Kỹ Thuật
Biện pháp phòng trừ bọ trĩ hại sầu riêng
Sầu riêng là một loại cây ăn trái có giá trị kinh tế được trồng phổ biến ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, những năm gần đây nhiều vườn sầu riêng gặp không ít trở ngại về tình hình sâu bệnh gây hại nghiêm trọng xảy ra. Trong đó, bọ trĩ (Scirtothrips dorsalis) là một trong những loại côn trùng gây hại khiến nhiều nhà vườn gặp khó khăn.
Bọ trĩ không chỉ làm ảnh hưởng tới năng suất mà còn rất khó phòng trị vì tính kháng thuốc cao. Chính vì vậy, Bộ phận Kỹ thuật Nông nghiệp – Tổng công ty VI DAN xin giới thiệu tới quý Nhà vườn một số thông tin và biện pháp phòng trừ bọ trĩ hại trên cây sầu riêng như sau:
1. Đặc điểm hình thái, sinh học và triệu chứng gây hại của bọ trĩ:
a. Đặc điểm hình thái, sinh học:
– Trưởng thành: Có kích thước rất nhỏ, dài khoảng 0,8 – 1mm, màu nâu đen, râu đầu dài, chiếm 1/3 thân, 2 đuôi cánh hẹp, cánh trước ở phần giữa thắt lại. Trưởng thành đẻ trứng rải rác trong mô lá.
– Trứng: Kích thước nhỏ, mới đẻ màu trắng sữa, gần nở có màu vàng nhạt.
– Ấu trùng: Cơ thể giống trưởng thành nhưng không có cánh, màu vàng cam, trên thân có nhiều lông nhỏ.
– Vòng đời:
+ Trứng: 3 – 4 ngày
+ Ấu trùng: 10 – 14 ngày
+ Trưởng thành: Có thể sống đến 3 tuần.
Ban ngày bọ trĩ hoạt động tương đối nhanh nhẹn. Khi bị khua động chúng lẫn tránh sang lá khác hoặc giả chết rơi xuống đất, chúng thường ẩn nấp trong lá non do không ưa ánh sáng trực xạ. Khi trời râm mát chúng bò ra ngoài.
b. Triệu chứng gây hại
Cả thành trùng và ấu trùng đều gây hại. Trên cây sầu riêng, chúng gây hại trên lá non và hoa. Bọ trĩ có thể gây hại trong tất cả các giai đoạn phát triển của cây sầu riêng. Bọ trĩ thường phát triển gây hại nặng trong điều kiện ấm nóng và khô.
+ Trên lá: Chúng chích hút làm cho lá chậm phát triển, lá ít xanh,có màu sáng bạc. Lá bị hại nặng có thể quăn queo.
+ Trên hoa: Chúng chích hút nhựa làm cho cánh hoa bị thâm đen, nhụy hoa chảy nhựa. Nếu bị gây hại nặng sẽ làm cho hoa rụng hàng loạt.
+ Bọ trĩ cũng tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển làm đen lá, trái. Mặc dù không gây chết cây nhưng cây sinh trưởng phát triển kém làm cho ra hoa đậu quả kém, trái nhỏ, chất lượng giảm.
2. Biện pháp phòng trừ bọ trĩ hại sầu riêng:
a. Biện pháp cơ học:
– Duy trì ẩm độ trong mùa khô trên 65% bằng lớp phủ xanh trên mặt đất (cỏ phủ đất), bón nhiều phân hữu cơ và tủ đất bằng chất hữu cơ trong mùa khô.
– Dùng vòi nước mạnh tưới lên cây (tránh giai đoạn cây đang nở hoa) hoặc áp dụng kỹ thuật tưới phun trên tán trong mùa khô kết hợp tưới nước cũng giúp hạn chế dịch hại.
– Tỉa bỏ những bộ phận bị hại nặng và tiêu huỷ. Tỉa cành tạo tán thông thoáng để hạn chế chỗ trú ẩn của bọ trĩ.
– Trong giai đoạn ra hoa, bổ sung những dinh dưỡng giúp bông sáng, mập và khỏe giúp tăng sức chống chịu bọ trĩ gây hại. Nhà vườn nên dùng 250ml VD BO KẼM pha 1 phuy 220 lít nước, phun ướt đều, phun trước xổ nhụy và sau xổ nhụy.
b. Biện pháp hóa học:
Bọ trĩ có tính kháng thuốc rất cao nên luân phiên các loại thuốc có hoạt chất như Spinetoram (Radiant 60SC,…) , Imidacloprid (Confidor 100SL,…), Carbosulfan (Marshal 200SC,…) phun vào lúc cây ra đọt non và ra hoa (lưu ý tránh phun vào lúc hoa đang xổ nhụy). Bọ trĩ không ưa ánh sáng trực xạ, khi trời râm mát chúng sẽ bò ra ngoài, vì vậy nhà vườn nên phun thuốc vào buổi chiều tối để đạt hiệu quả tối đa.
Nguồn: công ty VI DAN
Th415
Kỹ thuật xử lý nhãn Ido cho năng suất cao
Quả có vỏ mỏng, hạt nhỏ, cơm dày, vị ngọt và thơm, đặc biệt, kháng rất tốt bệnh chổi rồng là những đặc tính vượt trội của giống Ido so với nhiều loại nhãn khác.
Giá bán cao, dao động từ 25.000 – 40.000 đồng/kg, cũng là lợi thế lớn giúp giống nhãn ido được nhiều bà con khu vực ĐBSCL ưu tiên lựa chọn để phát triển.
Theo Ông Trần Văn Quý – Huyện Châu Thành, Tỉnh Hậu Giang, nếu như nhãn tiêu da bò bán tại vườn thường chỉ được trên 10.000 đ/kg, thì giá nhãn Ido tại vườn không dưới 25.000 đ/kg. Có nhiều vụ có thể đạt trên dưới 30.000 đ/kg, lúc cao điểm nhất giá nhãn Ido tại vườn lên tới khoảng 40.000 đ/kg. Vì vậy, các hộ trồng nhãn Ido hầu hết đều có thu nhập cao. Bình quân, mỗi ha cho lợi nhuận khoảng trên 100 triệu đồng.
Hiện nay, cùng với sự hướng dẫn của các nhà khoa học, cộng với kinh nghiệm canh tác, nhà vườn đã áp dụng thành công biện pháp dùng thuốc kali clorat (KClO3) xử lý ra hoa cho cây nhãn Ido. Đặc biệt, trong tình hình biến đổi khí hậu, nắng hạn gay gắt, việc áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm vào canh tác đã giúp nhà vườn rất nhiều trong việc tiết giảm chi phí sản xuất, mà vườn cây lại cho năng suất cao.
Theo các nhà khoa học, tại những vùng “Thâm canh tổng hợp nhãn Ido” thì những kiến thức về kỹ thuật canh tác, tỉa cành tạo tán, xử lý ra hoa, quản lý dinh dưỡng và dịch hại hợp lý rất quan trọng. Vì sẽ quyết định năng suất, chất lượng nhãn Ido. Do đó, quá trình canh tác, bà con cần lưu ý nắm vững. Cụ thể,
Việc tỉa cành: nhà vườn cần cắt tỉa bỏ những cành bị sâu bệnh, ốm yếu, bị che khuất bên trong tán cây nhằm tạo cho tán cây thông thoáng, kích thích cây ra nhiều chồi mới.
– Bón phân kích thích các cơi đọt ra tập trung phát triển tốt: bón phân chuyên dùng cho cây ăn trái hoặc NPK có hàm lượng đạm cao như NPK Đầu Trâu 20-20-15+TE. Kết hợp bón phân hữu cơ, với liều lượng 2 tấn/ha sẽ giúp cây cho ra đọt non mập.
– Song song đó, cũng cần chú ý phun thuốc phòng trừ sâu bệnh gây hại khi ra đọt non.
Giai đoạn Xử lý ra hoa cần chú ý:
– Khi cơi đọt thứ ba chuyển sang màu xanh đọt chuối (tức từ 37 đến 39 ngày tuổi) tiếp tục phun MKP nồng độ 0,5% (40g/8 lít nước), việc này sẽ giúp cây cho lá già đồng loạt.
– Sau khi phun MKP được từ 5 đến 7 ngày, lúc này lá chuyển từ màu xanh đọt chuối sang màu xanh nhạt thì cần dọn sạch lá, cỏ xung quanh gốc, tưới nước trước khi xử lý 1 – 2 ngày để tạo độ ẩm cho gốc. Sau đó, hoà tan 300 – 400 gram kali clorat (KClO3) vào 35 – 40 lít nước, tưới đều xung quanh tán cây, tưới nước đảm bảo độ ẩm đất giúp thuốc ngấm đều vào vùng rễ cây.
– Khi cây ra hoa cần phun ngừa một số sâu, bệnh như: sâu ăn bông, bệnh khô cháy hoa. Chú ý chỉ phun thuốc trước khi ra hoa nở 5 – 7 ngày. Không nên phun thuốc trừ sâu, bệnh khi hoa đang nở sẽ làm rụng hoa.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý: do sau khi xử lý thuốc đầu rễ của cây đã bị chết, nên khả năng hút chất dinh dưỡng cho cây, nuôi trái kém đi. Để trái được cây nuôi dưỡng tốt cần phải tạo thuận lợi cho ra rễ mới bằng cách tưới vào vùng tán cây đã tưới thuốc chất kích thích ra rễ các loại phân hữu cơ khoáng
Các nhà khoa học cũng lưu ý, cây nhãn với đặc tính ra hai cơi đọt mới ra hoa, vì vậy, nhà vườn có thể bón thêm một lần phân gốc khi cơi đọt 1 đã già, cơi đọt 2 chuẩn bị nhú.
Cụ thể, để dưỡng đọt, bà con nên bổ sung thêm các loại phân bón lá có tác dụng kích phát đọt như 30-30-30 +TE, phân amino acid…nhằm giúp đọt phát triển mạnh và cân đối, nhanh bước vào thời kỳ ra hoa.
Để kích thích cây phân hóa mầm hoa và ra hoa tốt, bà con cần bón phân gốc với tỷ lệ lân và kali cao, đạm thấp vào thời điểm cơi đọt 2 chuyển già. Đồng thời cần xiết nước để hạn chế phát đọt mới và phun bổ sung phân bón lá có hàm lượng lân cao như 6-30-30 +TE và phân có vi lượng Bo cao để kích thích phân hóa tạo mầm hoa và kích thích hạt phấn phát triển.
Sau đậu trái khoảng 1 tuần cần phun phân bón lá có hàm lượng Bo cao để chống rụng trái non. Sau đậu trái khoảng 1 tháng cần bón phân NPK Đầu Trâu 16-16-16 hoặc Đầu Trâu AT3 để dưỡng trái. Việc bón phân gốc cần định kỳ 1,5-2 tháng/lần cho đến trước thu hoạch 1 tháng. Trong thời kỳ cây mang trái cần phun bổ sung các loại phân bón có đạm và kali cao như 10-5-45 và các loại phân có hàm lượng canxi cao nhằm giúp trái lớn đều, chống nứt, nám, thối trái.
Ngoài ra, cây nhãn Ido thường đậu trái rất sai, nên cần tiến hành tỉa bớt trái ở thời điểm 1 tháng sau đậu trái. Các chùm trái được tỉa bỏ bao gồm các chùm trên các cành nhỏ khuất trong tán, chùm trỗ trước hoặc sau lứa rộ, chùm ở đỉnh ngọn. Số trái chừa lại ở nhãn 3 năm tuổi khoảng 25 kg trái/cây. Ngoài tỉa bỏ các chùm trái ở vị trí xấu, còn tỉa bỏ các trái đèo trên chùm hoặc tỉa bớt trái trên các chùm quá sai để đảm bảo độ lớn và đồng đều của trái đạt tiêu chuẩn thị trường yêu cầu. Đồng thời cũng cần chằng chóng, nhất là vào mùa mưa để tránh cây bị gãy cành, đảm bảo năng suất.
Nguồn phân bón bình điền
Th408
Phòng trừ bệnh xoăn lá vàng cà chua
Bệnh xoăn vàng lá cà chua do một số loài virus gây ra. Chẳng hạn, virus từ thuốc lá (TMV), virus từ họ bầu bí (CMV), virus từ khoai tây (PVX, PVY), virus từ cà chua (ToMV, TYLCV, TRSV)… Tùy loài virus mà con đường lan truyền khác nhau.
