Kỹ Thuật
Một số lưu ý chăm sóc cây bưởi da xanh trong và sau hạn, mặn
Để giảm thiểu đến mức thấp nhất tác hại của hạn, mặn đến sản xuất, bà con nông dân cần phải nắm vững kỹ thuật chăm sóc cây trồng trong và sau hạn mặn để chủ động ứng phó. Sau đây xin giới thiệu đến bà con một số lưu ý trong chăm sóc cây bưởi da xanh.
Trong thời kỳ hạn, mặn:
– Sử dụng các vật liêu thô xanh tủ gốc, giữ ẩm cho cây; có thể sử dụng loại lưới lan chắn sáng 80% cũng giúp hạn chế bốc thoát hơi nước.
– Kiểm tra hệ thống đê bao ngăn mặn, hạn chế rò rỉ nước lợ vào vườn.
– Thường xuyên kiểm tra nồng độ mặn, khi có nước ngọt (độ mặn < 2‰) thì tranh thủ đưa nước vào, có thể tưới vườn và bổ sung nước dự trữ.
– Nếu cây đang mang trái, cần điều chỉnh sức nuôi cân đối với lượng nước dự trữ; cần thiết thì hủy một phần hay toàn bộ trái để cứu vãn vườn cây không bị chết kiệt do thiếu nước.
– Nếu vườn cây bị xâm nhập mặn, cần nhanh chóng rút nước mặn ra khỏi vườn. Tìm nguồn nước ngọt để tưới rửa mặn trong thời gian sớm nhất.
– Chú ý sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt (sử dụng năng lượng mặt trời, điện năng) sẽ tăng thêm hiệu quả sử dụng nước.
– Không bón phân NPK trong thời kỳ không có nước ngọt để tưới. Có thể phun phân bón lá, các hoạt chất hỗ trợ khác để tăng tính chịu hạn, giảm tác hại của mặn đối với cây.
Sau thời kỳ hạn, mặn
– Sau khi có mưa hoặc nước ngọt trở lại thì tiến hành kiểm tra độ mặn, pH đất.
– Sau khi tưới rửa được 3 – 5 ngày thì tiến hành bón vôi CaO, CaCO3 khoảng 500 – 800 kg/ha, nhằm rửa phèn mặn để giảm độc chất trong đất. Sau đó, tưới rửa tiếp thêm 3 – 4 ngày thì bón phân chứa nhiều lân liều lượng khoảng 100 – 150 kg + 5 kg humic cho mỗi hecta. Tiếp tục tưới thêm vài ngày cho phân tan, thấm đều vào đất, nhằm giúp cây ra rễ mới, phục hồi sinh trưởng.
– Sau khi cây ra tược chớm già thì tiến hành bón phân hữu cơ và NPK theo nhu cầu của cây với lượng vừa phải.
– Việc tỉa cành, tạo tán cần tiến hành khi cây đã hồi phục sau mặn và khi thời tiết đã mát dịu trong mùa mưa. Loại bỏ bớt hoa, trái trên vườn cây bị ảnh hưởng mặn.
– Đối với vườn chuẩn bị trồng mới cần chú ý sử dụng gốc ghép chịu mặn như bưởi bòng, sảnh…
– Chú ý theo dõi và có biện pháp phòng trị kịp thời các dịch hại như bệnh thối gốc, chảy nhựa, chết ngọn, thối trái do nấm Fusarium, Phytophthora gây ra. Một số côn trùng như nhện, rệp sáp, sâu đục trái… cũng dễ bùng phát do có điều kiện thuận lợi phát sinh, phát triển. Tùy theo từng loại sâu bệnh mà bà con nông dân áp dụng biện pháp phòng trị phù hợp, nếu dùng thuốc phải tuân theo nguyên tắc 4 đúng để đạt hiệu quả phòng trị cao và an toàn.
(Theo Trần Thị Vân – Trung tâm Khuyến nông Bến Tre)
Th926
Chăm sóc bưởi da xanh đạt năng suất cao, chất lượng cao
Bưởi da xanh mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, đây là loại cây khá khó tính, người trồng cần phải nắm vững kỹ thuật và chăm sóc cho năng suất, chất lượng ngon, giảm bệnh hại tấn công. Để có một vườn bưởi da xanh tươi tốt, cho trái quanh năm, nhà vườn cần chuẩn bị vùng sản xuất an toàn, chăm sóc tỉ mỉ, trồng theo hướng an toàn sinh học. Theo khuyến cáo của Trung tâm khuyến nông TP.HCM, người trồng bưởi da xanh cần lưu ý sau:
Quá trình cây sinh trưởng, bưởi rất cần được tưới nước đầy đủ, nhất là giai đoạn cây con, ra hoa đậu trái và vào mùa nắng, còn mùa mưa cần tiêu nước để tránh ngập úng kéo dài. Để có những trái bưởi căng mọng, lên màu xanh đẹp thì cần cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cây trồng. Đặc biệt trong giai đoạn cây 1 – 3 năm tuổi cần bón phân đủ liều lượng, cân đối giữa đạm, lân và kali. Tăng cường bón phân hữu cơ gốc (trùn quế, phân bò, gà… ủ hoai), bón thêm Trichoderma, tưới gốc các loại phân hữu cơ, sinh học định kỳ giúp cây sinh trưởng khỏe, tăng sức đề kháng với bệnh hại. Mặt liếp kết hợp với bồi bùn, đắp gốc để bón phân hoặc dùng bừa răng cào lấp phân giúp hạn chế đứt rễ. Lưu ý, tháng mưa không nên xới xáo đất nhiều làm tổn thương rễ, tạo điều kiện nấm bệnh xâm nhập.
Việc tạo tán rất quan trọng, giúp hình thành và phát triển bộ khung cơ bản, từ đó phát triển tán lá cho cây, việc tỉa cành cũng có tác dụng khống chế và duy trì chiều cao của cây trồng trong tầm kiểm soát để duy trì sức sống tốt của cây, đảm bảo sự cân bằng sinh trưởng và kết trái ở mức tối đa. Do vậy, hàng năm, sau khi thu hoạch cần loại bỏ những cành đã mang trái, cành sâu bệnh, cành ốm yếu, cành nằm bên trong tán cây bưởi không có khả năng mang trái, các cành đan chéo nhau, đồng thời cũng cần loại bỏ các cành vượt trong thời kỳ đang mang trái nhằm hạn chế việc cạnh tranh dinh dưỡng và sâu bệnh cho cây bưởi.
Giai đoạn phân hóa mầm hoa cũng rất quan trọng. Đến giai đoạn cây bưởi ra hoa, nhà vườn cần tạo khô hạn để cây bưởi ra hoa đồng loạt, kết hợp bón phân tạo mầm hoa, phun và tưới gốc một số chế phẩm hỗ trợ phân hóa mầm hoa. Giai đoạn này không tiếp tục bón phân đạm, tăng cường lân, kali. Sau khi đậu trái, lúc trái non cóđường kính 1 – 2 cm cũng có thể dùng một trong các loại phân bón láphun 2 – 3 lần với nồng độ chỉ dẫn, các lần phun cách nhau 10 – 15 ngày.
Giống như những loại bưởi khác, bưởi da xanh cũng mắc một số bệnh điển hình như bệnh thối lá, thối rễ và các loại sâu hay côn trùng chích hút…. Lưu ý phòng trừ bệnh vàng lá thối rễ trên bưởi da xanh bằng cách tạo khô thoáng, hạn chế úng ngập, tăng cường phân hữu cơ bón gốc + nấm Trichoderma. Nhà vườn có thể sử dụng biện pháp phun thuốc bảo vệ thực vật không gây hại cho môi trường hoặc chế phẩm sinh học để tiêu diệt sâu bệnh hại cây. Đến giai đoạn thu hoạch, nếu giá thị trường xuống thấp, nhà vườn có thể neo trái trên cây bưởi thêm 15 – 30 ngày để chờ giá bằng cách dùng urê hoặc các loại phân bón lá trong thành phần có các kích thích tố thuộc nhóm Retain, ProGibb…hoặc bón nhiều phân dạng đạm và tưới nước thường xuyên.
NAM TIẾN – Khoa Học Phổ Thông
Th304
Sâu bệnh hại và biện pháp phòng trừ trên hoa ly
SÂU BỆNH HẠI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ
Lưu ý: Hiện nay, các thuốc BVTV đăng ký trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam để phòng trừ sâu bệnh hại trên cây hoa lily còn rất ít, một số đối tượng sâu bệnh hại không có loại thuốc nào được đăng kí phòng trừ. Chính vì vậy bà con nông dân có thể tham khảo một số loại thuốc bảo vệ phòng trừ đối tượng sâu bệnh hại tương tự trên cây trồng khác để sử dụng trên cây hoa lily. Tuy nhiên trước khi sử dụng đại trà, cần phun thử trên diện tích hẹp để tránh những rủi ro đáng tiếc xảy ra.
1. Bệnh hại lily
– Bệnh thối gốc (Phytophthora spp.)
+ Triệu chứng: Hoa, chồi non, rễ, rễ thứ cấp xuất hiện những đốm màu xanh đậm, trong điều kiện ẩm ướt đốm lan to và biến màu đen xám, cây bị héo, lá vàng, bộ rễ bị mất màu. Cây bị nhiễm bệnh vẫn còn gốc, cuống lá dính vào thân bị thối làm cho lá bị héo. Cây bị nhiễm bệnh không cho thu hoạch nhưng vẫn có thể hồi phục vào vụ sau.
