Tin tức
Xây dựng vùng chuyên canh cây ăn quả theo chuỗi giá trị
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Nhiều nông dân trong tỉnh Gia Lai đang chuyển đổi diện tích canh tác kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả để nâng cao thu nhập. Nắm bắt tiềm năng phát triển, một số địa phương đã hướng dẫn người dân chuyển từ hình thức sản xuất tự phát sang chuyên canh tập trung theo chuỗi giá trị nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng tốt, phù hợp nhu cầu thị trường.
Thu nhập cao từ cây ăn quả
Gia đình ông Đặng Văn Kích là một trong những hộ tiên phong trồng cây ăn quả ở thôn Đại An 2 (xã Ia Khươl, huyện Chư Păh) khi quyết định chuyển đổi 8 ha cà phê kém hiệu quả sang trồng sầu riêng, mít Thái, bơ, chôm chôm. Ông Kích cho biết: “Trước đây, gia đình tôi trồng cà phê nhưng năng suất không cao, chi phí đầu tư quá nhiều. Năm 2014, tôi quyết định chặt bỏ bớt cà phê để trồng cây ăn quả. Hàng năm, sau khi trừ chi phí, gia đình tôi thu về trên 400 triệu đồng từ 800 cây sầu riêng. Còn các loại cây trồng khác như: mít Thái, bơ, chôm chôm cũng cho thu hoạch khoảng 200 triệu đồng/năm. Tính ra, mỗi héc ta cây ăn quả cho thu nhập cao gấp 3 lần so với cây cà phê. Cuộc sống của gia đình tôi cũng theo đó được nâng lên rõ rệt”.
Nông dân Krông Pa chăm sóc vườn na. Ảnh: Hà Phương
Cũng là hộ trồng cây ăn quả theo hướng xen canh, sau 10 năm xây dựng mô hình, gia đình chị Phạm Thị Phương (thôn 9, xã Yang Trung, huyện Kông Chro) đã có một cơ ngơi khiến nhiều người mơ ước. Với 3,7 ha nhãn và 2,5 ha na, ổi, dừa xiêm lùn, mỗi năm, gia đình chị thu về trên 500 triệu đồng. Nhờ đó, chị đã xây được nhà cửa khang trang, mua xe ô tô để đi lại và xe tải dùng vận chuyển nông sản. Ngoài ra, gia đình chị còn tạo việc làm cho 4 lao động địa phương vào vụ thu hoạch trái cây. Chị Phương chia sẻ: “Thổ nhưỡng, khí hậu chỉ quyết định 50% chất lượng trái cây, còn lại phụ thuộc vào kinh nghiệm trồng, chăm sóc. Mặc dù nhãn ở đây quả to, cơm dày, ngọt thanh, được thương lái thu mua tận vườn nhưng tôi vẫn trăn trở làm sao xây dựng được thương hiệu để nâng cao giá trị sản phẩm”.
Những năm qua, các địa phương trong tỉnh chú trọng xây dựng hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác để liên kết người dân tạo thành vùng chuyên canh cây ăn quả, cho ra thị trường những sản phẩm đảm bảo chất lượng. Điển hình như HTX Nông nghiệp hữu cơ Đại Ngàn (xã Ia Blứ, huyện Chư Pưh) thu hút 62 thành viên tham gia sản xuất các loại cây ăn quả như: sầu riêng, mít Thái, na dai. Trong đó, sầu riêng là cây mũi nhọn được HTX đẩy mạnh mở rộng diện tích. Ông Nguyễn Viết Bình-Giám đốc HTX-cho hay: “Hợp tác xã chủ động liên kết với các hộ dân canh tác hơn 250 ha sầu riêng theo hướng VietGAP. Nhờ đó, sản phẩm sầu riêng của HTX đã được chứng nhận là sản phẩm OCOP, nâng cao về giá trị. Hiện người dân thu nhập khoảng 400 triệu đồng/ha sầu riêng/năm. Mới đây, HTX đã làm hồ sơ, thủ tục đề nghị cơ quan chức năng cấp 6 mã số vùng trồng cho 177 ha sầu riêng. Ngoài ra, HTX cũng ký hợp đồng liên kết với Công ty cổ phần Nafoods Group để bao tiêu sản phẩm sầu riêng xuất khẩu”.
Quy hoạch vùng nguyên liệu theo chuỗi giá trị
Những năm qua, tại Gia Lai, một số cây ăn quả có giá trị hàng hóa lớn như: chuối, chanh dây, sầu riêng, bơ, mít… phát triển mạnh về quy mô diện tích, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung. Đến nay, toàn tỉnh có khoảng 6.285 ha chuối (tăng 4.259 ha so với năm 2018), 4.263 ha chanh dây (tăng 2.246 ha), khoảng 4.192 ha sầu riêng (tăng 3.023 ha)… Theo đánh giá, bình quân 1 ha cây ăn quả cho thu nhập 200-300 triệu đồng/năm. Không ít nhà nông đã xây dựng những mô hình trồng cây ăn quả cho thu nhập lên đến cả tỷ đồng/ha/năm. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng cây ăn quả, kim ngạch xuất khẩu trái cây của tỉnh tăng dần qua từng năm. Nếu như năm 2019, xuất khẩu trái cây đạt 3.507 tấn với kim ngạch hơn 4,7 triệu USD thì 9 tháng năm 2022, xuất khẩu trái cây đạt trên 52.250 tấn với kim ngạch hơn 78,8 triệu USD.
Mô hình trồng nhãn của nông dân huyện Kông Chro đem lại thu nhập cao. Ảnh: Ngọc Sang
Toàn tỉnh hiện có hơn 29.016 ha cây ăn quả với sản lượng 417 tấn/năm. Hơn 19.565 ha cây ăn quả sản xuất theo tiêu chuẩn nông nghiệp tốt (VietGAP, GlobalGAP), trong đó, gần 9.186 ha được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP (hơn 8.527 ha của doanh nghiệp, hơn 617 ha của các HTX và trên 40 ha của người dân).
Xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh cây ăn quả mang lại giá trị kinh tế là một trong những định hướng của ngành nông nghiệp tỉnh. Vì vậy, thời gian qua, tỉnh tích cực hỗ trợ các địa phương rà soát, đẩy mạnh chuyển đổi diện tích canh tác kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả. Trên cơ sở đó, các địa phương định hướng doanh nghiệp, người dân tổ chức sản xuất theo hướng chuyên canh, quy mô lớn liên kết chuỗi giá trị bền vững. Đặc biệt, các địa phương chú trọng phân tích các yếu tố thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn nước, nhu cầu thị trường, khả năng thực hiện của người dân trong đầu tư trồng cây ăn quả.