Cách lan truyền bệnh: Tác nhân gây bệnh là do virus gây ra nên phải có các động vật trung gian mang và truyền bệnh, thì bệnh mới được phát tán. Các động vật trung gian như rệp (Aphid), bọ phấn trắng (Bemisia tabaci), bọ trĩ (Thrips), một số sâu miệng nhai, bọ cánh cứng và cả con người… Các côn trùng, sâu bọ mang virus từ cây bệnh rồi gieo rắc sang cây khoẻ. Con người gây ra các vết thương cơ giới trên cây lúc trồng và chăm sóc, làm virus thâm nhập cây, hoặc virus có thể lây lan qua dụng cụ làm vườn, qua cành và gốc ghép.
Bên cạnh đó, một số loài virus có khả năng tồn tại rất lâu trong các mảnh vụn đã khô của cây bị bệnh (ví dụ: loài TMV có thể tồn tại đến 50 năm, có tác giả còn cho rằng nó tồn tại đến 100 năm). Virus còn luôn tồn tại trên các cây ký chủ khác như cỏ dại, cây hoang dại… Đây chính là nguồn bệnh để lưu tồn và lây lan.
Triệu chứng bệnh: Tuỳ loài virus, tuỳ giống cà chua, tuỳ cường độ ánh sáng và nhiệt độ, tuỳ giai đoạn cây bị nhiễm virus mà thời gian phát bệnh và triệu chứng sẽ khác nhau. Thông thường, khi bị nhiễm virus thì cây thường bị lùn, sinh trưởng và phát triển đều kém. Lá có thể bị nhỏ, bị nhăn nheo, biến dạng và thường bị khảm (trên cùng một lá có những vùng màu vàng – xanh lẫn lộn), hoặc lá thường xanh đậm hơn bình thường. Khi một cây bị nhiễm nhiều loài virus thì triệu chứng hỗn hợp và phức tạp. Nhiều khi triệu chứng trên lá giống như bị dính thuốc cỏ hoặc bị thiếu vi lượng.
Tác hại: Khi cây bị nhiễm virus càng sớm (từ khi cây mới mọc), thì thời gian ủ bệnh càng ngắn và cây phát bệnh càng sớm. Khi cây đã lớn bị nhiễm virus, do có sức đề kháng cao hơn, nên cây phát bệnh muộn hơn, hoặc không phát bệnh. Cây phát bệnh càng sớm thì tác hại càng lớn, thậm chí không cho thu hoạch. Cây bị bệnh thường lùn và lá bị xoăn, vàng, khảm nên khả năng quang hợp giảm, vì vậy làm giảm năng suất.
Trên trái có thể biểu hiện triệu chứng bệnh hay không tuỳ thuộc vào loài virus và giống cà chua, nhưng chắc chắn khi cây bị bệnh thì số lượng và kích thước trái sẽ bị giảm, trái bị sượng. Trên những giống kháng, nếu cây đã bị truyền virus, dù không thể hiện triệu chứng bệnh, nhưng cây vẫn âm thầm mang virus và vẫn có khả năng lây truyền sang cây khác khi có điều kiện.
Phòng trừ: Bệnh do virus gây ra nên hiện chưa có thuốc đặc trị. Tuy nhiên, chúng ta có thể quản lý bệnh một cách hữu hiệu bằng cách quản lý con đường lây lan. Để quản lý được bệnh, chúng ta phải áp dụng đồng thời nhiều biện pháp mới có được kết quả mong muốn. Các biện pháp đó là:
Vệ sinh tàn dư cây trồng vụ trước, nhất là những cây trồng là ký chủ của virus như cà chua, thuốc lá, cây họ bầu bí, khoai tây và một số loại rau. Tránh trồng gần các ruộng đang trồng những cây trồng nêu trên. Vệ sinh các loài cỏ dại quanh bờ (kể cả trong vườn ươm).
Vệ sinh dụng cụ làm vườn sau khi cắt tỉa cây bị bệnh.
Sử dụng các giống kháng sâu chích hút, kháng bệnh.
Sử dụng nguồn nước sạch để tưới.
Nhổ và tiêu huỷ các cây bị bệnh, không vứt cây bệnh lên bờ ruộng hoặc vứt xuống sông, suối.
Hạn chế làm xây xát cây khi trồng và chăm sóc.
Tránh bón thừa phân đạm, tăng cường các loại vi lượng bằng cách sử dụng phân bón lá Poly Feed 19-19-19 để tăng khả năng chống chịu sâu, bệnh.
Theo dõi thật chặt chẽ mật độ các loại sâu chích hút, đặc biệt là rệp và bọ phấn trắng, để phòng trừ từ khi cây vừa mọc cho đến 25-30 ngày sau mọc. Đây là giai đoạn quyết định tỷ lệ cây bị bệnh, quyết định mức độ bệnh nặng hay nhẹ.
Hiện nay loại thuốc phổ biến và có hiệu lực đối với các loại sâu chích hút là dầu khoáng SK Enspray 99EC. Đây là sản phẩm hoàn toàn không độc với người và gia súc. Dầu khoáng SK diệt sâu qua cơ chế làm sâu ngạt thở mà chết. Để tăng thêm hiệu lực và tiêu diệt được một số loại sâu miệng nhai và bọ cánh cứng khác, bà con nông dân thường phối hợp dầu khoáng SK với loại thuốc sinh học như Comda Gold 5WG để phòng trừ.
Nguồn: nongnghiep.vn
Th318
Một sống bệnh quan trọng trên cây ớt
1. Héo rũ gốc mốc trắng
– Tác nhân gây bệnh: Do nấm Sclerotium rolfsii.
– Triệu chứng bệnh: Triệu chứng điển hình của bệnh được thể hiện rõ nhất từ khi cây ra hoa – hình thành quả – thu hoạch. Nấm xâm nhiễm vào phần thân cây sát mặt đất, vết bệnh lúc đầu nhỏ màu nâu tươi hơi lõm, về sau vết bệnh lan rộng có thể dài tới vài centimet bao quanh thân, gốc, lan rộng xuống tận cổ rễ dưới mặt đất. Mô vết bệnh dần dần bị phân hủy, các lá dưới gốc héo vàng và rụng trước, sau đó lan lên các lá phía trên, cuối cùng dẫn tới các lá héo rũ, cây khô toàn thân. Khi cây mới nhiễm bệnh thì rễ cây vẫn bình thường, sau đó rễ dần dần hóa nâu, thâm nâu và thối mục.
Trong điều kiện nhiệt độ tương đối cao, ẩm độ cao thì trên bề mặt vết bệnh sát mặt đất sẽ xuất hiện lớp nấm màu trắng phát triển mạnh, sợi nấm mọc đâm tia lan dần ra mặt đất chung quanh gốc cây, tạo thành một đốm tản nấm màu trắng xốp, một vài ngày sau trên tản nấm đó sẽ hình thành nhiều hạch nấm. Khi còn non hạch có màu trắng sau chuyển dần sang màu nâu giống hạt cải. Bệnh xuất hiện có thể rải rác hoặc từng vạt trên ruộng tùy theo điều kiện ngoại cảnh đất đai và quá trình chăm sóc.
– Đặc điểm phát sinh gây hại của bệnh
Đây là loại nấm đa thực gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau, phát sinh phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ cao, ẩm độ cao nhưng thích hợp nhất là nhiệt độ 25-30oc. Hạch nấm có thể tồn tại 5 năm trong đất khô nhưng chỉ tồn tại 2 năm trên đất ẩm. Sợi nấm chỉ sống được vài tuần và chết khi nguồn dinh dưỡng được sử dụng hết. Nấm gây bệnh được bảo tồn trong đất và các tàn dư cây trồng bằng hạch nấm hoặc sợi nấm, có khả năng sinh sống và nảy mầm ở độ sâu khoảng 5-8cm, nếu bị vùi lấp sâu hơn sẽ không có khả năng nảy mầm. Nấm không thể tồn tại trên đất bỏ hoang khoảng 2 năm. Sự có mặt của tàn dư cây trồng chưa bị phân hủy trên ruộng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và xâm nhiễm của nấm bệnh. Bệnh thường phát sinh nặng hơn khi lượng lá rụng trên ruộng tích tụ quá nhiều chung quanh gốc.
2. Héo rũ thối đen
Do nấm Phytophthora capsici. Bệnh gây hại trên cây ớt trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển. Tùy từng giai đoạn và điều kiện ngoại cảnh khác nhau mà mức độ gây hại của bệnh cũng khác nhau. Ở thời kỳ cây con, vết bệnh lúc đầu là là một chấm nhỏ màu nâu hoặc màu đen ở rễ gốc thân. Sau đó vết bệnh lan lên phía trên làm hại thân lá và lan xuống phía dưới gây hại rễ chính, gây thối rễ, cây chết gục. Khi gặp trời mưa độ ẩm cao toàn cây bị thối nhũn ra, bề mặt mô bệnh thường có một lớp nấm màu trắng.Trời hanh khô cây bệnh nâu đen héo và chết. Khi cây lớn, trên gốc thân có vết màu đen kéo dài về phía trên và dưới. Khi chẻ phần thân thấy lõi có màu nâu đến nâu đen, nhưng đặc điểm này không có ở những vị trí cao hơn.
– Đặc điểm phát sinh gây hại của nấm
Nấm phát sinh gây hại trong phổ nhiệt độ rộng 12-300c. Bệnh phát triển gây hại mạnh khi thời tiết nóng ẩm và đất ướt, lượng mưa lớn hay tưới nước quá mức, nhất là khi trên ruộng đã có cây bị bệnh thì đây là điều kiện để bệnh lây lan ra cả ruộng, vì du động bào tử của nấm gây bệnh có thể bơi được trong nước.
3. Bệnh héo xanh vi khuẩn
Bệnh do vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây ra. Bệnh héo xanh thường thể hiện triệu chứng ngay sau khi vi khuẩn xâm nhập vào rễ hoặc phần thân sát mặt đất. Ở cây bị bệnh ban ngày lá cây mất màu nhẵn bóng, tái xanh héo cụp xuống, về ban đêm có thể hồi phục lại. Sau 2-3 ngày lá cây bị bệnh không thể hồi phục được nữa, các lá gốc tiếp tục héo rũ và toàn cây bị héo rũ rồi chết, cắt ngang thân thấy bó mạch dẫn hóa nâu hoặc nâu đen, nhúng đoạn thân vào cốc nước sạch sẽ thấy dịch vi khuẩn chảy ra màu trắng sữa (đây là đặc điểm để phân biệt bệnh do vi khuẩn và các đối tượng gây hại khác). Trong điều kiện ẩm độ cao, thân cây bệnh dần thối mềm, gãy gục.
– Điều kiện phát sinh phát men của bệnh:
Bệnh gây hại mạnh trong điều kiện nóng ẩm, nhất là khi gặp nắng mưa xen kẽ.
Nguồn bệnh vi khuẩn có thể sống trong đất 5-6 năm, còn trên cây ký chủ và trong hạt giống là 7 tháng.
Vi khuẩn chủ yếu tồn tại trong đất, tàn dư cây bệnh để trở thành nguồn bệnh cho vụ sau, năm sau.
Bón đạm quá nhiều, tưới nước quá ẩm, nhất là khi trên ruộng có cây bị bệnh sẽ thuận lợi cho bệnh lây lan và gây hại.
† Biện pháp quản lý bệnh các loại bệnh trên
+ Dọn sạch tàn dư cây bệnh trên đồng ruộng.
+ Luân canh với cây không cùng ký chủ, tốt nhất là lúa nước.
+ Chọn hạt giống khỏe sạch bệnh để trồng, giống trên ruộng không bị bệnh.
+ Tránh gây tổn thương rễ trong quá rinh trồng trọt, chăm sóc.
+ Khi trồng cần lên luống cao sâu rộng để dễ thoát nước khi gặp mưa lớn.
+ Bón phân cân đối hợp lý tránh bón đạm quá nhiều.
+ Thường xuyên kiểm tra phát hiện cây bị héo rũ để nhổ bỏ kịp thời, phải hạn chế tưới nước, tránh bệnh lây lan trên ruộng.
