3 giống hoa lay ơn mới
Nguồn tin: Báo nông nghiệp
3 giống hoa lay ơn mới do Viện Nghiên cứu Rau quả chọn tạo, có hoa đẹp, được người tiêu dùng ưa chuộng, chống chịu sâu bệnh tốt, hiệu quả trồng cao hơn hơn 20%.
3 giống hoa lay ơn mới gồm CF.22.03, CF.22.04, CF.21.09, do Ths Bùi Thị Hồng cùng cộng sự chọn tạo, được Viện Nghiên cứu Rau quả công bố chính thức từ đầu năm 2022.
Đặc điểm giống
Giống lay ơn CF.21.03 được chọn lọc từ tổ hợp lai hoa lay ơn 11A03 dòng C6. Thời gian sinh trưởng 85 – 95 ngày. Giống có khả năng sinh trưởng, phát triển khỏe. Chống chịu tốt sâu bệnh hại, nhất là với bệnh khô đầu lá. Năng suất trung bình đạt 180.000 – 200.000 cành hoa/ha. Chiều dài cành hoa 125 – 136cm. Số hoa/cành 16 – 17 bông. Hoa màu đỏ vàng. Đặc biệt, giống hoa này có khả năng trồng được trong vụ hè thu. Hiệu quả sản xuất tăng 21 – 25% so với đối chứng.
Giống hoa lay ơn CF 21.03.
Giống lay ơn CF.21.04 chọn lọc từ tổ hợp lai hoa lay ơn 11A14 dòng I9. Thời gian sinh trưởng 90 – 100 ngày. Giống có khả năng sinh trưởng, phát triển khỏe. Chống chịu tốt với sâu bệnh hại, đặc biệt là không bị khô đầu lá. Chiều dài cành hoa đạt 135 – 148cm. Số hoa/cây 15 – 16 bông. Hoa màu hồng. Năng suất đạt 180.000 – 200.000 cành hoa/ha. Hoa được người sản xuất và người tiêu dùng chấp nhận cao. Hiệu quả trồng thâm canh tăng 21 – 23% so với đối chứng.
Giống hoa lay ơn CF.21.09 chọn từ tổ hợp lai hoa lay ơn 11A04 dòng J11. Thời gian sinh trưởng 90 – 100 ngày. Giống có khả năng sinh trưởng, phát triển khỏe. Chống chịu tốt với bệnh khô đầu lá nhẹ. Năng suất đạt 180.000 – 200.000 cành hoa/ha. Chiều dài cành hoa đạt 135 – 159cm. Số hoa/cành đạt 16 – 17 bông. Hoa màu hồng cam, được người sản xuất và thị trường chấp nhận cao. Hiệu quả trồng tăng 23 – 26% so với đối chứng.
Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh
Hoa lay ơn ưa khí hậu mát mẻ. Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng, phát triển từ 15 – 27 độ C. Nhiệt độ cao cây sinh trưởng kém, chất lượng hoa thấp, nhiều sâu bệnh hại. Lay ơn cũng là cây ưa sáng, cường độ ánh sáng thích hợp cho cây từ 20.000 – 25.000 lux, thiếu sáng cây bị vóng, hoa nhỏ, tỷ lệ hoa mù cao.
Đất trồng lay ơn phải là loại đất thịt nhẹ, độ pH 5,5 – 6. Lay ơn rất mẫn cảm với muối kim loại nặng, đặc biệt là hàm lượng chì cao. Cây lay ơn ưa ẩm nhưng không chịu được úng, ẩm độ đất thích hợp cho cây khoảng 70 – 75%, thiếu nước sẽ ảnh hưởng đến phân hoá hoa, thừa nước rễ bị tổn hại, củ thối, cây vàng úa và chết. Lay ơn khá mẫn cảm với không khí, đặc biệt là khí Clo và Flo. Những nơi nồng độ Clo và Flo cao sẽ làm cây lay ơn khô đầu lá. Do vậy, chọn điểm trồng hoa lay ơn cần tránh xa các khu công nghiệp và lò gạch.
Kỹ thuật trồng
Thời vụ trồng, các tỉnh miền Bắc trồng 2 vụ chính là tháng 8 – 9 và tháng 10 – 11; các tỉnh Bắc Trung Bộ trồng tháng 10 – 11. Đất cày phay nhỏ, dọn sạch cỏ, lên luống rộng 1 – 1,2m, cao 30cm, rãnh luống rộng 30 – 40cm. Tốt nhất trồng lay ơn trên đất vụ kế trước gieo cấy lúa nước.
Chọn củ giống có chu vi từ 8cm trở lên, không sứt vẹo, sạch bệnh và đã xử lý nảy mầm đều. Sau dùng dung dịch Mancozeb 2% (20g/20lit nước) ngâm củ giống 5 – 10 phút, vớt hong ráo nước, đem trồng ra ruộng sản xuất. Giống trồng theo các rạch xẻ ngang trên mặt luống, rạch cách rạch 25 – 30cm, sâu 12 – 15cm, trộn đều các loại phân bón lót xuống rạch, lấp đất dày 10 – 12cm. Mật độ trồng 20.000 – 21.000 củ/1000m2 (củ cách củ 10 – 12cm và lấp đất dày 2,5 – 3cm phủ kín củ).
Dòng lay ơn I9 trong tổ hợp tạo ra giống lay ơn 21.04.