+ Phát sinh: Phát triển mạnh ở nhiệt độ 20-250C, ẩm độ 90-95%. Thường xuất hiện sau khi mưa liên tục 2-3 ngày.
+ Phòng trừ: Phòng bệnh là chính, hạn chế lượng nước quá cao trong đất, không để đất ngập úng, và không để độ ẩm không khí >90%; không trồng trên vùng đất đã nhiễm bệnh; xử lý củ giống trước khi trồng.
– Biên pháp phòng trừ: Bổ sung thêm một số biện pháp
+ Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ
+ Tiêu hủy tàn dư cây bệnh tránh lây lan
Có thể tham khảo sử dụng các loại thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ: Matalaxyl + Mancozeb; Fosetyl –Aluminium, Metalaxyl
– Bệnh khô lá (Botrytis ulipica):
Đây là bệnh thường gặp khi trồng Lily, đặc biệt bệnh xuất hiện nhiều khi trồng lily ở ngoài trời. Bệnh này do nấm Botrytis ulipitica gây nên.
Triệu chứng: Đầu tiên là những đốm trắng trên lá, ngoài viền có màu nhạt, ở giữa vết bệnh có màu sẫm. Nếu bị nhiễm nặng trong điều kiện thời tiết nóng ẩm thì những vết đốm này có thể liên kết lại làm cho toàn bộ lá bị gãy và thối. Nguồn bệnh lây lan qua sự tiếp xúc nước, không khí, gió.
Phòng trừ bệnh
+ Thu gom toàn bộ tàn dư cây bệnh và tiêu hủy vào cuối vụ thu hoạch.
+ Những vườn bị bệnh nặng, nên loại bỏ sớm các cây nhiễm bệnh tránh lây lan.
+ Không sử dụng cây bệnh làm phân xanh, có thể dùng màng phủ nông nghiệp để hạn chế sự lây lan của nấm bệnh.
+ Trồng lily ở những vườn cao ráo, thông thoáng, thoát nước tốt, không nên trồng ở các khu vực thoát nước kém và độ che bóng quá cao.
– Bệnh mốc xám (Botrytis cinerea Pers).
Bệnh này cũng khá phổ biến ở lily. Bệnh do nấm Botrytis cinerea gây nên, chủ yếu là hại lá, cũng có khi hại cả thân và hoa.
Triệu chứng của bệnh: Là trên lá xuất hiện những đốm hình tròn hoặc hình trứng, to nhỏ khác nhau, chỗ bị hại mọc ra những sợi màu tro.
Phòng trừ bệnh: Có thể sử dụng một trong các loại thuốc Eugenol (Lilacter 0.3 SL) để phòng trừ bệnh mốc xám.
Ngoài ra có thể tham khảo sử dụng các loại thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ:
Carbendazim, Benomyl, Flusilazole, Propineb, Thiophanate-Methyl
– Bệnh thối củ:
Nguyên nhân: Do nấm Fusarium oxysporum.
Điều kiện phát sinh, phát triển: Nấm xâm nhập vào củ thông qua bộ rễ của phần củ và phần bẹ lá. Nấm có thể tồn tại trong đất và tàn dư cây trồng ít nhất 3 năm mà không cần sự có mặt của cây ký chủ. Bệnh phát sinh mạnh trong điều kiện nhiệt độ và ẩm độ của đất cao.
Triệu chứng: Vết bệnh có màu nâu nhạt hoặc nâu sẫm, có khả năng lan rộng lên các bẹ lá làm cho các bẹ lá bị tách rời ở phần gốc, sau đó củ bị thối. Cây bị bệnh làm cho bộ lá chuyển sang màu vàng, cây bị lùn và biến màu, phát sinh nhiều chồi nhỏ làm cho củ dần dần bị phân hủy.
Biện pháp phòng trừ: Nên ghi rõ các biện pháp phòng trừ để nông dân có thể áp dụng trong thực tế:
+ Không sử dụng củ giống có biểu hiện nhiễm bệnh, nên chọn củ sạch bệnh để làm giống. Khi phát hiện cây nhiễm bệnh cần nhổ bỏ và tiêu hủy. Ở những vườn bị bệnh nặng cần thay lớp đất mặt khoảng 45cm. Vệ sinh và khử trùng đất trước khi trồng.
+ Không nên bón nhiều đạm vì dư đạm củ sẽ bị mềm, phát triển nhanh và dễ bị nhiễm bệnh.
+ Sử dụng phân hữu cơ đã ủ hoai và tránh không để phân tiếp xúc trực tiếp với bộ rễ.
+ Trồng cây ở những nơi thoát nước tốt, tránh tưới nước lên cây trong những tháng mùa khô.
+ Bệnh phát triển mạnh ở những chân đất chua vì vậy có thể bón thêm vôi để tăng độ pH cho đất.
+ Trong quá trình chăm sóc tránh làm tổn thương cây.
+ Có thể sử dụng đất sạchvà trồng lyly vào chậu.
+ Sử dụng thuốc Trichoderma spp 106 cfu/ml (1%) + K-Humate 3.5%) + Fulvate 1% +Chitosan 0.05% + Vitamin B1 0.1% (Fulhumaxin 5.65SC) để phòng trừ bệnh.
*Bệnh thối rễ
Nguyên nhân: Do nấm Rhizoctinia solani, Pythium splendens, Cylindrocarpo destructans gây ra.
Điều kiện phát sinh, phát triển: Bệnh gây hại mạnh trong điều kiện thoát nước kém, kết cấu đất quá chặt và không thông thoáng.
Biện pháp phòng trừ:
+ Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ.
+ Tiêu hủy tàn dư cây bệnh.
+ Xử lý đất trước khi trồng.
+ Đảm bảo vườn thoát nước tốt.
Có thể tham khảo sử dung các loại thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ: Validamycin, Iprodione, Thiophanate -Methyl, Pencycuron.
2. Sâu hại lily
Rệp bông (Aphis gossypii Glover)
Chủ yếu gây hại thân, cành, lá. Rệp hút dịch lá làm cho cây khô héo, hoa biến dạng, đồng thời rệp bông là môi giới truyền bệnh virus hoa lá dưa (CMV) gây hại cho lily.
Phòng trừ: Làm sạch cỏ, vì cỏ là ký chủ chủ yếu của rệp, cắt bỏ lá, thân bị hại đem tiêu hủy
Có thể tham khảo sử dụng các thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ: Emamectin benzoate, Abamectin, Cypermethrin, Dinotefuran…
Bọ trĩ (Frankliniella intonsa)
Bọ trĩ là loại sâu nhỏ bò hoặc nhảy tập trung ở hoa hoặc lá. Sâu non thích núp ở trong nụ hoa gây hại. Sâu trưởng thành thích hút dịch ở bề mặt hoa tạo thành vân khác màu hoặc giảm màu sắc hoa.
+ Phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng, treo bẫy dính màu xanh trên đất trồng để bắt bọ trĩ.
Có thể tham khảo sử dụng các loại thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ: Imdacloprid, Abamectin, Cypermethrin, Dinotefuran, Emamectin benzoate…
Nhện (Rhizoglyphus robini)
Ở đất cát pha, đất bazan phát sinh nhiều nhện, nhện gây hại chủ yếu ở hoa, lá, rễ, củ Lily… làm nụ hoa rụng, hoa nở không đều.
– Phòng trừ: Xử lý củ giống trước khi trồng bằng cách ngâm nước nóng 400C trong 2 giờ.
– Có thể tham khảo sử dụng các loại thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ: Diafenthiuron, Hexythiazox, Propargite, Abamectin, Fenpyroximate, Emamectin benzoate…
Nguồn: sưu tầm
Th110
Kĩ thuật ghép và chăm sóc hoa lan Đai Châu sau ghép
Lan Đai châu (Rynchostylis gigantea) là một trong những loại lan đẹp được nhiều người yêu thích bởi thân mập, lá xanh đạm, dày và lớn, rễ mập khỏe và ra hoa vào tết Nguyên đán nên có giá trị kinh tế cao. Vì vậy, đối với người yêu lan thì trong nhà luôn có giò hay chậu lan Đai châu để chào đón xuân về.
Để có những chậu hay giò lan đẹp thì ngoài việc chọn cây giống khỏe, đẹp thì cách ghép lan Đai châu cũng giúp nâng cao giá trị của chậu lan lên rất nhiều. Tùy vào điều kiện nuôi dưỡng, không gian trồng lan chúng ta có thể ghép trồng trên các giá thể như chậu, đoạn gỗ hay trụ …
Trong bài viết này chúng tôi xin được gửi đến người yêu lan về kỹ thuật ghép lan đai châu trên một số vật liệu chính như trên.
1. Chuẩn bị dụng cụ
– Chậu, gỗ ghép, trụ …
– Máy khoan, máy bắn ghim…
– Đinh, dây rút, dây nhựa, que gỗ, kéo, búa…
2. Thời điểm ghép
Tốt nhất là ghép lan Đai châu vào cuối mùa xuân (tháng 3-tháng 4) sau khi hoa tàn. Lúc này nhiệt độ đã ấm dần lên và độ ẩm không khí cao giúp cây nhanh chóng ra rễ và lá mới. Ngoài ra cũng có thể ghép vào mùa hè tuy nhiên cần che giảm 50-70% ánh sáng và thường xuyên tưới nước giữ ẩm cho cây.