+ Sử dụng giống chống chịu bệnh, giống ít bị bệnh.
+ Đối với bệnh do nấm Sclerotium rolfsii có thể cày sâu 10-13 cm để vùi lấp hạch nấm và dùng một số loại nấm đối kháng như: Trichoderm, Gliocladium…
+ Biện pháp hóa học thường hiệu quả thấp do tác nhân gây bệnh tồn tại chủ yếu trong đất, xâm nhiễm gây hại ở bộ phận rễ, cổ rễ thân sát mặt đất. Tuy nhiên, trong những trường hợp thực sự cần thiết có thể dùng một số loại thuốc phun để tăng cường sức đề kháng cho cây và hạn chế bệnh lây lan như: Rovral, Viroval, Hạt vàng, Carbendazim, Benlat… (dùng đối với bệnh do nấm Sclerotium rolfsii); Aliette, Ridomil, Phosacide… (dùng đối với bệnh do nấm Phytophthora capsici); Streptomycine 50-200ppm, Kasamin, Starner… (dùng đối với bệnh do vi khuẩn).
4. Khi cây ớt bị chết nhanh
Bà con nông dân ở vùng rẫy Long Hồ và Bình Minh có nhiều kinh nghiệm trong phòng trị các bệnh cho cây ớt- cây có giá trị kinh tế cao trong mùa mưa lũ như hiện nay. Trong mùa này, thủy cấp trong nhiều vùng ở đồng bằng dâng cao do đang vào mùa lũ và ẩm độ trong không khí cũng cao (mưa nhiều xen kẽ với nắng), nên không thích hợp với sự phát triển của cây ớt, vì là loại cây thích đất xốp thông thoáng. Bệnh gây thiệt hại lớn thường gặp trong lúc này của cây ớt là bệnh héo rũ khiến cây chết rất nhanh.
Theo bà con, bệnh do nấm gây ra (nấm Pythium sp. Và Fusarium sp.).Mầm bệnh thường lưu tồn trong đất, bã thực vật, nhất là các loại cây có mang bệnh này ở vụ trước. Rẫy ớt bị bệnh này thường là các rẫy thoát nước không tốt và việc luân canh cây trồng không hợp lý, nhất là vụ trước cũng trồng ớt. Trong rẫy ớt bị bệnh, rải rác có những cây có hiện tượng sáng và chiều lá vẫn tươi, nhưng trưa lại héo. Sau đó vài ngày, các cây ớt này nhanh chóng héo hoàn toàn, lá rụng và trái ớt bị giảm kích thước đáng kể. Nhổ cây ớt lên sẽ thấy rễ bị thối và có màu nâu.
Khi phát hiện trong rẫy ớt có hiện thượng này, phải lập tức nhổ bỏ các cây bệnh và tiêu hủy ngay để diệt mầm bệnh, tránh lây lan qua cây khác và cả các loại cây của vụ rẫy sau. Phòng và trị bệnh cho cây ớt lúc này bằng cách phun cho cây các loại phân bón lá giàu Can-xi như Caltrac, BoroCa, Hợp trí CaSi,… và phun các loại thuốc có gốc Fosetyl Alumium, Metalaxyl theo nồng độ khuyến cáo trên bao bì, kết hợp việc khai nước ra cho ruộng thông thoáng. Trong bón phân, chú ý dùng phân cân đối, nên tăng cường phân hữu cơ, phân hữu cơ sinh học như Super Humic… Sẽ hiệu quả hơn nếu kết hợp với sử dụng các sản phẩm có chứa nấm đối kháng Trichoderma, nhằm tiêu diệt mầm bệnh trên rẫy. Tuy nhiên, biện pháp hóa học không mang lại hiệu quả hữu hiệu nhất, mà phải dùng biện pháp tổng hợp nói trên, chú ý tuyệt đối không dùng hạt giống có mầm bệnh (lấy ở rẫy có cây bị bệnh) và xử lý đất trước khi xuống giống bằng các loại thuốc gốc đồng có bán nhiều trên thị trường.
5. Bệnh thối xám hại ớt
Trong vụ đông, khi nhiệt độ xuống thấp, kèm theo những đợt mưa phùn kéo dài, tạo nên độ ẩm cao là điều kiện thích hợp cho các loại nấm bệnh phát sinh và phát triển, làm cho cây trồng dễ mắc một số bệnh. Gần đây, qua theo dõi, chúng tôi nhận thấy cây ớt ở một số vùng thuộc các địa phương như Hà Tây, Hải Phòng, Hải Dương đã bắt đầu bị nhiễm bệnh do một loại nấm mốc màu xám gây ra. Bệnh phát triển khá nhanh, ở vùng bãi ven sông có xu hướng nặng hơn ở nội đồng. Đó là bệnh thối xám (gray mold hay botrytis cinerea). Nếu không kịp thời phòng trừ, trong thời gian tới khi có những giai đoạn mưa phùn kéo dài, bệnh sẽ có nguy cơ phát triển trên diện rộng.
Triệu chứng: Có thể tìm thấy các triệu chứng bệnh xuất hiện trên hoa, quả (trái) non, thân và lá ớt, kể cả ở phần cuống quả và đoạn cuống còn sót lại sau thu hoạch. Ngay từ đầu, những cánh hoa nhiễm bệnh sẽ chuyển màu xám và thối. Sau đó những quả ớt non trong diện tiếp xúc với những cánh hoa này sẽ có màu nâu đậm và bắt đầu mềm rũ. Quả non mang bệnh có nhiều khả năng bị rụng sớm. Trong khi đó, những quả ớt lớn hơn cũng có thể bị bệnh thông qua phần cuống của vòi nhụỵ. Quả bị nấm bệnh một thời gian sẽ bị mềm nhũn ra, biến màu nâu và thối. Vết bệnh trên thân cây thường phát sinh từ phần cuống quả của già còn sót lại sau thu hoạch hay do những cánh hoa bị bệnh bay trong gió và rơi xuống. Nấm mốc màu xám xuất hiện trên hầu hết các vết bệnh, nhưng các vết trên thân và lá không có nhiều nấm này như ở cánh hoa và quả non.
Nguyên nhân và điều kiện phát bệnh:
Nguồn gây bệnh ban đầu là các sợi nấm bay tới từ các ruộng bị bệnh ở kế bên, nhất là đầu hướng gió thổi tới, hay của các vụ trước còn sót lại trong đất. Khi gặp điều kiện thuận lợi như đã nhắc tới ở trên, chúng hình thành các bào tử đính (conidia) và bắt đầu phát tán, đồng thời tạo ra các vết bệnh mới. Nhiệt độ thích hợp nhất cho bệnh bùng phát là vào khoảng 14-200C. Bệnh không chỉ gây hại cho cây trồng ngoài ruộng mà còn có thể tấn công cả cây trong nhà lưới hoặc nhà kính của các trung tâm rau sạch.
Phòng trừ:
Khi trồng cần làm đất sạch, tơi xốp, khô thoáng và chọn trồng những cây non khỏe mạnh, không mang bệnh. Trồng ớt với mật độ vừa phải, không nên quá dày. Khi cần tưới nước, chỉ tưới vào gốc, tránh tưới trên tán lá ớt để hạn chế độ ẩm cao. Nếu phun bổ sung phân bón lá thì nên phun vào buổi sáng của ngày nắng ấm để nước dễ bay hơi. Khi nhiệt độ không khí xuống thấp và độ ẩm cao cần lưu ý phun thuốc phòng bệnh. Tốt nhất, nên phun thuốc phòng tối thiểu một lần trước khi bệnh xuất hiện, điều này rất đáng lưu ý trong phòng trừ bệnh nói chung. Sau đó có thể phun từng đợt, cách nhau 7 đến 14 ngày, tùy theo điều kiện thời tiết và mật độ vết bệnh phát hiện trên ruộng. Khi cây đã bị bệnh, cần xử lý bằng thuốc trừ bệnh. (Báo NNVN đã có dịp giới thiệu về thuốc phòng và trừ bệnh hại cây trồng trên số 1607 ngày 1/4/2003). Nên sớm loại bỏ các lá, quả và thân cây bị nhiễm bệnh vì chúng chính là nguồn gây bệnh cho các cây khoẻ mạnh khác. Có thể kể ra một vài tên hoạt chất (active ingredient) của các thuốc hóa học thường dùng phòng trừ bệnh này như: Folpet, Metalaxyl, Daconil, Benomyl v.v.
6. Bệnh thán thư ớt (còn gọi là bệnh đốm trái – nổ trái)
Triệu chứng bệnh
Vết bệnh lúc đầu là một đốm nhỏ hơi lõm, trên bề mặt vỏ quả. Vết bệnh, thường có hình bầu dục hoặc hình thoi, mầu nâu đen hoặc màu vàng trắng bẩn, kích thước vết bệnh có thể trên dưới 1cm tuỳ thuộc vào giống ớt. Phần ranh giới giữa mô bệnh và mô khoẻ thường có một đường vạch màu đen chạy dọc theo vết bệnh. Trên bề mặt mô bệnh có những chấm nhỏ màu đen đó là đĩa cành của nấm gây bệnh.
Bệnh thán thư làm thối chồi non, chết cây con vườn ươm, đặt biệt làm thối quả, cây bệnh ít quả, kém năng suất và giá trị kinh tế, xuất khẩu. Đặc biệt bệnh thán thư hại ớt cả trong thời kỳ bảo quản sau thu hoạch làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng hạt giống.
Tác nhân gây bệnh
Nguyên nhân gây bệnh thán thư do nhiều loài nấm thuộc loại Colletotrichum gây ra, trong đó hại phổ biến là 2 loài Colletotrichum nigrum Ell et Hals và C. capsici (Syd) Butler and Bisby. Cả 2 loài nấm này thường cùng phá hại làm thối quả ớt rất nhanh. Về đặc điểm hình thái và sinh học của 2 loài nấm trên có những khác biệt, song về điều kiện sinh thái, chúng đều sinh trưởng phát triển thích hợp ở nhiệt độ 28 – 30oC và ẩm độ cao. Đặc biệt bào tử nấm thán thư có sức sống cao, có khả năng chịu đựng khô hạn, dễ dàng phát tán nhờ gió và côn trùng. Nấm gây bệnh tồn tại chủ yếu ở dạng sợi nấm và bào tử phân sinh trên tàn dư lá, thân cành, quả và hạt ớt bị nhiễm bệnh. Vì vậy tàn dư cây ớt bị nhiễm bệnh và hạt giống cũng là những con đường truyền lan bệnh chủ yếu trong tự nhiên.
Nếu vết bệnh có màu trắng trắng xám, bên trong có nhiều vòng đồng tâm nhô lên và có màu vàng nhạt, trên đó có những chấm nhỏ li ti màu vàng do nấm Colletotrichum spp. gây ra (Colletotrichum gloeosprioides; C. capsici; C. acutatum; C. coccodes).
Nếu vết bệnh có màu đen không có nhiều vòng đồng tâm, trong vết bệnh có nhiều chấm nhỏ li ti màu đen, và chỉ gây hại trên trái chín mà thôi, do nấm Volutella sp. gây ra.
Biện pháp phòng trị
– Xử lý hạt giống bằng KMnO4 (0,1%) trong 1 giờ hoặc xử lý nước nóng 52oC trong 2 giờ.
– Gieo trồng ớt ở mật độ thích hợp.
– Nấm tồn tại trong tàn dư thực vật, thu hái các trái bệnh đem thu huỷ.
– Luân canh, không trồng cây họ cà ớt trong vòng 2 – 3 năm.
– Chọn giống kháng bệnh, tăng cường bón thêm phân chuồng hoai mục cho ruộng ớt.
– Tránh trồng ớt trong mùa mưa. Nếu ớt gặp mùa mưa, xem cách chăm sóc và phòng trừ bệnh thán thư trên ớt trong mùa mưa.
– Phun thuốc Copper B 75 WP, Score 250 EC, Appencarb, FOLPAN 50SC, … nồng độ 0,2 – 0,5% khi bệnh gây hại.
