấy chứng tử.
Nếu bắt buộc họ trình bệnh án thì mới có con số chính xác được. Bệnh nhân ung thư nếu còn trẻ thường được đưa đi bệnh viện xạ trị, hóa trị còn già mà phát hiện ra bệnh thường là cho về nhà.
Bởi thế, nếu người chết dưới 60 tuổi hay được khai thật là chết vì ung thư còn trên đó người ta khai chết già để con cháu còn có tiếng là có cụ trường thọ”.
Năm 2017 xã Hưng Đạo có 12/75 ca tử vong là ung thư, 9 tháng năm 2018 có 12/64 ca tử vong là ung thư. Tỷ lệ trên giấy tờ chưa đến 20% nhưng tỷ lệ thật theo bác sĩ Tố phỏng đoán phải 20 – 30%.
Ngồi đối chiếu bảng danh sách tử vong và nguyên nhân tử vong của thôn mình do Trạm y tế cung cấp, ông Tâm – trưởng thôn Ô Mễ liên tục đặt dấu hỏi, nghi ngờ ông Văn Lờ (đã đổi tên) ghi trong sổ tử là già yếu nhưng thực tế dân làng đồn là ung thư, ông Hữu Chờ (đã đổi tên) ghi trong sổ tử là suy thận nhưng thực tế dân làng đồn là ung thư máu, ông Văn Vê (đã đổi tên) cũng tương tự…
Cứ theo tính toán của trưởng thôn Tâm, năm 2017 số người chết của thôn do ung thư và nghi ung thư (người nhà giấu) phải là 10/27 ca tử vong, 9 tháng đầu năm 2018 tỷ lệ đó là 9/22 ca tử vong, chiếm 37% và gần 40% – một tỷ lệ cao khủng khiếp.
Số người cảm thấy trong người khó chịu sau khi phun thuốc BVTV chiếm 48,9% với các triệu chứng thường gặp là ngứa ngoài da (33,3%), không muốn ăn (28,9%), đau đầu chóng mặt (24,4%). Tuy nhiên, những người được phỏng vấn cho rằng tình trạng ảnh hưởng sau khi phun thuốc trên là không đáng kể (92,2%), chỉ khi nào bị nhiễm thuốc BVTV tới mức phải đi viện hoặc uống thuốc kháng sinh mới được coi là mức độ nghiêm trọng. Trong đó có 48,9% số người trả lời phỏng vấn tự điều trị, nghỉ ngơi. 41,1% số người không quan tâm đến vẫn tiếp tục phun và 5,6% khi thật sự nặng họ mới đến trạm xá. Thông thường khi gặp rủi ro thì số người bị là cả gia đình. Xét về mức độ ảnh hưởng thì Ô Mễ là thôn có số người gặp rủi ro ở mức nghiêm trọng hơn thôn Xuân Nẻo. (Trích báo cáo của nhóm nghiên cứu)
——————————
Dân giàu lên, thuốc BVTV trút xuống đồng cũng nhiều lên!
Ô Mễ có khoảng 190ha đất nông nghiệp. Trước đây diện tích này chủ yếu cấy lúa nhưng khoảng 15 năm gần đây đã chuyển sang trồng rau màu theo công thức chung là 2 vụ rau 1 vụ dưa hấu. Nhờ trồng rau mà kinh tế của thôn đi lên thấy rõ. Theo ước tính của Trưởng thôn, hộ giàu có nhà xây từ 500 triệu trở lên, có thu nhập từ 150 triệu/năm trở lên chiếm khoảng 40%. Nhưng cũng từ hồi chuyển sang trồng màu, lượng thuốc BVTV trút xuống đồng ruộng của thôn đã gấp 4 – 5 lần xưa.
Cách đây chừng 15 năm, tôi là nhà báo đầu tiên trong cả nước viết về làng ung thư Thạch Sơn, tỉnh Phú Thọ nơi gần một nhà máy hóa chất lớn. Lúc ấy, làng ung thư là một khái niệm hoàn toàn mới bởi trước đó người ta chỉ biết đến bệnh ung thư chứ không biết đến một cộng đồng làng xã nào gắn với căn bệnh quái ác đó. Thạch Sơn hồi ấy có khoảng trên 20% ca tử vong là do ung thư.