3. Chọn cây giống
Chọn cây giống khỏe mạnh, không bị sâu bệnh hại, cây 3 năm tuổi trở lên (có thể cho hoa luôn vào tết) có 5-6 lá, rễ to, khỏe.
4. Xử lý cây giống trước khi ghép
– Cây giống: cắt tỉa lá già, lá hỏng, rễ khô. Dùng thuốc sát trùng (Daconil) bôi trực tiếp vào vết cắt hoặc phun hay nhúng ướt toàn bộ cây, treo 2- 3 ngày cho liền sẹo. Sau đó ngâm phần gốc bằng Antonik 1/500 + B1 1/1000 trong 15-20 phút. Buộc thành túm (5 ngọn) treo ngược. Định kỳ 7 ngày phun dung dịch B1 1/1000 + 5 ml/l Rootplex. Sau khoảng 1 tháng, khi thấy nhú rễ thì có thể bắt đầu ghép lên giá thể. Với cây nhân từ nuôi cấy mô có thể ghép luôn.
– Xử lý chất trồng: Ngâm chất trồng bằng nước vôi trong hoặc thuốc trừ nấm sau đó phơi khô.
5. Kỹ thuật ghép lan
a, Ghép lan Đai châu lên chậu
– Chậu và giá thể trồng: Chọn chậu đất nung hoặc chậu thang gỗ có nhiều lỗ lớn, kích thước chậu tùy thuộc số lượng cây trồng. Thành phần giá thể dùng phải đảm bảo sự thông thoáng bao gồm: rêu khô, than củi, củi vụn…
– Tạo điểm tựa cho cây: cố định que gỗ ở gần miệng chậu. Chú ý tùy kích thước chậu, kích thước cây để xác định số cây ghép trên chậu để cố định nhiều hay ít que gỗ.
– Dùng dây rút buộc chặt cây vào điểm tựa.
Yêu cầu: cây đứng vững, không bị dịch chuyển, các cây phân bố đều trên chậu và không được trồng sâu lá dưới cùng của cây phải nằm ngang mặt chậu.
b, Ghép lan Đai châu trên gỗ ghép
– Gỗ ghép là đoạn cây thân gỗ đã bỏ vỏ, có kích thước dài 30-40 cm, đường kính 20-30cm, chọn gỗ lũa, nhãn, vải hoặc vú sữa là tốt nhất, các khúc gỗ vừa phải có thể treo trên giàn lan.
– Các bước tiến hành ghép:
+ Khoan lỗ hoặc đóng đinh để chọn điểm để buộc dây treo
+ Tạo điểm tựa cho cây trên khúc gỗ: Có thể dùng đinh được bọc nhựa hoặc dùng que tre đóng vào các lỗ đã khoan sẵn tạo điểm tựa cho cây như hình.
+ Cố định cây vào điểm đã xác định: dùng dây rút để buộc chặt cây vào điểm tựa đã tạo sẵn.
+ Mỗi khúc gỗ có thể ghép từ 5-9 cây, với khúc gỗ to có thể ghép nhiều hơn.
– Yêu cầu: cây lan phải chắc chắn, không bị dịch chuyển. Các cây được phân bố đều trên khúc gỗ ghép đảm bảo tính thẩm mỹ của giò lan.
c, Ghép lan Đai châu trên trụ gỗ
– Chất liệu gỗ: gỗ nhãn, gỗ lữa…
– Hình dáng: có nhiều hình dáng trụ khác nhau phụ thuộc vào chất liệu. Tuy nhiên cũng có thể ghép nhiều cục để tạo những có hình thù mong muốn.
– Các bước tiến hành ghép: tương tự như ghép trên giò gỗ. Tuy nhiên cần chú ý cố định chân trụ để giữ trụ chắc chắn.
– Yêu cầu: chân trụ phải thật chắc chắn. Hình dáng trụ gỗ phải có tính thẩm cao.
6. Chăm sóc sau ghép
– Để cây ở nơi ẩm mát, tránh ánh nắng trực tiếp. Tưới nước dạng phun sương mù cho ẩm đều mặt lá và giá thể định kỳ ngày 1 -2 lần vào sáng và chiều mát.
– Dùng Rootplex hoặc B1 pha với lượng 10ml/bình 10 lít nước, phun 2 tuần/lần. Phun ướt đều lá và giá thể. Lượng phun 6 – 8 bình 10 lít/1.000m2
Sau khi cây xuất hiện rễ mới (khoảng 1 tháng sau trồng):
– Tưới nước: Tưới nước ngày 1 lần với cây ghép gỗ và 2 ngày 1 lần với cây trồng chậu. Tưới vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Không tưới khi trời mưa hoặc độ ẩm không khí cao (trên 80%)
– Bón phân: Tưới phun phân có tỷ lệ NPK (21:21:21), 5 ngày 1 lần, nồng độ 1%. Phun ướt đều trên lá và giá thể. Ngoài ra, có thể bổ sung thuốc kích thích sinh trưởng Atonik 1.8 DD hoặc Vitamin B1 dùng 10ml/10 lít nước, 10 ngày 1 lần.
ThS. Chu Thị Ngọc Mỹ
(Trung tâm NC&PT Hoa, Cây cảnh)
Th107
Kinh nghiệm cho hoa mai nở đúng tết
Làm thế nào để hoa nở đúng vào dịp Tết? Đó là câu hỏi thường trực của các nhà vườn, bởi hoa nở đúng Tết đồng nghĩa với sẽ được giá bán.
Mai vàng được xem là một trong những loại hoa biểu tượng của ngày Tết. Nếu miền Bắc chuộng hoa đào hồng đẹp nhẹ nhàng với ý nghĩa riêng thì miền Nam lại cực kỳ chuộng mai vàng và hầu như nhà nào cũng chưng ít nhất 1 chậu đón Tết trong năm.
Cứ đầu tháng 12 hàng năm là người ta đã bắt đầu thấy hoa mai vàng được vận chuyển rải rác đến các trung tâm lớn đông dân bày bán. Đến từ giữa tháng 12 âm đến những ngày giáp Tết thì hoa mai vàng đã phủ kín nơi nơi khiến không gian tết với sắc vàng ngập khắp muôn nơi.
Mai vàng là biểu biểu cho ngày Tết bởi người dân quan niệm rằng mai vàng mang lại sự may mắn, hạnh phúc và sung túc cho gia đình trong năm mới. Ngoài ra chúng còn xua đuổi những sự run rủi hoặc điềm xui có thể xảy ra với gia đình trong năm tới.
Mưa, nắng và gió là những điều mà người trồng hoa mai quan tâm hơn cả. Chỉ một sự thay đổi của thời tiết, rất có thể khiến cho cả vườn mai, nguồn thu nhập chính vào dịp Tết của nông dân cũng sẽ thay đổi
Để cây mai ra hoa đúng vào dịp Tết Nguyên đán cần áp dụng một số biện pháp kỹ thuật sau:
1. Lưu ý về nhiệt độ và đất trồng
Đầu tiên khi trồng bất cứ loại cây gì thì đây cũng là hai yếu tố hàng đầu bạn cần lưu ý và không thể bỏ qua. Cách chăm sóc mai vàng ra hoa đúng tết rất quan trọng ở nhiệt độ và đất trồng vì đây là hai yếu tố quan trọng.
Về nhiệt độ: Bạn phải đảm bảo rằng mai đang được chưng ở nơi có nhiệt độ thích hợp cho sự kích thích phát triển và ra hoa đúng độ. Nhiệt độ phù hợp và tốt nhất cho mai nằm trong khoảng 25-30 độ C. Vì vậy bạn cần lưu ý để không nóng quá kích mai ra hoa sớm hoặc lạnh quá sẽ khiến hoa nở muộn.
Về chuẩn bị đất để trồng: Cần chuẩn bị đất nằm ở vùng thấp tơi xốp, dồi dào chất dinh dưỡng và đảm bảo đất không bị ngập úng (tạo rãnh).
2. Biện pháp tuốt lá
Cây mai và một số loại cây khác sẽ trổ hoa khi được tuốt bỏ hết lá già. Trong điều kiện tự nhiên, cây mai sẽ rụng lá vào cuối mùa đông, khi bắt đầu lập xuân. Sau khi lá rụng, các mầm hoa sẽ bung lớp vỏ trấu. Nụ xanh sẽ nở rộ sau 6 hoặc 7 ngày từ lúc bung vỏ trấu.
Để mai ra hoa đúng dịp Tết, biện pháp tuốt lá mai được sử dụng. Biện pháp tuốt lá cho cây mai ra hoa được thực hiện hằng năm trong khoảng thời gian giữa tháng 12 âm lịch.
Để mai ra hoa đúng dịp Tết, biện pháp tuốt lá mai được sử dụng. Biện pháp tuốt lá cho cây mai ra hoa được thực hiện hằng năm trong khoảng thời gian giữa tháng 12 âm lịch.
Một vấn đề đặt ra là làm sao xác định được thời điểm tuốt lá để vỏ trấu bung ra đúng ngày 23 tháng 12 âm lịch.
Thứ nhất: Căn cứ vào hình dạng mầm hoa. Mầm hoa hay còn gọi là “nút”, phát sinh từ nách lá vào khoảng tháng 5 – 6, kích thước lớn dần đến tháng 12 âm lịch. Mầm hoa đủ thời gian sinh trưởng sẽ có hình dạng như quả trứng, với 2 – 3 vỏ trấu bao bên ngoài thì tuốt lá cách Tết từ 13 – 14 ngày.