– Bón cân đối NPK, đặc biệt để bổ sung đầy đủ nguyên tố vi lượng cho cây ớt có thể sử dụng chế phẩm Bayfolan khoáng chất 11 – 8 – 6 của Công ty Bayer với liều lượng 50ml/bình 16l. Chế phẩm Bayfolan dễ hấp thụ qua lá, thân, rễ cây, giúp cây ớt tăng sức đề kháng, tăng khả năng đậu quả, không rụng hoa và quả.
Trên cây ớt thường bị phá hại bởi các loại côn trùng, sâu ăn lá, sâu đục quả ớt, tạo các vết thương cơ giới rất thuận lợi cho nấm gây bệnh thán thư xâm nhập phá hại. Vì vậy có thể dùng thuốc Bulldock 025EC liều lượng 0,5 – 1lít/ha diệt sâu hại.
Để phòng trừ nấm gây bệnh thán thư ớt, cần sử dụng kịp thời một số thuốc trừ bệnh chủ yếu sau: Thuốc Antracol 70WP (liều lượng 2kg/ha) phun trực tiếp lên lá, cây hoặc quả khi bệnh mới xuất hiện. Thuốc Antracol 70WP ngoài tác dụng phòng trừ trực tiếp nấm gây bệnh thán thư còn có tác dụng bổ sung nguyên tố vi lượng kẽm (Zn++) tinh khiết cho cây ớt, làm tăng sức đề kháng, xanh và cứng cây, chống rụng hoa và quả, đồng thời làm quả ớt có màu sáng đẹp. Nhờ có vi lượng kẽm, thuốc Antracol 70WP còn phòng trừ rất tốt bệnh vàng lá.
Có thể phun luân phiên thuốc Antracol 70WP (1.5 – 2 kg/ha) với thuốc Nativo 750WG (liều lượng 0,12kg/ha), nhờ tác động kép giữa 2 hợp chất trừ bệnh của thuốc Nativo 750WG giúp cây ớt phòng trừ được tất cả các bệnh nấm hại cây và quả ớt kéo dài.
Ngoài 2 loại thuốc trên, người sản xuất cũng có thể dùng luân phiên với thuốc Melody DUO 66,75WP với liều lượng theo khuyến cáo (1kg/ha).
7. Bệnh chết cây con:
Nguyên nhân: Bệnh do nhiều loại nấm sinh sống và gây hại trong đất như Rhizoctonia solani, Pythium, Fusarium, Phytophthora spp. + Triệu chứng: Bệnh xảy ra trong giai đoạn cây con, triệu chứng dễ nhận diện do phần thân cây tiếp giáp với mặt đất bị thối khô có màu nâu đen, cây bị bệnh không đứng thẳng mà ngả sang một bên, lá rũ, còi cọc và chết. Bệnh chết cây con thường thấy khi ẩm độ và nhiệt độ cao. Bệnh thường xuất hiện khi gieo quá dày, tưới nước quá nhiều nhất là khi gieo hạt mùa mưa mà không có giàn che.Phòng trừ: – Không lập vườn nơi quá ẩm ướt không thoát nước tốt hay vườn tối, không đủ ánh sáng, nên làm giàn có mái che.
– Đất vườn ươm phải xử lý trước khi gieo như xử lý vôi, đốt rơm rạ, phơi nắng trước khi trồng…
– Nên bón phân hữu cơ đã hoai mục, hạn chế bón nhiều phân hóa học nhất là đạm.
– Luân canh với các cây trồng khác họ cà (cà, ớt, khoai tây…) để diệt nguồn bệnh.
– Xử lý hạt giống trước khi gieo: Trộn 10 gr thuốc Carbenzim 50WP trong 1 kg hạt giống hay ngâm hạt vào dung dịch nước thuốc với nồng độ 0,1% (pha 1 gr thuốc/1 lít nước) trong 1 – 2 giờ
– Phun thuốc hoá học: Khi thấy cây chớm bệnh phải phun thuốc trừ bệnh ngay, có thể sử dụng các loại thuốc sau: Carbendazim 500 FL, Mexyl MZ 72WP, Alpine 80WP. Nếu cây nhiễm bệnh nặng 5 – 7 ngày phun một lần
Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.
Th305
Nguyên nhân và cách khắc phục cây thanh long ra hoa nhiều nhưng không đậu quả
Hỏi: Nhà tôi trồng thanh long. Năm ngoái, hoa ra rất nhiều nhưng không đậu quả. Xin hỏi nguyên nhân tại sao và cách khắc phục tình trạng này như thế nào để năm nay tôi rút kinh nghiệm chăm sóc cho cây đậu quả?
hoa_thanh_longHoa thanh long
Trả lời:
Theo như anh nói thì cây nhà anh ra rất nhiều hoa nhưng không đậu quả, hiện tượng này có rất nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, có thể do cây ra hoa nhiều nhưng dinh dưỡng không cân đối và nước tưới không đảm bảo dẫn tới tình trạng rụng quả sinh lý.
+ Cây thanh long là cây chịu hạn rất tốt, nhưng để tạo kiện thuận lợi cho thời kỳ ra hoa, đậu quả thì cần phải cung cấp nước cho cây đầy đủ (nếu không đủ nước Tỉ lệ rụng hoa ở các đợt hoa đầu tiên cao >80%). Vào mùa nắng nên dùng rơm rạ, cỏ khô, xơ dừa, lục bình… để tủ gốc giữ ẩm cho cây. Ngoài việc giữ ẩm cho cây biện pháp này còn giúp hạn chế sự phát triển của cỏ dại. Tưới nước kết hợp với vun xới tạo độ thông thoáng cho đất, rễ cây sẽ phát triển mạnh. Tùy theo ẩm độ đất… mà nhịp độ tưới thay đổi từ 3 – 7 ngày/lần. thường tưới vào buổi sáng theo nhịp độ nêu trên.
+ Cần bón phân cung cấp đầy đủ dinh đưỡng cho cây hình thành và phát triển quả. Thanh long cần rất nhiều dinh dưỡng để nuôi quả, cần bón phân hữu cơ cân đối với phân vô cơ, nếu không có phân hữu cơ tự có thì có thể thay phân hữu cơ vi sinh bón 0,5- 1 kg/trụ/năm. Với phân hóa học thì liều lượng, số lần bón khác nhau căn cứ vào điều kiện đất đai, thời gian trồng (năm thứ nhất, thứ 2, thứ 3, …) và đặc điểm hình thái tại thời điểm hiện tại của cây thanh long.
Nếu năm thứ 2 thường áp dụng: 300,0 gam Urê/trụ/năm và 200,0 gam NPK (16-16-8)/trụ/năm. Bón đợt 1 vào trước thời kỳ ra hoa, đậu quả (tháng 3 – 4) thúc 2/3 lượng phân, đợt 2 trong thời kỳ ra hoa, đậu quả (tháng 6-7) bón thúc 1/3 lượng phân còn lại.
Cây từ năm thứ ba đến năm thứ 4 cần lượng phân bón nhiều hơn năm 2. Liều lượng phân bón điều chỉnh phù hợp với điều kiện đất đai, tình hình sinh trưởng và phát triển của cây thanh long. Chú ý bón phân cân đối, tăng cường bón phân hữu cơ kết hợp với phân vô cơ, bón phân tổng hợp NPK, Kali clorua để tăng tỷ lệ ra hoa, đậu quả.
Lượng phân bón cho năm thứ 3 và thứ 4 như sau:
Phân hữu cơ:
Bón 2 lần vào đầu và cuối mùa mưa, với liều lượng 20 – 30 kg phân chuồng hoai + 1 kg Super lân hoặc lân Văn Điển/trụ.
Nếu không chủ động được nguồn phân chuồng có thể thay thế phân chuồng bằng các loại phân hữu cơ vi sinh với liều lượng 3 – 5 kg/trụ.
Phân vô cơ:
Đơn vị tính: gam/trụ/năm
Phân đơn Phân tổng hợp
Tháng Ure Supe lân Kaliclorua NPK20-20-15 NPK22-10-20 Kali
9 – 10 200 3.600 0 350 0 40
12 200 0 150 350 0 40
2 200 0 150 350 0 40
4 100 0 150 350 0 40
5 100 0 100 0 250 0
Lần thứ 6 -8, mỗi tháng/lần
100 0 100 0 250 0
– Lần thứ 1 bón ngay sau khi kết thúc thu hoạch vụ chính (vào khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10).
– Nếu đất có phản ứng chua thì thế Super lân bằng lân Văn Điển và bón thêm vôi từ 200 – 500 kg/ha.
Sử dụng Phân bón lá và chất kích thích sinh trưởng: Để tăng cường thêm dinh dưỡng cho cây giúp cây phát triển tốt, có thể sử dụng thêm phân bón qua lá để bón cho cây theo khuyến cáo sau:
Sau khi thu hoạch và cắt tỉa cành tạo tán, phun phân bón lá NPK 30-30-10, phun 3 lần, 7 ngày/lần, với liều lượng 15 g/bình 8 lít.
Giai đoạn chuẩn bị ra nụ, phun phân bón lá NPK 10-52-10, phun 2 lần, 7 ngày/lần.
Giai đoạn nụ được 8-10 ngày: dùng chất điều hòa sinh trưởng và phân bón lá 20-20-20, liều lượng 15 g/bình 8 lít.
Sau khi hoa thụ phấn 3 ngày, dùng chất điều hòa sinh trưởng và phân bón lá NPK 30-10-10 phun với liều lượng 15 g/bình 8 lít.
Trong giai đoạn nuôi trái sử dụng phân bón lá NPK 20-20-20, phun 7 ngày/ lần, liều lượng 15 g/bình 8 lít.
Trước thu hoạch (15 – 20 ngày), phun phân bón lá NPKCa 12-0-40-3Ca, liều lượng 15 g/ bình 8 lít, phun 2 lần, 7 ngày/lần.
– Cần tiến hành tỉa nụ, tỉa hoa, quả theo đúng quy trình. Thông thường khi nụ xuất hiện được 3-5 ngày thì tỉa nụ. Trên mỗi cành chỉ để 1-2 nụ, lưu ý để 2 nụ ở vị trí xa nhau, sau khi hoa nở 5-7 ngày thì tỉa quả, chỉ để lại 1 quả/cành.
Thứ 2, có thể do khi hoa nở gặp mưa lớn trôi hạt phấn, làm cho hoa không thụ phấn được.
Có thể khắc phục bằng cách: Giai đoạn nụ cần kiểm tra vườn thanh long thường xuyên và theo dõi bản tin thời tiết. Buổi chiều quan sát trời có khả năng mưa vào buổi tối hoa nở, chị nên dùng dây chun cuốn quanh nụ hoa sắp nở để hạn chế nước mưa vào phấn hoa làm hỏng phấn hoa.
Thứ 3, có thể do giai đoạn quả non gặp mưa axit gây rụng quả hàng loạt.
Ngoài ra cũng có thể là do một số trường hợp do côn trùng gây hại (như bọ xít) làm thanh long không đậu quả hoặc quả non bị rụng hết.
Thứ 4, có thể do tác động của côn trùng, bệnh gây hại trực tiếp đến nụ, hoa, quả dẫn tới thối và rụng.
Để hạn chế do côn trùng, bệnh gây hại anh thường xuyên kiểm tra để pháp hiện sớm có biện pháp phòng trừ kịp thời.
Nếu bị bệnh do nấm như bệnh đốm đồng tiền sử dụng các loại thuốc đặc trị như tilt super, antracol, ridomyl, benomyl, score, coc 85…
Nếu do côn trùng (bọ xít ) có thể phun các loại thuốc như Trebon 10EC, Confidor 100 SL, Admine 50 EC, Bassan 50 ND, Applaud 10 WP nồng độ 0,2%.
* Cùng với các biện pháp phòng chống những nguyên nhân trên để giúp hoa mập mạnh và dễ đậu trái hơn, anh có thể phun bổ sung thêm 1-2 lần Đậu trái C.A.T hoặc 1 số thuốc đậu trái khác. 7 ngày 1 lần phun sau khi hoa nhú (từ khi hoa nhú đến đậu trái khoảng 3 tuần).