Huyện Chư Pưh là một trong những địa phương quan tâm định hướng người dân chuyển đổi và ổn định vùng chuyên canh cây ăn quả trên diện tích hồ tiêu bị chết. Ông Nguyễn Long Khánh-Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện-cho biết: Thời gian qua, địa phương đã triển khai điều tra, đánh giá đất đai để làm cơ sở xây dựng vùng chuyên canh tập trung, hướng dẫn người dân chuyển đổi hơn 600 ha hồ tiêu chết sang trồng cây ăn quả. Đồng thời, huyện xác định rõ từng vùng đất phù hợp với nhóm cây trồng nào để định hướng người dân sản xuất tập trung theo hướng liên kết, đảm bảo chuỗi tiêu chuẩn, chất lượng. Nhờ đó, trên địa bàn huyện đã có 2 sản phẩm trái cây là sầu riêng và na Thái đạt tiêu chuẩn OCOP.
Trao đổi với P.V, ông Trần Xuân Khải-Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật-cho biết: “Thời gian tới, tỉnh đẩy mạnh thu hút các nguồn lực để phục vụ sản xuất, bảo quản, chế biến sản phẩm trái cây để nâng cao giá trị, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường. Đồng thời, phối hợp, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp đẩy mạnh phát triển sản xuất cây ăn quả theo hướng tập trung, bền vững. Cùng với đó, từng bước thực hiện chuyển đổi số trong sản xuất cây ăn quả dựa trên nền tảng cơ sở dữ liệu về đất đai, cây trồng, môi trường. Đây là công cụ mấu chốt để phát triển bền vững và toàn diện cây ăn quả của tỉnh theo chuỗi giá trị”.
NGỌC SANG – HÀ PHƯƠNG
Th1226
Nhà vườn kỳ vọng ‘được mùa được luôn cả giá’…
Nguồn tin: Báo Bình Dương
Đến hẹn lại lên, dịp gần tết nông dân trồng cây ăn trái lại tất bật chăm sóc vườn để đưa ra thị trường những loại trái cây đẹp, ngon. Tết Nguyên đán Quý Mão 2023, nỗi lo lắng về dịch bệnh, giao thương trở ngại đã tạm lắng, người nông dân chỉ mong đợi “được mùa được luôn cả giá”.
Nhiều nhà vườn đã sẵn sàng phục vụ thị trường tết.
Trong ảnh: Sản phẩm bưởi đường lá cam của gia đình anh Nguyễn Văn Dậu cho sản lượng 5 tấn dịp tết
Huyện Bắc Tân Uyên (tỉnh Bình Dương) đang phát triển mạnh cây ăn trái có múi theo hình thức trang trại tập trung quy mô lớn. Bên cạnh đó là các mô hình hợp tác xã, kinh tế hộ cũng tận dụng lợi thế thổ nhưỡng, điều kiện tự nhiên để trồng cây ăn trái. Thời điểm này, bên cạnh những nhà vườn lựa chọn cho ra trái vào tháng 3, tháng 4, nhiều nhà vườn tập trung sản xuất cung ứng thị trường tết.
Len lỏi vào vườn bưởi đường lá cam sai trái của gia đình anh Nguyễn Văn Dậu, xã Lạc An, điều làm chúng tôi ấn tượng chính là hình dáng bắt mắt của những trái bưởi xanh mơn mởn đang chờ vụ thu hoạch. Trước đây, trên mảnh vườn rộng 4.000m2 gia đình anh Dậu sử dụng để trồng cây tràm, hiệu quả kinh tế không cao. Nhận thấy thuận tiện nguồn nước tưới tiêu, thổ nhưỡng phù hợp, năm 2019 gia đình anh chuyển đổi sang trồng bưởi đường lá cam. Anh Dậu cho biết giống bưởi này có nguồn gốc từ Tân Triều, tỉnh Đồng Nai, có vị đậm đà và tương đối dễ trồng. Hiện tại trái to nhất từ 1,2kg – 1,4kg, từ nay đến tết dự trù thu hoạch khoảng 5 tấn. Ưu điểm của bưởi đường lá cam là 1 cây cho thu hoạch trên 20 năm.
“Ngoài bưởi đường lá cam, gia đình còn trồng bưởi da xanh và cam mỗi vụ thu hoạch khoảng 10 tấn. Dịp tết này gia đình tập trung chăm sóc vườn bưởi đường lá cam, hy vọng sẽ được giá để ổn định thu nhập, có cái tết đủ đầy, no ấm. Để cho ra được những sản phẩm chất lượng phục vụ người tiêu dùng là nỗi vất vả của người nông dân”, anh Dậu tâm sự.
Tương tự thời điểm này gia đình chị Phan Ngọc Lan, xã Hiếu Liêm cũng đang khấp khởi mong chờ vụ tết. Với 1.800 gốc cam trên diện tích 5ha đất, mỗi năm cung ứng cho thị trường hơn 100 tấn cam. “Năm ngoái do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, thị trường cam của gia đình bị ảnh hưởng, giá thấp. Năm nay dự tính dịp tết sẽ cung ứng khoảng trên 60 tấn. Giờ chỉ mong giá cao để bù lại những tổn thất của năm qua”, chị Lan nói.
Không chỉ những vườn có quy mô nhỏ háo hức mong chờ vụ tết, nhiều hợp tác xã chuyên về cây ăn trái cũng đã sẵn sàng cho ra thị trường số lượng lớn trái cây dịp tết. Trao đổi với chúng tôi, ông Trịnh Minh Thành, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Đồng Thuận Phát, ấp 2, xã Thường Tân, cho biết: “Hợp tác xã có gần khoảng 200ha, trung bình 1ha cung ứng khoảng 30 tấn. Như vậy sản lượng cung ứng ra thị trường sẽ rất lớn. Nguồn cung không lo thiếu, nông dân chỉ mong chờ được giá để có một cái tết ấm no”.
Có thể thấy, do ảnh hưởng bởi dịch bệnh và tình hình kinh tế khó khăn đã ảnh hưởng phần nào đến giá cả nông sản trên thị trường. Đặc biệt đối với những mô hình sản xuất nhỏ lẻ chưa có thị trường tiêu thụ ổn định chủ yếu trông chờ vào thương lái thì nỗi lo về giá cả “bấp bênh” vẫn thường trực.
Với những nhà vườn có quy mô nhỏ, đất đai tự có thì yếu tố rủi ro không cao. Đối với nhà vườn sản xuất có quy mô lớn phải luôn bám sát thực tế, theo dõi thị trường để có kế hoạch sản xuất phù hợp. Song, dù sản xuất với quy mô nhỏ hay lớn vẫn mong thị trường luôn được mùa được giá để bảo đảm ổn định và phát triển bền vững.
