Tiền Giang: Sầu riêng tăng giá mạnh
Tại tỉnh Tiền Giang, sầu riêng bắt đầu tăng giá mạnh cách đây hơn 01 tháng, với mức tăng khoảng 15.000 – 25.000 đồng/kg. Hiện thương lái thu mua các loại sầu riêng tại vườn với giá dao động từ 60.000 – 75.000 đồng/kg. Tuy nhiên, còn khoảng 02 tuần nữa, sầu riêng trên địa bàn tỉnh mới vào mùa thu hoạch rộ. Tỉnh hiện có khoảng trên 17 ngàn ha sầu riêng, với năng suất đạt từ 20 – 23 tấn/ha; trong đó có khoảng 100 ha sầu riêng đã được cấp mã số vùng trồng.
Sầu riêng đang tăng giá mạnh.
Theo ông Nguyễn Văn Mẫn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với trái sầu riêng xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc ký kết giữa Bộ NN&PTNT Việt Nam và Tổng cục Hải quan Trung Quốc được thông qua. Vừa qua, đã có hàng chục tấn sầu riêng của Việt Nam xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho giá sầu riêng tăng mạnh thời gian gần đây. Đồng thời, là niềm vui chung của ngành Nông nghiệp và tự hào cho người trồng, tiêu thụ sầu riêng của Việt Nam nói chung và tỉnh Tiền Giang nói riêng.
Giám đốc Sở NN&PTNT cho rằng, việc xuất khẩu sầu riêng chính ngạch sang thị trường Trung Quốc là cơ hội để nông dân nâng cao giá trị sản xuất sầu riêng; bởi chi phí trung gian giảm, lợi nhuận sẽ tăng. Ngành Nông nghiệp đã và đang khẩn trương hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương hoàn chỉnh các thủ tục cần thiết để được cấp mã số vùng trồng và mã số đóng gói.
Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp xây dựng kế hoạch tập huấn kỹ thuật canh tác cho người dân theo hướng an toàn, thực hiện nghiêm ngặt các quy định mà Nghị định thư đã ký kết, có kế hoạch cung ứng phù hợp, hướng đến xuất khẩu bền vững.
Nguồn: Thùy Trang – Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Th1007
Giá ure tại Mỹ, Trung Đông tăng quanh 3%
Cập nhật lúc 16h ngày 06/10/2022
Dữ liệu từ Trading Economics cho thấy giá ure trên sàn Chicago (Mỹ) ngày 5/10 là 765 USD/tấn, tăng gần 3% so với ngày trước đó sau khi lao dốc từ mức 865 USD/tấn vào ngày 28/9.
Diễn biến giá ure trên sàn Chicago, Mỹ. Nguồn: Trading Economics
Giá ure tương lai tại Trung Đông là 645 USD/tấn, cao hơn 3,2% so với ngày 4/10. Trước đó, ngày 29/9, giá ure tại khu vực này là 680 USD/tấn, lao dốc trong ngày 30/9 và tăng trở lại trong những ngày gần đây.
Diễn biến giá ure tại Trung Đông. Nguồn: Investing.com
Giá ure, DAP tại Trung Quốc không biến động do Trung Quốc đang trong kỳ nghỉ lễ Quốc khánh.
Theo 2Nông, dịch Covid-19 đã để lại ảnh hưởng đến mức nền các nguyên liệu thô dùng để sản xuất phân bón. Đa số các mỏ khai thác nguyên liệu thô dùng để sản xuất mặt hàng này đều nằm trong vùng bất ổn chính trị khiến việc vận chuyển các loại nguyên liệu này ra thị trường khó khăn. Còn đối với các mỏ không nằm trong vùng bất ổn như Trung Quốc, Canada, năng suất chỉ vừa đủ nhu cầu nội địa và một vài nước trong khu vực.
Trang này nhận định rằng mặt bằng cung cấp các nguyên liệu thô dùng để sản xuất phân bón trên thế giới hiện đang mất thế cân bằng và thiếu hụt trầm trọng. Thực tế cho thấy, các tập đoàn lớn chuyên sản xuất kali trên thế giới đã cắt sản lượng sản xuất khoảng 2 triệu tấn. Hiện nay giá phân Kali trên thế giới đã ở mức 1.000-1.500 USD/tấn.
Còn đối với Trung Quốc, nước sản xuất phốt pho lớn nhất thế giới, giá photpho vàng và trắng vụt tăng từ cuối tháng 2 năm nay trở lại đây. Theo đó, nhiều chuyên gia đánh giá khả năng cao là giá photpho vàng có thể duy trì ở mức khoảng 5.500-6.000 USD/tấn cho tới hết năm nay.
Là nước phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhập khẩu, giá các mặt hàng có chứa kali, photpho ở Việt Nam cũng sẽ ở mức cao theo tình hình thế giới. Theo Binhdien.com, giá kali Belarus loại hồng đỏ là 1,8 triệu đồng/100 kg, tăng 40% so với đầu năm.
Giá ure Phú Mỹ hiện là 1,47 triệu đồng/100 kg, so với mức 1,73 triệu đồng/100 kg hồi đầu năm. Theo SSI Research, về nhu cầu, do quý III là mùa thấp điểm của ngành trồng trọt, giá ure giảm, nhưng sẽ tăng trở lại vào quý IV khi vụ Đông Xuân bắt đầu. Nhu cầu tăng sẽ kéo theo giá ure tăng.
Nguồn: chuyên trang Người đồng hành (ndh.vn)
Th1005
Quy trình kỹ thuật bón phân cho cây sầu riêng
Chăm sóc vườn sầu riêng cần hiểu rõ về các kiến thức cơ bản, nhất là việc nắm rõ thời gian bón phân và lựa chọn loại phân bón phù hợp. Khi bón phân cho cây ăn trái đặc biệt là bón phân cho sầu riêng, việc chú ý đến loại phân sử dụng, nhu cầu sinh lý phù hợp với điều kiện đất đai, đúng lúc và đúng phương pháp là những yếu tố quyết định giúp cây phát triển tốt, góp phần tăng năng suất chất lượng cây trồng
1. Xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng
Các chất dinh dưỡng có vai trò hết sức quan trọng giúp ổn định và tăng năng suất cho cây. Cây sầu riêng cần được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, trung và vi lượng. Thiếu hoặc thừa một trong những yếu tố này đều ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển không bình thường của cây.
Nhu cầu dinh dưỡng của cây tăng theo tuổi cây và mức năng suất. Sầu riêng thu bói có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn cây kiến thiết cơ bản và cây trong vườn ươm. Sầu riêng kinh doanh có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn so với sầu riêng mới thu bói. Năng suất sầu riêng càng cao, càng cần phải bón nhiều phân hơn.
Sầu riêng rất cần kali nhưng không nên sử dụng kali clorua (KCl) mà phải sử dụng Kali Sulphate (K2SO4) và trung-vi lượng (TE) vì KCl làm sầu riêng giảm mùi thơm.
Khi cây sầu riêng cho năng suất quả 6.720 kg đã lấy đi 18,1 kg N, 6,6 kg P2O5, 33,5 kg K2O, 5,4 kg MgO và 2,6 kg CaO.
Đối với sầu riêng tất cả các chất đa lượng và các chất vi lượng như Kẽm, Bo… đều cần thiết cho giai đoạn đậu quả và phát triển quả, trong đó, N, P và là cần thiết nhất trong giai đoạn phát triển quả, K là chất dinh dưỡng cần thiết trong giai đoạn sau của sự phát triển quả cho đến khi thu họach.
Sau đây là một số vai trò của các nguyên tố N, P, K và S đối với sầu riêng:
+ Đạm (N): Đây là thành phần quan trọng cho tất cả bộ phận của cây và đặc biệt cần thiết cho sự sinh trưởng dinh dưỡng.
Đạm cần thiết cho sự phát triển của lá, thân cành, hoa, quả, hạt. Do vậy, cần bón đạm đầy đủ cho cây sầu riêng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc 5 đúng (đúng loại, đúng nhu cầu, đúng loại đất, đúng liều lượng và đúng phương pháp), ngoài ra còn phải đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Cây đủ đạm lá xanh tốt, cây phát triển khỏe, quả phát triển đều
Thiếu đạm: Lá có màu xanh vàng hay xanh noãn chuối. Thiếu nặng lá rụng nhiều, năng suất giảm. Hiện tượng thiếu đạm thường xảy ra trên đất nghèo dinh dưỡng và bón không đủ lượng đạm cây cần.
Thừa đạm: Phát triển thân lá mạnh, lá có màu xanh đậm, dễ bị sâu bệnh tấn công, đậu quả ít, rụng quả nhiều, quả phát triển không bình thường như mất gai, nứt quả…
+ Lân (P): Sầu riêng cần lân tương đối ít. Dạng lân dễ tiêu trong đất thường bị giới hạn bởi việc cố định do các phản ứng hóa học, đặc biệt là ở đất chua. Nên thường xuyên bón phân lân với lượng nhỏ. Cần bón lót phân lân trong hố trước khi trồng để giúp cây tăng trưởng trong giai đoạn ban đầu.
Thiếu lân: Lá chuyển màu xỉn, mép lá non ửng đỏ, thiếu nặng lá rụng và cành chết.
+ Kali (K): Kali rất quan trọng khi cây ra quả, lượng kali trong quả rất lớn. Bón thường xuyên phân kali rất cần thiết để duy trì năng suất cao và phẩm chất ngon cho sầu riêng. Với đất nhiều K sẽ cản trở sự hấp thu Ca và Mg. Trong trường hợp này cần bón Ca và Mg nhưng không bón K. Kali làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với các tác động không lợi từ bên ngoài và chống chịu đối với một số loại bệnh. Kali tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét.
Thiếu K: Mép lá chuyển màu vàng cam sau tới màu xám nâu và khô, lá rụng nhiều.
+ Lưu huỳnh (S): Thiếu S, hầu hết lá trên cây chuyển sang màu vàng, xuất hiện những vết như vết bệnh trên lá già. Ở lá non, lúc đầu có màu vàng sáng sau đó chuyển sang màu vàng nhạt, tương tự triệu chứng ở lá già. Lưu huỳnh được bón thông qua phân SA (chứa khoảng 24 % S); phân Super lân (Super lân chứa khoảng 14 % S). …
Ngoài ra, thiếu magiê: phần thịt lá bị vàng và lan dần từ gân chính ra mép lá; thiếu canxi: lá héo vàng từ rìa lá sau lan vào gân chính; thiếu kẽm: các lá và chồi đầu cành không phát triển tốt (rụt đọt), lá không thể nở lớn.
2. Xác định loại phân bón
2.1. Các loại phân bón cho sầu riêng
a. Phân hữu cơ
Các loại phân hữu cơ thường dùng để bón cho sầu riêng như phân gia súc, than bùn, phân ủ các dư thừa thực vật, phân xanh, phân cá…
Ưu điểm
– Tạo chất đệm, ổn định độ chua của đất tăng hiệu quả của việc bón phân vô cơ.
– Làm đất tơi xốp, giữ ẩm tốt, tăng độ phì nhiêu.
– Tạo môi trường thuận lợi để vi sinh vật phát triển và hoạt động làm tăng khả năng kháng bệnh đối với cây trồng.