Chuyên gia Th.S Phạm Thị Hoàn
Nguồn nhanongxanh.vn
Th301
Chăm sóc vườn cây ăn trái vào mùa khô
Theo các nhà khoa học, việc sử dụng phân hữu cơ đúng kỹ thuật là yếu tố góp phần cải thiện năng suất, chất lượng trái cây đáp ứng nhu cầu SX phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Để cây ăn trái phát triển tốt trong mùa khô, yếu tố quan trọng hàng đầu là sử dụng các dòng phân bón hợp lý
Thông tin về vấn đề sử dụng phân hữu cơ hiện nay của bà nông dân, TS. Hồ Văn Chiến, nguyên GĐ Trung tâm BVTV phía Nam cho biết: “Thứ nhất, nông dân mình cứ sử dụng quen phân vô cơ trong nhiều năm qua rất dễ làm cho đất bị bạc màu. Thứ hai, hiện nay phân hữu cơ có quá nhiều chủng loại, khó phân biệt giữa phân hữu cơ và phân khoáng.
Vấn đề nữa là, cần thay đổi nhận thức của bà con là phân hữu cơ càng nhiều thì càng tốt mà không bón phân vô cơ kèm theo là không đúng. Cần phải có sự kết hợp của phân vô cơ và phân hữu cơ một cách hợp lý, vì phân hữu cơ đóng vai trò cung cấp vi sinh vật cho đất, giúp cây hấp thụ được phân vô cơ nhiều hơn, chứ không cung cấp đủ dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng.
Và cuối cùng là, một số bà con có áp dụng bón phân hữu cơ cho cây nhưng với liều lượng rất ít thì chưa đủ, tôi đề nghị cần nâng cao liều lượng từ 20-50 kg/gốc/năm là hợp lý nhất”.
Để sử dụng phân hữu cơ hiệu quả PGS.TS Phạm Văn Kim, nguyên giảng viên Khoa Nông nghiệp – sinh học ứng dụng (Đại học Cần Thơ) khuyến cáo: Trên vườn cây ăn trái lượng chất hữu cơ có sẵn trong đất như lá cây mục, cỏ mục… tuy nhiên lượng phân này rất ít nên bà con cần bón để bổ sung vào đất các chất hữu cơ như phân heo, bò, gà… ủ hoai, mục. Hoặc bà con có thể sử dụng rơm ủ xung quanh gốc cây.
Bên cạnh bà con tưới nước thì có thể dùng chất trichoderma để giúp rơm mau mục. Hay có thể dùng cây lục bình (bèo tây) để làm phân hữu cơ cho cây thay rơm nhưng tránh để rơm, lục bình kín gốc cây, cách ra chừng 2 tấc. Vì trên lục bình rơm vẫn có các mầm bệnh cần phải đề phòng…
Cũng theo các nhà khoa học, bà con không nên sử dụng phân tươi để bón trực tiếp vào gốc cây như bón phân gà tươi trên cây thanh long, phân bò trên cây cao su… Vì trong quá trình phân hủy sẽ tạo ra nhiều chất gây như H2S… Mà nên ủ hoai để tránh mầm bệnh và ngộ độc đất, ảnh hưởng cây trồng về sau.
Trong điều kiện thâm canh vườn cây ăn trái, ngoài phân hữu cơ ra cần phải được bón thêm dinh dưỡng hóa học để cho năng suất và chất lượng tối ưu. Hiệu quả sử dụng phân bón phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chất lượng phân, điều kiện đất đai, thời tiết, thời gian sinh trưởng và tình trạng phát triển của cây.
Là một nhà vườn có nhiều năm kinh nghiệm trồng quýt, ông Lê Văn Lải (ở huyện Lai Vung – Đồng Tháp) chia sẻ: “Muốn trái quýt chất lượng ngon thì mình phải chuẩn bị ngay từ đầu như kỹ thuật, phân bón chất lượng và hợp lý. Lúc đầu thì tôi sử dụng phân đạm với lân để cho trái mau lớn, dày da. Giai đoạn sau thì tập trung bón kali cao để “đánh mạnh” chất lượng trái quýt, cho trái nặng, mọng nước, có độ ngọt, vỏ mỏng…”.
Ông Tạ Duy Linh, GĐ Maketing Cty Behn Meyer Aricare Việt Nam cho biết: “Hiện Cty có nhiều sản phẩm cung cấp cho nông dân để chăm sóc vườn cây ăn trái trong mùa khô. Tuy nhiên, chúng tôi muốn giới thiệu đến với nông dân sản phẩm Nitrophoska perfect với công thức 15-5-20 -2+8S+TE phức hợp, có nhiều ưu điểm rất nổi tiếng trên toàn cầu.
Thứ nhất đây là dòng phân phức hợp nên hạt rất đồng đều và dễ dàng tan chảy hơn, nâng cao khả năng tiếp xúc với rễ cây và tỷ lệ hấp thu dinh dưỡng.
Thứ hai là, với công thức 15-5-20 kết hợp với hàm lượng trung vi lượng, khi bón sẽ giải phóng đủ hàm lượng dinh dưỡng mà cây cần.
Về hàm lượng đạm trong sản phẩm có hai dạng amoni (NH4+) và Nitrat (NO3-). Dạng amoni giúp cây hấp thụ ngay, còn dạng nitrat là dạng giải phóng từ từ nên cây sẽ cung cấp đủ hàm lượng đạm cho cây sử dụng trong một thời gian dài. Đó là lý do vì sao khi bón Nitrophoska perfect trái thường to và nặng hơn nhiều.
Còn lân là dạng lân dễ tiêu cây dễ dàng hấp thụ dù không nhiều tronng thời gian mang trái. Hàm lượng kali trong Nitrophoska perfect là dạng kalisulfat (K2SO4) rất dễ hấp thu, cải thiện phẩm chất trái, kéo dài thời gian bảo quản nông sản. Ngoài ra, trong sản phẩm còn có các hàm lượng vi lượng như Mg, Ca,… giúp cây trồng phát triển tốt, cải thiện đất.
Hiệu quả thể hiện rõ nhất của Nitrophoska perfect trên cây sầu riêng giúp hột đầy đặn, cơm lên màu; còn trên cây bưởi thì trái nặng và ít khô cơm hơn…
Nguồn Lê Hoàng Vũ – báo nông nghiệp
Th223
Kỹ thuật trồng chanh dây
Hướng dẫn kỹ thuật trồng chanh dây
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về diện tích trồng chanh dây (mác mác hay lạc tiên) và giúp bà con nông dân hiểu thêm về loại cây trồng này. Chúng tôi xin giới thiệu quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc, bón phân hợp lý cho cây Chanh dây để đạt hiểu quả cao hơn.
Trồng chanh leo tại nhà
I. Yêu cầu khí hậu đất đai:
Cây chanh dây nói chung không kén đất, nhưng tốt nhất là chọn đất thoát nước tốt, không để đọng nước. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, tầng canh tác sâu >50 cm, độ mùn trên 1% và pH 5,5-6. Ở vùng đất bằng phẳng, ấm áp, ẩm ướt, chanh dây phát triển rất tốt.
Chanh dây đòi hỏi khí hậu ấm và ẩm, lượng mưa trung bình từ 1.600mm trở lên, phân bố đều, đặc biệt trong thời kỳ ra hoa ít bị mưa bão. Nhiệt độ thích hợp từ 16 – 30oC, không có sương muối.
Giống quả tím thích hợp vùng á nhiệt đới, cao độ 1000-1200m so mặt biển cho chất lượng quả tốt. Ngược lại giống quả vàng thích hợp vùng nhiệt đới, độ cao <600m.
II. Kỹ thuật trồng
1. Nhân giống:
Hiện nay tại Lâm Đồng chủ yếu sử dụng giống quả tím (Đài nông F1), khả năng tự thụ phấn cao, ít biến dị, có thể nhân giống bằng hạt. Để tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, tuyến trùng và khả năng sinh trưởng phát triển người ta dùng giống quả tím ghép lên gốc ghép là giống quả vàng. Giống phải sạch bệnh, cây giống có đỉnh sinh trưởng (ngọn) mập khỏe, bộ rễ rậm, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
2. Chuẩn bị đất trồng:
Trồng chanh dây được trên mọi địa hình. Thích hợp với các loại đất thoáng xốp, giàu chất hữu cơ như: Đất thịt nhẹ, đất đỏ Bazan … Đất quá chua hoặc quá kiềm cũng ảnh hưởng tới sinh trưởng phát triến của cây.
– Làm sạch cỏ dại, cào san cho mặt đất bằng phẳng.
– Trên các địa hình đất dốc nên làm các rãnh thoát nước tránh rửa trôi, xói mòn.
– Đào hố kích thước 60 x 60 x 60cm, bỏ lớp đất mặt 1 bên. Bón vôi 0,5 kg/hố sau đó tiến hành bón lót phân chuồng 10-15kg + 0,5 kg lân/hố. Trộn đều với lớp đất mặt.
3. Mật độ khoảng cách trồng:
Tùy theo điều kiện đất đai và khả năng thâm canh, có thể trồng các mật độ:
400cây/ha: khoảng cách 5x 5m
500cây/ha: khoảng cách 5x 4 m
625 cây/ha: khoảng cách 4×4 m
4. Làm giàn trồng chanh dây
Do là loài cây leo nên cần làm giàn. Có thể làm theo kiểu giàn mướp hoặc kiểu chữ T. Giàn kiểu chữ T chanh dây phát triển tốt hơn do ánh sáng tiếp xúc bề mặt tán lớn, hạn chế nấm bệnh. Nên làm giàn cao 1,8-2m với các trụ tre, gỗ hoặc bê tông, bên trên căng lưới thép với khoảng cách ô vuông 40 x 40cm cho cây leo.
5. Kỹ thuật trồng chanh dây
– Ở Lâm Đồng có thể trồng được quanh năm nhưng thời điểm trồng thích hợp nhất là vào giữa và cuối mùa mưa.
– Phân bón lót như phân chuồng hoai, phân vi sinh, phân Đạm, Lân, NPK … theo liều lượng thích hợp trộn đều với lớp đất mặt vào trong hố.
– Dùng dao sắc cắt bầu nilong, đặt cây con xuống giữa hố, lấp đất nhẹ xung quanh gốc. Sau trồng cần tưới nước nhẹ để giữ ẩm (nếu không có mưa).
6. Quy trình bón phân
Áp dụng quy trình bón phân chuyên dùng cho cây Chanh dây của Công ty cổ phần Bình Điền Lâm Đồng
Bón lót: Ngoài số lượng phân chuồng, Lân, Vôi theo tập quán cần bón theo quy trình sau: 1,5 – 2 kg phân Hữu cơ Chanh Dây Đầu trâu + 0,1 – 0,2 kg NPK 15-9-13+TE Đầu trâu chuyên chanh dây/cây.
Bón thúc: Từ khi trồng đến cây con 2 tháng tuổi: Bón: 0,1 – 0,2 kg NPK 15-9-13+TE Đầu trâu chuyên chanh dây / cây cho mỗi lần bón. Tháng bón 2 lần.
Từ 2 tháng tuổi đến 6 tháng tuổi: Bón 0,2 – 0,3 kg NPK 15-9-13+TE Đầu trâu chuyên chanh dây / cây cho mỗi lần bón. Tháng bón 2 lần.
Chanh dây thời kỳ kinh doanh: Bón 0,1 – 0,2 kg NPK 15-9-13+TE Đầu trâu chuyên chanh dây / cây cho mỗi lần bón, kết hợp 0,5 – 1 kg phân Hữu cơ chanh dây Đầu trâu / cây. Tháng bón 2 lần.
7. Chế độ chăm sóc
Tưới nước
Cây chanh dây là loại cây cần độ ẩm cao, lượng nước nhiều và thường xuyên vì vậy thường tưới 2 ngày 1 lần, nhất là vào mùa khô cần tưới lượng nước nhiều hơn sẽ giúp cho cây ra chồi, ra hoa và đậu quả liên tục, yêu cầu nước nhiều ở giai đoạn làm trái và phát triển trái nếu thiếu nước sẽ làm rụng hoa, trái hoặc trái teo lại.
Cắt tỉa, tạo tán
Việc cắt tỉa tạo tán nên làm thường xuyên tạo ra các cành thứ cấp mới phân bố đều trên mặt giàn giúp cho cây ra hoa đậu trái được tốt hơn.