Mầm hoa chưa phát triển đầy đủ có dạng hình thoi nhọn, với 3 – 4 vỏ trấu bao bên ngoài, tuốt lá trước ngày 15 tháng 12 âm lịch để mầm có thời gian phân hóa.
Thứ hai: Căn cứ vào diễn biến của thời tiết. Điều kiện nắng tốt, nhiệt độ không khí cao làm quá trình ra hoa diễn ra nhanh hơn. Ngược lại, điều kiện lạnh khiến quá trình này chậm lại.
Thứ ba: Căn cứ vào sự sinh trưởng và phát triển của cây. Cây sinh trưởng mạnh, nhiều cành lá xanh tốt thường có quá trình ra hoa chậm. Do đó, cần tiến hành tuốt lá sớm hơn. Mỗi giống mai có đặc điểm sinh trưởng khác nhau nên thời điểm tuốt lá cũng khác nhau: Mai cam, mai 100 cánh nở hoa sớm hơn mai giảo 2 – 3 ngày. Mai huỳnh tỷ nở sớm hơn mai giảo 2 – 3 ngày. Mai trắng nở trễ hơn mai giảo 1 – 2 ngày.
Vì vậy, đối với những cây mai ghép nhiều giống, khi tuốt lá phải chọn những giống trổ muộn tuốt lá trước, giống trổ sớm tuốt lá sau.
3. Xử lý cho mai ra hoa sớm
Thấy lá mai đã già, nhưng nụ mai còn hơi nhỏ, có thể sẽ nở trễ hơn Tết, nên tuốt lá sớm cỡ từ ngày 10 – 12 tháng Chạp, nghỉ tưới nước một ngày cho khô nhựa, rồi tưới thúc thêm phân NPK (10-55-10): pha 10 g cho 8 lít nước, khoảng 5 ngày tưới 1 lần, rồi tiếp tục tưới nước lại bình thường. Đến cỡ ngày 23 tháng Chạp thấy nụ hoa bung vỏ trấu là hoa sẽ nở đúng Tết, nên đổi qua tưới loại phân NPK (6-30-30) để giữ cho hoa to đẹp và lâu tàn.
Trong trường hợp tuốt lá trễ, cây ra hoa không đúng dịp Tết, có thể áp dụng một số biện pháp sau đây để thúc hoa trổ sớm: Phun ướt những mầm hoa lúc trời nắng cho những cây mai không chịu bung vỏ trấu. Tưới nước ấm vào gốc khi trời quá lạnh. Đặt nước đá lên mặt đất gần gốc. Tưới rửa nụ, búp hoa vào sáng sớm. Ngắt đọt non thúc ra hoa sớm. Dùng đèn cao áp thắp sáng vào lúc 7 – 8 giờ tối hằng đêm có thể thúc mai nở sớm 2 – 3 ngày. Sử dụng hóa chất, thời điểm sử dụng sau khi tuốt lá 2 – 3 ngày.
Một số chế phẩm thường dùng là Methyl Parathion, hay Monitor, Miracle-gro, Yogen, HVP, Aron, Decamon… liều lượng 10 – 20 ml/bình 8 lít nước, phun 1 lần là hoa mai, sẽ nở ngay.
4. Xử lý cho mai ra hoa muộn
Thấy lá mai vàng úa sắp rơi rụng, nụ mai đã khá to, có thể hoa mai sẽ nở sớm hơn Tết. Trường hợp này nên tuốt lá trễ, đợi đến khoảng ngày 20 tháng Chạp hãy tuốt lá, cũng ngưng tưới nước một ngày, rồi tưới thêm phân NPK (5-0-2), hoặc phân lạnh như phân urê pha loãng, để hãm cho hoa mai nở trễ. Pha 1 muỗng cà phê phân urê cho 8 lít nước, 5 ngày tưới một lần, cũng có thể lấy vải đen bao trùm cây mai lại. Nếu thấy cây mai có lá non nhiều quá thì nên lấy kéo nhỏ cắt tỉa bỏ bớt.
Trường hợp chưa đến ngày 23 tháng Chạp, cây mai đã bung vỏ trấu, cần đặt cây nơi râm mát. Tưới đẫm nước, tránh làm úng rễ. Đào nhẹ quanh gốc làm đứt một số rễ cám (rễ nhỏ).
Nguồn: sưu tầm
Th1023
Cách trồng và chăm sóc hoa hồng để cây cho nhiều hoa nhất
Hoa hồng thuộc cây thân gỗ bụi lâu năm, có thể trồng quanh năm nhưng tốt nhất là trồng vào mùa xuân và mùa thu. Là loài hoa rất đẹp và cực quyến rũ nhưng hoa hồng lại là một giống cây rất dễ bị sâu bệnh. Dưới đây là một vài cách hướng dẫn cách chăm sóc hoa hồng khá đơn giản nhưng bạn sẽ có được một vườn hồng như ý.
Chăm sóc hoa hồng
Vị trí: Hoa hồng là loại cây thích hợp sống trong điều kiện thoáng gió và có nhiều nắng, nếu đủ nắng chiếu 8 tiếng 1 ngày cây sẽ sinh trưởng tốt và ít bị sâu bệnh gây hại, ra nhiều hoa và màu sắc của hoa cũng sáng đẹp, rực rỡ.
Tưới nước: Nếu trồng dưới đất vườn bạn cần tưới mỗi ngày 1 lần, trồng trong chậu thì mỗi ngày tưới nước 2 lần vào sáng sớm và chiều mát. Cây hoa hồng cần đủ nước để lá quang hợp, nếu cây khô thiếu nước sẽ xuất hiện nhện đỏ hại cây, vàng lá và rụng lá. Bạn hạn chế tưới nước vào buổi tối vì nước sẽ đọng trên lá cây khiến lá cây dễ bị nấm bệnh.
Dinh dưỡng:
Dinh dưỡng: Rất quan trọng trong việc quyết định cây hồng của bạn có ra nhiều hoa hay không, hoa có to và rực rỡ hay không đặc biệt là khi bạn trồng hoa hồng trong chậu. Bạn quan sát nhánh mới ra nếu có màu đỏ tía đậm và cành mập mạp tức là cây được cung cấp đủ dinh dưỡng, nếu nhánh gầy và cao thì cần bổ sung dinh dưỡng cho cây.
Đất trồng: Bạn nên thay đất trồng mỗi năm 1 lần.
Phân bón: Kết hợp phân bón lá và bón gốc xen kẽ, định kỳ 1 tháng 1 lần.
Khi cây ra ngọn, lá non bón bổ sung phân hạt Dynamic, phân dơi quanh gốc cây rồi tưới nước giúp cây hấp thu tốt dinh dưỡng, pha phân NPK hay DAP nông nghiệp tưới lên lá thân và gốc.
Lúc cây mới nhú nụ hoa bón thêm kali hồng thì hoa sẽ có màu sắc đặc trưng đậm đà. Nhưng lưu ý lúc cây ra hoa không tưới phân vì sẽ làm hỏng hoa.
Cắt tỉa cành:
Thường xuyên cắt tỉa những cành nhánh đã già, cành yếu, không cần thiết, tạo tán cho cây, để kích thích cho cây ra nhiều mầm, ngọn của các mầm chính là nụ hoa.
Sâu bệnh thường gặp khi trồng hoa hồng
Rệp: Nhiệt độ 20 độ C và độ ẩm 70-80% tạo điều kiện thuận lợi cho rệp phát triển nhanh nhất trong năm. Rệp có mầu xanh nhạt hoặc đỏ, xám. Rệp tập trung ở ngọn, mầm non và nụ hoa. Thay vì dùng thuốc diệt rệp, bạn nên làm cách rất đơn giản như sau: dùng một miếng bông, thấm nước và nhẹ ốp miếng bông vào ngọn cây có rệp, rệp sẽ bám dính vào miếng bông. Bạn làm liên tục 3-5 ngày là sạch bóng rệp nhé. Nếu nhiều bạn có thể dùng thuốc Supaside 40 ND nồng độ 0,15%, Supathion, Thiodal.
Nhện đỏ: cư trú ở mặt đất, chích hút dịch trong mô lá làm cho lá có màu vàng, quăn queo rồi rụng, khi có dấu hiệu này bạn dùng Peganus 500 SC 7-10 hoặc Ortus 5SC.
Sâu: Sâu đẻ trứng từng ổ dưới mặt lá, có thể ngắt bỏ ổ trứng, cắt bỏ hoặc tiêu huỷ các bộ phận bị sâu phá hoại và dùng các loại thuốc Supracide, Pegacus 500 SC, Cyperin 5EC.
Bệnh phấn trắng: Gây hại trên các lá non, các lá bánh tẻ và cổ bông bệnh, phát triển rất nhanh làm lá biến dạng, thân khô, cây chết, bạn có thể dùng thuốc Score 250 ND, Anvil 5 SC để chữa bệnh này cho cây.
Đốm đen: Bệnh phá hoại trên lá bánh tẻ, vết bệnh xuất hiện ở cả hai mặt lá, làm lá vàng, rụng hàng loạt. Bạn có thể dùng thuốc phòng trừ bệnh là Daconil 500 SC, Đồng Oxyclorua 30 BTN, Anvil 5 SC.