– Chi phí thấp.
Hạn chế
– Hiệu quả chậm;
– Cồng kềnh, tốn công vận chuyển;
– Hàm lượng dưỡng chất thấp, không ổn định, khó kiểm soát.
Để nâng cao hàm lượng dinh dưỡng phân chuồng, nên tận dụng các dư thừa thực vật có sẳn để độn vào phân chuồng và ủ phân trước khi sử dụng.
Cách thực hiện
Các nguyên liệu để độn/lót chuồng: Trấu, rơm rạ để độn vô chuồng vừa làm chuồng khô, ấm vừa hút nước tiểu của gia súc để tránh trôi và bốc hơi.
Các nguyên liệu để ủ chung với phân: Lá rụng khô: Điều, sầu riêng, cỏ…
Thân cành lá tươi thu được từ dọn vườn, tỉa cành sầu riêng, cây che bóng. Tất cả được ủ chung với phân chuồng.
Hiện nay, nông dân chưa tận dụng được các tàn dư thực vật để độn với phân chuồng nên phân có chất lượng kém. Do đó, các dư thừa thực vật “ không nên đốt bỏ”, mà nên giữ lại để độn ủ chung với phân chuồng vừa tăng khối lượng phân đồng thời tăng cả về chất lượng.
Có thể lựa chọn các cách ủ phân hữu cơ như sau:
– Ủ nóng: Khi lấy phân ra khỏi chuồng để ủ, phân được xếp thành từng lớp ở nơi có nền không thấm nước, nhưng không được nén. Sau đó, tưới nước phân lên, giữ độ ẩm trong đống phân 60 – 70%. Có thể trộn thêm 1% vôi bột (tính theo khối lượng) trong trường hợp phân có nhiều chất độn. Trộn thêm 1 – 2% supe lân để giữ đạm. Sau đó trát bùn bao phủ bên ngoài đống phân. Hàng ngày tưới nước phân lên đống phân.
Sau 4 – 6 ngày, nhiệt độ trong đống phân có thể lên đến 50 – 60oC. Các loài vi sinh vật phân giải chất hữu cơ phát triển nhanh và mạnh. Các loài vi sinh vật háo khí chiếm ưu thế. Do tập đoàn vi sinh vật hoạt động mạnh cho nên nhiệt độ trong đống phân tăng nhanh và đạt mức cao. Để đảm bảo cho các loài vi sinh vật háo khí hoạt động tốt cần giữ cho đống phân tơi, xốp, thoáng.
Phương pháp ủ nóng có tác dụng tốt trong việc tiêu diệt các hạt cỏ dại, loại trừ các mầm móng sâu bệnh. Thời gian ủ tương đối ngắn. Chỉ 30 – 40 ngày là ủ xong, phân ủ có thể đem sử dụng. Tuy vậy, phương pháp này có nhược điểm là để mất nhiều đạm.
– Ủ nguội: Phân được lấy ra khỏi chuồng, xếp thành lớp và nén chặt. Trên mỗi lớp phân chuồng rắc 2% phân lân. Sau đó ủ đất bột hoặc đất bùn khô đập nhỏ, rồi nén chặt. Thường đống phân được xếp với chiều rộng 2 – 3 m, chiều dài tuỳ thuộc vào chiều dài nền đất. Các lớp phân được xếp lần lượt cho đến độ cao 1,5 – 2,0 m. Sau đó trát bùn phủ bên ngoài.
Do bị nén chặt cho nên bên trong đống phân thiếu oxy, môi trường trở lên yếm khí, khí cacbonic trong đống phân tăng. Vi sinh vật hoạt động chậm, bởi vậy nhiệt độ trong đống phân không tăng cao và chỉ ở mức 30 – 35oC. Đạm trong đống phân chủ yếu ở dạng amôn cacbonát, là dạng khó phân huỷ thành amôniac, nên lượng đạm bị mất giảm đi nhiều.
Theo phương pháp này, thời gian ủ phân phải kéo dài 5 – 6 tháng phân ủ mới dùng được. Nhưng phân có chất lượng tốt hơn ủ nóng.
– Ủ nóng trước, nguội sau: Phân chuồng lấy ra xếp thành lớp không nén chặt ngay. Để như vậy cho vi sinh vật hoạt động mạnh trong 5 – 6 ngày. Khi nhiệt độ đạt 50 – 60oC tiến hành nén chặt để chuyển đống phân sang trạng thái yếm khí.
Sau khi nén chặt lại xếp lớp phân chuồng khác lên, không nén chặt. Để 5 – 6 ngày cho vi sinh vật hoạt động. Khi đạt đến nhiệt độ 50 – 60oC lại nén chặt.
Cứ như vậy cho đến khi đạt được độ cao cần thiết thì trát bùn phủ chung quanh đống phân. Quá trình chuyển hoá trong đống phân diễn ra như sau: Ủ nóng cho phân bắt đầu ngấu, sau đó chuyển sang ủ nguội bằng cách nén chặt lớp phân để giữ cho đạm không bị mất.
Để thúc đẩy cho phân chóng ngấu ở giai đoạn ủ nóng, người ta dùng một số phân khác làm men như phân bắc, phân tằm, phân gà, vịt… Phân men được cho thêm vào lớp phân khi chưa bị nén chặt.
Ủ phân theo cách này có thể rút ngắn được thời gian so với cách ủ nguội, nhưng phải có thời gian dài hơn cách ủ nóng.
Tuỳ theo thời gian có nhu cầu sử dụng phân mà áp dụng phương pháp ủ phân thích hợp để vừa đảm bảo có phân dùng đúng lúc vừa đảm bảo được chất lượng phân.
+ Cách dùng:
Thời gian ủ dài hay ngắn tuỳ theo loại nguyên liệu và mùa vụ, kéo dài từ 1-4 tháng. Khi kiểm tra thấy đống phân màu nâu đen, tơi xốp, có mùi chua nồng của dấm, thọc tay vào đống phân thấy ấm vừa tay là phân đã hoai mục (chín hoặc ngấu), hoàn toàn có thể đem sử dụng.
Phân dùng không hết nên đánh đống lại, che đậy cẩn thận hoặc đóng bao để dùng về sau. Phân ủ xong sử dụng tốt nhất trong vòng 1 năm và hiệu quả sử dụng đạt cao nhất trong một tháng khi phân ngấu.
Phân ủ chủ yếu dùng để bón lót cho các loại cây trồng, có thể sử dụng bón thúc đối với các loại rau và hoa. Cách bón tương tự như bón phân hữu cơ truyền thống khác.
Nên sử dụng phân ủ vi sinh bón cho sầu riêng vì tốn chi phí, tận dụng nguồn phế phẩm và phế thải trong quá trình trồng trọt và chăn nuôi, hạn chế đến mức thấp nhất nguồn bệnh lây lan, bảo vệ môi trường sống trong lành. Nông dân ở vùng chăn nuôi nhỏ, lẻ có sẳn nguồn phân chuồng và nguồn xác bã thực vật cũng nên mạnh dạn ủ phân là góp phần đảm bảo an toàn chất lượng sản phẩm, góp phần xây dựng nền nông nghiệp bền vững.
Có một phương án tiết kiệm mà hiệu quả cho bà con nông dân là dùng kén trùn quế Phước Hiệp để cung cấp chất hữu cơ cho sầu riêng. Kén trùn quế Phước Hiệp được tạo ra từ quá trình nuôi ủ con trùn quế trong chuồng trại từ 10 – 12 tháng nên hàm lượng hữu cơ, humic tự nhiên và đặc biệt là hệ vi sinh vật tự nhiên (bản địa) rất cao. Và sau khi thu hoạch, kén trùn quế được xử lý giảm ẩm bằng nhà kính phơi tự nhiên, nghiền mịn, sàng và phun bổ sung 15 lít dịch trùn quế cho 1 tấn ( tương đương 15kg NPK/ 1 tấn). Với nhhững khác biệt này, chỉ cần bón số lượng ít mà cây vẫn phát triển, mang liệu hiệu quả kinh tế cho nhà vườn. Đặc biệt, kén trùn quế Phước Hiệp dùng được cho tất cả các giai đoạn từ trồng mới, bón thúc, phục hồi sau thu hoạch, chăm sóc trước khi làm bông đều được. Bón kén trùn kết hợp với NPK sẽ giúp giảm nửa lượng NPK bón, hệ vi sinh sẽ kích thích chuyển hoá lượng phân vô cơ khó tiêu thành dễ tiêu, tránh hao hụt phân, không làm chai đất mà cây vẫn phát triển và sinh trưởng tốt.
b. Phân vô cơ
Đối với cây sầu riêng cần bón các loại phân vô cơ chứa đạm, lân, kali và một số phân vi lượng. Tùy theo nhu cầu dinh dưỡng ở mỗi giai đoạn phát triển mà lựa chọn các loại phân vô cơ để bón cho phù hợp.
* Ưu điểm của phân vô cơ:
– Đáp ứng nhanh kịp thời nhu cầu của cây.
– Hàm lượng dinh dưỡng thường cao, ổn định và dễ kiểm soát. – Dễ vận chuyển, dễ sử dụng.
* Hạn chế của phân vô cơ:
– Sử dụng đơn độc lâu ngày đất bị chai cứng, chua, cây hấp thụ kém.
– Hạn chế vi sinh vật phát triển.
Chất cải tạo đất
* Vôi: Thông thường người ta bón vôi để nâng cao độ pH của đất, để cải tạo lý, hoá tính của đất, xúc tiến quá trình phân giải chất hữu cơ, tăng cường sự sinh trưởng phát triển của VSV trong đất, giải phóng lân bị cố định.
* Dolomite: Thông thường sử dụng vôi bột để bón cho đất trồng sầu riêng nhưng nếu có điều kiện nên dùng Dolomit thay vôi để vừa cung cấp Canxi vừa cung cấp Magie cho sầu riêng . Đất có độ pH ≤ 5,5 là phải bón vôi, nhưng phải bón nhiều năm liền để nâng độ pH lên chứ không nên bón nhiều 1 lần với số lượng lớn.
Chất vi lượng bón cho sầu riêng thường được phối hợp dưới hình thức một loại phân bón hỗn hợp nào đấy, có thể ở dạng thô sử dụng bón lót hoặc bón thúc, cũng có thể ở dạng dung dịch sử dụng phun vào lá.
2.2. Tính lượng phân bón cho cây sầu riêng
– Giai đọan cây con và những năm đầu cho quả: Bón 5 – 10kg phân gà/gốc (hoặc phân hữu cơ đã hoai mục) kết hợp với phân vô cơ theo công thức N:P:K:Mg = 18:11:5:3 hoặc: 15:15:6:4. Liều lượng và số lần bón trong năm như bảng dưới.
Liều lượng và số lần bón phân theo tuổi cây
- Cây từ 1 – 3 năm tuổi: 0,5kg – 0,6kg Urea Malaysia + 0,6kg – 1kg DAP Plus Humic + TE + 0,2kg – 0,3kg Kali Potash Plus.
- Cây từ 4 – 6 năm tuổi: 1kg – 1,3kg Urea Malaysia + 1,3kg – 1,7kg DAP Plus Humic + TE + 0,7kg – 0,8kg Kali Potash Plus.