Khi cây đã lên giàn cần tạo hình, tỉa cành thường xuyên, đặc biệt là tỉa bớt lá vào thời kỳ mùa mưa vừa để hạn chế nấm bệnh phát triển gây hại đồng thời nhằm ức chế sinh trưởng, giúp cho cây ra nhiều nụ, đậu nhiều trái.
Việc cắt tỉa được tiến hành thường xuyên. Sau thu hoạch cắt hết tất cả các cành trên mặt giàn đã cho trái. Để lại thân và các cành từ mặt đất tới giàn. Sau đó cây sẽ ra chồi mới, phân cành cấp 2, 3 và các cành quả. Nếu chanh dây không được đốn tỉa hoàn toàn vào cuối năm, sang năm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển, đặc biệt làm hạn chế đến năng suất.
Phòng trừ sâu bệnh
Bệnh hại:
– Chanh dây thường gặp một số bệnh như bệnh đốm nâu (brown spot) là loại bệnh phổ biến nhất, do nấm Alternaria passiflorae gây nên, bệnh ghẻ (scab) do nấm Cladosporium horbarum, bệnh đốm do Septoria gây nên.
– Bệnh đốm vi khuẩn do vi khuẩn Pseudomonas passiflorae;
Bệnh sần sùi: Gây ra bởi nấm Septoria passiflorae.
Bệnh phấn trắng: gây ra bởi nấm Sclerotinia sclerotiorum
Phòng trừ: Đối với các bệnh do nấm gây ra có thể dùng các lọai thuốc: Daconil, Derosal, Tilt, Ridomil Gold… Bệnh sần sùi, phấn trắng Có thể sử dụng các loại thuốc Viaphos 80BTN, carbenzim 50HP Vicuron 250SC, Workup 9SL
Bệnh do vi khuẩn: dùng các lọai thuốc gốc đồng, New Kasuran, Starner…
Sâu hại:
– Các loại ruồi đục trái Dacus dorsalis, Dacus cucurbitae. Dùng thuốc diệt ruồi SOFRI protein, chỉ cần phun dưới tán mỗi cây một khoảng 30 cm x 30cm cách mặt đất 0,8 – 1,0m, hoặc mật độ ruồi ít thì 1 cây phun 1 cây chừa, sẽ dẫn dụ ruồi ăn và chết.
Dùng bẫy dẫn dụ Methyl Eugenol (Vidubon…) hoặc tự làm bằng dấm pha đường và ít thuốc trừ sâu, đặt rải rác cách 5-10 m một bẫy.
– Nhện đỏ, rệp: Dùng các loại thuốc Nissoran, commite, Bifentox 30ND, Vibamec 1.8EC, Vineem 1500EC, supracide 40EC … liều lượng sử dụng theo khuyến cáo trên bao bì sản phẩm.
– Bọ trĩ (Thips), rầy các loại: Vertimec, Tập kỳ, Mospilan, Vineem1500EC, Confidor…để phòng trừ.
Khi phun thuốc chú ý tránh thời gian cây nở hoa vào sáng sớm, ảnh hưởng đến khả năng thụ phấn của hoa.
Cần thăm đồng ruộng thường xuyên để phát hiện sâu bệnh hại kịp thời để phòng trừ có hiệu quả tốt. Nên áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp.
8. Thu hoạch và bảo quản
– Thu hoạch nên tiến hành đồng loạt, thu tất cả các trái gần chín và chín hoàn toàn nhằm đạt trọng lượng trái tối đa cho năng suất cao. Thu hoạch tránh làm cho vỏ quả bị trầy xước cơ học làm ảnh hưởng đến mẫu mã và vi sinh vật gây hại xâm nhập vào trong quả
Nguồn nongnghiep.farmvina.com
Th102
Kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa phong lan
1- THIẾT KẾ VƯỜN
Nếu trồng lan kinh doanh cần thiết kế khung giàn lan làm bằng sắt chắc chắn, đảm bảo bền, chống gió bão. Giàn che ánh sáng dùng lưới màu xám hay xanh đen. Giàn đặt chậu làm bằng sắt, giàn treo làm bằng tầm vông hay sắt ống nước. Xung quanh vườn cần dựng hàng rào chắn chắc chắn hay rào bằng lưới B40. Thiết kế hàng trồng theo hướng Bắc Nam để vuông góc với dường đi của ánh nắng. Các chậu lan cần chọn cùng cỡ kích thước, cùng giống, cùng độ tuổi, bố trí theo từng khu vực để dễ chăm sóc. Nước tưới phải sạch, có rãnh nước dưới dàn lan để tạo khí hậu mát cho vườn lan. Nếu trồng lan để chơi trên lan can, mái hiên, sân thượng cần chú ý rằng tiểu khí hậu các nơi này thường bị khô nóng do ảnh hưởng của các kết cấu bê tông, mái tole… xung quanh. Cần đặt thêm các chậu cảnh khác như cau, mai chiếu thuỷ, nguyệt quế… để giảm bớt ảnh hưởng của các yếu tố này. Cần che bớt ánh sáng mặt trời, tránh ánh nắng chiếu toàn bộ, nhất là vào buổi chiều.
2- CHỌN GIỐNG
Loài thích hợp cho trồng lan kinh doanh là Dendrobium, Phalaenopsis, Oncidium, Vanda, Cattleya… đây là những loài ra hoa khoẻ, đẹp và bền cây, cho thu hoạch liên tục. Nếu trồng lan để chơi, giải trí nên trồng Dendrobium, Vũ nữ, Hồ điệp; đây là những loài dễ chăm sóc và ra hoa. Có thể nhân giống bằng nuôi cấy mô hay tách mầm. Điều kiện môi trường nuôi cấy mô phong lan với nhiệt độ 22-27oC, cường độ ánh sáng thích hợp, pH từ 5-5,7. Khử trùng mô bằng Starner 20 WP cấy bằng Clorox hoặc Hipocloritcalci, bổ sung các chất điều hòa sinh trưởng. Có thể tách mầm từ các chậu lan lớn, mỗi phần để 2-3 nhánh. Dùng dao sắc khử trùng bằng cồn, vết cắt cần gọn, sau cắt bôi vôi vào vết cắt cho nhanh lành sẹo.
3- CHUẨN BỊ GIÁ THỂ VÀ CHẬU
Có thể than gỗ, xơ dừa, vỏ lạc làm giá thể để trồng lan. Than gỗ nung cần chặt khúc, kích thước 1 x 2 x 3cm, than phải ngâm, rửa sạch, phơi khô. Xơ dừa xé cho tơi ngâm khoảng 1 tuần cho bớt tanin và mặn, phơi khô. Mụn dừa cũng cần rửa sạch phơi khô. Vỏ dừa chặt khúc 1 x 2 x 3 cm xử lý bằng nước vôi 5%. Chậu trồng bằng nhựa hay đất nung, kích cỡ tuỳ loại và độ tuổi.
4- KỸ THUẬT CHUYỂN CHẬU
Nếu dùng lan cấy mô thì khi lan mô đạt khoảng 4cm cần chuyển ra ngoài. Cây mô rửa sạch để trên miếng lưới hay rổ kê trên chậu nước để giữ mát cho cây con. Giai đoạn trồng chung trên giàn lấy xơ dừa bó xung quanh cây lan cấy mô, dùng dây thun cuốn lại rồi đặt lên giàn. Sau khi trồng trên giàn được 6-7 tháng thì chuyển sang chậu nhỏ. Khoảng 6 tháng thì chuyển sang chậu lớn. Sau mỗi lần chuyển chậu khoảng 1 tuần mới được bón phân. Việc thay đổi chậu còn tùy kích cỡ của cây, mức độ thối, hư mục rêu bám… Nếu trồng lan để chơi, lan lâu ngày ra hoa ít cần dỡ lan ra khỏi chậu, cắt bớt các rễ già và quá dài, chuyển sang chậu mới, thay giá thể mới, lan sẽ sinh trưởng tốt và ra hoa trở lại.
5- CHĂM SÓC LAN
Lan là cây trồng dễ chăm sóc nếu chúng ta đảm bảo được các điều kiện thuận lợi cho lan phát triển. Các yếu tố quan trọng nhất đối với lan là ánh sáng, nước tưới, độ ẩm, chậu hay giá thể và dinh dưỡng.
– Chiếu sáng:
Mật độ chiếu sáng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sinh trưởng, phát triển và ra hoa của lan. Thiếu nắng cây lan vươn cao nhưng nhỏ và ốm yếu, lá màu xanh tối, dễ bị sâu bệnh tấn công, cây ít nảy chồi, khó ra hoa, hoa nhỏ và ngắn màu sắc không tươi, hoa nhanh tàn. Thừa nắng lan thấp cây, lá vàng có vết nhăn và khô, mép lá có xu hướng cụp vào, dễ ra hoa sớm khi cây còn nhỏ nên hoa ngắn, nhỏ, cây kém phát triển. Nếu nắng gắt quá lá sẽ bị cháy, khô dần rồi chết.
Lan có yêu cầu khác nhau về mức độ chiếu sáng tùy theo loài lan và tuổi cây. Lan Hồ điệp (Phalaenopsis) ít chịu nắng nhất, có thể chịu được 30% nắng, lan Cattleya chịu được 50% nắng, lan Dendrobium hay Vanda lá hẹp chịu được 70% nắng, trong khi lan Vanda lá dài và Bò cạp chịu được tới 100% nắng. Lan con từ 0-12 tháng đang trong giai đoạn tăng trưởng thân lá chỉ cần chiếu sáng 50%, lan nhỡ từ 12-18 tháng cần chiếu sáng tới 70% và thời điểm kích thích ra hoa có thể cho chiếu sáng nhiều hơn, thậm chí bỏ dàn che để chiếu sáng tự nhiên. Hướng chiếu sáng cũng rất quan trọng đối với lan. Lan đặt ở hướng Đông nhận ánh nắng buổi sáng sẽ tốt hơn nhiều so với lan đặt ở hướng Tây nhận ánh nắng buổi chiều. Chính vì vậy nếu trồng lan trên sân thượng hay ban công ở phía Tây lan kém phát triển và ít hoa. Khi trồng lan cần bố trí hàng theo hướng Bắc – Nam để cây nhận được ánh sáng phân bố đầy đủ nhất.
– Phân bón:
Dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng đối với lan. Khi lan đầy đủ dinh dưỡng cây tươi tốt, ra nhiều hoa, hoa to đẹp, bền trong khi thiếu dinh dưỡng lan còi cọc, kém phát triển, không hoặc ít có hoa. Lan cần 13 chất dinh dưỡng khoáng, thuộc các nhóm đa, trung và vi lượng: Dinh dưỡng đa lượng gồm Đạm (N), Lân (P) và Kali (K). Dinh dưỡng trung lượng gồm Lưu huỳnh (S), Magiê (Mg) và Canxi (Ca). Dinh dưỡng vi lượng gồm Sắt (Fe), Kẽm (Zn), Đồng (Cu), Mangan (Mn), Bo (B), Molypđen (Mo) và Clo (Cl).
Thiếu đạm, cây còi cọc, ít ra lá, ra chồi mới, lá dần chuyển vàng theo qui luật lá già trước, lá non sau, rễ mọc ra nhiều nhưng cằn cỗi, cây khó ra hoa.
Thừa đạm, thân lá xanh mướt nhưng mềm yếu, dễ đổ ngã và sâu bệnh, đầu rễ chuyển xám đen, cây khó ra hoa.
Thiếu lân, cây còi cọc, lá nhỏ, ngắn, chuyển xanh đậm, rễ không trắng sáng mà chuyển màu xám đen, không ra hoa.
Thừa lân cây thấp, lá dày, ra hoa sớm nhưng hoa ngắn, nhỏ và xấu, cây mất sức rất nhanh sau ra hoa và khó phục hồi. Thừa lân thường dẫn đến thiếu Kẽm, Sắt và Mangan.
Thiếu kali, cây kém phát triển, lá già vàng dần từ hai mép lá và chóp lá sau lan dần vào trong, lá đôi khi bị xoắn lại, cây mềm yếu dễ bị sâu bệnh tấn công, cây chậm ra hoa, hoa nhỏ, màu không sắc tươi và dễ bị dập nát.
Thừa kali, thân lá không mỡ màng, lá nhỏ. Thừa kali dễ dẫn đến thiếu magiê và can xi.