TIẾN HẠNH
Th1224
Trồng hoa trên đất màu hiệu quả, thu nhập tăng gấp 4 – 5 lần
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
QUẢNG NGÃI Từ đất trồng rau màu năng suất thấp, giá cả bấp bênh, nhiều hộ gia đình đã chuyển qua trồng hoa cảnh cho hiệu quả kinh tế gấp từ 4 – 5 lần.
Nhiều hộ gia đình ở Thị trấn Châu Ổ (Bình Sơn, Quảng Ngãi) chủ động chuyển đổi đất trồng rau màu hiệu quả thấp qua trồng các loại hoa cảnh. Ảnh: K.T.
Thời gian gần đây tại Thị trấn Châu Ổ (huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), nhiều nông dân đã chủ động chuyển đổi diện tích đất màu kém hiệu quả sang trồng hoa, bước đầu mang lại kết quả tích cực.
Gia đình ông Hồ Tân (60 tuổi, trú Tổ dân phố An Châu, Thị trấn Châu Ổ) có 2 sào đất (sào 500m2) trước đây chuyên trồng bắp, lạc nhưng năng suất không ổn định, hiệu quả kinh tế không đáng kể. Tuy vậy, ông vẫn chấp nhận tiếp tục canh tác vì không muốn lãng phí quỹ đất. Ông Tân cũng nhiều lần suy nghĩ về việc tìm loại cây trồng khác thay thế để cải thiện thu nhập nhưng chưa thể chọn lựa được.
Đến giữa năm nay, biết được thông tin Hội Nông dân Thị trấn Châu Ổ triển khai mô hình chuyển đổi từ trồng rau màu kém hiệu quả sang trồng hoa, có hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ đầu ra, ông Tân liền đăng ký tham gia. Qua thời gian tìm hiểu về quy trình chăm sóc, ông Tân quyết định lựa chọn 200 cây hoa hồng giống về canh tác trên diện tích 2 sào đất nhà mình.
“Hiện nay, vườn hoa của tôi đang phát triển rất tốt, dự kiến sẽ cho thu hoạch vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán năm 2023. Giống hoa hồng này ở đây không nhiều nên có hàng là tiểu thương mua hết, ngoài ra, chính quyền địa phương còn hỗ trợ về vấn đề tiêu thụ nên chúng tôi không phải lo lắng về đầu ra. Nói chung, mô hình của tôi có thể nói là đã thành công bước đầu”, ông Tân vui mừng chia sẻ.
Tương tự, ông Nguyễn Văn Binh (trú Thị trấn Châu Ổ) cũng đã sử dụng 500m2 đất màu của gia đình chuyển qua trồng hoa cúc Đà Lạt. Khí hậu mùa đông ở đây cùng với thổ những đất ven sông cho thấy rất phù hợp với giống cúc này. Vườn hoa cúc của ông Binh hiện đang trong giai đoạn phát triển thân, lá và hình thành nụ, gần 1 tháng nữa sẽ cho thu hoạch.
“Loại hoa này dễ trồng, không cần nhiều phân bón, thuốc BVTV, ít sâu bệnh mà thương lái còn đến tại ruộng mua với giá cao nên ai cũng rất mừng. Với những gì nhận thấy từ thực tế hiện nay thì việc trồng hoa trên đất màu như thế này thực sự đang mở ra nhiều triển vọng”, ông Binh chia sẻ.
Theo người dân địa phương, so với các loại hoa màu như bắp, lạc thì trồng hoa không khó, chi phí đầu tư không nhiều, dễ chăm sóc lại không lo đầu ra. Những ngày bình thường, giá các loại hoa dao động từ 5 – 10 ngàn đồng/cây, vào ngày lễ Tết thì cao hơn. Sau khi trừ tất cả chi phí, mỗi sào hoa cho lãi đến vài chục triệu đồng, cao hơn từ 4 – 5 lần so với các loại cây mà họ trồng trước đây.
Bà Võ Thị Hiền, Chủ tịch UBND Thị trấn Châu Ổ cho biết, toàn Thị trấn có khoảng hơn 90ha đất màu. Trước đây, hầu hết diện tích này người dân đều canh tác các loại cây màu truyền thống và đều cho năng suất thấp, giá cả không ổn định, thu nhập bấp bênh. Thậm chí, một số hộ không còn nhu cầu canh tác đã cho thuê hoặc bỏ hoang.
“Mô hình chuyển đổi diện tích rau màu trồng kém hiệu quả sang trồng hoa dù mới triển khai thí điểm từ tháng 6/2022 nhưng đang phát triển rất tốt nhờ người dân thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật được hướng dẫn.
Đến nay, trung bình mỗi sào sau khi trừ chi phí, mỗi hộ dân thu lãi từ 15 – 20 triệu đồng. Điều này không chỉ giúp bà con nông dân khai thác tốt tiềm năng của đất ven sông, nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích mà còn tạo sản phẩm đặc trưng của Thị trấn Châu Ổ”, bà Hiền nói.
Theo bà Hiền, với những thành quả đã có được, năm 2023, UBND Thị trấn Châu Ổ sẽ tiếp tục vận động người dân có diện tích đất trồng rau màu kém hiệu quả sang trồng hoa nhằm hướng đến phát triển vùng trồng hoa chuyên canh ven bãi bồi sông Trà Bồng với tổng diện tích 5ha. Đây là hướng đi đang mang lại nhiều triển vọng.
Th1222
Cam sành núi lửa và quýt đường núi lửa
Nguồn tin: Báo Đắk Nông
Hợp tác xã (HTX) Sản xuất Nông lâm nghiệp hữu cơ Quảng Phú (Krông Nô, tỉnh Đắk Nông) là một trong những đơn vị tiên phong trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Từ khi thành lập năm 2020, HTX đã nắm chắc quy trình sản xuất, cung ứng ra thị trường nhiều sản phẩm nông sản chất lượng cao, bảo đảm an toàn cho người sử dụng, góp phần cải thiện môi trường sinh thái.
Cam sành và quýt đường núi lửa của HTX là sản phẩm nông thôn tiêu biểu của tỉnh
Từ 5 năm trước đây, chị Nguyễn Thị Mai – Giám đốc HTX đã trải qua những ngày miệt mài “cào đất vạch đá” trồng cây trên diện tích 10 ha đất. Những lớp đá núi lửa dày đặc dần được cải tạo để trồng cây ăn quả. HTX đã khai thác một cách bền vững, thành công nguồn tài nguyên thiên nhiên, thổ nhưỡng và khí hậu vùng đất đá núi lửa Nâm Kar tiềm năng. Hiện tại, với diện tích hơn 30 ha, HTX không chỉ trồng rau màu mà còn có những vườn cây ăn quả như cam sành, quýt đường, vú sữa, bơ… Các sản phẩm đều đạt chứng nhận hữu cơ.