Chỉ 13 – 14 năm sau, khi tôi thực hiện một cuộc điều tra nhanh ở mấy xã thuộc vùng sâu, vùng xa tại Hải Dương, Hưng Yên, những nơi không liền kề bất cứ nhà máy, xí nghiệp ô nhiễm nào thì tỷ lệ chết do ung thư cũng đều khoảng trên 20% thậm chí 30%, vượt xa làng ung thư năm nào.
Theo Dương Đình Tường/Báo Nông nghiệp Việt Nam
Th1006
Thanh long rớt giá sốc
Hai tuần trước thanh long được thu mua với giá 15.000 – 20.000 đồng thì hiện rớt xuống còn 1.500 – 2.000 đồng, nhiều nơi nhà vườn phải đổ bỏ.
Ông Nguyễn Văn Ba (xã Bông Trang, huyện Xuyên Mộc) cho biết, bảy năm trồng thanh long ruột đỏ, ông chưa từng gặp cảnh giá rớt thê thảm như hiện nay. “Cách đây nửa tháng, thương lái mua 15.000 – 20.000 đồng một kg, đột ngột ba hôm nay giảm xuống còn 1.500 – 2.000 đồng mỗi kg nhưng phải năn nỉ mới có người chịu mua”, ông Ba nói và cho biết thêm những vườn thanh long ruột trắng thì không ai ngó ngàng tới.
Thương lái mua thanh long ruột đỏ của ông Nguyễn Văn Ba với giá 1.500 – 2.000 đồng mỗi kg.
Mọi năm, 400 gốc thanh long cho hơn 4 tấn quả, mang lại nguồn thu từ 100 – 150 triệu đồng thì nay ước chỉ thu được 6 – 8 triệu đồng, không đủ chi phí thuê công cắt quả. “Bây giờ, giá nào cũng phải bán, nếu không ba hôm nữa gặp trận mưa cả vườn trái bị nứt toác, thối rữa phải tốn tiền thuê người hái bỏ để dưỡng cây cho vụ tới”, ông Ba cho hay.
Bà Đặng Thị Hường bán 3 tấn thanh long được hơn ba triệu đồng. Trong khi tiền phân bón, thuốc và thuê người “vuốt tai” trái cho 500 gốc thanh long bà đã chi hơn 30 triệu. “Tiền vay mượn để đầu tư nhưng giờ thì coi như trắng tay và cũng không biết vụ tới đây tình hình như thế nào nữa. Thật sự tôi rất lo lắng”, bà Hường nói.
Bà Linh, thương lái cho biết, tình hình thu mua thanh long cho nông dân ở Bà Rịa – Vũng Tàu đang rất căng thẳng vì kho của các vựa ở Bình Thuận xuất đi Trung Quốc đã đầy. “Tôi đánh xe thanh long loại đẹp nhất ra Phan Thiết bán với giá 5.000 đồng mỗi kg nhưng không một vựa nào chịu lấy. Đến nửa đêm, vựa có người Trung Quốc thu mua trả 3.000 đồng mỗi kg, lỗ nặng cũng phải bán”, bà Linh nói và cho biết, sáng nay, vựa báo cho thu mua giá 1.500 đồng một kg, mua lại giá 2.000 đồng một kg.
Theo bà Linh, hiện còn hàng trăm tấn thanh long ùn ứ ở vườn dân và những người thu mua đều phải chịu lỗ nhưng phải tìm cách bán cho nông dân gỡ gạc phần nào. “Một vài ngày tới có thể thanh long sẽ không cắt được khi vựa ngừng mua”, bà Linh dự báo.
Nếu thương lái không mua, vài ngày tới vườn thanh long này phải hái bỏ.
Ông Trần Văn Phương, Chủ tịch Hội Nông dân Xuyên Mộc cho biết, toàn huyện có gần 200 ha thanh long tập trung ở hai xã Bông Trang và Bưng Riềng.