Thiếu lưu huỳnh, lá non chuyển vàng nhạt, cây còi cọc, kém phát triển, sinh trưởng của chồi bị hạn chế, số hoa giảm.
Thiếu magiê, thân lá èo uột, xuất hiện dải màu vàng ở phần thịt của các lá già trong khi hai bên gân chính vẫn còn xanh do diệp lục tố hình thành không đầy đủ, cây dễ bị sâu bệnh và khó nở hoa.
Thiếu canxi, cây kém phát triển, rễ nhỏ và ngắn, thân mềm, lá nhỏ, cây yếu dễ bị đổ ngã và sâu bệnh tấn công.
Thiếu kẽm, xuất hiện các đốm nhỏ rải rác hay các vệt sọc màu vàng nhạt chủ yếu trên các lá đã trưởng thành, các lá non trở nên ngắn, hẹp và mọc sít nhau, các đốt mắt ngọn ngắn lại, cây thấp, rất khó ra hoa.
Thiếu đồng, xuất hiện các đốm màu vàng và quăn phiến lá, đầu lá chuyển trắng, số hoa hình thành ít bị hạn chế, cây yếu dễ bị nấm tấn công.
Thiếu sắt, các lá non chuyển úa vàng sau trở nên trắng nhợt, cây còi cọc, ít hoa và dễ bị sâu bệnh tấn công.
Thiếu mangan, úa vàng giữa các gân của lá non, đặc trưng bởi sự xuất hiện các đốm vàng và hoại tử, các đốm này xuất hiện từ cuống lá non sau lan ra cả lá, cây còi cọc, chậm phát triển.
Thiếu bo, lá dày, đôi khi bị cong lên và dòn, cây còi cọc, dễ bị chết khô đỉnh sinh trưởng, rễ còi cọc số nụ ít, hoa dễ bị bị rụng, không thơm và nhanh tàn.
Thiếu molypden, xuất hiện đốm vàng ở giữa các gân của những lá dưới, nếu thiếu nặng, các đốm này lan rộng và khô, mép lá cũng khô dần, cây kém phát triển.
Thiếu clo, xuất hiện các vệt úa vàng trên các lá trưởng thành sau chuyển màu đồng thau, cây còi cọc, kém phát triển.
Lan rất cần phân bón nhưng không chịu được nồng độ dinh dưỡng cao, vì vậy bón phân cho lan phải thực hiện thường xuyên và tốt nhất là bằng cách phun qua lá. Phân bón cho lan phải chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng đa, trung và vi lượng với thành phần và tỷ lệ phù hợp với từng thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây. Nguyên tắc chung là lan trong thời kỳ sinh trưởng thân lá mạnh cần đạm cao, lân và kali thấp, trước khi ra hoa cần lân và kali cao, đạm thấp trong khi lan nở hoa cần kali cao, lân và đạm thấp hơn.
Phân bón thích hợp cho các thời kỳ này là Đầu Trâu 501, 701 và 901, đây là loại phân có đầy đủ và cân đối đa, trung, vi lượng và các chất điều hòa sinh trưởng. Nồng độ và liều lượng phun tùy thuộc tuổi và thời kỳ phát triển như sau:
– Lan mới trồng 0-6 tháng hoặc lan mới ra chồi non sau cắt hoa: Phun phân bón lá Đầu Trâu 501 (30-15-10) nồng độ 500 ppm (0,5 g/lít). Giai đoạn trước 3 tháng phun định kỳ 3 ngày/lần, từ 3-6 tháng định kỳ 7 ngày/lần.
– Lan mới trồng 6-12 tháng hay lan cũ có chồi mới đang phát triển mạnh: Phun phân bón lá Đầu Trâu 501 (30-15-10) nồng độ 2.000 ppm (2g/lít), định kỳ 7 ngày/lần.
– Lan mới trồng 12-18 tháng hay lan cũ có chồi đã thành thục chuẩn bị ra hoa: Phun phân bón lá Đầu Trâu 701 (10-30-20) nồng độ 3.000 ppm (3g/lít), định kỳ 7 ngày/lần. Giai đoạn này cần giảm nước tưới và bỏ bớt mật độ giàn che để năng mức độ chiếu sáng nhằm kích thích ra hoa.
– Khi vòi hoa xuất hiện: Phun phân bón lá Đầu Trâu 901 (15-20-25) nồng độ 2.000 ppm (2g/lít) nhằm thúc hoa nở to, đẹp, giữ hoa lâu tàn.
– Tưới nước: Lan rất cần nước cho quá trình sinh trưởng phát triển. Nếu thiếu nước cây sẽ khô héo, giả hành teo lại, lá rụng nhưng không chết, nụ có thể trước khi nở hoa. Thừa nước, cây dễ bị thối đọt nhất là với các giống lan có lá đứng mọc sít nhau. Quá nhiều nước rễ có rong rêu và nấm bệnh phát triển mạnh. Nước tưới cho lan không quá mặn, phèn và clor dưới ngưỡng cho phép, pH 5,6. Chỉ tưới nước đủ ẩm, nên tưới vào sáng sớm hay chiều mát, tránh tưới buổi trưa khi trời đang nắng nóng. Sau những trận mưa bất thường, nhất là mưa đầu mùa cần tưới lại ngay để rửa bớt các chất cặn đọng lại trên thân lá.
– Phòng trừ sâu bệnh: Lan là cây cũng dễ bị sâu bệnh, nhất là trong điều kiện chăm sóc kém, điều kiện môi trường không thuận lợi. Tùy theo từng loại sâu bệnh mà dùng các loại thuốc thích hợp. Liều lượng và nồng độ phun cần theo đúng hướng dẫn trên bao bì sản phẩm. Nếu lan bị các loại sâu hại thân lá có thể dùng các thuốc chứa hoạt chất Fenitrothion, Trichlorfon như Ofatox 400EC, hoạt chất Cartap như Patox 95SP hay Captafon, Captan hoặc Actara 25WG. Lan bị rệp sáp, rệp trắng, rầy mềm dùng Supracid 40ED/ND, Suprathion 40EC, Bitox 40EC hay Ofatox 400EC. Lan bị nấm, vi khuẩn hay virus gây nên tình trạng cháy lá từng đám, vết cháy lan tròn dần, bệnh thối rễ dùng Zinep, Starner 20 WP hay Benomyl.
6- THU HOẠCH VÀ BẢO QUẢN
Hoa cắt cánh ngâm trong dung dịch giúp hoa lâu héo khoảng 15 phút, sau đó bọc lại bằng giấy báo
Nguồn: phân bón bình điền
Th1204
Kỹ thuật trồng đinh lăng
1 – Giới thiệu cây đinh lăng
Đinh lăng là cây thuốc thuộc họ ngũ gia bì, có tên khoa học là Polyscias fruticosa, còn gọi với tên dân dã là cây gỏi cá hoặc cây nam dương sâm. Toàn bộ các bộ phận của cây đều có thể sử dụng làm thuốc hoặc gia vị, phần lá có thể dùng ăn kèm như rau sống hoặc trộn gỏi, phần củ dùng để ngâm rượu hoặc phơi khô làm thành phần trong các thang thuốc bắc
Về giá trị dinh dưỡng và dược liệu, trong cây đinh lăng có chứa chất saponin (hoạt chất quý tương tự như sâm), nhiều vitamin có lợi như B1, B2, B6, B12, C… và các acid amin tốt cho sức khỏe. Đặc biệt phần lá và củ (rễ) đinh lăng có tác dụng an thần, bồi bổ sức khỏe, chữa ngộ độc tiêu hóa…
Về hình thái và đặc điểm thực vật: Cây đinh lăng thuộc loại cây bụi nhỏ, chiều cao từ 0,8 – 1,8m. Cây có lá kép dạng bẹ, mọc so le, mép lá có răng cưa, lá có thể tròn, hình mũi mác hoặc xẻ thùy nhiều lần tùy theo giống, thân mềm, thường hóa gỗ ở phần gốc, rễ phình to, màu trắng thường gọi là củ.
Đinh lăng là cây lưu niên, sống nhiều năm, chịu hạn, chịu bóng tốt, nhưng chịu úng rất kém. Có thể thích nghi rộng trên nhiều loại đất và khí hậu trên toàn quốc. Muốn thu hoạch củ thì ưu tiên trồng trên đất pha cát, đất thoáng, hoặc trồng trên luống
2 – Phân loại cây đinh lăng
Theo tài liệu từ trang wikipedia, thì chi đinh lăng Polyscias có đến mấy chục loài khác nhau, chủ yếu phân biệt với nhau bằng hình thái lá, thân, rễ. Các giống đinh lăng thường gặp ở Việt Nam là đinh lăng nếp (đinh lăng lá nhỏ – Polyscias fruticosa), đinh lăng lá lớn, đinh lăng lá tròn, đinh lăng lá nhuyễn, đinh lăng lá ráng…
Trong hầu hết các giống đinh lăng thường gặp, giống nào cũng có ít nhiều giá trị về dược liệu, tuy nhiên chỉ có giống đinh lăng lá nhỏ là giá trị hơn cả. Do đó khi trồng đinh lăng làm kinh tế, bà con nên chọn giống đinh lăng lá nhỏ (đinh lăng nếp) để trồng, tránh trồng nhầm các loại đinh khác rất khó để tìm đầu ra
3 – Chuẩn bị đất trồng đinh lăng
Như đã nói ở trên, đinh lăng là loại cây không kén đất, có thể trồng trên nhiều loại đất đai với khí hậu khác nhau, miễn là đất thoát nước tốt, không bị ngập úng. Do đó nếu trồng ở vùng cao thì bà con có thể đào hố để trồng, còn trồng ở vùng đồng bằng thì nhất thiết phải đánh luống, đắp mô để trồng đinh lăng, vừa tiện cho việc thu hoạch củ vừa tránh được ngập úng khiến cây bị chết hoặc sinh trưởng chậm
Làm luống, đắp mô trồng đinh lăng: Đất sau khi được cày bừa cho thật tơi xốp bổ sung thêm phân hữu cơ và các dưỡng chất cần thiết, tiến hành đánh luống cao 20-30cm, rộng 50cm.
Ở vùng đồi núi: Đào hố rộng 40 x 40 x 40 cm, (hoặc hố rộng 1m, sâu 40cm bên dưới lót nilon, tấm nhựa PE để tiện việc thu hoạch của sau này)
Mỗi hecta đất trồng đinh lăng cần bón lót 10-15 tấn phân chuồng, 400 – 500kg phân NPK (loại ít kali), 50-100kg supe lân rải đều và cày xới bằng máy cày trước khi vun luống, nếu trồng bằng cách đào hố thì chia đều lượng phân kể trên cho số lượng hố trồng
Việc chuẩn bị đất cần tiến hành trước thời điểm xuống giống khoảng 15-30 để đất ổn định, hệ vi sinh phát triển cân bằng, tạo điều kiện tốt nhất cho cây con phát triển
4 – Thời vụ và mật độ trồng đinh lăng
Nhìn chung đinh lăng có thể trồng quanh năm, tuy nhiên nên trồng vào đầu mùa mưa để đỡ công tưới nước, thường là vào khoảng tháng 4-5 DL. Cây giống cần được ươm trong bầu 4-5 tháng hoặc ủ trong cát 50-60 ngày cho thật nhiều rễ, khi trồng tỷ lệ sống sẽ cao hơn
Mật độ trồng thường rơi vào khoảng 40.000 – 50.000 cây/hecta. Tương ứng với khoảng cách cây là 40x50cm hoặc 50x50cm.
5 – Kỹ thuật trồng đinh lăng
Khi trồng cần nhẹ nhàng dùng dao cắt lớp nilon bầu hoặc nhổ cây khỏi luống, tránh để cây bị đứt rễ. Đặt cây vào chính giữa luống đất (đã khơi hố) hoặc chính giữa hố trồng miệng bầu ngang với mặt đất xung quanh, cây cách cây 50cm, lấp đất đồng thời nén nhẹ xung quanh, vun cao ở gốc để tránh đọng nước
Trường hợp trồng trong hố lớn (hố 1m sâu 40cm, có lót nilon) thì trồng 3 cây 1 hố theo hình tam giác cân, cây cách cây 30-40cm
Sau khi trồng cần tưới nước ngay để giữ ẩm cho cây, nên chọn ngày mát trời để trồng, nếu trồng trong mùa khô cần phủ gốc bằng rơm rạ, vỏ trấu, xác bèo… để giữ ẩm.