- Cây từ 7 – 9 năm tuổi: 1kg – 1,2kg Urea Malaysia + 1,7kg – 2kg DAP Plus Humic + TE + 0,7kg – 0,8kg Kali Potash Plus.
- Cây trên 10 năm tuổi: 1kg – 1,5kg Urea Malaysia + 1,7kg – 2kg DAP Plus Humic + TE + 0,7kg – 0,8kg Kali Potash Plus.
– Giai đoạn cho quả ổn định: Đối với cây có đường kính tán 5 – 6 m đang phát triển bình thường có thể bón như sau:
+ Lần 1: Ngay sau khi thu hoạch xong cần tiến hành tỉa cành, bón phân hữu cơ hoai mục 20 – 30kg/cây kết hợp với phân vô cơ có hàm lượng đạm cao theo công thức N:P:K:Mg (18:11:5:3) với liều lượng 2 – 3kg/cây.
+ Lần 2: Trước ra hoa 30 – 40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao theo công thức N:P:K:Mg (10:50:17:2) với liều lượng 2 – 3kg/cây để giúp quá trình ra hoa dễ dàng.
+ Lần 3: Khi quả sầu riêng lớn bằng quả chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao theo công thức N:P:K:Mg (12:12:17:2) với liều lượng 2 – 3kg/cây.
+ Lần 4: Trước khi quả chín 1 tháng bón 2 – 3 kg phân như NPK (16-16-8) kết hợp với 1 – 1,5kg phân K2SO4 để tăng chất lượng quả.
Có thể sử dụng phân bón Komix chuyên dùng cho cây sầu riêng để bón cho cây với liều lượng như sau :
– Giai đoạn cây con và lúc bắt đầu cho quả: đầu mùa mưa mỗi gốc bón 3- 4 kg phân Lân hữu cơ vi sinh Komix và 20 kg phân Komix chuyên dùng cho Sầu Riêng, với lượng phân chuyên dùng này ta có thể chia làm 4 lần bón trong năm.
– Giai đoạn cây cho quả ổn định: bón hoàn toàn bằng phân Komix chuyên dùng cho sầu riêng, với liều lượng như sau:
+ Sau thu hoạch bón: 5 – 10kg phân Lân hữu cơ vi sinh Komix + 10kg phân chuyên dùng.
+ Trước khi cây ra hoa: bón 10 kg phân Komix chuyên dùng cho cây sầu riêng.
+ Khi quả sầu riêng to bằng quả chôm chôm: bón 10 kg phân Komix chuyên dùng cho cây.
3. Chuẩn bị trước khi bón
3.1. Chuẩn bị phân bón
– Chuẩn bị phân bón chứa đạm: Phân Urea Malaysia (46%) hoặc Sunphat đạm (phân SA: SA Nhật, SA Thái) chứa 20 – 21% nitơ (N)
– Chuẩn bị phân bón chứa lân: DAP Plus Humic + TE hoặc DAP Korea, chứa từ 16% – 18% P2O5 hữu hiệu.
– Chuẩn bị phân bón chứa kali: Kali Israel chứa 61% (K2O).
– Chuẩn bị phân hữu cơ: Phân bò, phân gà, phân heo (lợn), phân hữu cơ vi sinh, phân dơi, phân cá …
3.2. Chuẩn bị dụng cụ để bón phân
– Chuẩn bị dụng cụ, trang thiết bị để bón phân: Cân trọng lượng, xô, chậu, thúng, túi nilon, máy bón phân…
4. Kỹ thuật bón phân cho sầu riêng
4.1. Bón phân giai đoạn kiến thiết cơ bản
Bước 1. Xác định thời điểm bón phân
Căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng của giai đoạn kiến thiết cơ bản để xác định thời điểm bón phân cho phù hợp:
Lượng NPK hoặc hỗn hợp phân được chia đều và bón nhiều lần trong năm (4 – 6 lần). Nếu có điều kiện nên bón hàng tháng sẽ cho kết quả tốt hơn. Có thể sử dụng thêm phân bón lá nếu cây phát triển kém, chú ý phun ở mặt dưới lá.
Phân hữu cơ và vôi: Bón 1 lần vào đầu mùa mưa.
Phân vi lượng: Phun 2 lần trong năm.
Bước 2. Xác định cách bón phân
Bón gốc
– Phân hữu cơ: Bón vào hố trước khi trồng hoặc rải quanh bồn ở phía ngoài rìa tán lá, xới nhẹ và đều.
– Phân vô cơ: Bón tập trung ở tầng đất mặt (cây sầu riêng có bộ rễ ăn nông chỉ từ 0 – 30 cm). Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản bộ rễ cây sầu riêng chưa phát triển mạnh nên bón quanh và cách gốc 20 cm tùy theo độ lớn của cây. Tủ lên một lớp đất mỏng và dùng lá cây, cỏ, tủ lên trên.
Phun trên lá
Thường áp dụng đối với các loại phân vi lượng như Supper Zinc K. Cần lưu ý sử dụng đúng nồng độ như khuyến cáo để tránh gây cháy lá hoặc ngộ độc. Để tăng hiệu quả của phân bón lá nên phun vào buổi sáng và phun mặt dưới của lá.
Bước 3. Tiến hành bón phân cho sầu riêng
– Bón lót: Trộn phân hữu cơ hoặc phân chuồng và vôi đều với đất vào hố/gốc và lấp hố trước khi trồng 15 – 30 ngày.
– Bón thúc: Xới nhẹ đất trong tán, rải đều phân và phủ một lớp đất mỏng lên trên.
Bước 4. Tưới nước sau mỗi lần bón phân
Tưới nước đủ ẩm sau khi bón phân để phân hòa tan cho cây trồng dễ hấp thu nhưng không được tưới quá nhiều sẽ trôi mất phân.
Có thể kết hợp với các biện pháp tủ đất vừa giúp giữ ẩm vừa giảm lượng phân bay hơi.
4.2. Bón phân giai đoạn kinh doanh
Bước 1. Xác định thời điểm bón phân
Căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng của giai đoạn kinh doanh để xác định thời điểm bón phân cho phù hợp:
Lần 1: Ngay sau khi thu hoạch xong cần tiến hành tỉa cành, bón phân gà hoai mục 20 – 30 kg/cây (hoặc phân Humix, Dynamic lifter theo liều lượng khuyến cáo) kết hợp với phân vô cơ có hàm lượng đạm cao theo công thức N: P: K: Mg (18:11: 5: 3 hoặc 15:15: 6: 4) với liều lượng 2 – 3 kg/cây.
Lần 2: Trước ra hoa 30 – 40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao theo công thức N: P: K (10:50:17) với liều lượng 2 – 3kg/cây để giúp quá trình ra hoa dễ dàng.
Lần 3: Khi quả sầu riêng to bằng quả chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao theo công thức N: P: K: Mg (12:12:17:2) với liều lượng 2 – 3 kg/cây.
Lần 4: Trước khi quả chín 01 tháng bón 2 – 3 kg phân NPK như NPK (16:16:8) kết hợp với 1 – 1,5 kg phân KNO3 để tăng chất lượng quả.
Nên chú ý, đây là lần bón phân thứ 4 sau khi thu hoạch vụ trước và cũng là lần bón phân cuối cùng của vụ quả năm này, lần bón phân này không bón trễ hơn 1 tháng trước thu hoạch. Bởi vì bón như vậy, sẽ có nhiều nguy cơ làm giảm phẩm chất quả như cơm quả bị sượng, bị nhão.
Ngoài ra, còn có thể sử dụng phân bón lá có hàm lượng kali cao để góp phần nâng cao năng suất phẩm chất quả. Có thể phun phân bón lá làm 5 lần, mỗi lần cách nhau 1 tuần, bắt đầu từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 9 sau khi đậu quả.
Bước 2. Xác định cách bón phân
Bón gốc
– Phân hữu cơ: Bón rải quanh bồn
ở phía ngoài rìa tán lá, xới nhẹ và đều hoặc đào rãnh rộng 10 – 30 cm, sâu 10
– 20 cm xung quanh đường kính tán, bón xong lấp đất lại.
– Phân vô cơ: Bón giống như thời kỳ kiến thiết cơ bản (xới đất nhẹ, rải phân trong tán, cách gốc 20 cm, lấp đất nhẹ, tưới nước và tủ gốc).
Phun trên lá
Phun theo hướng dẫn trên bao bì theo giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây.
Bước 3. Tiến hành bón phân cho sầu riêng
– Bón lót: Trộn phân hữu cơ hoặc phân chuồng và vôi đều với đất vào rãnh rồi lấp đất lại.
– Bón thúc: Xới nhẹ đất trong tán, rải đều phân và phủ một lớp đất mỏng lên trên.
Bước 4. Tưới nước sau mỗi lần bón phân
Tưới nước đủ ẩm sau khi bón phân để phân hòa tan cho cây trồng dễ hấp thu nhưng không được tưới quá nhiều sẽ trôi mất phân. Có thể kết hợp với các biện pháp tủ đất vừa giúp giữ ẩm vừa giảm lượng phân bay hơi.
Ghi chú:
– Khi bón phân kết hợp tưới nước vừa đủ ẩm: Bón phân xong cần tưới nước ngay và tủ gốc lại giữ ẩm giúp phân tan và giữ trong đất để cây hút từ từ.
– Vào tháng 2 và 3 không nên bón phân vì thời tiết nóng, đất khô, thiếu nước nên hiệu quả phân bón thấp.
– Đối với vùng đất có pH thấp nên dùng DAP bón thay NPK loại 16:16:8.
– Làm sạch cỏ xung quanh gốc sầu riêng; xén và bứng rễ cây trồng xen tạm thời hay bằng cách xén rãnh xung quanh bồn để hạn chế sự cạnh tranh dinh dưỡng với cây sầu riêng.
– Hạn chế sự mất mát phân do bốc hơi, do nước chảy tràn bằng cách làm bồn, tủ gốc bằng lớp lá cây cỏ lên trên xung quanh gốc.
– Tránh bón phân lúc mưa to và lúc không có nước tưới.
– Làm bồn chỉ nên xới xáo vùng từ rìa tán lá ra phía ngoài, xới xáo nhẹ vùng bên trong tán lá vì xới xáo mạnh sẽ làm tổn thương rễ sầu riêng.
– Không sử dụng đơn độc phân vô cơ mà cần bón phân hữu cơ hàng năm.
5. Bón phân cho sầu riêng theo nguyên tắc 5 đúng
5.1. Bón đúng loại phân
– Cây sầu riêng yêu cầu phân gì thì bón phân đó. Phân bón có nhiều loại, nhưng có 3 loại chính là đạm – N, lân – P, kali – K. Lưu huỳnh (S) cũng rất cần nhưng với lượng ít hơn. Mỗi loại có chức năng riêng. Bón phân không đúng yêu cầu, không phát huy được hiệu quả còn gây hại cho cây.
– Bón đúng không những đáp ứng được yêu cầu của cây mà còn giữ được ổn định môi trường của đất.
Ở đất chua tuyệt đối không bón những loại phân có tính axit cao quá ngưỡng và trên nền đất kiềm không bón các loại phân có tính kiềm cao quá ngưỡng.