“Hội đã liên hệ với một số nhà máy để người dân mang thanh long đến bán nhưng không có nơi nào nhận hàng vì kho đã đầy, trong khi hàng xuất đi không được. Thực trạng này khiến người trồng thanh long ở huyện Xuyên Mộc rất khó khăn”, ông Phương nói và khuyến cáo người dân nên rất cân nhắc việc phát triển diện tích trồng thanh long trong thời gian tới.
Nông dân miền Tây thua lỗ
Đứng bên ruộng thanh long ruột đỏ 2.000 m² vừa thu hoạch ngày hôm trước với giá bán xô 3.000 đồng, ông Huỳnh Văn To (Vĩnh Công, Châu Thành, Long An) cho biết, vụ này, ông thua lỗ hàng chục triệu đồng.
“Đầu vụ thương lái đến đặt tiền cọc, mua giá 20.000 đồng mỗi kg, tuy nhiên, sau đó họ bỏ luôn cọc khiến nhiều nông dân khốn đốn buộc phải bán với giá bèo bọt, từ 2.000 – 7.000 đồng mỗi kg”, ông To nói.
Theo cách tính của nông dân, bình quân mỗi kg thanh long ruột đỏ giá trên 10.000 đồng trở lên mới mong có lãi. Không chỉ có nông dân gặp khó khăn, hiện tại, trên địa bàn huyện Châu Thành có hơn 200 cơ sở mua thanh long xuất khẩu. Một số cơ sở cho biết, những ngày qua do lượng thanh long quá lớn nên họ gặp khó khăn do kho bãi không đủ chỗ.
Ông Nguyễn Văn Thình, Chủ tịch UBND huyện Châu Thành thông tin, diện tích trồng thanh long tại huyện khoảng 8.300 ha, lớn nhất tỉnh, trong đó, có khoảng 6.500 ha thanh long ruột đỏ. Hầu hết diện tích trên đang cho thu hoạch năng suất cao do thời tiết thuận lợi hơn mọi năm.
Gia đình ông Dũng (Tiền Giang) cắt thanh long đổ đống nhưng thương lái chê không mua. Ảnh: Hoàng Nam.
“Bình quân mỗi ha thanh long cho ba tấn trái, đợt này có khoảng 600 ha chín đồng loạt, khoảng 180.000 tấn trái phải thu hoạch trong vòng một tuần lễ thì không cách nào tiêu thụ kịp”, ông Thình nói và cho biết, đây là đợt xuống giá thấp kỷ lục trong 5 năm trở lại đây. Địa phương này cũng khẳng định qua xác minh, không có tình trạng thương lái lợi dụng thu hoạch đồng loạt để ép giá nhà vườn.
Tại tỉnh Tiền Giang có hơn 6.500 ha thanh long cũng xảy ra tình trạng tương tự. Mấy ngày qua, nửa ha thanh long ruột đỏ của ông Nguyễn Hoàng Dũng (Chợ Gạo) phần lớn phải đem bán tháo, một số vứt bỏ.
“Thương lái đã đặt cọc trước đó giá 12.000 đồng mỗi kg, tuy nhiên sau đó họ giảm xuống còn 5.000 đồng. Chúng tôi bấm bụng bán vì không còn ai chịu mua, thanh long thì đã cắt đổ đống chờ. Tuy nhiên, sau đó họ đến nhưng chê thanh long xấu không mua nữa”, ông Dũng nói.
Nhận định về tình trạng giảm giá sốc này, một công ty chuyên thu mua thanh long xuất khẩu ở Tiền Giang cho biết, hiện họ vẫn thu mua thanh long ruột đỏ với giá 27.000 đồng một kg, ruột trắng 17.000 đồng. “Năm nay, thanh long tại vườn của nhiều nông dân có giá rẻ là do trái xấu, không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu”, đại diện công ty này nói.
Nguyễn Khoa – Hoàng Nam (vnexpress)
Th919
Quảng Trị: trồng dưa lưới Nhật Bản
Anh Dương Quốc Vinh ở thôn Cang Gián, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị là chủ nhóm nông dân trồng dưa lưới đến nông trại sớm hơn mọi ngày. Gọi là nông trại song thực ra đây là mô hình trồng dưa lưới trên cát theo công nghệ cao của Nhật Bản.