Về tưới nước, có thể tưới rãnh hoặc tưới mặt, đảm bảo độ ẩm đất 70 – 75%, tránh để cây bị úng ngập, bao gồm úng cục bộ. Phân bón cho 1.000m2 gồm phân chuồng 2,5 – 3 tấn, vôi bột 80 – 100kg, đạm Uê 30kg, lân supe 90kg, Kali clorua 24kg; hoặc 75kg NPK, 8kg đạm Urê, 10kg Lân supe (bón lót), 9kg Kali kali clorua. Trong đó, bón lót toàn bộ phân chuồng, vôi và 50% phân lân, số phân còn lại chia bón 4 đợt theo bảng dưới
Đợt bón | Ngày sau trồng | Lượng phân (kg) | Lượng phân (kg) | Cây sau trồng | ||||
Urê | Supe lân | Kali | NPK | Urê | Kali | |||
10 – 15 | 10 | 10 | 2 lá | |||||
30 – 35 | 10 | 20 | 25 | 4 lá | ||||
50 – 55 | 10 | 15 | 12 | 25 | 4,5 | 6 lá | ||
70 – 75 | 12 | 15 | 4,5 | Trổ đòng |
Nên bón phân kết hợp xới xáo, làm cỏ và tưới ẩm cho tan phân. Bổ sung một số chất kích thích sinh trưởng như Atonik 1.8SL (15ml/16lít), SEAWEED rong biển (10g/16lít) và phun bón lá đầu trâu vào thời kỳ cây 2 – 6 lá. Khi cây mọc mầm, cần tỉa mầm phụ và để lại 1 mầm chính. Vun đợt khi 1 cây 3 lá. Vun cao chống đổ khi cây cao 40 – 50cm. Cắm cọc làm dàn theo mép luống, khoảng cách 1,5 – 2m/cọc, rồi dùng dây ni lông hoặc lưới đan sẵn căng giữa các cây, sau nâng dần dây/lưới phù hợp theo chiều cao của cây.
Phòng trừ sâu bệnh hại chính: Dùng thuốc Azimex 20EC hoặc Sherpa 25EC phòng trừ sâu khoang; thuốc Brightin 1.8EC hoặc Ortus 5SC trừ bọ trĩ; Anvil 5SC, Score 250EC trừ bệnh héo vàng. Riêng với bệnh khô đầu lá phải chọn trồng giống kháng bệnh, xa lò gạch và khu công nghiệp. Phun phòng sâu bệnh hại định kỳ 7 – 10 ngày/lần. Sử dụng thuốc theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
Dòng lay ơn J11 trong tổ hợp tạo ra giống lay ơn CF.21-09.
Thu hoạch, bảo quản
Thu hoa vào buổi sáng hoặc chiều tối khi cành có 1 – 2 hoa đã nhú màu. Cắt lấy cành hoa cách gốc 5 – 10cm và chừa lại 1 – 2 lá hoàn chỉnh. Nếu không cần giữ lại củ, có thể nhổ lấy cả củ. Sau xếp hoa thành từng bó có chiều dài cành và số bông trên cành tương đương nhau. Chú ý thao tác nhẹ nhàng, sao cho cành hoa không bị cong, gãy.
Bảo quản hoa, bọc kín đầu hoa đem dựng trong kho lạnh 6 – 8 độ C và ẩm độ 80 – 90% sẽ giữ được hoa khoảng 10 – 15 ngày. Hoặc đưa hoa bao kín đầu vào thùng xốp, xếp 1 lớp hoa xen 1 lớp đá và 5 ngày trộn đảo đá 1 lần cũng có thể bảo quản được 7 – 10 ngày.
Phạm vi áp dụng: Các địa phương Trung du miền núi phía Bắc, ĐBSH và Bắc Trung Bộ.
Th1107
Sản xuất nông nghiệp hữu cơ: Tìm hướng đi đúng để tạo đà
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
Thời gian qua, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, nông nghiệp tỉnh nhà đã và đang được thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững, từng bước khắc phục tình trạng quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu ổn định và dễ bị tổn thương do thiên tai, dịch bệnh.
Trồng cây ăn quả theo hướng hữu cơ tại Quang Mỹ Farm ở Hương Hồ (TP. Huế). Ảnh: Đăng Tuyên
Hiện nay, sản xuất nông nghiệp của Thừa Thiên Huế đã định hình và từng bước đi vào ổn định đối với một số loại cây trồng chủ lực như lúa, rau màu các loại, cây ăn quả… Các chính sách tích cực như Nghị quyết 20/2020/NQ-HĐND, Nghị quyết 30/2021/NQ-HĐND của HĐND tỉnh đã dành ngân sách hỗ trợ sau đầu tư từ 15-20 tỷ đồng/năm giúp phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ.
Gian nan tìm cách chứng nhận sản phẩm hữu cơ
Thực tế có 2 phương thức để có chứng nhận sản phẩm hữu cơ: Một là thuê các tổ chức chứng nhận bên thứ 3 trong và ngoài nước đánh giá, chứng nhận với chi phí rất cao. Qua khảo sát, cần 10 triệu đồng/ha chi phí chứng nhận đối với các tổ chức chứng nhận trong nước theo TCVN:11041- 2017. Vấn đề này là bất khả thi đối các mô hình hữu cơ quy mô nông hộ, tổ, nhóm vốn yếu thế; chỉ phù hợp với các tập đoàn lớn cũng như doanh nghiệp quy mô sản xuất lớn, hướng đến thị trường xuất khẩu.
Hai là, chứng nhận hữu cơ theo Hệ thống cùng tham gia đảm bảo chất lượng (Participatory Guarantee System -PGS) là một cơ chế đảm bảo chất lượng với chi phí thấp, giúp bảo đảm chất lượng nông sản và có thể khôi phục lòng tin của người tiêu dùng. Theo Liên đoàn các phong trào Nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (IFOAM) năm 2008, PGS là một hệ thống ở đó có sự tham gia của các bên liên quan vào đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm hướng vào thị trường địa phương. Người sản xuất được xác nhận sự tuân thủ dựa vào sự tham gia tích cực của các bên liên quan, bao gồm cả người sản xuất và người tiêu dùng trong hệ thống. Chi phí chứng nhận thấp, thậm chí không tốn chi phí phù hợp với quy mô sản xuất hữu cơ nông hộ, tổ, nhóm.
Theo Điều 17, Nghị định 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 của Chính phủ về Nông nghiệp hữu cơ: Khuyến khích nông dân, tổ chức, cá nhân tham gia Hệ thống bảo đảm cùng tham gia PGS. Tuy nhiên, vướng mắc theo Nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan không có hướng dẫn cách thức tổ chức, xây dựng hệ thống PGS cũng như phương thức chứng nhận PGS, gây lúng túng cho việc hình thành PGS tại các địa phương.