Bệnh gỉ sắt: Vết bệnh dạng chấm nổi màu vàng da cam hoặc màu gỉ sắt, hình thành ở mặt dưới lá, bệnh làm lá khô cháy, dễ rụng, thuốc phòng trừ là Kocide, Vimonyl 72 BTN, Daconil 500 SC.
Chúc mọi người thành công
Nguồn: sưu tầm
Th1022
Sâu, bệnh hại cây ớt
1. Bệnh thán thư ớt (còn gọi là bệnh đốm trái – nổ trái)
TRIỆU CHỨNG BỆNH
Vết bệnh lúc đầu là một đốm nhỏ hơi lõm, trên bề mặt vỏ quả. Vết bệnh, thường có hình bầu dục hoặc hình thoi, mầu nâu đen hoặc màu vàng trắng bẩn, kích thước vết bệnh có thể trên dưới 1cm tuỳ thuộc vào giống ớt. Phần ranh giới giữa mô bệnh và mô khoẻ thường có một đường vạch màu đen chạy dọc theo vết bệnh. Trên bề mặt mô bệnh có những chấm nhỏ màu đen đó là đĩa cành của nấm gây bệnh.
Bệnh thán thư làm thối chồi non, chết cây con vườn ươm, đặt biệt làm thối quả, cây bệnh ít quả, kém năng suất và giá trị kinh tế, xuất khẩu. Đặc biệt bệnh thán thư hại ớt cả trong thời kỳ bảo quản sau thu hoạch làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng hạt giống.
TÁC NHÂN GÂY BỆNH
Nguyên nhân gây bệnh thán thư do nhiều loài nấm thuộc loại Colletotrichum gây ra, trong đó hại phổ biến là 2 loài Colletotrichum nigrum Ell et Hals và C. capsici (Syd) Butler and Bisby. Cả 2 loài nấm này thường cùng phá hại làm thối quả ớt rất nhanh. Về đặc điểm hình thái và sinh học của 2 loài nấm trên có những khác biệt, song về điều kiện sinh thái, chúng đều sinh trưởng phát triển thích hợp ở nhiệt độ 28 – 30oC và ẩm độ cao. Đặc biệt bào tử nấm thán thư có sức sống cao, có khả năng chịu đựng khô hạn, dễ dàng phát tán nhờ gió và côn trùng. Nấm gây bệnh tồn tại chủ yếu ở dạng sợi nấm và bào tử phân sinh trên tàn dư lá, thân cành, quả và hạt ớt bị nhiễm bệnh. Vì vậy tàn dư cây ớt bị nhiễm bệnh và hạt giống cũng là những con đường truyền lan bệnh chủ yếu trong tự nhiên.
Nếu vết bệnh có màu trắng trắng xám, bên trong có nhiều vòng đồng tâm nhô lên và có màu vàng nhạt, trên đó có những chấm nhỏ li ti màu vàng do nấm Colletotrichum spp. gây ra (Colletotrichum gloeosprioides; C. capsici; C. acutatum; C. coccodes).
Nếu vết bệnh có màu đen không có nhiều vòng đồng tâm, trong vết bệnh có nhiều chấm nhỏ li ti màu đen, và chỉ gây hại trên trái chín mà thôi, do nấm Volutella sp. gây ra.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
– Xử lý hạt giống bằng KMnO4 (0,1%) trong 1 giờ hoặc xử lý nước nóng 52oC trong 2 giờ.
– Gieo trồng ớt ở mật độ thích hợp.
– Nấm tồn tại trong tàn dư thực vật, thu hái các trái bệnh đem thu huỷ.
– Luân canh, không trồng cây họ cà ớt trong vòng 2 – 3 năm.
– Chọn giống kháng bệnh, tăng cường bón thêm phân chuồng hoai mục cho ruộng ớt.
– Tránh trồng ớt trong mùa mưa. Nếu ớt gặp mùa mưa, xem cách chăm sóc và phòng trừ bệnh thán thư trên ớt trong mùa mưa.
– Phun thuốc Copper B 75 WP, Score 250 EC, Appencarb, FOLPAN 50SC, … nồng độ 0,2 – 0,5% khi bệnh gây hại.
– Bón cân đối NPK, đặc biệt để bổ sung đầy đủ nguyên tố vi lượng cho cây ớt có thể sử dụng chế phẩm Bayfolan khoáng chất 11 – 8 – 6 của Công ty Bayer với liều lượng 50ml/bình 16l. Chế phẩm Bayfolan dễ hấp thụ qua lá, thân, rễ cây, giúp cây ớt tăng sức đề kháng, tăng khả năng đậu quả, không rụng hoa và quả.
Cây ớt thường bị phá hại bởi các loại côn trùng, sâu ăn lá, sâu đục quả ớt, tạo các vết thương cơ học rất thuận lợi cho nấm gây bệnh thán thư xâm nhập phá hại. Vì vậy có thể dùng thuốc Bulldock 025EC liều lượng 0,5 – 1lít/ha diệt sâu hại.
Để phòng trừ nấm gây bệnh thán thư ớt, cần sử dụng kịp thời một số thuốc trừ bệnh chủ yếu sau: Thuốc Antracol 70WP (liều lượng 2kg/ha) phun trực tiếp lên lá, cây hoặc quả khi bệnh mới xuất hiện. Thuốc Antracol 70WP ngoài tác dụng phòng trừ trực tiếp nấm gây bệnh thán thư còn có tác dụng bổ sung nguyên tố vi lượng kẽm (Zn++) tinh khiết cho cây ớt, làm tăng sức đề kháng, xanh và cứng cây, chống rụng hoa và quả, đồng thời làm quả ớt có màu sáng đẹp. Nhờ có vi lượng kẽm, thuốc Antracol 70WP còn phòng trừ rất tốt bệnh vàng lá.
Có thể phun luân phiên thuốc Antracol 70WP (1.5 – 2 kg/ha) với thuốc Nativo 750WG (liều lượng 0,12kg/ha), nhờ tác động kép giữa 2 hợp chất trừ bệnh của thuốc Nativo 750WG giúp cây ớt phòng trừ được tất cả các bệnh nấm hại cây và quả ớt kéo dài.
Ngoài 2 loại thuốc trên, người sản xuất cũng có thể dùng luân phiên với thuốc Melody DUO 66,75WP với liều lượng theo khuyến cáo (1kg/ha).
2. Bệnh đốm trắng lá
TRIỆU CHỨNG BỆNH
Bệnh gây hại chủ yếu trên lá bánh tẻ đến lá già.
Vết bệnh lúc đầu nhỏ có màu xanh đậm, sau đó vết bệnh lớn dần vết bệnh có màu trắng, viền màu nâu đậm. Bệnh nặng làm cho lá rụng sớm, giảm năng suất, trái nhỏ. Bệnh ít hoặc không tấn công trên trái.
TÁC NHÂN GÂY BỆNH
Do nấm Cercospora capsici gây ra.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Khi thấy bệnh nặng phun thuốc Copper B 75 WP, Score 250 WP, FOLPAN 50SC … nồng độ 0,2 – 0,4%
3. Bệnh héo tươi
TRIỆU CHỨNG BỆNH
Bệnh gây hại nặng ở vùng trồng ớt trong suốt mùa mưa trong vùng khí hậu nhiệt đới.
Bệnh xảy ra rãi rác trên từng cây hoặc từng nhóm cây ở giữa ruộng. Triệu chứng đầu tiên trên cây già các lá bên dưới bị héo nhẹ; nhưng ở cây con thì các lá non bị héo trước. Sau vài ngày cây bất thình lình héo nhanh nhưng lá không vàng.
Chẻ thân ở phần gốc và rễ ta thấy các mạnh nhựa biến thành màu xám đất đến nâu nếu nhúng phần bị cắt vào nước ta sẽ thấy dòng vi khuẩn tuôn ra có màu trắng sữa.
TÁC NHÂN GÂY BỆNH
Do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum gây ra.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
– Lên líp cao thoát nước tốt, bón vôi.
– Luân canh không trồng họ cà ớt trên ruộng bị nhiễm nặng 2 – 3 năm.
– Tưới nước Copper zinc 85WP, Starner 20WP… 0,5 – 1% vào gốc cây mới bị bệnh.
– Nhổ và tiêu huỷ các cây bị bệnh nặng để tránh lây lan.
4. Bệnh thối đọt non
TRIỆU CHỨNG BỆNH
Bệnh thường gây hại nặng trong mùa mưa hoặc gặp khi thời tiết ẩm có nhiệt độ khá cao.
Bệnh thường gây hại trên hoa, chồi hoa, hoặc các nhánh non của cây.
Mô cây nơi bị nhiễm bệnh co màu nâu đen đến đen, và nấm lan nhanh xuống phần dưới, làm phần đọt bị chết và thối mềm ra. Trong điều kiện ẩm độ cao nơi phần bị thối ta thường thấy có tơ nấm màu trắng và tận cùng có phình tròn màu đen.
TÁC NHÂN GÂY BỆNH
Do nấm Choanephora cucurbitarum gây ra.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
– Không trồng ớt quá dày, làm cỏ tạo cho ruộng ớt thông thoáng.
– Tránh trồng ớt vào mùa mưa.
– Liếp phải cao và thoát nước tốt.
– Không tưới nước quá đẩm vào chiều mát khi có bệnh xuất hiện.
– Phun thuốc Score 250 EC, FOLPAN 50SC … nồng độ 0,2 – 0,5% khi bệnh gây hại nặng
5. Bệnh khảm
TRIỆU CHỨNG BỆNH
Bệnh thường gây hại ở giai đoạn cây ra hoa kết trái trở về sau, bệnh gây hại nặng trong mùa nắng nóng và nhẹ trong mùa mưa.