6 – Chăm sóc định kỳ cho cây đinh lăng
Tưới nước: Giai đoạn cây còn nhỏ (6 tháng đầu) thường xuyên tưới nước để giữ ẩm cho cây nếu trời không mưa. Sau này bộ rễ phát triển thì tùy theo tình hình cây mà tưới nước phù hợp. Khi tưới chỉ nên tưới vừa đủ, không để đọng nước quá lâu, bộ rễ dễ bị nấm bệnh tấn công
Làm cỏ: Thường xuyên dọn cỏ sạch sẽ trong vườn, tránh để cỏ rập rạp vừa cạnh tranh dinh dưỡng với cây, cạnh tranh không gian sinh trưởng, vừa là nơi trú ngụ mầm bệnh. Mỗi năm tiến hành làm cỏ 4-5 lần tùy theo tình hình cỏ dại, khi cây qua năm thứ 2, để hạn chế cỏ dại đồng thời cải tạo đất, giữ ẩm… có thể cân nhắc trồng thêm cỏ lạc dại giữa các hàng.
Bón phân: Ngoài việc bón lót như đã đề cập ở phần chuẩn bị đất, sau khi trồng cần tiến hành bón thúc bằng phân ure với liều lượng 80kg/hecta. Việc bón thúc thực hiện 2-3 lần suốt năm đầu tiên. Đến cuối năm thứ 2, sau khi cắt tỉa cành tiến hành bón thúc lần thứ 2 để kích thích cây ra cành mới, nhanh chóng hồi phục. Ngoài ra mỗi năm bổ sung thêm 10 tấn phân chuồng (bón 1 lân), 500-600kg NPK (chia thành 2-3 lần) cho mỗi hecta đinh lăng.
Cắt tỉa cành: Sau khi trồng khoảng 6-9 tháng chiều cao cây đạt từ 50-100cm tiến hành hãm ngọn lần 1, hãm cách mặt đất khoảng 20cm, sau đó nuôi lại 2-3 chồi. Cuối năm thứ 2 tiến hành hãm ngọn lần 2, và nuôi lại chồi tương tự như lần đầu. Phần thân cành dư ra có thể dùng để tiếp tục nhân giống hoặc cung cấp cho các vườn ươm cây giống để cải thiện kinh tế
7 – Phòng trừ sâu bệnh cho đinh lăng
Giai đoạn ươm cây trong vườn ươm: Cần tiến hành che bằng bạt nilon để hạn chế nước mưa tiếp xúc trực tiếp, cây sẽ ít bị tình trạng rụng lá. Bên cạnh đó cần kết hợp phun các thuốc trừ nấm như Ridomil Gold, COC85 và các thuốc trừ sâu bọ cắn hại cây như Furadan, Basudin
Giai đoạn năm đầu tiên: Thường bị rầy mềm, sâu ăn lá, ốc sên ăn vỏ… có thể phòng trừ bằng các thuốc trừ sâu có tính nội hấp, lưu dẫn. Phun định kỳ 1-2 tháng 1 lần. Ngoài ra có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu dạng bột khơi nhẹ đất quanh gốc và rải một ít thuốc để phòng trừ các loại sâu bệnh hại rễ, hại gốc.
Các năm về sau: Nhìn chung cây đã khỏe mạnh và rất ít sâu bệnh, công tác chăm sóc chỉ đơn giản là bón phân và tưới nước, rất nhàn.
8 – Thu hoạch chế biến và bảo quản đinh lăng
Lá đinh lăng: Có thể tận dụng để bán cho các đơn vị sản xuất thuốc, tươi hoặc khô tùy theo nhu cầu, nếu muốn thu hoạch lá khô thì không nên phơi nắng, mà chỉ nên phơi mát, sau đó sấy thật kỹ, tránh làm giảm tác dụng của lá
Thân đinh lăng: Năm đầu tiên, cuối năm thứ 2 và năm thứ 4 là các thời điểm ta tiến hành hãm ngọn để cây nuôi chồi mới. Phần thân nên vặt bỏ lá, bó thành từng bó, bên ngoài bọc vải ẩm để cây tươi lâu. Sau đó vận chuyển đến nơi tiêu thụ
Củ đinh lăng: Sau 3 năm đã có thể tiến hành thu củ (rễ) đinh lăng. Tuy nhiên nên để khoảng 5 trở lên củ sẽ to và có giá trị hơn. Củ sau khi đào lên cần cắt các rễ nhỏ, giữ lại những rễ lớn, rửa sạch đất cát. Để nguyên củ bán tươi hoặc sấy khô trước khi bán cho người có nhu cầu
Nguồn vuacaygiong.com
Th1123
Vai trò của vi sinh vật trong đất
Vi sinh vật có mặt nhiều nhất trong đất so với các môi trường khác. Đây là môi trường có điều kiện thuận lợi để chúng sinh sản và phát triển. Tuy nhiên, vi sinh vật cũng đóng vai trò rất quan trọng trong kết cấu đất.
Vi sinh vật đất rải rác ở nhiều điều kiện đất khác nhau như đầm lầy, cống rãnh, đồng nước trũng,… hay đất cát khô cằn. Trong khi đó, Đất có kết cấu từ những hạt nhỏ liên kết với nhau thành cấu trúc đoàn lạp của đất. Vậy yếu tố nào đã liên kết các hạt đất với nhau?
Vai trò gián tiếp của vi sinh vật trong sự liên kết các hạt đất với nhau: Hoạt động của vi sinh vật, nhất là nhóm háo khí đã hình thành nên một thành phần của mùn là axit humic. Các muối của axit humic + ion Canxi à chất dẻo gắn kết những hạt đất với nhau.
Vai trò trực tiếp của vi sinh vật:Trong quá trình phân giải chất hữu cơ, nấm mốc và xạ khuẩn phát triển một hệ khuẩn ti khá lớn trong đất. Khi nấm mốc và xạ khuẩn chết đi à chất dẻo có khả năng kết dính các hạt đất với nhau.
Theo nghiên cứu:
– Genxe: khi bón vào đất những chất như Xenluloza và Protein thì kết cấu của đất được cải thiện. Đó là do vi sinh vật phân giải xenluloza và protein đã phát triển mạnh mẽ, các sản phẩm phân giải của chúng và các chất tiết trong quá trình sống của chúng đã liên kết các hạt đất với nhau tạo nên cấu trúc đất.
– Rudacop: Nhân tố kết dính các hạt đất trong đất trồng cây họ đậu chính là một sản phẩm kết hợp giữa axit galactorunic và sản phẩm tự dung giải của vi khuẩn Clostridium polymyxa. Axit galactorenic là sản phẩm của thực vật được hình thành dưới tác dụng của enzym protopectinaza do vi khuẩn tiết ra. Các chất kết dính tạo thành kết cấu đất còn được gọi là mùn hoạt tính.
è Mùn là nơi tích luỹ chất hữu cơ làm nên độ phì nhiêu của đất và là nhân tố tạo nên kết cấu đất. Sự hình thành và phân giải mùn đều do vi sinh vật đóng vai trò tích cực.
Vì vậy các điều kiện ngoại cảnh ảnh như canh tác cày bừa, xới đất, bón phân… đều ảnh hưởng trực tiếp đến vi sinh vật và qua đó ảnh hưởng đến hàm lượng mùn trong đất.
Tác động của sự cày xới, đảo trộn đất đến vi sinh vật đất:
– Cày xới, đảo trộn có tác dụng điều hoà chất dinh dưỡng, làm đất thoáng khí tạo điều kiện cho vi sinh vật phát triển mạnh.
– Khi xới lớp đất canh tác nhưng không lật mặt, số lượng vi sinh vật cũng như cường độ hoạt động có tăng lên nhưng không nhiều bằng xới đất có lật mặt hoặc cày sâu.
– Tuy nhiên quy luật trên chỉ áp dụng đối với đất úng ngập, còn ở đất cát nhẹ khô hạn thì việc xới xáo không hợp lý lại làm giảm lượng vi sinh vật.
Tác động của phân bón đến vi sinh vật đất :
– Khi ta bón các loại phân hữu cơ và vô cơ vào đất, phân tác dụng nhanh hay chậm đến cây trồng là nhờ hoạt động của vi sinh vật.
– Vi sinh vật phân giải hữu cơ thành dạng vô cơ cho cây trồng hấp thụ, biến dạng vô cơ khó tan thành dễ tan … Ngược lại các loại phân bón cũng ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật trong đất.
– Phân hữu cơ như phân chuồng, phân xanh, bùn ao … đặc biệt làm tăng số lượng vi sinh vật vì bản thân trong đó đã có một số lượng lớn vi sinh vật. Chất hữu cơ vào đất lại làm tăng số lượng vi sinh vật sẵn có trong đất, đặc biệt là vi sinh vật phân giải xenluloza, phân giải protein và nguyên sinh động vật.
– Tuy vậy, các loại phân hữu cơ khác nhau tác động đến sự phát triển của vi sinh vật đất ở các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tỷ lệ C/N của phân bón.
– Phân vô cơ cũng có tác dụng thúc đẩy sự sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật đất vì nó có các nguyên tố N, P, K, Ca, vi lượng rất cần thiết cho vi sinh vật. Đặc biệt là khi bón phối hợp các loại phân vô cơ với phân hữu cơ sẽ làm tăng số lượng vi sinh vật lên từ 3 – 4 lần so với bón phân khoáng đơn thuần, đặc biệt là các vi khuẩn Azotobacter, vi khuẩn amôn hoá, nitrat hoá, phân giải xenluloza.
– Khi trong đất có nhiều phân hữu cơ thì việc bón các loại phân vô cơ có tác dụng kích thích hoạt động phân giải chất hữu cơ của vi sinh vật. Bón vôi có tác dụng cải thiện tính chất lý hoá của đất, làm tăng cường hoạt động của vi sinh vật, nhất là đối với đất chua, mặn, bạc màu.
Tác động của chế độ nước đối với vi sinh vật:
– Đại đa số các loại vi khuẩn có ích đều phát triển mạnh mẽ ở độ ẩm 60 – 80%. Độ ẩm quá thấp hoặc quá cao đều ức chế vi sinh vật.
– Chỉ có nấm mốc và xạ khuẩn là có thể phát triển được ở điều kiện khô.
– Ở các ruộng lúa nước các loại vi khuẩn đã thích hợp với độ ẩm cao, tuy nhiên ở những ruộng có tính thấm nước cao được làm ải, sự phát triển vi sinh vật cũng tốt hơn. Đặc biệt là cân đối được tỷ lệ giữa hai loại háo khí và yếm khí.
Tác động đến chế độ canh tác khác tới vi sinh vật
– Ngoài các chế độ phân bón, nước, làm đất, các chế độ canh tác khác cũng có tác dụng rõ rệt tới hoạt động của vi sinh vật.
– Ví dụ như chế độ luân canh cây trồng. Mỗi loại cây trồng đều có một khu hệ vi sinh vật đặc trưng sống trong vùng rễ của nó. Bởi vậy luân canh cây trồng làm cho khu hệ vi sinh vật đất cân đối và phong phú hơn. Người ta thường luân canh các loại cây trồng khác với cây họ đậu để tăng cường hàm lượng đạm cho đất.
– Các loại thuốc hoá học trừ sâu, diệt cỏ gây tác động có hại tới vi sinh vật cũng như hệ sinh thái đất nói chung. Việc dùng các loại thuốc hoá học làm ô nhiễm môi trường đất, tiêu diệt phần lớn các loại vi sinh vật và động vật nguyên sinh trong đất. Tất cả những biện pháp canh tác nói trên có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến sự phát triển của vi sinh vật trong đất, từ đó ảnh hưởng đến quá trình hoạt động sinh học, cụ thể là sự chuyển hoá các chất hữu cơ và vô cơ trong đất, ảnh hưởng đến quá trình hình thành mùn và kết cấu đất.
Những yếu tố này lại ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng. Bởi vậy, việc nghiên cứu đất sao cho thích hợp với năng suất cây trồng không thể bỏ qua yếu tố sinh học đất.
Nguồn : microbelift.com
Th618