Trên địa bàn tỉnh đã thành lập ra liên nhóm PGS tại 3 huyện Phú Lộc, Quảng Điền và Phú Vang từ Dự án VIE433. Thế nhưng, những sản phẩm hữu cơ trên được bán theo giá nông sản thông thường do sản phẩm chưa được chứng nhận sản phẩm hữu cơ. Một số doanh nghiệp kinh doanh lại yêu cầu phải có chứng nhận sản phẩm hữu cơ để tiêu thụ trên thị trường có hiệu quả hơn. Vấn đề đặt ra là, phải thành lập Ban điều phối PGS cấp tỉnh tại Thừa Thiên Huế để tập hợp các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, các tổ hợp tác và nông hộ ở địa phương có tâm huyết tham gia vào phát triển nền nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh và chứng nhận sản phẩm hữu cơ.
Tạo sức lan tỏa nông nghiệp hữu cơ
Với sự hỗ trợ từ Dự án Thích ứng và chống chịu với biến đổi khí hậu VIE/433 của Chính phủ Luxembourg (2019) đã hình thành nên các tổ, nhóm nông dân PGS sản xuất rau hữu cơ liên kết nông hộ với diện tích 16,3ha (20 nhóm/181 hộ tham gia) tại các huyện Phú Vang, Phú Lộc, Quảng Điền. Cụ thể: sản phẩm rau má hữu cơ Quảng Thọ, rau hữu cơ Quảng Thành, Mỹ Lợi; gà Quảng Phước; lúa hữu cơ Phú Mỹ, Lộc An; dầu lạc Mỹ Á; góp phần thay đổi nhận thức của người dân về phương pháp canh tác từ vô cơ sang hữu cơ.
Hiện nay, toàn tỉnh đã có 42 hộ dân và 2 HTX đang hợp tác về phát triển chăn nuôi lợn hữu cơ an toàn sinh học (ATSH), liên kết theo chuỗi giá trị với hơn 300 lợn nái và 6.000 con lợn thịt tại các địa phương. Ngoài ra, khoảng 500ha diện tích lúa, ngô, đậu tương sản xuất hữu cơ theo chuỗi giá trị.
Cơ hội mở ra đối với sản xuất nông nghiệp hữu cơ Thừa Thiên Huế là khi Tập đoàn Quế Lâm, một công ty hàng đầu trong sản xuất, kinh doanh phân bón hữu cơ trên phạm vi cả nước mạnh dạn đầu tư nhiều dự án trong lĩnh vực hữu cơ tại tỉnh từ năm 2016: Hệ thống cửa hàng cung ứng sản phẩm nông sản hữu cơ (200 tỷ đồng); Nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, Dự án Tổ hợp chăn nuôi lợn an toàn sinh học 4F (Farm-Food-Feed-Fertilizer) tại xã Phong Thu, huyện Phong Điền với tổng vốn đầu tư 700 tỷ đồng; vùng sản xuất lúa hữu cơ và bao tiêu sản phẩm với diện tích 70ha tại Hợp tác xã nông nghiệp Phù Bài, thị xã Hương Thủy; mô hình hộ chăn nuôi an toàn sinh học 10-30 lợn thịt…
Cần nhiều giải pháp, vai trò
Cần có Đề án nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2026 và định hướng đến năm 2030. Đây là một lợi thế để giúp tỉnh xây dựng một nền nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái, góp phần ổn định đời sống cho người dân trên địa bàn tỉnh gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn và tái cơ cấu toàn diện ngành nông nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, nâng cao năng lực, khả năng tổ chức sản xuất, sức cạnh tranh trong chế biến, tiêu thụ nông sản của tỉnh.
Tiếp đến là phát huy vai trò của Hội Nông nghiệp hữu cơ tỉnh; tiến hành thành lập Ban điều phối PGS Huế cấp tỉnh chịu trách nhiệm thẩm định, chứng nhận PGS các sản phẩm nông sản hữu cơ theo TCVN:11041-2017, góp phần giải quyết vấn đề Chứng nhận hữu cơ ở quy mô nông hộ, tổ, nhóm sản xuất nông nghiệp hữu cơ lâu dài. Phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam để tranh thủ nguồn lực; giúp đào tạo, tập huấn về kiến thức nông nghiệp hữu cơ; chia sẻ kinh nghiệm, chứng nhận PGS và kết nối doanh nghiệp, chuỗi ngành hàng tiêu thụ; xây dựng mô hình liên kết… Bên cạnh đó, cần tích cực tìm kiếm hỗ trợ từ các dự án trong và ngoài nước (ADDA,VIE433), từ doanh nghiệp để có thêm nguồn lực phát triển và lan tỏa phong trào sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn rộng khắp. Công tác truyền thông giới thiệu, quảng bá các sản phẩm, mô hình hữu cơ để người tiêu dùng thấy được giá trị và hiệu quả của sản phẩm mang lại sức khỏe cho cộng đồng cũng cần được tăng cường…
Quang Hòa
Th1102
Vùng trồng sầu riêng của Đồng Nai đạt chuẩn xuất khẩu
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
Sau hơn 4 năm đàm phán và đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, ngày 19-9, Việt Nam vừa chính thức xuất khẩu chính ngạch lô sầu riêng đầu tiên vào thị trường Trung Quốc. Trước đó, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) đã chính thức phê duyệt 51 mã số vùng trồng, 25 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng của Việt Nam được phép xuất khẩu sang Trung Quốc.
Trong đợt đánh giá này, 100% vùng trồng và cơ sở đóng gói của Đồng Nai đăng ký tham gia đều đạt chuẩn và được cấp mã số xuất khẩu sầu riêng vào thị trường Trung Quốc. Cụ thể, toàn tỉnh đã có 7 mã số vùng trồng sầu riêng với quy mô 533 ha được cấp phép xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc.
Đồng hành cùng doanh nghiệp, nông dân
Năm 2022, Trung Quốc ban hành nhiều quy định mới về nhập khẩu các mặt hàng nông sản, đặc biệt là trái cây tươi. Trong đó, các yêu cầu phải đáp ứng truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm và quy định nghiêm ngặt về phòng, chống Covid-19.
Xuất khẩu trái cây tươi vào thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn nên mọi thay đổi về chính sách liên quan đến nhập khẩu ở thị trường này đều ảnh hưởng rất lớn đến thị trường rau, quả của Việt Nam.