Anh Vinh cho biết, để tạo ra một quả dưa lưới đạt chuẩn nhập vào các siêu thị cao cấp và xuất khẩu bắt buộc phải kiểm soát được ánh sáng, nhiệt độ và độ ẩm. Do đó nông trại của anh Vinh trồng dưa lưới trong nhà kính.
Việc đầu tiên anh bước chân vào khu nhà kính là kiểm tra nhiệt độ. Dưa lưới phát triển tốt ở nhiệt độ bình quân trong ngày khoảng 28 – 30 độ C, nhưng có thể chịu được nhiệt lên đến 37 độ C. Do chuẩn bị thu hoạch dưa nên hệ thống tưới được điều chỉnh ở chế độ thấp nhất để đảm bảo cho các chất dinh dưỡng của cây tập trung vào trái ngọt.
Ăn miếng dưa lưới vừa được anh Vinh hái bổ mời khách tôi cảm nhận được thịt dưa mềm và có vị ngọt thanh, đặc biệt mùi rất thơm. Anh Vinh chia sẻ để có được quả dưa lưới đạt chất lượng, ban đầu hạt giống sẽ được ươm trong giá thể khoảng 10 ngày, sau đó đem trồng khoảng 75 ngày thì đến thời kỳ thu hoạch. Nhờ sử dụng hệ thống nhà kính nên mỗi năm anh Vinh có thể trồng được 3 vụ. Thông thường mỗi cây dưa cho 2 – 3 quả nhưng những quả non xấu sẽ được cắt để dành tất cả mọi dưỡng chất của cây tập trung cho quả ngon duy nhất được giữ lại. Quả dưa lưới chất lượng không chỉ thơm, ngọt mà phải đẹp, vân vỏ phải đều, rõ.
Nông trại dưa lưới của anh Vinh được đánh giá đạt năng suất, chất lượng vượt trội. Hầu hết sản lượng dưa lưới của anh Vinh được bán cho siêu thị Utimex Hà Nội vì họ đã ký hợp đồng tiêu thụ dài hạn với giá hơn 50 ngàn đồng/kg.
Để có được nông trại dưới lưới công nghệ cao này, trước đó vào cuối năm 2017, Sở NN-PTNT tỉnh Quảng Trị phối hợp với UBND huyện Gio Linh, UBND xã Trung Giang, Cty TNHH Sumitomo Việt Nam và Cty TNHH Seibu Nousan Việt Nam triển khai mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trồng dưa lưới theo công nghệ Nhật Bản tại thôn Cang Gián.Gia đình anh Vinh được chọn trưởng nhóm hộ thực hiện mô hình mới này.
Sau khi tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho nhóm hộ trồng dưa lưới tại địa phương, các đơn vị xây dựng 2 nhà kính có tổng diện tích 500m2. Tổng kinh phí thực hiện mô hình hơn 1,3 tỷ đồng, trong đó tập đoàn Sumitomo Corporation hỗ trợ gần 1 tỷ đồng.
Mô hình đã sử dụng giá thể bằng đất cát, áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm, dinh dưỡng được pha chế và đưa vào cây qua hệ thống tưới nhỏ giọt, đảm bảo cho các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây. Mặc dù trồng trong thời tiết và khí hậu đất cát nhưng cây sinh trưởng và phát triển tốt, đã cho ra quả, trọng lượng mỗi quả bình quân từ 1,5 – 2,5kg.
Mới đây, ông Nguyễn Đức Chính, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị đích thân kiểm tra nông trại dưa lưới của anh Vinh. Ông Chính đánh giá cao kết quả bước đầu mô hình mang lại và mong muốn Tập đoàn Sumitomo Corporation tiếp tục có sự hỗ trợ để thực hiện mô hình này tốt hơn nữa; đồng thời giúp địa phương tìm thị trường tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu…
Giáo sư Yoshiharu Tsuboi, cố vấn Tập đoàn Sumitomo Corporation đánh giá đất cát ở Quảng Trị rất sạch nên mới có thể sử dụng kỹ thuật của Nhật Bản triển khai mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trồng dưa lưới. Kết quả ban đầu cho thấy, cây dưa lưới phát triển tốt, chất lượng quả đảm bảo. Vì thế ông kỳ vọng dưa lưới Quảng Trị không chỉ đến với thị trường trong nước mà có thể vươn ra thị trường quốc tế.