Bệnh thường làm lá đọt nhỏ, xoắn lại, lá không phát triển, lóng ngắn, cây trở nên giòn dễ gãy. Bệnh nặng cây còi cọc, hoa bị vàng nhỏ và rụng, cây rất ít trái, trái nhỏ và vặn vẹo. Cuối cùng cây có thể bị chết.
TÁC NHÂN GÂY BỆNH
Do virus gây ra; côn trùng chích hút như rầy mềm, bù lạch là trung gian truyền bệnh.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
– Không sử dụng nguồn giống ở những ruộng bị bệnh.
– Bón phân cân đối và tăng cường thêm lượng phân chuồng hoai mục để tăng khả năng chống chịu được bệnh.
– Phun thuốc trừ nhóm côn trùng chích hút bằng thuốc ACTARA 25WG, VERTIMEC 1.8 ND.
6. Bệnh mốc xám
TRIỆU CHỨNG BỆNH
Bệnh thường gây hại trên trái, nhất là trái non của ớt, dưa leo và mướp.
Trái thường bị thối từ chớp trái thối lên, trên vùng thối, bào tử nấm tạo thành lớp mốc xám. Trái bị thối khô tóp lại.
TÁC NHÂN GÂY BỆNH
Tác nhân gây bệnh: Bệnh do nấm Botrytis cinerea Persoon. Bào tử lây lan theo gió, mưa. Bệnh phát triển mạnh trong mùa mưa.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
– Loại bỏ các trái bệnh để tránh lây lan.
– Phun ngừa bằng TOPAN 70 WP (0,05 – 0,1%).
Nguồn: sưu tầm
Th904
SB- bệnh thối nhũng bông, trái thanh long
Hiện tượng nhánh thanh long bị thối mà bạn đã mô tả chúng tôi cũng đã gặp ở những vườn thanh long khác, nhất là vào mùa mưa hoặc vào những thời gian có sương mù nhiều trong năm. Đây là một bệnh do vi khuẩn gây ra. Loài vi khuẩn này xâm nhập vào trong cây thông qua các vết thương cơ giới trên cây như vết cắn phá của một số loài kiến, sâu hại, vết thương do nhà vườn, những vết thương do cắt tỉa nhánh hàng năm, vết xây xát do các nhánh cọ quệt vào nhau, vết gãy nứt tự nhiên của những nhánh do mang quá nhiều trái nặng kéo xuống.
1. Tác nhân gây hại:
Do vi khuẩn Erwinia chrysanthemi và nấm Rhizopus sp. (tác nhân thứ cấp) gây ra.
2. Triệu chứng bệnh:
Bệnh thường xuyên xuất hiện ở giai đoạn cây ra nụ, sau khi hoa nở và ở giai đoạn quả non. Triệu chứng ban đầu là nụ hoặc quả có vết bị thối nhũn, có bọt khí nổi trên bề mặt vết bệnh, bên trên vết bệnh có xuất hiện lớp tơ nấm màu đen và lan rộng rất nhanh chóng làm thối cả quả, có mùi hôi và có dịch nhựa màu nâu vàng chảy ra. Ngoài ra, bệnh cũng có thể tấn công và gây thối nhũn đầu trái.
3. Đặc điểm phát sinh và phát triển của bệnh:
Bệnh gây hại quanh năm, phát triển mạnh trong điều kiện mùa mưa (ẩm độ cao và nhiệt độ khoảng 25-350C.
4. Nguồn bệnh và sự lây lan
– Bệnh thường tồn tại trong xác bả thực vật có trên vườn hoặc trên cành, bông bị bệnh không được tiêu hủy.
– Bệnh có thể lây lan thông qua gió, mưa bão, côn trùng gây vết thương,…
– Những vườn bị bệnh thối quả thường thấy xuất hiện rất nhiều ngâu,bù xè (Protaetiasp. và Hypomeces squamesus).
5. Biện pháp quản lý
– Tạo điều kiện thông thoáng và thoát nước tốt cho vườn trong mùa mưa.
– Vệ sinh vườn thường xuyên và tiêu huỷ nguồn bệnh triệt để. Nếu có cắt tỉa và tạo tán cây sau thu hoạch, có thể phun ngừa thuốc trừ nấm gốc đồng, hoặc thuốc sinh học gốc Chitosan (Biogreen,…), Streptomycin sulfate (Poner, Stepguard,…)
– Tăng cường bón vôi cho cây thanh long 1-2 lần/năm (vào đầu và cuối mùa mưa).
– Bón phân cân đối và hợp lý. Nên bón nhiều phân hữu cơ hoai mục kết hợp với nấm đối kháng Trichoderma nhằm giúp cây sinh trưởng mạnh, chống chịu tốt với bệnh.
– Nên ngắt bỏ đài hoa (rút râu) sau khi hoa nở khoảng 3-4 ngày đối với mùa nắng và 2-3 ngày đối với mùa mưa. Sau đó phun một số loại thuốc trừ nấm để nhằm ngăn chặn mầm bệnh xâm nhiễm thông qua vết thương sau khi rút râu.
– Có thể phun xen kẽ theo định kỳ 5-7 ngày/lần bằng thuốc sinh học Chitosan hoặc các loại thuốc trừ nấm gốc Kasugamycin, Streptomycin sulfate , Oxolinic acid (Starner,…).
Lưu ý, giai đoạn nụ hoa 14-20 ngày sau trổ và 7-10 ngày sau rút râu là hai giai đoạn mẫn cảm nhất đối bệnh thối nhũn và nên có biện pháp quản lý ngâu phù hợp (bắt bằng tay, bả độc,…)
Theo Trung tâm Nghiên cứu Phát triển cây thanh long Bình Thuận
Th723
Kĩ thuật trồng và chăm sóc hoa phong lan
1- THIẾT KẾ VƯỜN
Nếu trồng lan kinh doanh cần thiết kế khung giàn lan làm bằng sắt chắc chắn, đảm bảo bền, chống gió bão. Giàn che ánh sáng dùng lưới màu xám hay xanh đen. Giàn đặt chậu làm bằng sắt, giàn treo làm bằng tầm vông hay sắt ống nước. Xung quanh vườn cần dựng hàng rào chắn chắc chắn hay rào bằng lưới B40. Thiết kế hàng trồng theo hướng Bắc Nam để vuông góc với dường đi của ánh nắng. Các chậu lan cần chọn cùng cỡ kích thước, cùng giống, cùng độ tuổi, bố trí theo từng khu vực để dễ chăm sóc. Nước tưới phải sạch, có rãnh nước dưới dàn lan để tạo khí hậu mát cho vườn lan. Nếu trồng lan để chơi trên lan can, mái hiên, sân thượng cần chú ý rằng tiểu khí hậu các nơi này thường bị khô nóng do ảnh hưởng của các kết cấu bê tông, mái tole… xung quanh. Cần đặt thêm các chậu cảnh khác như cau, mai chiếu thuỷ, nguyệt quế… để giảm bớt ảnh hưởng của các yếu tố này. Cần che bớt ánh sáng mặt trời, tránh ánh nắng chiếu toàn bộ, nhất là vào buổi chiều.
2- CHỌN GIỐNG
Loài thích hợp cho trồng lan kinh doanh là Dendrobium, Phalaenopsis, Oncidium, Vanda, Cattleya… đây là những loài ra hoa khoẻ, đẹp và bền cây, cho thu hoạch liên tục. Nếu trồng lan để chơi, giải trí nên trồng Dendrobium, Vũ nữ, Hồ điệp; đây là những loài dễ chăm sóc và ra hoa. Có thể nhân giống bằng nuôi cấy mô hay tách mầm. Điều kiện môi trường nuôi cấy mô phong lan với nhiệt độ 22-27oC, cường độ ánh sáng thích hợp, pH từ 5-5,7. Khử trùng mô bằng Starner 20 WP cấy bằng Clorox hoặc Hipocloritcalci, bổ sung các chất điều hòa sinh trưởng. Có thể tách mầm từ các chậu lan lớn, mỗi phần để 2-3 nhánh. Dùng dao sắc khử trùng bằng cồn, vết cắt cần gọn, sau cắt bôi vôi vào vết cắt cho nhanh lành sẹo.
3- CHUẨN BỊ GIÁ THỂ VÀ CHẬU
Có thể than gỗ, xơ dừa, vỏ lạc làm giá thể để trồng lan. Than gỗ nung cần chặt khúc, kích thước 1 x 2 x 3cm, than phải ngâm, rửa sạch, phơi khô. Xơ dừa xé cho tơi ngâm khoảng 1 tuần cho bớt tanin và mặn, phơi khô. Mụn dừa cũng cần rửa sạch phơi khô. Vỏ dừa chặt khúc 1 x 2 x 3 cm xử lý bằng nước vôi 5%. Chậu trồng bằng nhựa hay đất nung, kích cỡ tuỳ loại và độ tuổi.