Bà Trần Thị Tú Oanh, Phó chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt, Bảo vệ thực vật và Thủy lợi (Sở NN-PTNT) cho biết, để chuẩn bị cho công tác xuất khẩu chính ngạch sản phẩm sầu riêng sang thị trường Trung Quốc, ngày từ đầu năm 2021 Sở NN-PTNT đã phối hợp với cơ quan chuyên môn các huyện, thành phố tuyên truyền, hướng dẫn cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có nhu cầu xuất khẩu nông sản những quy định về cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói. Kết quả, tất cả các vùng trồng và cơ sở đóng gói trên địa bàn tỉnh đều đạt trong đợt đầu đánh giá, cấp mã số của Tổng cục Hải quan Trung Quốc. Thời gian tới, Chi cục tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, đào tạo tập huấn, kiểm tra, giám sát để nâng cao năng lực, nhận thức của người dân, doanh nghiệp trong việc tuân thủ, chuẩn hóa vùng trồng, cơ sở đóng gói.
Kết quả, trong đợt đánh đầu tiên của Tổng cục Hải quan Trung Quốc về vùng trồng và cơ sở đóng gói, Đồng Nai có 7 vùng trồng được cấp mã số gồm: HTX Thương mại dịch vụ nông nghiệp Xuân Định (H, Xuân Lộc); HTX sầu riêng Lò Than, Vùng trồng Nhân Nghĩa (H.Cẩm Mỹ); HTX Dịch vụ nông nghiệp Phú An; Tổ Hợp Tác Sầu riêng Phú Sơn (H.Tân Phú); HTX Nông nghiệp thương mại dịch vụ Xuân Lập; HTX Nông nghiệp – Dịch vụ – Thương mại Bình Lộc (TP.Long Khánh). 3 cơ sở đóng gói được cấp mã số gồm: Công ty TNHH sản xuất thương mại Thuận Hương (H.Định Quán); Cơ sở đóng gói Thanh Trung; Công ty TNHH xuất nhập khẩu An Lộc Phát (TP.Long Khánh).
Ông Liu Tác Sáng, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại sản xuất Thuận Hương cho biết, sầu riêng là mặt hàng xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao nên doanh nghiệp chủ động đăng ký được cấp mã số cơ sở đóng gói xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Vì xuất khẩu chính ngạch sẽ không còn lo tình trạng ùn ứ xe hàng khi Trung Quốc đóng cửa biên giới, giảm rủi ro trong vận chuyển, tiêu thụ, đảm bảo đầu ra ổn định hơn cho trái sầu riêng.
HTX Thương mại dịch vụ nông nghiệp Xuân Định (H, Xuân Lộc) được cấp mã số vùng trồng xuất khẩu đi Trung Quốc. Ảnh: Phan Anh
Tính chuyện đường dài
Tại Hội nghị “Triển khai xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc” diễn ra vào ngày 12-9, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh, cần chuẩn bị cho hành trình đi xa, đem lại giá trị cao cho ngành hàng sầu riêng. Ở đây không phải chỉ bán trái sầu riêng mà còn xây dựng hình ảnh sầu riêng Việt Nam đến thị trường đông dân, khó tính là Trung Quốc. Đồng thời, thông qua câu chuyện trái sầu riêng nhìn lại chuỗi giá trị ngành hàng nông sản, nhìn lại lợi thế, tiềm năng, rủi ro, thách thức từ bên ngoài. Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói: “Muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì đi cùng nhau. Chúng ta phải biết dựa vào nhau, nương tựa nhau, thay vì cạnh tranh, chen chúc nhau. Đây là cách để đưa trái sầu riêng phát triển ở thị trường Trung Quốc”.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cũng nhấn mạnh, một lần bất tín là vạn lần bất tin. Do đó, cần xây dựng nền nông nghiệp minh bạch, bắt đầu từ câu chuyện của trái sầu riêng qua việc chuẩn hóa giống, quy trình, thị trường, kiến thức, tri thức người nông dân… Ngành nông nghiệp cần phải tập huấn, chuẩn hóa cho người nông dân, tránh tình trạng giả mạo truy xuất nguồn gốc; xây dựng niềm tin và trách nhiệm giữa doanh nghiệp với nông dân dưới sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước…
Nhân rộng mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói để đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm cây ăn trái chủ lực cũng là định hướng tỉnh Đồng Nai đang tập trung triển khai trong thời gian tới. Theo báo cáo của Sở NN-PTNT tỉnh, thời gian qua, Ngành nông nghiệp đã tập trung hỗ trợ nông dân, HTX, doanh nghiệp xây dựng mã vùng trồng, mã cơ sở đóng gói xuất khẩu cho những cây trồng chủ lực trên địa bàn tỉnh. Chỉ tính riêng từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã có 7 mã số vùng trồng sầu riêng và đang tập trung giám sát và hoàn thiện hồ sơ trình công nhận mới 12 mã vùng trồng chuối, sầu riêng xuất khẩu. Toàn tỉnh cũng đã có 5 cơ sở đóng gói chuối và sầu riêng được cấp mã số xuất khẩu và 19 cơ sở đóng gói đang chờ được phê duyệt để cấp mã số xuất khẩu.
Để đủ điều kiện được cấp mã số, các cơ sở đóng gói phải xây dựng quy trình đóng gói theo yêu cầu của nước nhập khẩu từ khâu nhập hàng, xử lý trái cây, khu chứa nguyên liệu đến kho thành phẩm đều phải đảm bảo vệ sinh…Đặc biệt, trái cây xuất khẩu đều phải có tem truy xuất nguồn gốc; thùng đựng phải dán nhãn với đầy đủ thông tin về sản phẩm, nơi sản xuất hoặc mã số vùng trồng, tên hoặc mã số cơ sở đóng gói…
Theo Phó giám đốc Sở NN-PTNT Trần Lâm Sinh, lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 120 mã số vùng trồng xuất khẩu đi thị trường Trung Quốc, Mỹ, EU, Úc, New Zealand…với tổng diện tích hơn 24 ngàn ha. Tính đến nay, toàn tỉnh đã có 53 mã số cơ sở đóng gói đi thị trường Trung Quốc, Mỹ, EU, Úc, New Zealand…
Phan Anh
Th1028
Vườn sầu riêng hữu cơ bạc tỷ trên đất trũng
TÂY NINH – Qua bàn tay kiến thiết, vận dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, ông Tống Thanh Đức (Tây Ninh) đã biến vùng đất trũng thành vườn cây ăn quả xanh mướt.