5.2. Bón đúng nhu cầu sinh lý của cây sầu riêng
– Nhu cầu dinh dưỡng của cây sầu riêng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển. Ở giai đoạn sinh trưởng cần đạm hơn kali; ở thời kỳ phát triển quả lại cần kali hơn đạm. Bón đúng loại phân mà cây cần mới phát huy hiệu quả.
– Trong suốt thời kỳ sống, cây sầu riêng luôn luôn có nhu cầu các chất dinh dưỡng cho sinh trưởng và phát triển, vì vậy khi bón phân nên chia ra bón nhiều lần theo quy trình và bón vào lúc cây phát triển mạnh, không bón một lúc quá nhiều. Việc bón quá nhiều phân một lúc sẽ gây ra thừa lãng phí, ô nhiễm môi trường, cây sử dụng không hết sẽ làm cho cây biến dạng dễ nhiễm bệnh, năng suất chất lượng nông sản thấp.
– Bón phân có 3 thời kỳ: bón lót trước khi trồng (hay bón hồi phục sau khi cây thu hoạch vụ trước), bón thúc (nhằm thúc đẩy quá trình sinh trưởng của cây, tạo chồi lá mới) và bón rước hoa, nuôi hoa, bón nuôi quả…
5.3. Bón đúng điều kiện đất đai
Bón phân là hình thức bổ sung vào đất chất dinh dưỡng cho cây sầu riêng. Ngoài ra, còn có các vi sinh vật đất phân hủy các chất hữu cơ sẵn có hoặc cố định N từ không khí vào đất, do vậy bón phân còn có tác dụng kích thích hoạt động của tập đoàn vi sinh vật đất. Nhờ đó cây được tăng cường cung cấp lượng các chất dinh dưỡng cân đối hơn. Bón phân không những cần cho cây sầu riêng mà còn giúp cho vi sinh vật đất phát triển hữu hiệu hơn.
5.4. Bón đúng lúc
Mùa vụ, nhiệt độ và thời tiết ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của phân bón. Mưa làm rửa trôi, trực di phân bón (phân chảy xuống tầng đất dưới), nắng khô làm phân bón khó tan và rất dễ bốc hơi, cây không còn nhiều dinh dưỡng để phát triển, đôi khi còn gây cháy lá, hư hoa, hư quả… Vì vậy, nên bón phân cho cây sầu riêng lúc sáng sớm, chiều mát tránh bón vào buổi trưa, ngày mưa lớn…
Bón đúng loại phân, bón đúng thời cơ, bón đúng đối tượng làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với hạn, thời tiết bất thường của môi trường và với sâu bệnh gây hại (ví dụ phân kali).
Bón phân không phải lúc nào cũng để cung cấp dinh dưỡng thúc đẩy cây sầu riêng phát triển mà còn có trường hợp phải dùng phân để tác động hãm bớt tốc độ sinh trưởng nhằm tăng tính chịu đựng của cây trước các yếu tố xấu phát sinh.
5.5. Bón đúng phương pháp
Có 2 loại phân bón: Phân bón gốc và phân bón lá. Tùy nhu cầu phát triển của mỗi giai đoạn mà có phương pháp bón thích hợp. Với phân bón gốc thì bón vào hố, rãnh theo vành tán lá hoặc rải đều trên mặt đất. Với phân bón lá thì phun đều trên lá, nếu ướt được cả 2 mặt lá thì càng tốt.
Nguồn : phân bón VINACAM
sưu Tầm và chỉnh sửa bởi Trùn quế Phước Hiệp
Th1005
ĐBSCL: Quy trình sản xuất phân hữu cơ từ rơm và ứng dụng vào thực tế
CẦN THƠ Ở ĐBSCL việc xử lý rơm rạ tại đồng ruộng bằng chế phẩm sinh học dùng làm phân bón hữu cơ đang mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tận dụng nguồn phế, phụ phẩm trong nông nghiệp
Mỗi năm vùng ĐBSCL sản xuất được khoảng 24 triệu tấn lúa thì cũng có chừng ấy tấn rơm rạ thải ra đồng ruộng. Tận dụng nguồn phế, phụ phẩm trong nông nghiệp làm phân hữu cơ vừa góp phần làm sạch đồng ruộng, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, vừa có nguồn phân hữu cơ bón cho đất. Đó là những lợi ích trước mắt và lâu dài cho nông dân khi thực hành nông nghiệp tuần hoàn, nguồn nguyên liệu này cần được xem là đầu vào quan trọng, kéo dài chuỗi giá trị gia tăng trong nông nghiệp.
Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt: Trong 3 năm gần đây theo tổng kết của Cục Trồng trọt, nếu để lại toàn bộ rơm rạ trên ruộng, kết hợp với mật độ sạ thưa, chúng ta có thể giảm 50% lượng phân bón hoặc 50% thuốc BVTV. Thậm chí nhiều hộ không phải phun thuốc BVTV vì không còn sâu bệnh trên đồng ruộng. Mô hình này đã áp dụng ở An Giang với diện tích 50 ha, Thái Nguyên 140 ha, Thanh Hóa hơn 100 ha và được đông đảo người dân ủng hộ, đánh giá cao.
Tại một số địa phương, mô hình xử lý rơm rạ tại đồng ruộng bằng chế phẩm sinh học để dùng làm phân bón hữu cơ thay vì mua phân NPK. Người dân giữ lại rơm rạ không đốt, dùng sản phẩm sinh học xử lý, thậm chí không cần thời gian cách ly mà vẫn ngăn chặn được hiện tượng ngộ độc hữu cơ do rơm rạ gây ra, giảm được lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật cho cây lúa.
Hiện có một số nghiên cứu chưa được công bố như tận dụng trái cây thải loại làm phân bón. Một số tỉnh có cửa khẩu như An Giang có số lượng xoài thải loại rất lớn tại các chợ cửa khẩu, gây ô nhiễm môi trường đang được nghiên cứu, chế biến thành phân bón phục vụ cho chính địa phương. Tuy nhiên, chi phí để xử lý các phế phụ phẩm trong nông nghiệp hiện nay vẫn còn lớn so với thu nhập của nông dân, dẫn tới thực trạng mất đi lượng hữu cơ và dinh dưỡng cây trồng khổng lồ. Từ đó gây ô nhiễm nguồn nước và không khí, còn đất trồng ngày càng bị thiếu hụt hữu cơ, thoái hóa trầm trọng.
Tập huấn quy trình sản xuất phân hữu cơ từ rơm
Tại phường Tân Hưng, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ, Chi cục Trồng trọt và BVTV TP Cần Thơ vừa phối hợp với các đơn vị hữu quan tổ chức tập huấn quy trình sản xuất phân hữu cơ từ rơm.
Bà Phạm Thị Minh Hiếu, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV TP Cần Thơ cho biết: Rơm rạ của bà con nông dân được gom từ đồng ruộng, hoặc phụ phẩm rơm rạ (sau khi trồng nấm) đều có thể tận dụng làm phân hữu cơ. Tại buổi tập huấn, bà con nông dân được các giảng viên đến từ Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế IRRI, Trường Đại học nông Lâm TP. HCM và Trường Đại học Tiền Giang hướng dẫn quy trình thực hiện ủ phân hữu cơ từ rơm cùng với phân bò và hướng dẫn sử dụng máy đảo trộn luống ủ.
Nói về cách ủ phân hữu cơ bà Phạm Thị Minh Hiếu đưa ra kỹ thuật cụ thể đề hướng dẫn bà con nông dân ủ phân để làm phân hữu cơ phục vụ lại cho cây trồng. Trước nhất việc phối hợp ủ phân rơm và phân bò, tỷ lệ tương ứng giữa 2 loại nguyên liệu này là 6/4, tuy nhiên còn phụ thuộc vào ẩm độ nguyên liệu.
Trong thực tế, luống ủ có thể thêm đất (giàu N), khi đó thành phân trong luống ủ gồm 60% rơm, 30% phân bò, 10% đất, được tính với cùng ẩm độ. Kích thước mặt cắt luống ủ phụ thuộc vào kích thước và năng suất của máy trộn. Đối với máy trộn liên hợp với máy kéo 30 – 35 HP, mặt cắt luống ủ với bề rộng chân luống 1,2 m, chiều cao 0,7m. Đối với rơm sau trồng nấm (50 – 60%) và phân bò (60 – 70%), tỷ lệ phối trộn tương ứng là 1,2:1, với C/N = 26,1.
Trong trường hợp sử dụng rơm khô 14% và phân bò khô 30% thì tỷ lệ tương ứng là 1:1, với C/N = 29.4. Trường hợp ủ rơm sau trồng nấm với ẩm độ 60 – 70 % và phân bò khô 10% thì tỷ lệ phối trộn theo khối lượng tương ứng là 5,6:1. Lượng men vi sinh là 5 lít, được hòa trộn với nước và phun vào luống ủ.
Do nguyên liệu rơm với ẩm độ cao hơn yêu cầu nên không phun thêm nước quá trình đảo trộn. Còn đối với trường hợp nguyên liệu là rơm khô và đất ruộng với tỷ lệ 7:3, quy về cùng ẩm độ 30%, 0,5% URE, 1% P, 0,3% K và 0,2% mật rỉ đường, 1% men vi sinh dạng nước và 1% men vi sinh dạng bột.
Sau khi làm mát, khoảng 45 ngày sau đảo trộn lần đầu, thành phẩm là phân hữu cơ sẵn sàng cho sử dụng. Sản phẩm với ẩm độ 30 – 40%, có thể được phân loại qua sàng tạp chất lớn. Phân hữu cơ trong giai đoạn thông thoáng và làm mát. Sản phẩm phân hữu cơ từ rơm chất lượng thành phẩm phân hữu cơ được đánh giá qua các chỉ tiêu về các thành phần C, N, P, K, tỷ lệ C/N, độ pH, độ ẩm.
Từ các kết quả thí nghiệm đối với nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau, tỷ lệ C/N của thành phẩm 13 – 14.5, độ pH: 6.8 – 7.2, độ ẩm 35 – 40%, sau đó được trải đều trong nhà để giảm ẩm độ đến 30% trước khi phối trộn làm giá thể hoặc phơi nắng đến ẩm độ 14% trước khi qua quá trình ép viên nén.
Th1004
Kỹ thuật trồng dưa hấu cho năng suất cao
Dưa hấu là một loại quả được rất nhiều người ưa chuộng bởi tính hàn có thể dùng làm thức ăn giải nhiệt trong những ngày hè nóng nực. Với kỹ thuật trồng cây dưa hấu đúng cách, mọi người có thể dễ dàng cung cấp cho gia đình những quả dưa hấu đỏ mọng nước.
Kỹ thuật trồng cây dưa hấu không phải ai cũng biết, ngoài cách trồng tỉ mỉ ra thì phải chăm chút hết sức kĩ càng. Dưa hấu có nguồn gốc vùng khí hậu nóng, thích khí hậu ấm áp, khô ráo, đầy đủ ánh nắng giúp trổ nhiều bông cái và cho trái chín sớm, năng suất cao.
Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng 25-30 độ C nên rất dễ trồng trong mùa nắng ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhiệt độ thích hợp cho hoa nở và thụ phấn là 25 độ C, nhiệt độ thích hợp cho trái lớn và chín 30 độ C.
Đất đai
Dưa hấu có rễ mọc sâu, chịu úng kém, chịu hạn khá nhất là khi cây đã trổ bông, đậu trái. Cây không yêu cầu đất nghiêm khắc, cần chọn đất thoát nước tốt, cơ cấu nhẹ, tầng canh tác sâu, không quá phèn.
Các vùng đất cát gần biển, đất phù sa ven sông lý tưởng để trồng dưa hấu, chỉ cần chú ý tưới nước và bón phân. Đất cát pha tơi xốp, nhiệt độ đất dễ tăng cao, thóat nước nhanh có lợi cho bộ rễ phát triển, chất lượng dưa tốt, chăm sóc đỡ tốn kém.
Chọn đất trồng là một khâu quan trọng trong kỹ thuật trồng cây dưa hấu
Dưa hấu không nên liên canh, dễ thất bại vì cây bị bệnh nhiều như bệnh chạy dây, nứt thân, thời gian cách ly trồng dưa hấu càng lâu càng tốt. Đât trồng dưa nên cao, thóang không bị bóng râm che, không bị gió bão, chịu được pH hơi phèn trong phạm vi pH 5-7, để hạn chế bệnh nứt thân nên trồng ở pH 6-7 và nhiệt độ trên 26 độ C.
Đất trồng dưa hấu trước đó phải được luân canh ít nhất là 3 vụ với lúa nước hoặc bắp… (không luân canh với cây họ bầu, bí như: dưa hấu, dưa leo, khổ qua, bí rợ, bí đao…). Trồng trong mùa mưa nên chọn đất cao, thoát nước tốt.
Trồng dưa hấu có trải bạt (plastic): Đất phải cày bừa tơi xốp, bón vôi 100% cả vụ vào 10 ngày trước khi bón lót. Dùng trâu hoặc bò cày một đường cày rải phân lót (100% phân chuồng hoặc dùng kén trùn quế rải một lớp dày khoảng 2 phân xuống đường rãnh, 40-50% lượng phân hóa học cho cả vụ) sau đó cày ba đường cày lấp phân ngược chiều nhau, dùng cuốc sửa luống, mương nước cho ngay thẳng.
Thường luống có chiều cao 40 cm, chiều ngang 1 m, đường mương rộng 40 cm. Kế tiếp trải bạt lên mặt luống dùng đất hoặc thẻ tre mỏng dằn bạt cho cố định để phòng gió làm bay rách bạt, dẫn nước vào mương dễ cân mực nước.
Trồng dưa hấu bằng bạt nhựa là phương pháp tốt nhất
Dùng một cây đục lỗ vải bạt đường kính khoảng 7 cm, cán dài 70 cm đục dọc theo mé mương nước theo khoảng cách định trước, chiều cao các lỗ đục bằng nhau. Trồng cây ở vị trí này. Nếu bố trí trồng với khoảng cách hàng đôi cách hàng đôi 4,5 – 5m thì yêu cầu cần khoảng 1 cuộn bạt/1000m2.
Vải bạt (plastic) là một loại nhựa dẻo, mỏng, một mặt có màu đen và mặt bên kia có màu trắng, tráng bạc, có chiều ngang là 0.9 m, chiều dài 400 m cuốn tròn thành một cuộn nặng khoảng 8,5 – 9 kg.
Lợi ích của việc sử dụng bạt nhựa: Tạo nhiều ánh sáng (mặt tráng bạc phản chiếu ánh sáng mặt trời) giúp cây quang hợp thuận lợi, kích thích cây phát triển mạnh. Hạn chế được côn trùng phá hại như bọ trĩ (Thrips), sâu xanh, sâu đất…
Ngoài ra, việc này sẽ hạn chế được bệnh do tạo được môi trường thông thoáng, sạch sẽ, trong mùa mưa không bị đất cát dính lá làm lây lan mầm nấm bệnh. Hạn chế được cỏ dại, hạn chế được công lao động tưới nước, dễ quản lý đồng ruộng, sử dụng ít công lao động, có thể trồng trên diện tích lớn mà vẫn cho năng suất cao hơn trồng trên đất không có trải bạt.
Ngâm ủ hạt giống
Tùy theo giống, lượng hạt giống cần gieo trồng từ 35-45 gram/1000m2. Ngâm lô hạt trong dung dịch thuốc Benlate C hoặc Funomyl. Pha thuốc trong nước theo tỷ lệ 1/1000, thời gian từ 15-30 phút.
Quy trình ngâm hạt giống
Vớt hạt, rửa sạch ngâm trong nước từ 4 – 5 giờ. Vớt hạt rửa sạch nhớt, để thật ráo nước. Đổ hạt vào khăn ẩm, sạch (đã vắt kiệt nước), gói lại, cho vào bao nylon (polyethylene) cột kín miệng, chống bốc thoát hơi nước.
Ủ hạt ở nhiệt độ thích hợp nhất 30 độ C, nếu mùa lạnh hoặc trời mưa nên cung cấp thêm nhiệt bằng cách đốt đèn. Thời gian bắt đầu nảy mầm là từ 32 – 40 giờ sau khi ngâm hạt giống. Chọn những hạt bắt đầu nẩy mầm đem gieo ngay, những hạt chưa nẩy mầm ủ lại, gieo tiếp ở lần sau.
Gieo hạt
Có 2 cách gieo:
Gieo vào bầu: Làm bầu đơn giản bằng lá chuối hoặc bao nylon có đường kính 4 -5 cm, chiều cao 8 cm. Đất vô bầu được trộn đều giữa: đất mặt – tro trấu – phân chuồng hoai mục hoặc kén trùn quế – lân (super lân) theo tỷ lệ 3-1-1-0,5% và trộn thêm Furadan hạt, Funomyl hoặc Thane M 80WP để phòng ngừa sâu bệnh
Đất bầu không để bị nén chặt, úng nước và tránh đặt bầu cây con nơi râm mát làm cây mọc vươn cao và ốm yếu. Vào mùa mưa nên làm mái che cây con để phòng mưa lớn làm hư hại, sau khi mưa nên cuốn mái che ngay để cây con đủ ánh sáng.
Gieo thẳng: Gieo hạt trực tiếp lên líp trồng có ưu điểm là tiết kiệm công lao động, cây phát triển mạnh hơn trồng bầu cây con. Tuy nhiên, mặt đất nơi gieo cần phải bằng phẳng, tơi xốp và luôn luôn đủ ẩm để hạt mầm dễ phát triển, phòng trừ sâu bệnh tốt để bảo vệ cây con ngoài đồng.
Bón phân
Lượng phân bón nhiều hay ít tuỳ thuộc độ màu mỡ của đất. Đất bạc màu, đất cát cần bón nhiều phân hơn đất thịt và đất sét. Liều lượng phân bón chung: Phân chuồng hoai hoặc kén trùn quế tỉ lệ 1kg cho 3, 5 – 4m2 Vôi bột (quét tường hoặc vôi nung từ vỏ sò): 1.000 kg/ha. Phân bón NPK Better 16-16-16+TE: 800 – 1000 kg/ha.
Tưới nước
Trồng thông thường có thể dùng phương pháp tưới phun hay tưới thấm tùy điều kiện tưới tiêu từng vùng. Trồng dưa có trải bạt phải áp dụng phương pháp tưới thấm bằng cách bơm hoặc tháo nước vào mương, sau đó rút cạn nước trong mương trong ngày. Lượng nước tưới và số lần tưới tùy theo điều kiện trồng và giai đoạn tăng trưởng của cây.
Dưa hấu cũng như bất cứ loại cây nào khác cũng rất cần chăm sóc, tưới nước, bón phân đầy đủ
Thụ phấn
Thụ phấn nhân tạo là biện pháp kỹ thuật cần thiết trong sản xuất dưa để dễ chăm sóc, bón thúc nuôi trái, trái lớn đều, chín và thu hoạch cùng lúc. Thụ phấn vào buổi sáng từ 7-9 giờ lúc dây dưa dài khoảng 1,5m và ra hoa rộ (25-30 ngày sau khi trồng). Ngắt hoa đực bất kỳ, hoa vừa nở, to và có nhiều phấn; chấm phấn đều lên hoa cái vừa nở.
Thu hoạch
Ngày thu hoạch tùy thuộc vào đặc tính giống, thời tiết… Thông thường ở miền Nam, khoảng 25-30 ngày sau khi thụ phấn bổ sung là dưa hấu đã chín. Để cho chất lượng trái đảm bảo ngon ngọt, trước khi thu hoạch 7-10 ngày cần phải giảm, cắt nước tùy theo vùng đất. Sau đó cắt, vận chuyển nhẹ nhàng, bảo quản nơi thoáng mát.
Nguồn: Phân bón Hiếu Giang
Th1004
Vườn trái cây ‘khó tính’ nơi vùng ven
Yêu thích nông sản sạch và đam mê trải nghiệm các mô hình sinh thái vườn, anh Hồ Quốc Trạng (Ấp 6, xã Tân Thành, TP Cà Mau) đã mang những loài cây “khó tính” bén rễ trên vùng đất ngập phèn. Hứa hẹn sau khi hoàn thiện, nông trại nhỏ xinh này sẽ là một địa điểm check in hấp dẫn ở vùng ngoại ô thành phố.
Táo bạo chuyển đổi hơn 7.000 m2 vườn tạp sang đầu tư nông trại nhà lưới trồng nông sản sạch, tất bật hàng ngày chăm sóc 50 gốc táo Thái, 150 gốc nho và gần 1.000 dây dưa lưới cho mùa Tết năm nay – tất cả cho thấy tâm huyết cùng công sức bỏ ra của chàng nông dân trẻ trên chính mảnh đất quê nhà.
Trong các loại cây tại vườn, táo Thái là cây dễ thích nghi nhất, sau 4 vụ thu hoạch, trung bình mỗi cây cho năng suất từ 6-7 kg, bán ra thị trường với giá từ 30.000-40.000 đồng/kg.
Bắt đầu thực hiện ý tưởng từ khoảng thời gian dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp (đầu năm 2021), nhận thấy mảnh đất sau nhà bấy lâu nay trồng các loại cây lâu năm không hiệu quả, anh Trạng mạnh dạn cho san lấp, đầu tư 2 nhà lưới để thực hiện dự án dưa lưới. Với số vốn đầu tư ban đầu cho 2 nhà lưới khoảng 250 triệu đồng, anh được Phòng Kinh tế thành phố hỗ trợ 30% chi phí đầu tư. Có được bệ đỡ, anh tiếp tục tìm tòi trên các trang mạng xã hội, các cơ sở cung cấp giống tại Cần Thơ để mua các loại giống: táo Thái, nho kẹo, nho Pháp, nho ngón tay về trồng.
Anh Trạng cho biết: “Các loại cây trồng tại đây chủ yếu được tôi sử dụng chế phẩm sinh học, phân bón hữu cơ để chăm sóc nên chi phí khá cao. Kinh nghiệm chăm sóc, đa phần tôi tìm tòi trên các trang mạng, chủ động liên hệ đến các nhà vườn có kinh nghiệm để học hỏi, cũng như nhờ họ tư vấn cách xử lý, phòng trừ các loại sâu bệnh trên cây”.