HTX tự ủ phân hữu cơ và các loại thuốc vi sinh để chăm sóc cây trồng
HTX xây dựng mô hình canh tác bền vững, không sử dụng hóa chất, con người sống hòa hợp với thiên nhiên. Để bảo vệ môi trường, HTX tuân thủ tiêu chí: Không sử dụng phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ, thuốc bảo vệ thực vật, giống biến đổi gen. Quá trình canh tác, HTX hoàn toàn sử dụng phân hữu cơ vi sinh và các loại thuốc điều chế từ tỏi, gừng, ớt, sả, quế, đương quy… để chăm sóc cây trồng. Nhằm tạo độ ngọt cho các loại trái, HTX sử dụng đu đủ và chuối ủ lên men bón cho cây. Sự tác động của phân hữu cơ vi sinh và các loại thuốc thảo mộc vào cây trồng tương đối chậm nhưng bù lại chất lượng nông sản luôn được bảo đảm an toàn, môi trường cũng hạn chế bị ô nhiễm, đất dần lấy lại được chất dinh dưỡng.
Sản phẩm OCOP 4 sao được người tiêu dùng tin tưởng chọn lựa
Để canh tác theo hướng thuận tự nhiên, HTX trồng loại cỏ đậu nên không cạnh tranh ánh sáng với cây trồng chính lại duy trì độ che phủ tốt, hạn chế cỏ dại phát triển. Đây là yếu tố quan trọng giúp các loài sinh vật trong đất phát triển và làm cho đất thêm tơi xốp, bảo vệ môi trường. Cỏ được cắt xuống tạo nguồn phân sạch, tạo điều kiện cho thảm thực vật phát triển. Nguồn nước từ giếng khoan được bơm và lọc sạch trước khi tưới cho cây theo các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Sản phẩm cam sành và quýt đường được sản xuất phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn Nông nghiệp hữu cơ quốc gia. Hai sản phẩm trên của HTX cũng đã đạt chứng nhận OCOP 4 sao của tỉnh Đắk Nông vào năm 2021. Giá các loại nông sản hữu cơ của HTX cao gấp 2-3 lần so với sản phẩm sản xuất theo quy trình thông thường, giúp các thành viên HTX nâng cao hiệu quả kinh tế. Sản phẩm của HTX đã có mặt tại 40 siêu thị ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk)… và được các siêu thị bao tiêu với mức giá ổn định.
Hồ Mai
Th1222
Xanh lại vùng bưởi đỏ Tân Lạc
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
HÒA BÌNH Để giữ thương hiệu cho bưởi đỏ Tân Lạc, các nhà vườn ngày càng có ý thức áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác theo hướng hữu cơ, sinh thái.
Theo Chi cục Trồng trọt và BVTV Hòa Bình, năm 2022, diện tích cây ăn quả có múi toàn tỉnh hơn 9.600ha, diện tích kinh doanh hơn 7.400ha; sản lượng ước đạt hơn 166.000 tấn. Trong đó, bưởi có diện tích trên 5.100ha, sản lượng hàng năm trên 57.000 tấn. Riêng vùng trồng bưởi đỏ tại huyện Tân Lạc trên 1.200ha (thời vụ thu hoạch từ tháng 11/2022 – 1/2023).
Những năm qua, bên cạnh việc mở rộng diện tích, kỹ thuật canh tác bưởi đỏ của người dân ngày càng được nâng cao, phát triển theo hướng bền vững. Các chủ vườn thay vì tư duy tiêu diệt cỏ dại đã từng bước chuyển sang tư duy quản lý cỏ dại; tăng cường sử dụng các loại phân bón hữu cơ, chế phẩm sinh học để giảm thiểu sự phụ thuộc vào phân bón, thuốc BVTV hóa học…
Nhờ đó, đến nay, đã có 240ha bưởi đỏ của huyện Tân Lạc được chứng nhận VietGAP, hữu cơ. Đặc biệt, có 6 mã số vùng trồng theo tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU được cấp cho 140ha bưởi đỏ trồng tập trung.
Ông Phạm Khắc Thường, Giám đốc HTX Sản xuất – Chế biến và tiêu thụ bưởi đỏ Tân Lạc (xã Tử Nê, Tân Lạc) cho biết: Diện tích trồng bưởi đỏ của HTX là 32ha, trong đó có 20ha đạt tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP với năng suất trung bình từ 25 – 30 tấn/ha.
Theo ông Thường, hiện nay, không chỉ các thị trường xuất khẩu mà thị trường trong nước cũng có những yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm. Do đó, để quả bưởi của HTX được thị trường chấp nhận thì trong quá trình canh tác, tất cả các yếu tố về giống, đất trồng, kỹ thuật chăm sóc… đều phải được thực hiện theo một quy trình thống nhất.
Về giống, với những diện tích trồng mới phải được mua ở những cơ sở sản xuất uy tín, đảm bảo giống sạch bệnh, phù hợp với chất đất, điều kiện khí hậu tại địa phương.
Trong quá trình chăm sóc, sử dụng các loại bẫy để bắt côn trùng, dọn cỏ bằng tay để hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc BVTV hóa học. Thay vào đó, sử dụng chế phẩm vi sinh, thảo mộc, nano bạc để phun phòng, giúp bảo vệ môi trường, giảm hiện tượng chai đất, bảo vệ được thảm thực vật, giữ nước, chống xói mòn… Sau mỗi vụ thu hoạch, tiến hành bổ sung dinh dưỡng cho đất bằng cách sử dụng phân chuồng ủ hoai mục…
Anh Nguyễn Anh Tuấn, chủ vườn bưởi đỏ Tuấn Tú, xã Tử Nê (Tân Lạc) chia sẻ: Hiện tại, gia đình trồng 5ha bưởi đỏ (1.500 cây), trong đó 90% số cây đã cho thu hoạch. Dự kiến vụ bưởi năm nay anh thu được khoảng 15 vạn quả, với giá bán 15.000 đồng/quả, anh thu về gần 2 tỷ đồng (chưa trừ chi phí).
Theo anh Tuấn, để bảo vệ thương hiệu cho bưởi đỏ Tân Lạc, yếu tố đầu tiên các chủ vườn phải tự thay đổi nhận thức, thói quen canh tác, tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác.