Vườn sầu riêng hữu cơ bạc tỷ của ông Đức trên vùng đất trũng. Ảnh: Trần Trung.
Chủ tịch Hội Nông dân xã Truông Mít, ông Nguyễn Tiến Dũng cho biết, thành quả ông Đức có được hôm nay chính là nhờ niềm đam mê nông nghiệp và cách làm bài bản. Ông rất chịu khó tìm hiểu khoa học kỹ thuật qua nhiều kênh khác nhau rồi tự mình đi tìm hiểu các nơi. Mô hình nào không biết, ông lại đi tìm người giỏi hơn để nhờ tư vấn, giúp đỡ. Từ mô hình của ông Đức, Hội Nông dân xã Truông Mít thường xuyên tuyên truyền, giới thiệu cho nông dân các địa phương khác đến tham quan, học hỏi.
Dẫn chúng tôi thăm dấu tích của vùng đất trũng còn tồn tại sau khi được chuyển đổi sang cây ăn trái và hoa màu cùng cây công nghiệp dài ngày, ông Đức cho biết, ngày trước, cao su, lúa và đậu phộng là những loại cây trồng chủ lực trên địa bàn xã. Với quan niệm đã làm nông nghiệp là phải có đất, nhờ mủ cao su được giá, hoa màu và cây lương thực trúng mùa, nhiều năm như thế ông tích cóp dần để mở rộng thêm đất canh tác.
Với triết lý “cây không đụng lá, cá không chạm đuôi”, ông Đức đã lên liếp rất khoa học. Ảnh: Trần Trung.
Nhưng lợi thế cây trồng chủ lực không lâu bền mãi. Trong khoảng thời gian gần chục năm, giá cao su duy trì ở mức thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nông dân trồng cao su tiểu điền. Tương tự, cây đậu phộng cũng vậy. Ngày trước ít ai trồng đậu phộng trúng mùa và đạt năng suất như ông Đức. Thế nhưng thời giá bấp bênh, khó cạnh tranh, đậu phộng không còn là lựa chọn ưu tiên của người dân.
Theo ông Đức, chuyển đổi cơ cấu cây trồng là chủ trương của tỉnh Tây Ninh nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân. Từ những năm 2000, ông và nhiều nông dân cũng bắt đầu chuyển đổi trên vườn đất của mình. Trên diện tích 25ha, ông Đức chỉ duy trì 8ha cao su, 6ha lúa và đậu phộng. Phân nửa diện tích còn lại ông Đức trồng 8ha sầu riêng, 2ha nhãn tiêu da bò và 1ha trồng tre lấy măng.
Tuy trồng trên đất trũng nhưng cây vẫn cần được tưới nước hợp lý để sinh trưởng phát triển ổn định. Ảnh: Trần Trung.
Trong số diện tích chuyển đổi, sầu riêng là cây trồng ông Đức tâm đắc nhất. Ông Đức kể, từ 5 năm trước, vùng đất này vẫn còn là vùng trũng thấp. Ông mua đất rồi mướn xe đào mương, lên liếp rồi trồng toàn bộ giống sầu riêng Ri6. Hớp ngụm trà thơm, ông Đức bộc bạch, với triết lý “cây không đụng lá, cá không chạm đuôi”, khác các tỉnh ở miền Nam và Tây Nguyên, ông trồng sầu riêng với mật độ thưa, chỉ khoảng 100 cây/ha. Mương nước giữa các luống trồng sầu riêng cũng được ông cơi nới rộng rãi so với các vườn đã tham qua ở các tỉnh miền Tây Nam bộ.
Ngoài ra, giữa thời điểm phân hóa học đa dạng, dễ dàng tìm mua để xử lý cho cây trái vườn nhà thì lão nông này lại từng bước chuyển dần sang dùng phân hữu cơ. Ông Đức quan niệm, sử dụng phân hóa học nhiều khiến đất đai bị thoái hóa, chi phí lại cao, còn phân hữu cơ vừa an toàn, vừa tốt cho cây và đất, người tiêu dùng ăn sầu riêng vườn nhà ông cũng an tâm hơn.
Ông Đức tự hào bên vườn sầu riêng xanh tốt của mình. Ảnh: Trần Trung.
Hiện nay, vườn sầu riêng của ông Đức có khoảng 1.000 gốc, trong đó phần lớn đang cho trái, năng suất khoảng 20 tấn/ha. Trong vụ sầu riêng 2022 vừa qua, ông thu về khoảng 2 tỉ đồng sau khi trừ chi phí. “Hồi trước sử dụng phân hữu cơ ít, còn bây giờ chiếm 2/3 lượng phân cho vườn. Phân hóa học dùng ít lại, chủ yếu không để thiếu chất. Mình xem cây như con người. Anh em nào không biết thì đến đây, tôi sẵn sàng tư vấn. Một là phải lên liếp trồng sầu riêng như thế nào cho có hiệu quả. Thứ hai là loại giống gì mà trồng được để xuất khẩu, bán được giá. Hiện tôi trồng sầu riêng Ri6, ngoài tiêu thụ trong nước, thị trường Trung Quốc rất thích ăn loại này…”, ông Đức tâm sự.
Tại địa phương, ông Đức cũng là hội viên năng nổ khi thường xuyên tham gia công tác Hội Nông dân, tích cực hỗ trợ hội viên nghèo và bà con có hoàn cảnh khó khăn. Ông Đức là một trong những mạnh thường quân có đóng góp rất lớn ở địa phương.
Hơn 10 năm nay, ông Đức luôn là gương điển hình tiên tiến, là nông dân sản xuất kinh doanh giỏi cấp xã, huyện cũng như cấp tỉnh. Từ nỗ lực và sự đóng góp cho địa phương, ông Đức vinh dự được bình chọn là Nông dân Việt Nam xuất sắc 2022.
Nguồn tin: báo nông nghiệp
Th1027
Kỹ thuật trồng và chăm sóc bí đao
Bí đao là nguyên liệu được sử dụng nhiều trong bữa ăn của các gia đình. Với công dụng tiêu nước dư thừa trong cơ thể, giảm cân, giữ dáng, giàu dinh dưỡng,… thì bí đao càng được nhiều người chọn mua hơn nữa. Đặc biệt, việc trồng bí đao là khá đơn giản với năng suất cao càng giúp giống cây trồng này được nhiều bà con nông dân lựa chọn.