Ðể chủ động nguồn nước tưới tiêu, anh Trạng đầu tư hẳn ao chứa nước mưa để tưới cây, hệ thống tưới nước cũng được thiết kế vòi phun tự động tuỳ theo đặc tính mỗi loại cây để gia giảm lượng nước tưới.
Ðến nay, sau gần 2 năm gầy dựng nông trại sạch cho riêng mình, sau 4 vụ thu hoạch táo, 1 vụ thu hoạch nho và 2 vụ dưa lưới cho thấy hiệu quả kinh tế rất khả quan. Ðặc biệt là vườn dưa lưới trĩu quả được anh cẩn thận chăm sóc, cùng các hạng mục đang dần hoàn thiện, dự kiến sẽ mở cửa đón khách tham quan vào dịp Tết Nguyên đán sắp tới.
“Sắp tới đây tôi sẽ đầu tư thêm vườn rau thuỷ canh, kết hợp làm thêm các khu ăn uống, ao cá để du khách đến tham quan, trải nghiệm. Tôi mong muốn nơi đây không chỉ là điểm đến cây nhà lá vườn mà còn hướng khách tham quan tiếp cận và trải nghiệm nông nghiệp sạch. Chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức về các loài cây để nhân rộng mô hình, tạo điểm nhấn cho địa phương, góp phần thực hiện các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới nâng cao. Nhưng muốn thực hiện được, tôi mong sẽ nhận được sự hỗ trợ về vốn”, anh Trạng chia sẻ dự định.
Ông Trần Quốc Tộc, Phó bí thư Ðảng uỷ xã Tân Thành, thông tin, mô hình của anh Hồ Quốc Trạng cũng là mô hình thí điểm đầu tiên của xã, sau 2 vụ thu hoạch mang lại kết quả rất khả quan khi người trồng chủ động được thời tiết, năng suất cao, ít can thiệp các loại thuốc bảo vệ thực vật, diện tích sử dụng đất ít mà chất lượng nông nghiệp được nâng cao. Việc phát triển du lịch vườn hoàn toàn phù hợp với định hướng của địa phương, người dân cũng có một địa điểm để vui chơi vào các dịp cuối tuần. Trước đây, Quỹ Hỗ trợ nông dân của Hội Nông dân tỉnh đã hỗ trợ tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp của xã 800 triệu đồng. Tuy nhiên, để đầu tư sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao cần có nguồn chi phí lớn, khiến người dân ngần ngại. Chúng tôi mong muốn sẽ có nguồn vốn lãi suất thấp để ưu tiên sản xuất nông nghiệp thì người dân sẽ đồng tình rất cao./.
Nguồn tin: Hữu Nghĩa – Báo Cà Mau
Th930
Kỹ thuật trồng cây thanh long nhanh ra nhiều quả chất lượng cao
Cây thanh long có tên tiếng Anh là Hylocereus megalanthus. Là một loài cây được trồng chủ yếu để lấy quả, là loài thực vật họ xương rồng có nguồn gốc từ Mexico. Hiện nay, loài cây này cũng được trồng ở các nước trong khu vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.
Kỹ thuật trồng cây thanh long cho nhanh ra quả và chất lượng tuyệt hảo mà các chuyên gia nông nghiệp mới tiết lộ.
Chuẩn bị đất trồng cây
Hầu hết các loại đất đều được khai thác trồng thanh long như đất rừng, đất thổ cư, các khu vườn tạp … Phần lớn là đất xám bạc màu, công việc chuẩn bị đất tương đối đơn giản chỉ cần cắm cọc, đào lỗ xuống trụ. Sau khi chôn xong trụ thì đào âm quanh trụ sâu độ 10 – 20 cm, đường kính 1,5 m, bón lót phân chuồng rồi phủ lớp đất mặt lên sau đó đặt hom.
Đất cần phải được cày bừa kỹ trong mùa nắng, phơi đất, trừ cỏ dại. Nên trồng thanh long ở mật độ từ 700 – 1.000 trụ/ha ứng với khoảng cách khoảng 3 m x 3 m.
Kỹ thuật trồng cây thanh long phát triển tốt nhất. Ảnh minh họa
Chuẩn bị cây trụ
Đặc điểm của cây thanh long là bám vào cây trụ nên chi phí về cây trụ khá cao trong đầu tư. Loại gỗ được chọn thường là loại gỗ tết, chịu được nắng mưa, lâu mục như căm xe Xylia dolabriformis Benth, cẩm Liên Xylia xylocarter Taub … Hiện nay đa phần bà con nông dân dùng trụ bê tông thay thế gỗ.
Cây trụ thường được chọn có đường kính trên 25 cm, dài 2,5 – 2,7 m, sau khi chôn còn cao khoảng 2,0 m.
Việc trồng cây trụ cần tiến hành sớm, có thể trước thời vụ trồng một tháng. Sau khi lấp đất cây trụ phải thẳng đứng, không lệch ngọn. Trên đầu mỗi trụ người ta đóng một cái khung bằng gỗ, một thanh ngang hay một vòng tròn cho thanh long dễ bám.
Chuẩn bị hom giống thanh long
Thanh long có thể trồng bằng hạt nhưng chủ yếu trồng bằng hom. Để chọn hom có chất lượng tốt nhất cần phải lựa chọn tuổi cành trung bình từ l – 2 năm tuổi trở lên. Chiều dài hom tốt nhất từ 50 – 70cm. Hom mập, có màu xanh đậm. Hom không có khuyết tật, sâu bệnh. Các mắt mang chùm gai mẩy, khả năng nẩy chồi tốt.
Sau khi chọn hom xong, hom được dựng nơi thoáng mát, trên nền đất khô ráo, trong vòng 10 – 15 ngày hom bắt đầu nhú rễ thì đem trồng.
Thời vụ trồng cây thanh long
Thanh long thường được trồng vào tháng 10 – 11 dương lịch, hoặc tháng 4 – 5
Bón lót và đặt hom cây
Trước khi đặt hom cần làm âm xuống một khoảng quanh trụ có cạnh độ l,0 – l,5m, sâu 20 – 30 cm, rồi bón lót độ 3-5kg phân Hữu cơ vi sinh hoặc 2 – 3kg kén trùn quế + 0,5 kg Super lân và phải lên mô trước khi trồng, xới đất và rải phân quanh mô. Một số nơi bà con dùng 1 bao đất sạch 20dm3 trộn 3kg phân hữu cơ sinh học HG01 cho hiệu quả rất cao.
Đặt từ 3 – 4 hom quanh cây trụ khoảng 5 cm để tránh thối gốc do đất ẩm. Đặt áp phần phẳng của hom vào mé trụ để sau này hom ra rễ và bám nhanh vào trụ.
Bón phân thúc hàng năm
Mỗi năm bón 3 đợt phân NPK, khoảng cách các đợt như nhau.
Riêng phân hữu cơ thì chỉ cần bón 1 lần sau tỉa cành vào tháng 11, và đây là loại phân quan trọng nhất là đối với các loại đất thiếu chất hữu cơ, giữ ẩm kém. Ở năm đầu phân hóa học được hòa vào nước và tưới hoặc phun lên cả thân cành để thúc cành mau leo lên đầu trụ. Các năm sau rải phân quanh gốc rồi tưới nhẹ cho phân hòa tan và ngấm xuống đất.
2 năm đầu, tổng lượng phân bón thúc thường được áp dụng là 100kg Better tím NPK 16-12-8-11+TE (hoặc sử dụng phân NPK 25-9-9+TE) /100 trụ/năm.
Cụ thể sau trồng 15 – 20 ngày thúc 1/3 lượng phân: tháng 3 hoặc tháng 4 năm sau thúc 1/3 lượng phân; tháng 6 – 7 thúc nốt 1/3 lượng phân còn lại, cuối năm thứ 1 bắt đầu có trái bói.
Ngoài ra cần bổ sung các phân vi lượng bằng cách phun hoặc tưới các chế phẩm như Đầu Trâu 001, 907 hoặc Better Kn3Bo hoặc dùng dịch trùn quế đậm đặc Phước Hiệp, pha tỉ lệ 1 lít cho 400 lít nước đổ gốc. Định kì 7 – 10 ngày đổ 1 lần
Năm thứ 3 trở đi cần chú trọng tới NPK có hàm lượng Kali cao để quả ngon ngọt và chắc. Lượng phân trung bình cho mỗi trụ như phân hữu cơ vi sinh Better 01 5-10 kg; Better xanh NPK 12-12-17-6+TE : 1,5 kg; và tưới thêm Better Kn3Bo mục đích tạo cho trái to, ngọt hoặc dùng dịch trùn quế đậm đặc Phước Hiệp, pha tỉ lệ 1 lít cho 400 lít nước đổ gốc. Định kì 7 – 10 ngày đổ 1 lần. Trường hợp cây nuôi nhiều trái, có thể kết hợp 1 tháng 1 lần, bón 2kg kén trùn quếcho 1 gốc
Lần 1: sau khi tỉa cành (tháng 10 – 11) gồm: phân hữu cơ vi sinh Better 03 hoặc kén trùn quế ( 1kg/1 gốc ) + 0.5kg/gốc Better xanh NPK 12-12-17+6TE
Lần 2: cách lần thứ l độ 40 ngày gồm 0.5 kg/gốc Better xanh NPK 12-12-17-6+TE.
Lần 3: vào tháng 3 gồm 0.5 kg/gốc Better xanh NPK 12-12-17-6+TE .
Ngoài ra, còn bổ sung các chất vi lượng bằng cách phun hoặc tưới ĐT 001, ĐT 907, Phân better KN3Bo hoặc ùng dịch trùn quế đậm đặc Phước Hiệp, pha tỉ lệ 1 lít cho 400 lít nước đổ gốc. Định kì 7 – 10 ngày đổ 1 lần.
Kỹ thuật chăm sóc thanh long
Mặc dù thanh long chịu hạn giỏi, nhưng nắng hạn kéo dài sẽ làm cây mất sức và làm giảm năng suất nhiều. Tùy theo ẩm độ đất mà tưới từ 3 – 7 ngày/lần.
Năm thứ 2 tỉa nhẹ khi cần để tạo tán hình cây dù. Tới cuối năm thứ 3 mỗi trụ có độ 100 cành, với lượng cành này phân bố trên đầu trụ dày đặc. Một số cành già đã cho trái trong những năm trước nếu giữ lại sẽ không cho trái hoặc cho trái nhỏ. Sự tỉa cành làm thông thoáng tán cây và giúp cây tập trung dinh dưỡng nuôi cành mới. Sau tỉa, cành non đâm ra mạnh hơn.
Cần áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp như cày bừa kỹ vào mùa nắng trước khi trồng, xen canh, dùng thuốc trừ cỏ kết hợp với làm cỏ thủ công sớm.
Tủ gốc vừa trừ cỏ vừa giữ ẩm, nhất là ở các vùng có mùa khô kéo dài và thiếu nước tưới. Dùng rơm, cỏ khô, xơ dừa … để tủ. Có thể tủ quanh gốc hay tủ toàn bộ liếp.