Nguồn: báo nông nghiệp
Th917
Nông sản Việt xuất khẩu sang Trung Quốc còn nhiều bấp bênh
Hiện Trung Quốc là thị trường nhập khẩu chủ yếu nhiều loại nông sản Việt Nam, tuỳ nhiên việc xuất khẩu nông sản sang thị trường này còn nhiều bấp bênh.
Nhằm triển khai hiệu quả các chương trình mở rộng thị trường cho nông sản Việt, ngày 26/8, tại Tp.Hồ Chí Minh, Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ) phối hợp với Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản và Câu lạc bộ Nông nghiệp công nghệ cao (DAA Việt Nam) tổ chức Hội thảo “Nâng cao hiệu quả tiếp cận thị trường Trung Quốc cho nông sản Việt”.
Không còn là thị trường dễ tính
Theo ông Nguyễn Hoàng Anh, Thành viên Hội đồng tư vấn cải cách, Phó Chủ tịch thường trực DAA Việt Nam, do sự tương đồng văn hóa, ẩm thực và gần gũi địa lý nên nhiều năm nay Trung Quốc là thị trường chiến lược và đầy tiềm năng cho nông sản Việt Nam.
Riêng trong năm 2017, trong 3,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng rau củ quả thì Trung Quốc chiếm đến 76% giá trị. Hiện Trung Quốc là thị trường nhập khẩu chủ yếu nhiều loại nông sản của Việt Nam.
Tuy nhiên, việc xuất khẩu nông sản sang thị trường này còn bấp bênh. Xuất khẩu chủ yếu vẫn còn đi nhiều bằng đường tiểu ngạch nên không chú ý truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu. Nhiều trường hợp hàng hóa ứ đọng, giá giảm sâu, có khi bị đổ bỏ nơi cửa khẩu. Vấn đề minh bạch, uy tín trong hợp tác giữa các doanh nghiệp hai bên vẫn chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Đề cập cụ thể hơn cơ hội cho nông sản Việt ở thị trường Trung Quốc, ông Vĩ Tích Thành, Tham tán Kinh tế và Thương mại Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc tại Tp.Hồ Chí Minh chia sẻ, ẩm thực có vai trò lớn trong đời sống người dân Trung Quốc. Họ thích ăn, biết ăn và ăn rất khỏe.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã chủ động mở rộng nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân và đã trở thành quốc gia nhập khẩu nông sản lớn nhất thế giới. Hiện kim ngạch nhập khẩu nông sản của Trung Quốc chiếm 1/10 kim ngạch thương mại nông sản toàn cầu, với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân 8,8%/năm.
Những điều kiện trên là cơ hội to lớn để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản vào Trung Quốc. Chỉ cần lưu ý hơn một chút về vấn đề thói quen tiêu dùng và sở thích của người dân Trung Quốc thì Việt Nam có thể mở rộng tiêu thụ hơn nữa ở thị trường này. Tuy vậy, vấn đề xuất khẩu nông sản Việt sang Trung Quốc hiện đang gặp một số khó khăn nhất định.
Theo ông Thành, nông sản Việt xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu bằng con đường tiểu ngạch. Tuy đây là một phần quan trọng của thương mại hai bên, nhưng mang tính tuỳ ý, không bền vững, có rủi ro lớn vì chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ đang làm.
Sản xuất nông sản vẫn theo quy mô nhỏ, chất lượng sản phẩm không đồng đều và sức cạnh tranh không cao. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt chưa chủ động khai thác thị trường Trung Quốc, phần lớn nông sản xuất khẩu sang là do các thương lái sang tận nơi để tìm nguồn hàng.
Dù là nước xuất khẩu nông sản lớn hiện nay nhưng Việt Nam vẫn thiếu thương hiệu về nông sản. Người tiêu dùng Trung Quốc, nhất là ở các thành phố lớn không có ấn tượng sâu sắc về hàng nông sản Việt Nam.