Chuẩn bị trước khi trồng bí đao
Thông thường, bí đao được trồng vào vụ đông từ đầu tháng 9 tới giữa tháng 10 hàng năm ngay trên chân mạ mùa. Tuy nhiên, việc trồng sớm từ 1 – 20/9 được đánh giá cao với khả năng cho năng suất cao, độ ổn định lý tưởng.
Làm đất
Đất trồng bí đao ưu tiên sử dụng loại cát pha, thịt nhẹ với khả năng chủ động trong tưới tiêu. Đặc biệt, khu vực đất trồng bí đao yêu cầu cần cách khu vực có chất thảo công nghiệp, hay bệnh viện tối thiểu 1 – 2km.
Bí có thể được trồng đan xen hoặc trồng riêng biệt tùy thuộc vào điều kiện thực tế. Với từng cách thức trồng thì làm đất cần tiến hành với kỹ thuật khác biệt. Tuy nhiên, yêu cầu cơ bản là xới xáo kỹ lưỡng, làm cỏ và bón lót đầy đủ.
Đối với việc canh tác riêng biệt thì làm luống, lên giàn cần thực hiện. Luống trồng bí đao yêu cầu cần đạt chiều rộng từ 1.2 – 1.4m. Tuy nhiên, nếu trồng bò trên mặt đất thì luống cần có chiều rộng từ 2.7 – 3m.
Chọn hạt giống
Hiện nay, giống bi đao có 2 loại chính là giống bí đanh có quả nhỏ hơn, đặc, ít lõi và ăn ngon. Ngoài ra, bị bộp có quả to với trọng lượng từ 4 – 6kg/ trái song khá nhiều lõi.
Bà con nên ưu tiên tìm hiểu, chọn mua hạt giống tại cơ sở cung cấp uy tín. Hạt giống có nguồn gốc rõ ràng, hạt mẩy với độ nảy mầm cao là yêu cầu cơ bản.
Kỹ thuật trồng bí đao đơn giản
Ngâm ủ hạt giống
- Hạt giống sau khi mua về cần ngâm trong nước sạch từ 4 – 6 giờ. Sau đó, đem hạt giống đi đãi sạch, loại bỏ phần nước chua.
- Hạt giống trộn lẫn với cát theo tỷ lệ 1 hạt giống: 3 – 4 cát, sau đó gói vào vải xô ủ kín.
- Trong quá trình ủ cần tiến hành dấp nước đều đặn 2 lần mỗi ngày. Sau khoảng 1 – 2 ngày hạt giống sẽ nứt nanh và quá trình đem gieo có thể tiến hành.
Gieo hạt
Hạt giống bí đao có thể gieo trong khay nhựa, trong vỉ xốp, hoặc trong bầu bằng nilon. Đất để gieo hạt cần trộn đất phù sa cùng phân chuồng ủ hoai mục. Đảm bảo đất gieo hạt tơi xốp, giàu dinh dưỡng cho vào trong khay trồng, hoặc trong bầu nilon,…Cần chú ý cắt hai đầu phái dưới giúp quá trình thoát nước dễ dàng trong quá trình gieo hạt.
Bầu đất sau khi hoàn thiện bà con gieo hạt bí đao đã nứt nanh vào bên trong, phủ lên bằng một lớp đất mỏng. Sau đó, duy trì việc tưới nước đều đặn hàng ngày trong khoảng 5 – 7 ngày cho tới khi hạt nảy mầm, mọc câu con.
Trồng cây con
Khi hạt giống nảy mầm, phát triển thành cây con và có lá thật thì việc đưa ra ruộng trồng cần thực hiện. Tạo các lỗ nhỏ kích thước lớn hơn bầu đất, sau đó đặt cây con vào lỗ trồng, phủ đất nén chặt phần gốc.
Yêu cầu sau khi trồng cần phủ lên một lớp rơm rạ mỏng, tưới đẫm nước giúp cây nhanh chóng hồi xanh.
Hướng dẫn chăm sóc bí đao
Chăm sóc bí đao trong quá trình canh tác yêu cầu bà con cần quan tâm tới các kỹ thuật chính là:
Tưới nước
Ngay sau khi trồng cần duy trì tưới nước đều đặn 2 lần/ ngày vào sáng sớm và chiều muộn thúc đẩy bí đao sinh tưởng tốt hơn. Đặc biệt, giai đoạn cây ra hoa và cho trái việc tưới nước càng cần chú ý nhằm cung cấp đủ nước, hỗ trợ cho trái phát triển và đạt tiêu chuẩn chất lượng khi thu hoạch.
Làm cỏ
Làm cỏ đều đặn và thường xuyên trong mỗi lần tiến hành bón thúc cho vườn trồng bí đao. Kết hợp làm cỏ thủ công với xới xáo, vun gốc đầy đủ.
Cố định dây leo
Khi thân cây phát triển được 50cm lúc này bà con dùng đất để chặn ngang phần đốt, cách khoảng 1 – 2 đốt tiếp tục chặn để cây bí ra thêm rễ bất định, hút thêm được dinh dưỡng để nuôi trái. Sau khoảng 3 – 4 ngày tiến hành chặn một lần, đồng thời định hướng quá trình phát triển của ngọn bí. Khi ngọn bí từ hốc này bò sang tới hốc bên kia mới bắt đầu nương dây để cho bí leo giàn. Đảm bảo quá trình leo giàn một cách tự nhiên, không để dây bí bị vặn.
Chúng ta sử dụng rơm, hoặc dây chuối để buộc cố định ngọn bí vào giàn. Cần đặc biệt chú ý buộc vào phầng nách lá để tránh tác động tiêu cực làm tổn thương thân cây. Yêu cầu cần bắt chéo dây đều trên giàn, tránh để che rợp khi bí ra hoa.
Phòng trừ sâu bệnh
Bí đao khi canh tác thường gặp một vài loại sâu bệnh hại như rệp, sâu xênh, sâu vẽ bùa, hay thối đốt cây, sương mai, phấn trắng, héo xanh,… Bởi thế, trong quá trình canh tác cần kiểm tra vườn trồng thường xuyên để kiểm soát tình hình.