Bởi lẽ, việc thiên nhiên ưu ái cho Tân Lạc điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu thuận lợi cho cây bưởi sinh trưởng, tạo ra sản phẩm quả bưởi có chất lượng khác biệt không thôi vẫn chưa đủ. Nếu người trồng phó mặc cho tự nhiên, để cây bưởi phát triển tự do mà không chăm sóc thì chắc chắn thương hiệu bưởi đỏ Tân Lạc sẽ mất. Do đó, tất cả các quy trình từ khâu chăm sóc, thu hái, dưỡng cây sau thu hoạch phải được thực hiện một cách bài bản, nhất là thời điểm cây ra hoa đậu quả.
Theo ông Nguyễn Hồng Yến, Chi Cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV Hòa Bình, hiện nay, nhu cầu sử dụng những sản phẩm an toàn, chất lượng của thị trường trong và ngoài nước không ngừng tăng cao. Do đó, đòi hỏi tất cả các khâu từ sản xuất, bảo quản, sơ chế, chế biến đều phải được thực hiện một cách thống nhất, bài bản. Để quả bưởi chinh phục thị trường trong nước và đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu, phải xây dựng được chuỗi liên kết bền chặt với sự tham gia của chính quyền địa phương, doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất.
Theo đó, chính quyền địa phương phải quy hoạch được vùng trồng, doanh nghiệp đóng vai trò dẫn dắt sản xuất; HTX, người dân trong quá trình canh tác phải tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu kỹ thuật mà các thị trường đưa ra.
Th1216
Thủ phủ thanh long vào vụ Tết
Nguồn tin: báo nông nghiệp
BÌNH THUẬN Để tránh sản lượng tăng đột biến, thời điểm cuối năm, nông dân Bình Thuận chia thanh long thành nhiều trà để chong đèn điểm nhằm giảm thiểu rủi ro về tiêu thụ.
Dè dặt chong đèn
Những ngày này, nông dân tại “thủ phủ” thanh long Bình Thuận đang tập trung chong đèn, chăm sóc thanh long để ra trái vụ nghịch phục vụ thị trường vào dịp cuối năm và Tết Nguyên đán. Tuy nhiên theo ghi nhận chúng tôi, thời gian qua, nông dân không ồ ạt chong đèn như mọi năm mà cân nhắc điều tiết việc xử lý ra hoa trái để tránh tập trung cùng một thời điểm nhằm giảm thiểu rủi ro về tiêu thụ.
Điển hình như vùng sản xuất thanh long ở xã Hàm Hiệp, huyện Hàm Thuận Bắc, hiện bà con nơi đây chong đèn thanh long với nhiều lứa “lệch pha” với nhau.
Ông Nguyễn Văn Cường, Phó Chủ tịch UBND xã Hàm Hiệp cho biết, mấy năm vừa qua, do ảnh hưởng dịch Covid-19 nên việc tiêu thụ thanh long dịp cuối năm khó khăn, vì vậy bà con giờ rất thận trọng, dè dặt chong đèn thanh long cùng lúc. Điều này thể hiện với tổng diện tích hơn 1.800ha, song bà con chong đen phục vụ thanh long dịp Tết Nguyên đán chỉ 20 – 30% diện tích. Còn lại một số diện tích bà con chong đèn phục vụ sản phẩm trước và sau Tết Nguyên đán.
Theo ông Cường, dù diện tích chong đèn thanh long để thu hoạch đúng dịp Tết giảm, tuy nhiên nhờ thời tiết thuận lợi, những diện tích đã chong đèn ra bông, đậu quả nhiều, dự kiến sản lượng thu hoạch sẽ tăng trên đơn vị diện tích.
Tương tự, tại thôn 5, xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, hiện nông dân trồng thanh long cũng chia diện tích để chong đèn ra trái nghịch vụ để thu hoạch nhiều lứa trước, trong và sau Tết. Như hộ ông Nguyễn Tánh, một người trồng thanh long ở thôn 5 có 1.000 trụ thanh long, rút kinh nghiệm sản lượng dồn một lúc, chẳng may lại thừa thanh long, bán không được giá, hiện ông đã chia làm 2 pha chong đèn.
Trong đó, pha đầu đã chong đèn 350 trụ vào đầu tháng 10 âm lịch, hiện đã rút điện, cây ra nhiều bông, hứa hẹn sẽ thu hoạch vào dịp gần Tết Nguyên đán. Còn pha 2, ông sẽ chong đèn số trụ còn lại vào dịp giữa và cuối tháng 11 âm lịch để thu hoạch thanh long sau Tết.
Ông Tánh cho biết, những tháng gần đây, việc tiêu thụ thanh long bắt đầu khởi sắc, giá thu mua thanh long phục vụ xuất khẩu từ 10 – 12 ngàn đồng/kg. Tuy nhiên hiện nay giá thanh long đã lên từ 13 – 14 ngàn đồng/kg. Vì vậy, ông Tánh cũng nhiều bà cong trồng thanh long Bình Thuận hi vọng từ này đến cuối năm, khi nhu cầu tiêu thụ tăng cao, giá thanh long sẽ tiếp tục nhích lên nữa.
Chú trọng nâng chất lượng, giảm chi phí sản xuất
Ông Phan Văn Tấn, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Bình Thuận cho biết, đến cuối tháng 11/2022, diện tích thanh long toàn tỉnh khoảng 27.898ha, giảm 4.945ha so với cuối năm 2021. Nguyên nhân diện tích giảm là do giá thanh long những năm gần đây bấp bênh, người dân chuyển đổi mục đích sử dụng.
Để đảm bảo năng suất và chất lượng thanh long phục vụ thị trường vào dịp cuối năm, ngành nông nghiệp Bình Thuận đang hướng dẫn nông dân tiếp tục chăm sóc vườn thanh long, bón phân cân đối, bảo đảm hiệu quả, cùng với đó tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ, giảm chi phí đầu vào và phòng trừ sâu bệnh.
“Chúng tôi hướng dẫn bà con nông dân đẩy mạnh sản xuất thanh long theo hướng an toàn (GAP), kết hợp trong khâu kiểm soát sử dụng thuốc BVTV, đẩy mạnh việc ghi chép nhật ký sản xuất, sử dụng công nghệ để minh bạch hóa trong quá trình sản xuất nhằm thuận lợi trong việc truy xuất nguồn gốc cũng như quản lý tốt các mã vùng trồng đã được cấp”, ông Phan Văn Tấn chia sẻ và cho biết thêm, dự kiến đến cuối năm 2022, toàn tỉnh có hơn 660ha thanh long được cấp giấy chứng nhận GlobalGAP, 93ha thanh long được cấp chứng nhận hữu cơ và 11.900ha thanh long được cấp chứng nhận VietGAP (chiếm 42,7% tổng diện tích toàn tỉnh); sản lượng ước đạt 600.500 tấn.