Nhìn chung thanh long tương đối ít bị sâu bệnh phá hoại như nhiều cây ăn quả khác.
Xử lý ra hoa thanh long
Hoa ra sớm hơn so với các liếp trồng thanh long khác trong vùng từ 1 – 1,5 tháng. Nguồn điện thắp sáng để kích thích hoa thanh long ra nhanh có thể sử dụng lưới điện quốc gia, hoặc máy phát điện riêng.
Loại bóng đèn và công suất dùng bóng đèn tròn 75W. Bóng được treo giữa 2 trụ làm thành hàng, cách mặt đất từ 0,7 m tới 1,2 m.
Thời gian thắp sáng: thời gian thắp đèn tốt nhất 4 giờ liên tục 10 – 15 đêm mới gây được cảm ứng ra hoa. Thắp đèn cho thanh long sẽ thu được tổng số 56 quả/trụ hay 26,3 kg/trụ/5 lần xử lý, bình quân chỉ đạt được 5,3 kg/trụ.
Kỹ thuật trồng cây thanh long cho năng suất chất lượng cao nhất. Ảnh minh họa
Sau 4 – 7 ngày sau ngưng thắp đèn, nụ hoa sẽ xuất hiện. Cần khoảng 20 – 21 ngày cho hoa phát triển, 3 ngày để nở và thụ quả trong vườn, sau đó cần từ 25 đến 28 ngày để quả phát triển.
Kỹ thuật thu hoạch
Sau khi quả thanh long chuyển màu từ xanh sang đỏ được độ 3 ngày thì dùng liềm hay dao để cắt. Khi cắt đi dọc theo hàng, lựa quả đúng tiêu chuẩn
Nguồn: Đức Mậu , Phân bón Hiếu Giang
Th929
Kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa cúc vạn thọ nở đúng dịp Tết
Kỹ thuật trồng cúc vạn thọ và cách chăm sóc cho hoa nở đúng dịp Tết Nguyên Đán là điều ai cũng mong muốn ở thời điểm hiện tại. Bởi cúc vạn thọ là loại hoa rất được ưa chuộng, được trồng phổ biến ở Việt Nam có tác dụng xua đuổi côn trùng có hại, dùng lá để chữa bệnh nấc cụt, dùng để trang trí sân vườn, làm cây cảnh, phục vụ cúng, lễ và và đặc biệt là để trưng bày trong dịp Tết Nguyên đán.
Kỹ thuật trồng cúc vạn thọ và cách chăm sóc cho hoa nở đúng dịp Tết không phải đơn giản mà yêu cầu phải khoa học từ khâu chọn giống cho đến bón phân.
Tuy nhiên để tạo ra một chậu cúc vạn thọ có hoa nở đúng dịp Tết Nguyên Đán thì đòi hỏi phải có kỹ thuật trồng và chăm sóc khoa học theo từng bước tham khảo dưới đây.
Kỹ thuật chọn giống và trồng cúc vạn thọ
Có thể trồng hoa cúc vạn thọ quanh năm, nhưng vụ chính là vào dịp Tết Nguyên đán. Trước tiên, để chọn giống tốt có thể chọn 2 giống chủ yếu là vạn thọ lùn và vạn thọ cao. Cúc vạn thọ lùn có thể trồng quanh năm, thích nghi rộng, cây cao 40-45cm, thời gian từ khi gieo hạt đến lúc nở hoa hoàn toàn là 60-65 ngày. Vạn thọ cao rất thích hợp trong Tết Nguyên đán, có thể trồng quanh năm, cây cao 65-70cm, thời gian từ lúc gieo đến nở hoa hoàn toàn là 65-70 ngày.
Trồng cúc vạn thọ đòi hỏi đất gieo hạt phải tơi xốp, nhuyễn thoát nước nhanh và để rễ phát triển tốt, đất phải sạch để tránh gây bệnh cho cây con. Hỗn hợp đất gồm 3 phần, tro trấu phải xả nước nhiều lần để giảm độ mặn, đất cát hoặc đất gò mối hay xơ dừa và phân chuồng ủ. Hỗn hợp trên trộn theo tỷ lệ 10:4:1. Nên dùng đất sạch dinh dưỡng better của cty Hiếu Giang theo hướng dẫn để đảm bảo tốt và không bị sâu bệnh.
Có thể dùng túi nilon, bằng lá chuối hay bầu giấy kích thước bầu 6cm x 8cm, bầu được đặt cách mặt đất 20-25cm. Giàn đỡ bầu phải có kẽ hở để thoát nước tốt. Sau khi chuẩn bị bầu xong, cho gieo hạt vào bầu và tưới nước cho ẩm, sau 3-5 ngày hạt sẽ nảy mầm hết, giai đoạn này cần che nắng cho cây con. Sau 5 ngày thì bắt đầu nhấc giàn che cho cây con phát triển, sáng nhấc giàn che ra đến 10h đậy lại. Sau 10 ngày thì nhấc giàn che hoàn toàn để cây phát triển tốt. Trong giai đoạn này chú ý khi tưới cần tưới nhẹ, hạt nước nhỏ tránh làm xay xát cây con.
Cách cấy cây cúc vạn thọ con ra giỏ
Sau 15-17 ngày sau gieo thì cấy cây con ra giỏ, đối với vạn thọ lùn thì giỏ trồng có đường kính 20-25 cm, vạn thọ cao thì giỏ trồng có đường kính 25-30cm, dùng túi nilon có đường kính thích hợp lót trong giỏ, chú ý là nhớ cắt đáy để thoát nước. Đất trồng trong giỏ được trộn như sau: 300kg đất cát pha thịt + 300 kg phân chuồng hoai nhuyễn + 10 kg bánh dầu xay nhuyễn, tỷ lệ trên dùng cho 1000 giỏ trồng, chú ý giỏ chỉ vô đất khoản ½ giỏ, phần còn lại khi bón thúc sẽ đầy.
Hoa cúc vạn thọ có màu sắc đẹp được nhiều người thích trồng.
Sau khi chuẩn bị giỏ trồng xong, tiến hành trồng cây con vào, chú ý chỉ lấp đất tới cặp lá mầm và trồng vào buổi chiều mát. Trong 3 ngày đầu chỉ tưới phun sương trước khi trời nắng gắt để cây chịu đựng tốt. Sau đó tưới mỗi ngày 3 lần vào sáng sớm (tưới nhiều), 10h sáng tưới lần 2 và 16h chiều tưới lần 3 (2 lần sau tưới ít, vừa đủ). Nếu gặp trời mưa hoặc thấy nhiều nước cần phải xới xáo cho đất trong giỏ thoáng và thoát nước nhanh.
Kỹ thuật chăm sóc cúc vạn thọ
Bánh dầu rất tốt cho hoa vạn thọ nên được sử dụng trong suốt quá trình sinh trưởng của cây, dùng 1 thùng nước 50 lít ngâm với 10 kg bánh dầu (nên ngâm sớm trước lúc gieo trồng 10 ngày để phân hủy bánh dầu tốt).
10 ngày sau gieo nên tưới phân lần đầu, nồng độ tưới thấp hơn bình thường, pha 400 lít nước với 5 lít nước bánh dầu và 200 gram phân NPK better tím 16.12.8+11TE tưới cho 1.000 giỏ, sau đó cứ 10 ngày thì tưới phân 1 lần, những lần sau tăng lượng nước bánh dầu lên 6 lít.
Để hoa cúc vạn thọ luôn nở đẹp, bền thì cần chú ý tới khâu bón phân.
Bón thúc 10 ngày sau khi trồng ra giỏ bón thúc lần đầu tỷ lệ bón như sau: 100kg hữu cơ trùn quế hoặc 100kg tro trấu + 100kg phân chuồng khô hoai +10 kg bánh dầu nhuyễn, sau đó cứ 7 ngày bón 1 lần, tổng cộng bón 4 lần cho vạn thọ đến ngày nở hoa, ở lần bón 2,3 thì tăng lượng bánh dầu lên 11-12kg. Lần 4 thì bằng lần đầu.
Cơi ngọn
Khi cây được 35 ngày tuổi đã có 6-7 cặp lá, đồng thời các chồi nách ở lá 1,2,3 cũng vươn lên theo. Nên bấm đọt vào giai đoạn này để cây không vượt quá mức và giúp các chồi nách phát triển để tạo bông sau này sẽ đều mặt và đẹp, chỉ nên chừa 5-6 cặp chồi nách sẽ tốt hơn. (Lưu ý là đối với vạn thọ cao bấm đọt trễ nhất là 5/12 âm lịch và vạn thọ lùn là 10/12 âm lịch).
Khi cây được 45 ngày tuổi thì tất cả các ngọn đã có nụ, hãy tỉa bỏ tất cả các chồi nhỏ trong các nhánh chỉ chừa 1 bông chính thì hoa mới lớn và đẹp. Ở giai đoạn hoa bắt đầu nở thì lượng phân bón và thuốc giảm tránh để lạm phân và thuốc làm cho cây chết héo, hoa nở không lớn và không vun tròn.
Kỹ thuật xử lý để cúc vạn thọ ra hoa đúng dịp Tết Nguyên Đán
Nếu hoa có khả năng nở sớm hơn dự định, cần hãm tốc độ nở hoa bằng cách tưới thêm phân urê theo tỷ lệ 10gram/ 10 lít nước để tưới, tưới ngày 2 lần (sáng, chiều) để kéo dài thời gian sinh trưởng của cây, công việc này thực hiện lúc cây 50 ngày tuổi.
Nếu thấy hoa có khả năng nở muộn hơn dự định thì có thể xử lý bằng cách ngưng tưới nước 1-2 ngày để cây có triệu chứng thiếu nước nặng, khi lá vừa héo rũ thì nên tưới nước lại vừa đủ ướt đất trong giỏ, những ngày tiếp theo tưới nước đậm pha với bánh dầu (6lít nước bánh dầu với 400 lít nước) để cây chuyển sang sinh trưởng sinh thực. Có thể sử dụng Nitrat Kali (Better KNO3) theo nồng độ khuyến cáo để kích thích ra hoa sớm.
Phòng trừ sâu bệnh
Ở hoa cúc vạn thọ các loại bệnh thường gặp nhất là héo tươi do nấm, quăn đọt do bọ trĩ truyền virus. Bệnh thường xuất hiện khi độ ẩm quá cao, không cân đối dinh dưỡng, khi mưa lớn hoặc tưới mạnh gây xay xát cho cây. Có thể phòng bằng các loại thuốc như Aliette, Rovral, Daconil, Foraxyl phòng trừ các bệnh do nấm gây hại, dùng Starner phòng bệnh do vi khuẩn. Trường hợp bị virus nên nhổ bỏ cây bệnh để tránh lây lan.
Bên cạnh đó, cúc vạn thọ cũng thường bị sâu vẽ bùa và sâu ăn lá gây hại, có thể dùng Tregart, Regent để ngừa và trị sâu vẽ bùa, dùng Sherpa, Supracide để phòng và trị sâu ăn lá. Để hoa nở đẹp, đầy đặn và lâu tàn nên dùng thêm phân bón lá hữu cơ Supermes phun định kỳ 10 ngày 1 lần để giúp cây sinh trưởng tốt và cho hoa đẹp.