Ngay khi phát hiện sâu bệnh hại xuất hiện cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phù hợp, liều lượng theo yêu cầu để giải quyết nhanh chóng.
Kỹ thuật bón phân cho cây bí đao sai trái
Bón lót
Với giống cây trồng lấy trái như bí đao việc bón lót yêu cầu sử dụng phân bón hữu cơ thông dụng là phân bò, trùn quế, phân gà…. . Sau khi làm đất tiến hành bón lót, sau đó ủ hoai mục khoảng 10 – 15 ngày trước khi đưa cây con ra trồng. Riêng trùn quế bón xong trồng trực tiếp không cần ủ
Bón thúc
Bón thúc trong quá trình cây bí đao sinh trưởng sẽ thực hiện khoảng 3 đợt chính. Cụ thể là:
- Bón thúc lần 1: Khi cây bí đao có từ 2 – 3 lá thật lúc này tiến hành xới phá váng, bón thúc và vun nhẹ gốc. Sử dụng phân bón NPK 20-20-15 với liều lượng tiêu chuẩn là 20 – 30kg/ 1000m2.
- Bón thúc lần 2: Thời điểm thực hiện khi cây bắt đầu ngả ngọn leo giàn hoặc bò trên mặt ruộng bằng phân bón NPK 20-20-15 với liều lượng sẽ là 20 – 30kg/ 1000m2.
- Bón thúc lần 3: Sử dụng 20 – 30kg/ 1000m2 phân bón NPK 17-7-17 tiến hành bón thúc lần cuối cùng sau khi bí đao đã ra trái rộ.
Kỹ thuật trồng bí đao là hết sức đơn giản, dễ dàng áp dụng. Dễ dàng cho năng suất cao, thích hợp với nhiều loại đất thì bí đao trở thành giống cây trồng canh tác được nhiều bà con lựa chọn. Hy vọng với chia sẻ về kỹ thuật trồng và chăm sóc chi tiết kể trên sẽ giúp ích cho bạn khi lựa chọn bí đao cho diện tích canh tác của mình.
Nguồn Phân bón Hà Lan
Trùn quế Phước Hiệp kính chúc bà con bội thu
Th1027
Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây mướp đắng (khổ qua)
Mướp đắng, hay còn được biết tới với tên gọi là khổ qua là giống cây trồng thuộc họ bầu bí. Con người thường trồng mướp đắng để lấy trái phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, hữu ích cho người dùng. Cùng tham khảo kỹ thuật trồng và chăm sóc cây mướp đắng tiêu chuẩn thông qua bài viết để áp dụng thuận lợi trên vườn trồng của gia đình mình.
Chuẩn bị trước khi trồng mướp đắng
Thời vụ trồng thích hợp
Đặc trưng của mướp đắng là có thể đưa vào trồng quanh năm đều sinh trưởng và cho trái theo nhu cầu của con người. Tuy nhiên, thời vụ lý tưởng cho cây phát triển nhất chính là Đông Xuân từ tháng 10 tới tháng 1 năm sau.
Ngoài ra, vụ Hè Thu được đánh giá cao ở năng suất tùy nhiên thường đối mặt với tình trạng bị ruồi đục trái. Vì vậy, khi cân nhắc trồng vào giai đoạn này bà con cần đặc biệt lưu tâm trong quá trình chăm sóc.
Chọn giống mướp đắng
Bạn có thể cân nhắc mua hạt giống tại các đại lý uy tín, hoặc sử dụng trái mướp đắng chất lượng của vụ trước để lấy hạt. Nếu tự chuẩn bị hạt giống cần ưu tiên chọn trái lớn, cầm chắc tay. Sau đó bổ trái khi đã già, lấy hạt rửa sạch và phơi thật khô. Việc ngâm ủ sẽ được tiến hành khi mùa vụ tới.
Ngoài ra, đối với việc mua giống bán sẵn bà con có thể cân nhắc một số giống phổ biến, được đưa vào trồng nhiều như:
- Giống mướp đắng địa phương: khổ qua xiêm, TH-12,…
- Giống mướp đắng lai F1 tiêu biểu như Chiatai, 054 và 185, hay East-west 241,…..
Làm đất và lên liếp
Đặc điểm nổi bật của mướp đắng là có thể trồng thích hợp trên nhiều loại đất khác nhau. Tuy nhiên, yêu cầu của đất trồng phải đảm bảo độ tơi xốp, được làm sạch cỏ, độ thoáng khí cao. Trong đó, ưu tiên dùng đất thịt pha cát mang tới điều kiện sinh tưởng hoàn hảo nhất.
Yêu cầu với diện tích canh tác khổ qua cần được tiến hành cày xới kỹ càng, dọn sạch cỏ dại và tàn dư của vụ trồng trường đó. Sau đó bón lót, rắc thêm vôi bột để khử khuẩn. Hoàn thành việc bón lót thì lên liếp, phơi ải khoảng 20 ngày trước khi trồng.
Tiêu chuẩn của luống trồng khổ qua cần hoàn thành với chiều rộng từ 0.6 – 0.8m, độ cao từ 20 – 30cm là hợp lý. Sau khi lên luống cần căng màng phủ theo chiều dài của luống. Đảm bảo mảng phủ cần kéo sát mép rãnh để tránh tình trang cỏ mọc ảnh hưởng tới quá trình phát triển của cây.
Kỹ thuật trồng khổ qua
Mướp đắng khi trồng cần được thực hiện qua đầy đủ các bước chính là xử lý hạt giống, gieo hạt và trồng dự trù. Trong đó cụ thể yêu cầu của từng bước trong quy trình này sẽ là:
Xử lý hạt giống
Hạt giống đã chuẩn bị trước đó chúng ta đem ngâm cùng nước nóng trong thời gian khoảng 5 – 6 giờ đồng hồ. Nước ấm sử dụng pha theo tỷ lệ tiêu chuẩn là 2 sôi 3 lạnh. Sau khi ngâm xong bà con đem ủ trong khăn ẩm thời gian khoảng 24 giờ.