Theo Sở NN-PTNT Bình Thuận, đến nay, toàn tỉnh đã được cấp 581 mã số vùng trồng để xuất khẩu sang thị trường các nước. Cụ thể, Hoa Kỳ 69 mã, Hàn Quốc 125 mã, Úc 147 mã, New Zealand 147 mã, Nhật Bản 3 mã, Trung Quốc 90 mã và 287 mã số cơ sở đóng gói xuất khẩu sang thị trường các nước gồm Trung Quốc 274 mã; 13 mã còn lại xuất khẩu sang các nước Nhật Bản, Úc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, New Zealand.
Đối với thị trường Trung Quốc, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Bình Thuận lưu ý, các hộ sản xuất, kinh doanh cần tuân thủ các yêu cầu về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói của phía Tổng cục Hải quan Trung Quốc. Ngoài ra, cần triển khai các biện pháp quản lý sâu bệnh hại trên vườn, quản lý tốt các đối tượng sinh vật gây hại thuộc diện kiểm dịch thực vật cũng như tuân thủ quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP), an toàn thực phẩm và thực hiện các biện pháp để kiểm soát dịch bệnh Covid-19 theo yêu cầu của Trung Quốc.
Theo ông Phan Văn Tấn, để bảo đảm tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, việc đầu tư phát triển mạnh hệ thống bảo quản, nhà máy chế biến, kho lạnh bảo quản, dự trữ thanh long… giúp điều tiết sản lượng thu hoạch là rất cần thiết. Đặc biệt, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cơ sở chế biến, đóng gói đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm để đủ điều kiện tham gia xuất khẩu vào thị trường lớn có tiềm năng như Mỹ, Canada, Nhật, châu Âu…
Th1215
Đột phá ứng dụng công nghệ cao trên cây rau
Nguồn tin: Báo Long An
Sau hơn 6 năm thực hiện Chương trình đột phá Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC) gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, tư duy sản xuất rau theo hướng ƯDCNC, hữu cơ lan tỏa tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Ông Trần Tiết Giao (xã Phước Hậu, huyện Cần Giuộc) ứng dụng hệ thống tưới tự động vào sản xuất rau
Thay đổi tư duy sản xuất
Những năm gần đây, huyện Cần Giuộc được biết đến là địa phương trọng điểm phát triển công nghiệp, thương mại – dịch vụ với nhiều khu, cụm công nghiệp được hình thành. Bên cạnh đó, nơi đây còn được biết đến là vùng chuyên canh rau lớn nhất của tỉnh với 34 chủng loại rau, nổi bật là các loại rau gia vị, rau ăn lá,…
Theo thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cần Giuộc, hàng năm, huyện sản xuất trên 1.700ha rau màu, cung cấp ra thị trường khoảng 140.000 tấn rau. Tuy nhiên, trước năm 2015, việc sản xuất rau tại huyện vẫn còn manh mún, nhỏ, lẻ, sản phẩm không có thương hiệu và hầu như chưa đưa được vào hệ thống các nhà hàng, siêu thị.
Cùng với đó, thị trường tiêu thụ bấp bênh, phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái, nông dân không chủ động được thời vụ sản xuất. Mặt khác, trong bối cảnh đô thị hóa, công nghiệp hóa, nguồn nhân lực phục vụ sản xuất nông nghiệp ngày càng hạn chế, việc kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm nông nghiệp cũng đặt ra những thách thức nhất định đối với nông dân cũng như ngành Nông nghiệp địa phương.
Ông Nguyễn Văn Thành (xã Phước Hậu, huyện Cần Giuộc) chia sẻ: “Trước đây, tôi trồng rau chủ yếu bán cho thương lái, chỉ đến khi thu hoạch mới biết giá bán rau cao hay thấp. Việc phòng, trừ sâu, rầy cũng làm theo kiểu truyền thống, do đó, năng suất rau thường không cao và lợi nhuận cũng rất bấp bênh. Những năm gần đây, có hợp tác xã (HTX) tổ chức sản xuất, thu mua, hướng dẫn nông dân ƯDCNC nên năng suất, chất lượng rau và giá cả đầu ra được nâng lên đáng kể”.
Theo Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cần Giuộc – Ngô Bảo Quốc, trước khi bắt tay vào thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp ƯDCNC, để thay đổi tư duy sản xuất, huyện tổ chức cho hàng trăm nông dân đi thực tế tham quan, học tập kinh nghiệm tại các địa phương có thế mạnh sản xuất rau như Lâm Đồng, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và TP.HCM. Song song đó, huyện cũng thường xuyên đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho nông dân cũng như tổ chức các lớp chuyển giao khoa học –
kỹ thuật về sản xuất rau ƯDCNC.
Qua những chuyến tham quan, lớp tập huấn, các mô hình trồng rau ƯDCNC bắt đầu xuất hiện trên địa bàn huyện. Đầu tiên là mô hình sản xuất rau xà lách xoong trong nhà màng, sau đó là những mô hình sử dụng các loại phân bón thân thiện với môi trường, ít độc hại như phân hữu cơ, chế phẩm vi sinh; những mô hình áp dụng đồng bộ hệ thống nhà lưới, nhà màng, tưới nước tự động tiết kiệm, sản xuất theo phương pháp thủy canh;… Ông Trần Tiết Giao (xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc) nói: “Với hệ thống phun tưới nước tự động, tôi chỉ cần mở cầu dao điện, hệ thống tưới sẽ phun đều cả vườn rau 0,4ha. Nhờ đó, tôi có nhiều thời gian hơn để chăm sóc, nâng cao hiệu quả trồng rau”.
Năm 2022, ngành Nông nghiệp huyện Cần Giuộc tiếp tục triển khai nhiều dự án, mô hình nhằm khuyến khích nông dân ƯDCNC vào sản xuất rau. Cụ thể, huyện chọn HTX Nông nghiệp công nghệ cao Phước Tiến làm mô hình điểm. HTX được tỉnh hỗ trợ tối đa 50% chi phí sản xuất, gồm phân bón hữu cơ và hệ thống tưới tự động cho 1ha rau.
Giám đốc HTX Nông nghiệp công nghệ cao Phước Tiến – Trần Văn Mến chia sẻ, HTX hiện có tổng diện tích gần 10ha chuyên trồng luân canh các loại rau ngắn ngày như cải, quế, hành lá,… Với sự hỗ trợ của ngành Nông nghiệp, HTX xác định sẽ đầu tư xây dựng nhà lưới, lắp đặt hệ thống tưới tự động và sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP. “Các thành viên của HTX đều có kinh nghiệm và hiểu rõ lợi ích của việc trồng rau an toàn, do đó, HTX tin rằng việc ƯDCNC vào sản xuất sẽ mang lại hiệu quả cao. Hy vọng đây sẽ là bước tạo đà để HTX mở rộng diện tích rau ƯDCNC trong thời gian tới” – ông Mến chia sẻ thêm.