Cần đặc biệt chú ý trong kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa cúc vạn thọ đó là nên bố trí trồng ở những nơi thoáng mát, không bị bóng rợp, cần theo dõi liên tục quá trình sinh trưởng của cây để kịp thời có biện pháp xử lý. Vào giai đoạn hoa bắt đầu ló ngòng, nên liên tục phun thuốc trừ sâu có mùi nặng (Viphenxa, Supracide) pha loãng để xua đuổi bướm không đẻ trứng vào hoa gây hư hoa làm hoa không đẹp. Cần sử dụng thêm phân bón lá hữu cơ Supermes để giúp cây sinh trưởng tốt, hoa nở đầy đặn, tươi đẹp và lâu tàn.
Nguồn: Phân bón Hiếu Giang
Th929
Ðộc đáo mô hình trồng dưa lưới bằng chuối chín, sữa tươi
Là giáo viên của Trường Tiểu học và THCS thị trấn Hòn Đất 2, huyện Hòn Đất (tỉnh Kiên Giang), cô Nguyễn Thùy Trang, ngụ khu phố Sư Nam, thị trấn Hòn Đất đã biến khu vườn tạp thành nơi trồng dưa lưới công nghệ cao. Đặc biệt, cô trồng dưa lưới bằng giá thể xơ dừa, dung dịch bón cho cây là chuối chín ủ với sữa tươi, hoàn toàn không dùng hóa chất.
Vốn là con nông dân, cô Trang có niềm đam mê đặc biệt với các mô hình trồng trọt, nhất là mô hình nông nghiệp sử dụng công nghệ tự động giúp tiết kiệm thời gian và chi phí sản xuất. Ý tưởng ban đầu của cô Trang là trồng rau sạch phục vụ gia đình. Ðể có thêm kỹ thuật trồng trọt, cô đã tham quan nhiều trang trại trồng rau quả và tham gia group Facebook “Hội trồng rau sạch tại nhà”.
Nhân công thu hoạch dưa lưới cho gia đình cô Nguyễn Thùy Trang.
Sau chuyến thăm con tại TP Hồ Chí Minh, năm 2021, cô Trang quyết định không trồng rau và thử sức với dưa lưới trong khi trong huyện chưa nhiều người trồng thành công do dưa lưới không phù hợp với vùng đất nhiễm phèn, mặn. Do khá bận rộn với công tác giảng dạy tại trường, cô Trang không thể trồng trên đất thịt vì phải tốn nhiều công đoạn xử lý. Sau khi mày mò đọc tài liệu trên mạng internet, học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước, cô Trang chọn cách trồng dưa trên giá thể xơ dừa, đầu tư hệ thống tưới tự động điều khiển bằng smartphone nhằm tiết kiệm nước và thời gian.
Thời gian đầu làm quen với giống cây trồng mới, cô Trang khá “trầy trật” vì chưa nắm vững kỹ thuật, chồng cô lại can ngăn vì sợ đầu tư vốn lớn gặp thất bại. Sau khi thuyết phục được chồng ủng hộ, vụ đầu tiên, dưa lưới cho trái ít, hình dáng xấu xí do thụ phấn bằng phương pháp thủ công. Không nản chí, đến vụ thứ hai, cô Trang chọn cách dẫn dụ ong về thụ phấn tự nhiên cho hoa. Phương pháp này giúp cô giảm bớt thời gian và công sức, tỷ lệ đậu trái cao hơn, năng suất trái được đảm bảo, không mất nhiều thời gian như trước mà tiết kiệm chi phí. Ðặc biệt, việc canh tác dưa lưới thực hiện dễ dàng nhờ sử dụng hệ thống điều khiển tự động công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel. Hệ thống tưới được quản lý bằng điện thoại thông minh nên không mất nhiều thời gian chăm sóc.
Cô Trang cho biết: “So với các loại cây trồng khác, dưa lưới mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ðặc biệt, loại nông sản này hiện nay được Hợp tác xã trồng rau an toàn Phước An tại huyện Hớn Quảng, tỉnh Bình Phước cung ứng hạt giống nhập khẩu và bao tiêu nên không phải lo lắng về đầu ra. Tôi đã ký hợp đồng chuyển giao công nghệ trồng dưa lưới kết hợp tham quan du lịch cho Trung tâm Ứng dụng khoa học và Tâm lý giáo dục tại Phú Quốc”. Ðược biết, giống dưa lưới cô Trang trồng có nhiều ưu điểm như dễ trồng, kháng bệnh cao. Dưa có hình dáng cân đối, lưới nổi dày, vỏ cứng nên sau khi thu hoạch có thể bảo quản trong thời gian dài. Giống dưa này có trọng lượng trung bình 1,4-1,6kg/trái, năng suất từ 3-3,5 tấn/1.000m2. Sau 65-70 ngày xuống giống sẽ cho thu hoạch. Với giá bán sỉ 35.000 đồng/kg, bán lẻ 60.000 đồng/kg, mỗi vụ dưa lưới, cô Trang thu lợi nhuận gần 100 triệu đồng từ 2.000m2. Mỗi năm, cô canh tác từ 3-4 vụ.
Ít ai ngờ, một cô giáo tưởng chừng chỉ quen với phấn trắng, bảng đen như cô Trang lại có thể nắm vững quy trình sản xuất dưa lưới hữu cơ chẳng kém gì một kỹ sư nông nghiệp thực thụ. Tự tay bổ trái dưa lưới vừa cắt tại vườn, cô Trang tiết lộ: “Tôi tận dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, trồng chuối sau nhà để tự ủ phân hữu cơ cung cấp cho giàn dưa lưới. Từ khi hoa thụ phấn đến lúc thu hoạch, tôi tưới thêm phân được ủ từ chuối, sữa tươi không đường và men Nhật. Sau một tháng, dung dịch chuối, sữa có thể bón trực tiếp cho cây bằng cách pha loãng với nước theo tỷ lệ định sẵn rồi phun vào gốc, qua lá. Phân được tưới sau thời điểm hoa thụ phấn và bón định kỳ hằng tuần giúp tạo hương vị thơm, ngọt tự nhiên cho dưa”. Nhờ chế độ dinh dưỡng, đúng quy trình kỹ thuật nên dưa lưới trong vườn nhà cô Trang có vị ngọt đậm, mùi thơm đặc trưng, khi bổ ra, mật từ trái dưa tươm ra tạo sự hấp dẫn, kích thích vị giác người dùng đến.
Theo cô Trang, dưa lưới được trồng trong nhà màng giúp việc quản lý được dễ dàng, thuận tiện. Nhà màng giúp che mưa cho dưa không bị ngập úng và ngăn côn trùng xâm nhập, từ đó giúp giảm chi phí sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tạo ra nông sản sạch, đảm bảo sức khỏe người trồng lẫn người tiêu dùng.
Bài, ảnh: AN NAM – Báo Cần Thơ
Th929
Nâng tầm sản xuất nông nghiệp hữu cơ
Nông dân ý thức sản xuất nông nghiệp sạch, an toàn, theo hướng hữu cơ. Ảnh: THẢO LY
Triển khai Kế hoạch phát triển nông nghiệp hữu cơ, trong đó ưu tiên các loại cây, vật nuôi chủ lực và tiềm năng như: lúa, cây có múi, khoai lang, bò, heo, gà thả vườn, cá tra, thủy sản nuôi lồng bè…, tỉnh Vĩnh Long phấn đấu đến năm 2025 nâng giá trị sản phẩm trên 1ha đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản hữu cơ cao gấp 1,3- 1,5 lần so với sản xuất phi hữu cơ.
Vai trò của sản xuất nông nghiệp hữu cơ
Sản xuất nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Vĩnh Long. Đặc biệt, những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp của tỉnh phát triển với tốc độ khá theo hướng hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, đã tạo ra khối lượng nông, thủy sản hàng hóa lớn đảm bảo tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản của tỉnh giai đoạn 2016- 2020 tăng bình quân trên 2%/năm, trong đó có một phần đóng góp của nông nghiệp hữu cơ.
Đến nay, tại Vĩnh Long đã xuất hiện nhiều mô hình sử dụng phân hữu cơ hoặc sản xuất theo hướng hữu cơ như: Cánh đồng sản xuất lúa theo hướng hữu cơ của Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Tân Tiến ở xã Mỹ Lộc (Tam Bình), mô hình sản xuất gạo hữu cơ thảo dược Tấn Đạt của HTX Sản xuất dịch vụ nông nghiệp Tấn Đạt ở xã Trung Ngãi (Vũng Liêm), mô hình chuỗi giá trị lúa gạo hữu cơ tại HTX Nông nghiệp Làng hữu cơ Hiếu Thuận (xã Hiếu Thuận, huyện Vũng Liêm), mô hình trồng cam hữu cơ của HTX Nông nghiệp cam sành Organics huyện Trà Ôn…
Toàn tỉnh có 24 cơ sở sản xuất nông nghiệp- thủy sản và 31 trại, trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm được chứng nhận các tiêu chuẩn sản xuất tốt, tiên tiến.
Trong đó, có 13 cơ sở sản xuất cây trồng (hơn 300ha), 2 cơ sở chăn nuôi và 9 cơ sở nuôi thủy sản thương phẩm (gần 6ha cá tra, 60.732m3 nuôi thủy sản lồng bè và 5,5ha nuôi thủy sản khác) được chứng nhận tiêu chuẩn GAP và tương đương.
Nhiều mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn GAP trên cây ăn trái đặc sản được chứng nhận đạt mới hoặc tái chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP hoặc GlobalGAP.
Điển hình trong các cơ sở nêu trên có thể kể đến HTX Nông nghiệp Làng hữu cơ xã Hiếu Thuận ở ấp Quang Mỹ, xã Hiếu Thuận (Vũng Liêm). Vào cuối tháng 7/2019, HTX ra đời với 24 thành viên, hoạt động chủ yếu là sản xuất lúa 3 vụ/năm trên diện tích 20ha, đến nay đã lên đến 35ha.
Bên cạnh hiệu quả từ sản xuất hữu cơ mang lại (nhất là cải thiện môi trường đồng ruộng ở khu HTX), nhờ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp nên hiệu quả kinh tế tăng lên đáng kể.
Theo ông Nguyễn Văn Liêm- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp- PTNT, sản xuất nông nghiệp hữu cơ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao giá trị gia tăng, phát triển kinh tế bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái và tạo ra sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng. Kết quả bước đầu nêu trên tạo điều kiện cho tỉnh mở rộng loại hình sản xuất này trong thời gian tới.
Phát triển nông nghiệp hữu cơ dài hạn
Thực tiễn cho thấy, sản xuất nông nghiệp của Vĩnh Long đang từng bước chuyển dịch theo hướng an toàn, hữu cơ để khắc phục những nhược điểm vốn đã tồn tại lâu dài là sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chất lượng hàng hóa nông sản chưa cao, lợi nhuận còn thấp, ô nhiễm môi trường, sử dụng quá nhiều hóa chất, nhất là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm liên quan đến sức khỏe người tiêu dùng…
Nguồn tin: báo Vĩnh Long
Th1010