4- KỸ THUẬT CHUYỂN CHẬU
Nếu dùng lan cấy mô thì khi lan mô đạt khoảng 4cm cần chuyển ra ngoài. Cây mô rửa sạch để trên miếng lưới hay rổ kê trên chậu nước để giữ mát cho cây con. Giai đoạn trồng chung trên giàn lấy xơ dừa bó xung quanh cây lan cấy mô, dùng dây thun cuốn lại rồi đặt lên giàn. Sau khi trồng trên giàn được 6-7 tháng thì chuyển sang chậu nhỏ. Khoảng 6 tháng thì chuyển sang chậu lớn. Sau mỗi lần chuyển chậu khoảng 1 tuần mới được bón phân. Việc thay đổi chậu còn tùy kích cỡ của cây, mức độ thối, hư mục rêu bám… Nếu trồng lan để chơi, lan lâu ngày ra hoa ít cần dỡ lan ra khỏi chậu, cắt bớt các rễ già và quá dài, chuyển sang chậu mới, thay giá thể mới, lan sẽ sinh trưởng tốt và ra hoa trở lại.
5- CHĂM SÓC LAN
Lan là cây trồng dễ chăm sóc nếu chúng ta đảm bảo được các điều kiện thuận lợi cho lan phát triển. Các yếu tố quan trọng nhất đối với lan là ánh sáng, nước tưới, độ ẩm, chậu hay giá thể và dinh dưỡng.
– Chiếu sáng:
Mật độ chiếu sáng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sinh trưởng, phát triển và ra hoa của lan. Thiếu nắng cây lan vươn cao nhưng nhỏ và ốm yếu, lá màu xanh tối, dễ bị sâu bệnh tấn công, cây ít nảy chồi, khó ra hoa, hoa nhỏ và ngắn màu sắc không tươi, hoa nhanh tàn. Thừa nắng lan thấp cây, lá vàng có vết nhăn và khô, mép lá có xu hướng cụp vào, dễ ra hoa sớm khi cây còn nhỏ nên hoa ngắn, nhỏ, cây kém phát triển. Nếu nắng gắt quá lá sẽ bị cháy, khô dần rồi chết.
Lan có yêu cầu khác nhau về mức độ chiếu sáng tùy theo loài lan và tuổi cây. Lan Hồ điệp (Phalaenopsis) ít chịu nắng nhất, có thể chịu được 30% nắng, lan Cattleya chịu được 50% nắng, lan Dendrobium hay Vanda lá hẹp chịu được 70% nắng, trong khi lan Vanda lá dài và Bò cạp chịu được tới 100% nắng. Lan con từ 0-12 tháng đang trong giai đoạn tăng trưởng thân lá chỉ cần chiếu sáng 50%, lan nhỡ từ 12-18 tháng cần chiếu sáng tới 70% và thời điểm kích thích ra hoa có thể cho chiếu sáng nhiều hơn, thậm chí bỏ dàn che để chiếu sáng tự nhiên. Hướng chiếu sáng cũng rất quan trọng đối với lan. Lan đặt ở hướng Đông nhận ánh nắng buổi sáng sẽ tốt hơn nhiều so với lan đặt ở hướng Tây nhận ánh nắng buổi chiều. Chính vì vậy nếu trồng lan trên sân thượng hay ban công ở phía Tây lan kém phát triển và ít hoa. Khi trồng lan cần bố trí hàng theo hướng Bắc – Nam để cây nhận được ánh sáng phân bố đầy đủ nhất.
– Phân bón:
Dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng đối với lan. Khi lan đầy đủ dinh dưỡng cây tươi tốt, ra nhiều hoa, hoa to đẹp, bền trong khi thiếu dinh dưỡng lan còi cọc, kém phát triển, không hoặc ít có hoa. Lan cần 13 chất dinh dưỡng khoáng, thuộc các nhóm đa, trung và vi lượng: Dinh dưỡng đa lượng gồm Đạm (N), Lân (P) và Kali (K). Dinh dưỡng trung lượng gồm Lưu huỳnh (S), Magiê (Mg) và Canxi (Ca). Dinh dưỡng vi lượng gồm Sắt (Fe), Kẽm (Zn), Đồng (Cu), Mangan (Mn), Bo (B), Molypđen (Mo) và Clo (Cl).
Thiếu đạm, cây còi cọc, ít ra lá, ra chồi mới, lá dần chuyển vàng theo qui luật lá già trước, lá non sau, rễ mọc ra nhiều nhưng cằn cỗi, cây khó ra hoa.
Thừa đạm, thân lá xanh mướt nhưng mềm yếu, dễ đổ ngã và sâu bệnh, đầu rễ chuyển xám đen, cây khó ra hoa.
Thiếu lân, cây còi cọc, lá nhỏ, ngắn, chuyển xanh đậm, rễ không trắng sáng mà chuyển màu xám đen, không ra hoa.
Thừa lân cây thấp, lá dày, ra hoa sớm nhưng hoa ngắn, nhỏ và xấu, cây mất sức rất nhanh sau ra hoa và khó phục hồi. Thừa lân thường dẫn đến thiếu Kẽm, Sắt và Mangan.
Thiếu kali, cây kém phát triển, lá già vàng dần từ hai mép lá và chóp lá sau lan dần vào trong, lá đôi khi bị xoắn lại, cây mềm yếu dễ bị sâu bệnh tấn công, cây chậm ra hoa, hoa nhỏ, màu không sắc tươi và dễ bị dập nát.
Thừa kali, thân lá không mỡ màng, lá nhỏ. Thừa kali dễ dẫn đến thiếu magiê và can xi.
Thiếu lưu huỳnh, lá non chuyển vàng nhạt, cây còi cọc, kém phát triển, sinh trưởng của chồi bị hạn chế, số hoa giảm.
Thiếu magiê, thân lá èo uột, xuất hiện dải màu vàng ở phần thịt của các lá già trong khi hai bên gân chính vẫn còn xanh do diệp lục tố hình thành không đầy đủ, cây dễ bị sâu bệnh và khó nở hoa.
Thiếu canxi, cây kém phát triển, rễ nhỏ và ngắn, thân mềm, lá nhỏ, cây yếu dễ bị đổ ngã và sâu bệnh tấn công.
Thiếu kẽm, xuất hiện các đốm nhỏ rải rác hay các vệt sọc màu vàng nhạt chủ yếu trên các lá đã trưởng thành, các lá non trở nên ngắn, hẹp và mọc sít nhau, các đốt mắt ngọn ngắn lại, cây thấp, rất khó ra hoa.
Thiếu đồng, xuất hiện các đốm màu vàng và quăn phiến lá, đầu lá chuyển trắng, số hoa hình thành ít bị hạn chế, cây yếu dễ bị nấm tấn công.
Thiếu sắt, các lá non chuyển úa vàng sau trở nên trắng nhợt, cây còi cọc, ít hoa và dễ bị sâu bệnh tấn công.
Thiếu mangan, úa vàng giữa các gân của lá non, đặc trưng bởi sự xuất hiện các đốm vàng và hoại tử, các đốm này xuất hiện từ cuống lá non sau lan ra cả lá, cây còi cọc, chậm phát triển.
Thiếu bo, lá dày, đôi khi bị cong lên và dòn, cây còi cọc, dễ bị chết khô đỉnh sinh trưởng, rễ còi cọc số nụ ít, hoa dễ bị bị rụng, không thơm và nhanh tàn.
Thiếu molypden, xuất hiện đốm vàng ở giữa các gân của những lá dưới, nếu thiếu nặng, các đốm này lan rộng và khô, mép lá cũng khô dần, cây kém phát triển.
Thiếu clo, xuất hiện các vệt úa vàng trên các lá trưởng thành sau chuyển màu đồng thau, cây còi cọc, kém phát triển.
Lan rất cần phân bón nhưng không chịu được nồng độ dinh dưỡng cao, vì vậy bón phân cho lan phải thực hiện thường xuyên và tốt nhất là bằng cách phun qua lá. Phân bón cho lan phải chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng đa, trung và vi lượng với thành phần và tỷ lệ phù hợp với từng thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây. Nguyên tắc chung là lan trong thời kỳ sinh trưởng thân lá mạnh cần đạm cao, lân và kali thấp, trước khi ra hoa cần lân và kali cao, đạm thấp trong khi lan nở hoa cần kali cao, lân và đạm thấp hơn.
Phân bón thích hợp cho các thời kỳ này là các loại phân bón phun qua lá có đầy đủ và cân đối đa, trung vi lượng, chất điều hoà sinh trưởng. Bạn có thể dùng dịch trùn quế để thay thế với nồng độ và liều lượng: pha 2ml dịch trùn quế với 1 lít nước, định kì 5-7 ngày phun lần. Giai đoạn lan làm bông, pha 2ml dịch trùn quế với 1 lít nước,3 ngày phun lần sẽ giúp kích bông, hạn chế suy cây.
– Tưới nước: Lan rất cần nước cho quá trình sinh trưởng phát triển. Nếu thiếu nước cây sẽ khô héo, giả hành teo lại, lá rụng nhưng không chết, nụ có thể trước khi nở hoa. Thừa nước, cây dễ bị thối đọt nhất là với các giống lan có lá đứng mọc sít nhau. Quá nhiều nước rễ có rong rêu và nấm bệnh phát triển mạnh. Nước tưới cho lan không quá mặn, phèn và clor dưới ngưỡng cho phép, pH 5,6. Chỉ tưới nước đủ ẩm, nên tưới vào sáng sớm hay chiều mát, tránh tưới buổi trưa khi trời đang nắng nóng. Sau những trận mưa bất thường, nhất là mưa đầu mùa cần tưới lại ngay để rửa bớt các chất cặn đọng lại trên thân lá.