Tiếp tục duy trì và nhân rộng
Những năm gần đây, huyện Cần Giuộc tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng ƯDCNC, bền vững, bảo đảm an toàn thực phẩm. Trong đó, huyện chú trọng phát triển vùng trồng rau ƯDCNC theo quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng và giá trị nông sản. Đến nay, huyện có trên 1.175ha rau ƯDCNC. Toàn huyện có 31 HTX và 95 tổ liên kết sản xuất; trong đó, có 10 HTX, 1 tổ hợp tác trồng rau được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP và Tổ hợp tác Xuân Huy Thịnh (xã Phước Lại) được cấp chứng nhận sản xuất rau hữu cơ. Ngoài ra, huyện còn có 5 chuỗi cung ứng nông sản an toàn thực phẩm.
“Để tiếp tục duy trì và nhân rộng diện tích sản xuất rau ƯDCNC, huyện triển khai, thực hiện tốt các chính sách nông nghiệp ƯDCNC của tỉnh để hỗ trợ kịp thời kinh phí cho nông dân; nhân rộng mô hình sản xuất hiệu quả; phối hợp các ngành chức năng đẩy mạnh liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; củng cố, nâng cao hoạt động các tổ hợp tác, HTX. Bên cạnh đó, huyện tiếp tục đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp như mở rộng hệ thống giao thông, điện, thủy lợi nội đồng; đồng thời, lựa chọn công nghệ phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, có khả năng nhân rộng, bảo đảm hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho nông dân để triển khai, thực hiện” – ông Ngô Bảo Quốc thông tin.
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Nguyễn Chí Thiện, thời gian qua, ngành Nông nghiệp tỉnh chú trọng việc đẩy mạnh ƯDCNC vào sản xuất rau màu để tạo ra nguồn nông sản sạch, bảo đảm an toàn thực phẩm và có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Thông qua các chính sách hỗ trợ, hy vọng các HTX cũng như nông dân sẽ sản xuất hiệu quả và đạt lợi nhuận cao hơn.
“Khi triển khai các mô hình điểm, huyện Cần Giuộc phải thường xuyên theo dõi, đánh giá hiệu quả, qua đó từng bước mở rộng diện tích trồng rau ƯDCNC. Ngoài ra, các HTX cũng cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xây dựng chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn và tìm đầu ra ổn định cho rau màu” – ông Nguyễn Chí Thiện đề nghị.
Bên cạnh các mô hình ƯDCNC vào sản xuất rau ở huyện Cần Giuộc, trên địa bàn tỉnh còn có các mô hình ƯDCNC tại huyện Cần Đước, TP.Tân An,… Hầu hết mô hình đều phát huy hiệu quả, nâng cao thu nhập cho nông dân, góp phần khẳng định việc ƯDCNC vào sản xuất là hướng đi đúng, phù hợp, cần được tiếp tục duy trì, nhân rộng trong thời gian tới./.
Đến nay, diện tích rau ứng dụng công nghệ cao toàn tỉnh đạt trên 1.829ha, đạt 91,5% kế hoạch giai đoạn 2021-2025. Cụ thể, huyện Cần Giuộc trên 1.175ha; huyện Cần Đước trên 597ha và TP. Tân An trên 56ha.
Bùi Tùng
Th1215
Làm giàu từ xen canh sầu riêng trong vườn cà phê
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Nhờ xen canh sầu riêng trong vườn cà phê và áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, mỗi năm, gia đình anh Nheng (làng Ktu, xã Kon Gang, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) thu nhập khoảng 700 triệu đồng sau khi trừ chi phí.
Dẫn chúng tôi tham quan vườn sầu riêng trồng xen cà phê, anh Nheng cho biết: Trước đây, trong khi làm thuê, anh thấy người ta trồng xen 2 loại cây này rất hiệu quả. Trồng sầu riêng vừa làm cây che bóng, chắn gió cho cà phê, vừa đa dạng sản phẩm, hạn chế rủi ro khi biến động giá cả thị trường. Vì vậy, năm 2007, anh bàn với cha mình trồng xen 100 cây sầu riêng giống Dona và Ri6 vào 3,5 ha cà phê. Do chưa nắm vững kỹ thuật chăm sóc sầu riêng nên 30 cây bị bệnh rồi chết. “Không nản lòng, tôi đi tham quan một số nơi để tiếp tục học hỏi kinh nghiệm. Đồng thời, tôi tham gia các lớp tập huấn khuyến nông do xã, huyện tổ chức. Nhờ đó, sau 6 năm, cây sầu riêng bắt đầu ra hoa và cho thu bói. Hiện nay, vườn sầu riêng bắt đầu cho thu hoạch ổn định mỗi vụ 150-250 kg quả/cây”-anh Nheng cho hay.
Người dân tham quan vườn sầu riêng trồng xen cà phê của gia đình anh Nheng. Ảnh: Lê Nam
Theo anh Nheng, để sầu riêng và cà phê phát triển hài hòa, bổ trợ cho nhau, anh điều chỉnh lượng nước tưới, phân bón qua từng năm cho phù hợp. Đồng thời, anh đầu tư lắp đặt hệ thống tưới phun mưa tại gốc, mua máy bơm phun thuốc bảo vệ cho cây để giảm bớt công lao động. Ngoài ra, các công đoạn bón phân, tưới nước đến thu hoạch và chăm sóc cây sau thu hoạch được anh làm đúng quy trình kỹ thuật. Nhờ đó, vườn cây cho sản lượng cao, ổn định. Cứ vào giữa vụ là có thương lái đến đặt cọc, chốt giá mua cả vườn. “Vụ vừa rồi, với 70 cây sầu riêng, tôi thu hoạch được 16 tấn, bán cho thương lái với giá 45-50 ngàn đồng/kg. Sau khi trừ chi phí đầu tư, tôi thu lợi nhuận khoảng 500 triệu đồng, cộng thêm lợi nhuận từ cà phê gần 200 triệu đồng nữa. Hiện tại, bên cạnh 70 cây sầu riêng đang cho thu hoạch ổn định thì tôi đang trồng xen thêm 300 cây sầu riêng, một số cây bơ, mít, mắc ca trong vườn cà phê”-anh Nheng chia sẻ.