Một thách thức nữa là các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam còn chưa hiểu rõ về thị trường tiêu dùng Trung Quốc.
“Nhiều người nghĩ rằng Trung Quốc là nước đông dân và có sức tiêu thụ lớn, người tiêu dùng Trung Quốc không có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, bất cứ sản phẩm gì cũng có người mua. Thực tế không phải như vậy, yêu cầu về chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng Trung Quốc đang ngày một tăng, thời kỳ mà chỉ cần ấm no đã là quá khứ”, ông Thành cho biết.
Ông Vũ Tiến Hùng, Trưởng Văn phòng Xúc tiến thương mại Việt Nam tại Hàng Châu (Trung Quốc) cũng thừa nhận rằng, hầu như các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam hiện nay đều thiếu thông tin về thị trường Trung Quốc. Thế nhưng, rất ít các doanh nghiệp tìm đến các phòng Thương vụ để tìm hiểu, chia sẻ thông tin, trong khi những thông tin này được cung cấp hoàn toàn miễn phí.
Thay đổi cách tiếp cận
Để khai thác tốt thị trường Trung Quốc, ông Vĩ Tích Thành cho rằng, về mặt quản lý vĩ mô, cơ quan quản lý Nhà nước phải chủ động nghiên cứu thị trường, nắm bắt tình hình và xu hướng phát triển của thị trường; xây dựng và phổ biến chính sách hướng dẫn sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, phải lưu ý vấn đề sản xuất và tiêu thụ những sản phẩm đúng với nhu cầu thị trường, chứ không phải tiêu thụ những gì mình có.
Đồng thời, các cơ quan Nhà nước cần tích cực kết nối chính sách với cơ quan như Hải quan, Kiểm dịch thực vật của các nước hữu quan để tạo điều kiện thuận lợi và kênh thông thoáng cho thương mại nông sản. Phát huy vai trò các tổ chức tài chính, tín dụng, cùng chia sẻ rủi ro với nông dân. Tăng cường ứng công nghệ chế biến tiên tiến vào sản xuất, đảm bảo chất lượng, xây dựng thương hiệu.
Với sự phát triển vũ bão của thương mại điện tử như hiện nay, ông Thành cũng gợi ý các doanh nghiệp Việt Nam nên hợp tác với các doanh nghiệp thương mại điện tử nổi tiếng của Trung Quốc để mở các cửa hàng trực tuyến và cung cấp nông sản cho các siêu thị mới.
“Các kênh lưu thông truyền thống có nhiều vướng mắc, thông tin thị trường không cập nhật đồng đều. Trong khi thương mại điện tử đang thu hẹp khoảng cách sản xuất và tiêu thụ, kết nối mở rộng tốt hơn thị trường tiêu dùng. Tuy vậy, để phát triển thương mại điện tử về nông sản đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống kho vận, đảm bảo chất lượng sản phẩm, vấn đề truy xuất nguồn gốc, nhân lực…”, ông Thành chia sẻ.
Ông Nguyễn Quốc Toản, quyền Cục trưởng Cục chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cũng cho rằng, Trung Quốc là một thị trường tiềm năng truyền thống lâu nay của Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, thị trường này đã có những sự thay đổi về mặt chất lượng thị trường, buộc các doanh nghiệp phải thay đổi theo và phải có cách tiếp cận mới.
Theo ông Toản, để xuất khẩu ổn định ở thị trường Trung Quốc, đầu tiên là khâu sản xuất phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn, yêu cầu, thị hiếu tiêu dùng của thị trường này; đồng thời, tập trung vào khâu đóng gói, chế biến để gia tăng giá trị cho nông sản Việt Nam.
Tại hội thảo, các đại biểu cũng cho rằng, trong bối cảnh hội nhập, việc thúc đẩy xuất khẩu theo đường chính ngạch là nhu cầu cấp thiết hiện nay. Do vậy, trong thời gian tới, hai nước cần có những cải thiện về cơ chế thương mại để ổn định vấn đề xuất khẩu và vì lợi ích hợp tác giữa hai bên.
Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành, Đại sứ quán, tham tán thương mại trong việc cập thông thông tin thị trường, tháo gỡ các rào cản, vướng mắc cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam… để việc tiếp cận thị trường Trung Quốc được hiệu quả hơn./.
Nguồn: Bnews.vn
Th912
Hiểu đúng về dư lượng thuốc BVTV trong nông sản
Hiểu đúng về dư lượng thuốc BVTV trong nông sản
Để bảo vệ mùa màng, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm thì phải phun thuốc BVTV đúng cách, liều lượng và đảm bảo thời gian cách ly.
TS Hồ Văn Chiến, nguyên GĐ Trung tâm BVTV phía Nam cho biết: trong SX nông nghiệp nông dân cần phun thuốc BVTV đúng cách để tránh sâu hại kháng thuốc, miễn nhiễm. Càng phun nhiều dẫn đến tồn dư dư lượng thuốc BVTV trong nông sản. Vì vậy, cần phun đúng cách, đúng liều lượng và phải có thời gian cách ly.
Để sản phẩm sạch phục vụ xuất khẩu tốt cần SX theo hướng hữu cơ
Đối với cây thanh long, thông thường đất càng nhiều thì trồng thanh long càng rộng, càng lo sợ tiền công nên nhiều người muốn phun thuốc một lần ngừa từ 3 – 4 loại bệnh và trộn không đúng làm trùng hoạt chất và khác hoạt chất hoặc chất độn khác nhau lại gây phản ứng ngược lại. Vì vậy, phải thường xuyên theo dõi vườn cây để phát hiện bệnh kịp thời và tiến hành trị dứt điểm bệnh.
Thời gian phun lần cuối tới khi thu hoạch, lượng thuốc bắt đầu giảm trong thân cây và lá cây, tuy nhiên lượng thuốc còn dư lại rất độc hại với con người. Vì vậy, thời gian cách ly rất quan trọng và phải đặc biệt chú ý. Đối với biện pháp 4 đúng phải được thực hiện đồng bộ, đầy đủ, đúng thuốc, đối tượng, liều lượng và nồng độ, thời gian.
Theo TS Lê Quốc Điền, GĐ Trung tâm Chuyển giao Tiến bộ kỹ thuật (Viện Cây ăn quả miền Nam), chăm sóc cho cây khỏe sẽ giải quyết được nhiều vấn đề về sâu bệnh, giảm được chi phí sử dụng thuốc BVTV. Nhận dạng được sâu bệnh và chọn giải pháp phòng trừ. Sau đó, làm vệ sinh và giảm áp lực sâu bệnh hại trên vườn. Nếu khâu đầu tiên được giải quyết tốt thì có thể hạn chế được đến 80% sâu bệnh, chỉ còn 20%, 2 giải pháp quan trọng là cơ học và hóa học. Khi sử dụng một số biện pháp khác thì có thể áp dụng bao trái cho những cây có giá trị. Nếu dịch hại ở ngưỡng không quá cao thì áp dụng biện pháp hóa học là giải pháp cuối cùng, nhưng phải chú ý thời gian cách ly sử dụng thuốc BVTV là bao nhiêu ngày trước khi thu hoạch để an toàn.
“Khi vườn cây gần đến ngày thu hoạch, nông dân cần chọn đúng loại thuốc có thời gian cách ly hợp lý để đảm bảo an toàn sản phẩm không có dư lượng thuốc BVTV. Hiện, giai đoạn đầu, đối với cây thanh long có 28 ngày thu hoạch thì chỉ có 14 ngày đầu để chọn loại thuốc BVTV lưu dẫn để đảm bảo thời gian cách ly. Qua ngày 14 đến ngày 28 khi bước vào đợt thu hoạch trái nên đổi lại những loại thuốc sinh học thì chắc chắn an toàn cho người sử dụng. Vì vậy, người trồng cần chú ý và áp dụng cho giai đoạn sau những biện pháp sinh học có thời gian cách ly ngắn khoảng 3 ngày, chắc chắn có sản phẩm an toàn phục vụ cho thị trường nội địa và xuất khẩu”, TS Điền nói.
Nguồn: báo nông nghiệp
Th1121