– Phòng trừ sâu bệnh: Lan là cây cũng dễ bị sâu bệnh, nhất là trong điều kiện chăm sóc kém, điều kiện môi trường không thuận lợi. Tùy theo từng loại sâu bệnh mà dùng các loại thuốc thích hợp. Liều lượng và nồng độ phun cần theo đúng hướng dẫn trên bao bì sản phẩm. Nếu lan bị các loại sâu hại thân lá có thể dùng các thuốc chứa hoạt chất Fenitrothion, Trichlorfon như Ofatox 400EC, hoạt chất Cartap như Patox 95SP hay Captafon, Captan hoặc Actara 25WG. Lan bị rệp sáp, rệp trắng, rầy mềm dùng Supracid 40ED/ND, Suprathion 40EC, Bitox 40EC hay Ofatox 400EC. Lan bị nấm, vi khuẩn hay virus gây nên tình trạng cháy lá từng đám, vết cháy lan tròn dần, bệnh thối rễ dùng Zinep, Starner 20 WP hay Benomyl.
6- THU HOẠCH VÀ BẢO QUẢN
Hoa cắt cánh ngâm trong dung dịch giúp hoa lâu héo khoảng 15 phút, sau đó bọc lại bằng giấy báo
Nguồn: sưu tầm và chỉnh sửa
Th627
Bệnh ghẻ trên cây có múi- triệu chứng và biện pháp phòng trị
Bệnh ghẻ trên cây có múi – triệu chứng và biện pháp phòng trị
Cây có múi là cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, chiếm diện tích ưu thế ở các tỉnh thành Nam Bộ, đặc biệt một số vùng đã hình thành nên những thương hiệu nổi tiếng như cam sành Tam Bình, Trà Ôn. Gần đây, vùng Cầu Kè (Trà Vinh), Châu Thành (Hậu Giang) nổi lên là vùng trồng mới rất có hiệu quả. Nhìn chung, cây ăn trái ở Nam bộ phát triển rất nhanh về diện tích lẫn cơ cấu cây trồng và sản lượng, trong đó có phần đóng góp quan trọng của cây có múi.
Hiện nay, nhà nông đang đứng trước nhiều thách thức ảnh hưởng đến giá trị thương phẩm của cam quýt, trong đó đáng kể đến nhất đó là bệnh ghẻ và bệnh dal lu – da cám trên trái. Với những bệnh này, nếu biết cách phòng trị thì sẽ không có gì nguy hại nhưng nếu không phòng trị đúng sẽ làm mất giá trị thương phẩm rất đáng kể vì làm cho bề mặt vỏ trái trở nên xấu xí và bán không được giá. Vì thế nên chúng ta cần hiểu rõ về nó để biết cách phòng trị.
Bệnh ghẻ là do nấm và vi khuẩn, trong đó gây bệnh do vi khuẩn là nghiêm trọng nhất vì chúng lây lan rất nhanh và khó phòng trị. Để phòng trị chúng hiệu quả nhất nên dùng những thuốc BVTV có gốc Sulfur và phun ngừa định kỳ sẽ hiệu quả hơn. Có 3 loại bệnh ghẻ : ghẻ loét, ghẻ lõm và ghẻ nhám
I. Bệnh ghẻ loét cam quýt
1. Triệu chứng
Bệnh lây lan chủ yếu qua gió mưa, dụng cụ làm vườn, động vật, chim, con người qua tay chân, quần áo, tấn công mạnh vào mùa mưa hay những vườn áp dụng biện pháp tưới phun trên tán lá.
Trong các giống cây có múi, loét nhiễm nặng nhất trên giống bưởi chùm, các giống thuộc nhóm cam mật như Hamlin, Pineapple, và Navel, chanh giấy (Mexican limes), chanh tàu và cam ba lá.
Bệnh ban đầu xuất hiện trên cành, lá non và trái. Triệu chứng ban đầu là những đốm bệnh màu vàng sáng, nhỏ như vết kim châm trên lá non, sau đó bệnh phát triển nhanh thành những vết bệnh màu nâu nhạt. Đường kính vết bệnh biến thiên theo giống trồng, trên bưởi thì vết bệnh thường lớn hơn so với cam quýt và chanh. Chung quanh vết bệnh thường có viền màu vàng sáng, các vết bệnh có thể liên kết lại với nhau thành từng mảng lớn đặc biệt là bệnh nhiễm theo các vết đục của sâu vẽ bùa.
Bệnh có thể lầm lẫn với bệnh ghẻ (sẹo), bệnh loét thể hiện trên cả hai mặt lá, chung quanh vết bệnh có viền vàng sáng và không làm lá biến dạng, nhăn nheo. Ngược lại bệnh ghẻ thường hiện diện ở một mặt lá, thường là mặt dưới, vết bệnh nhỏ hơn vết bệnh do loét gây ra và thường nhô cao trên bề mặt phiến lá, chung quanh không có quầng vàng. Sâu vẽ bùa thường tấn công trên lá non và tạo nên các vết thương là nơi vi khuẩn rất dễ xâm nhập vào trong tế bào cây và gây hại.
b. Phòng trị
Cần tiêu hủy các cành, lá và trái bị bệnh trên vườn.
Bệnh có tốc độ lây nhiễm nhanh đặc biệt là trong mùa mưa bão, vì vậy cần chú ý phòng ngừa bệnh bằng những thuốc gốc đồng.
Nên trồng cây con sạch bệnh, dụng cụ làm vườn cũng nên khử trùng bằng Javel.
Xử lý vật liệu trồng và đất trước khi trồng. Đối với hạt, mắt ghép, trái tại các trạm đóng gói có thể xử lý bằng Javel với nồng độ 1.500 ppm trong 5-10 phút.
Cần phun thuốc gốc Sulfur định kỳ với các loại thuốc để phòng ngừa bệnh theo các đợt đọt non.
Phun thuốc trừ sâu vẽ bùa có hoạt chất Chlorpiryfos (Tricel 48EC)
Trong vườn nên quét vôi vào gốc vào cuối mùa nắng, xới gốc và bón vôi sẽ giúp hạn chế mầm bệnh phát triển
Trong vườn có nhiều cây bị bệnh nặng, nên hạn chế việc phun nước tưới thẳng lên tán cây, vì như vậy sẽ giúp phân tán mầm bệnh trôi nổi trong nước tưới hay bắn các giọt vi khuẩn sang lá, cành, trái khác.
II. Bệnh ghẻ nhám cam quýt
a. Triệu chứng:
Bệnh gây hại trên lá, trái, cành; bệnh nhiễm rất sớm trên các bộ phận còn non của cây. Bệnh gây hại nặng trong lúc có ẩm độ và nhiệt độ cao hoặc trên vườn cây già thiếu chăm sóc. Vết bệnh lúc đầu nhỏ, tròn, màu xanh nhạt. Sau đó vết bệnh nhô lên, khi vết bệnh già trên đỉnh thì vết bệnh có màu vàng nhạt đến vàng nâu nhạt.
Ở lá vết bệnh thường nhô lên ở phía mặt dưới của lá làm lá cong lại hoặc bị vặn vẹo, lá bị biến dạng. Trên trái và cành vết bệnh nhô lên giống như trên lá. Bệnh nặng làm lá nhỏ lại hoặc vàng và rụng, cành bị khô chết, trái sượng, méo mó. Bệnh nhẹ làm da trái, cành bị sần sùi màu vàng nhạt, có các vảy màu vàng cạo nhẹ sẽ tróc ra, vết bệnh giống như rắc cám lên vỏ trái nên còn được gọi lá bệnh “da cám”.
b. Phòng trị
Thường xuyên vệ sinh vườn cây, cắt tỉa và thu gom các bộ phận bị bệnh đem tiêu hủy.
Phun ngừa khi cây ra đọt non hoặc khi hoa rụng cánh 2/3 bằng thuốc gốc đồng hoặc gốc Sulfur (Sulfex 80WG)
III. Bệnh ghẻ lõm cam quýt
a. Triệu chứng:
Bệnh gây hại nặng trên quýt Tiều, cam Sành, cam Mật và hiện nay bắt đầu gây hại trên quýt đường (xiêm). Bệnh nhiễm rất sớm trên trái nhưng thường đến lúc trái đạt kích thước tối đa hoặc trái bắt đầu vào giai đoạn chín (lên da lươn) bệnh mới thể hiện triệu chứng.
Đầu tiên vết bệnh lá những chấm nhỏ màu nâu, sau đó lớn dần, có viền màu nâu. Trên trái quýt Tiều, bên trong vết bệnh có màu trắng xám, đôi khi có những chấm nhỏ màu đen. Trên trái cam Mật vết bệnh có màu nâu, viền nâu đậm; nhiều vết bệnh có thể liên kết lại với nhau thành vết bất dạng.
Bệnh thường gây hại nặng ở những vườn cây già, trái ở tầng trên hoặc trái phơi ra ngoài nắng. Bệnh làm trái cam mật rất dễ bị rụng.
b. Phòng trị
Thu gom những trái bị bệnh đem tiêu hủy.
Những vườn thường bị bệnh xảy ra phun ngừa định kỳ từ khi trái được 2 tháng tuổi cho đến trước khi thu hoạch 15 ngày.
Giai đoạn đầu phun 30 ngày/lần, giai đoạn chuẩn bị lên da lươn đến thu hoạch phun 10 ngày/lần bằng thuốc Sulfex 80WG
Nguồn: Công ty Vinhthinh Biostadt JSC
Th927