Thấy được hiệu quả từ mô hình này, nhiều hộ dân trong làng đã đến tham quan, học tập. Hiện toàn xã Kon Gang có khoảng 90 ha cây ăn quả được trồng xen trong vườn cà phê. Trong đó, riêng tại làng Ktu có hơn 50% hộ dân phát triển mô hình trồng xen, mỗi hộ trồng 30-50 cây ăn quả trong vườn cà phê. Anh Nheng cho hay: “Ai đến thăm vườn và muốn làm theo, tôi đều hướng dẫn tận tình từ kỹ thuật trồng, chăm sóc và mua hộ giống từ những nơi cung cấp đảm bảo chất lượng. Năm nay, bà con trong làng đang đặt tôi mua hộ 1.000 cây sầu riêng giống để trồng. Tôi làm được nên cũng mong muốn bà con cùng làm để phát triển kinh tế, hình thành vùng chuyên canh, từ đó thành lập nông hội và hướng đến xây dựng thương hiệu trái cây của xã, huyện”.
Anh Phinh (làng Ktu) cho biết: “Năm 2018, tôi nhờ anh Nheng mua hộ 100 cây sầu riêng giống và hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc. Vụ này, cây sầu riêng bắt đầu cho thu bói được hơn 5 tạ, bán được hơn 20 triệu đồng”. Tương tự, năm 2018, anh Dương (cùng làng) cũng học tập mô hình và trồng xen 30 cây sầu riêng trong gần 5 sào cà phê của gia đình. “Tôi thường xuyên đến vườn sầu riêng của anh Nheng để học tập cách chăm sóc, phòng trừ bệnh cho cây. Đến nay, vườn sầu riêng của tôi cũng bắt đầu cho thu bói. Tôi vừa mới hái bán cho thương lái hơn 3 tạ được 15 triệu đồng. Hy vọng khi cây sầu riêng bước vào kinh doanh, giá cả vẫn ổn định như bây giờ thì chỉ cần chăm sóc tốt 30 cây cũng có thể cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm”-anh Dương nhẩm tính.
Trao đổi với P.V, ông Phạm Văn Hảo-Chủ tịch UBND xã Kon Gang-cho biết: “Thời gian gần đây, người dân trong xã đã chủ động chuyển đổi cây trồng để nâng cao thu nhập. Các mô hình trồng xen cây ăn quả trong vườn cà phê rất phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương. Vì vậy, UBND xã chỉ đạo cán bộ chuyên môn, các thôn, làng tăng cường tuyên truyền, định hướng cho người dân học hỏi theo mô hình này. Trong điều kiện giá cả các mặt hàng nông sản biến đổi thất thường thì người dân sản xuất đa dạng các loại cây trồng sẽ có thu nhập ổn định, an toàn hơn”.
LÊ NAM
Th1213
Hiệu quả mô hình trồng dưa lưới công nghệ tưới nhỏ giọt
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Năm 2019, gia đình ông Trần Đình Yến (ở thôn Sơn Lộc 2, xã Cư Bao, TX. Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk) quyết định phá bỏ 6 sào cà phê, tiêu già cỗi để đầu tư xây dựng hệ thống nhà màng trồng dưa lưới ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt.
Ban đầu ông Yến trồng thử nghiệm 3.000 gốc dưa; tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm trong xử lý bệnh tuyến trùng trên cây, kỹ thuật thoát nước cho cây chưa đúng quy chuẩn nên vụ thu hoạch đầu tiên quả nhỏ, vỏ bị nứt, gia đình ông bị thua lỗ. Không nản chí, với sự giúp sức của con trai vốn là kỹ sư công nghệ sinh học, ông Yến tiếp tục đầu tư trồng dưa lưới ở vụ tiếp theo. Song song với đó, ông dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu thông tin trên sách báo, mạng Internet về kinh nghiệm trồng, chăm sóc dưa lưới.
Hiện nay, gia đình ông Yến đã đầu tư 5 nhà màng để trồng 6.000 gốc dưa. Để có nguồn thu nhập liên tiếp cũng như dễ xử lý sâu bệnh, ông trồng cây theo hình thức gối vụ, xen canh giữa các giai đoạn phát triển của cây. Mỗi năm gia đình ông Yến trồng được 3 vụ, nhờ áp dụng hiệu quả quy trình kỹ thuật nên vườn cây phát triển tốt, đạt năng suất cao, mỗi quả dưa nặng từ 1,2 – 1,8 kg, giá bán từ 25.000 – 35.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, mỗi vụ dưa mang lại cho gia đình ông nguồn thu gần 100 triệu đồng. Ngoài ra, ông còn trồng thử nghiệm 500 gốc dưa hấu không hạt để theo dõi và trồng đại trà vào vụ sau nếu đạt hiệu quả cao.
Mô hình dưa lưới mang lại thu nhập khá cho gia đình ông Yến.
Ông Yến chia sẻ, việc trồng dưa lưới trong nhà màng tuy mức chi phí đầu tư ban đầu khá lớn nhưng nhà nông sẽ sử dụng nhà màng được thời gian dài mới phải thay thế; thời gian sinh trưởng của dưa lưới tương đối ngắn, có thể canh tác nhiều vụ trong năm nên có thể thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đó, hệ thống màng lưới giúp cây trồng không phụ thuộc vào thời tiết mưa nắng, côn trùng không thể xâm nhập, giảm thiểu việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nên sản phẩm đảm bảo sạch, được người tiêu dùng ưa chuộng. Hơn nữa, hệ thống tưới nhỏ giọt có thể cung cấp phân bón, nước tưới tận gốc, đáp ứng nhu cầu sinh trưởng của cây trồng.
Không chỉ làm giàu cho gia đình, mô hình trồng dưa lưới của ông Yến còn tạo việc làm thường xuyên cho 5 nhân công của gia đình và lao động tại địa phương. Hiện tại, gia đình ông Yến đã xây dựng thương hiệu dưa lưới Nông Farm CACB cũng như đăng ký tham gia chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) nhằm nâng cao chất lượng cũng tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm.
Ninh Trang
Th1212
Kết nối cung cầu cho các HTX trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
Nguồn tin: báo Sài gòn giải phóng
Ngày 8-12, Liên minh Hợp tác xã (HTX) tỉnh Tiền Giang tổ chức Hội nghị kết nối cung cầu cho các HTX trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2022.
Tại hội nghị, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở NN-PTNT tỉnh Tiền Giang) đã thông tin đến các HTX về yêu cầu chung đối với vùng trồng xuất khẩu, đặc biệt là việc xây dựng mã số vùng trồng xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc.
Theo đó, các HTX có nhu cầu kết nối cần có lộ trình, chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định rõ những sản phẩm, hàng hóa cần kết nối, chất lượng, số lượng, thời điểm cung cấp. Các HTX cần tập trung nâng cao năng lực quản trị, điều hành, đổi mới tư duy, dám nghĩ, dám làm để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh chuyển đổi số, xúc tiến thương mại trên các sàn thương mại điện tử.
Th1226