Lúc này, đem hạt giống rửa sạch bằng nước để loại bỏ hết lớp nhờn bên ngoài. Tiếp tục đem ủ trong khăn ẩm sạch cho tới khi hạt nứt nanh mới tiến hành đem gieo. Cần chú ý để hạt nứt nanh, mọc rễ với độ dài vừa phải.
Gieo hạt
Canh tác mướp đắng thông thường hạt giống sẽ được gieo trực tiếp xuống luống trồng đã chuẩn bị trước đó. Tra hạt trực tiếp xuống lỗ trồng sau đó phủ lên một lớp đất mỏng lên trên cùng. Cần chú ý khi tra hạt bạn cần đảm bảo đặt đầu nứt nanh xuống phía dưới. Cuối cùng phủ lên một lớp rơm rạ, hoặc lớp tro ủ hoai mục.
Với mỗi hốc trồng bà con nên gieo khoảng 5 – 7 hạt phòng trừ tình trạng sâu đất, hay dế phá hoại. Sau khi hoàn thành việc gieo hạt giống thì tưới đẫm nước nhằm duy trì độ ẩm cho đất lý tưởng, thúc đẩy hạt nhanh chóng nảy mầm, phát triển thành câu con.
Trồng dự trù
Bên cạnh việc gieo trực tiếp trên luống trồng thì trồng dự trù cần được cân nhắc thực hiện. Chúng ta nên trồng dự trù thêm một số cây trong bầu đất để sử dụng dặm vào những hốc không lên, hoặc cây quá yếu, bị sâu bệnh phá hoại,… sau một khoảng thời gian canh tác.
Chăm sóc cây mướp đắng
Chăm sóc cây khổ qua khá đơn giản với một vài yêu cầu cơ bản nhất định. Trong đó, cách thực hiện yêu cầu cần tuân thủ chính là:
Tưới nước
Trồng mướp đắng, hay những loại cây trồng khác việc cung cấp đủ nước ảnh hưởng tới quá trình cây sinh trưởng. Việc tưới đủ nước, đều đặn hàng ngày cần được chú ý thực hiện đầy đủ. Trong đó, giai đoạn cây đang ra hoa, nuôi trái thì việc tưới nước cần được chú trọng.
Không để vườn trồng đất quá khô, tuy nhiên cũng cần chú ý để tình trạng ngập úng không xảy ra. Ngoài ra, trong điều kiện thời tiết mưa nhiều việc tránh ngập úng cần thực hiện tránh ảnh hưởng tới quá trình cây phát triển, thậm chí là chết cây.
Làm cỏ
Duy trì việc làm cỏ thường xuyên nhằm kiểm soát độ thông thoáng cho luống trồng. Không tranh dinh dưỡng, giảm thiểu nguy cơ mầm bệnh xuất hiện đều được đảm bảo tốt. Việc làm cỏ cho diện tích trồng mướp đắng cần kết hợp với xới xáo, vun gốc.
Thông thường, việc làm cỏ khi canh tác giống cây trồng này sẽ được tiến hành thủ công bằng tay. Thực hiện đều giúp không gian sinh trưởng của mướp đẳng được đảm bảo tốt nhất.
Phòng trừ sâu bệnh
Mướp đắng khi trồng có nhiều loại côn trùng phá hoại sẽ phải đối mặt. Trong đó thì sâu đất, rệp, sâu xanh, bọ rẫy, hay bọ trĩ, rầy mềm,… là khá thường gặp. Việc kiểm tra vườn trồng thường xuyên cần được hết sức lưu tâm. Nhờ đó, việc canh tác sẽ có được kết quả cao như yêu cầu.
Song song với đó, bệnh hại cây mướp đắng thường thấy là lở cổ đất, đốm nâu trên lá, hoặc bệnh virus, héo rũ,… Loại bỏ lá úa, cắt tỉa lá bệnh khi xuất hiện, đồng thời sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phù hợp cần được chú ý thực hiện. Qua đó, việc xử lý các vấn đề sâu bệnh hại vườn trồng mướp đắng được giải quyết tốt.
Làm dàn leo
Việc làm hệ thống giàn leo đúng kỹ thuật tạo điều kiện cho khổ qua có thể sinh trưởng thuận lợi. trong đó, yêu cầu cơ bản trong quy trình làm giàn sẽ là:
- Trà leo: Khi cây con phát triển có khoảng 3 – 4 lá thật thì lúc này cắm trà cần được thực hiện. Sử dụng cọc trà chiều dài khoảng 2.2 -2.5m với mật độ sử dụng là 2.500 cây/ 1000m2. Sử dụng cắm theo hình chữ A, có cả trà ngang đảm bảo độ chắc chắn.
- Giăng dây: Hoàn thiện hệ thống dây gân phủ toàn bộ hệ thống giàn trên và giàn ngang. Từ đó việc sinh trưởng, nuôi trái dễ dàng với hệ thống dàn leo chắc chắn.
Tiêu chuẩn bón phân cho cây mướp đắng
Phân bón khuyến khích sử dụng là các dòng phân hữu cơ: heo, bò, gà, trùn quế . Bà con sử dụng liều lượng phù hợp tương đương với diện tích trồng cụ thể. Trong đó, liều lượng trùn quế100 – 120 kg/ 1000m2.
Tiến hành bón lót ngay sau khi làm đất xong xuôi. Bón lót kết hợp với rắc vôi bột để cải thiện độ giàu dưỡng chất, cũng giúp khử khuẩn cho đất trồng tốt hơn. Sau đó, phơi ải thời gian tiêu chuẩn trước khi bắt đầu vào canh tác vụ mới.
Việc bón thúc cho cây mướp đắng yêu cầu cần được thực hiện thường xuyên. Đảm bảo nguồn dinh dưỡng cần thiết mới giúp mỗi cây trồng có khả năng sinh trưởng nhanh chóng, sai trái. Bà con cần lưu ý những vấn đề sau:
- Tần suất thực hiện: Khi cây con được từ 20 – 25 ngày tuổi việc bón thúc lần đầu tiên cần được thực hiện đầy đủ. Sau đó, cách khoảng 10 – 15 ngày sẽ thực hiện bón thúc một lần cho tới gần ngày thu hoạch.
- Loại phân bón sử dụng: Ưu tiên dùng một số loại như NPK Hà Lan 20-20-15, hay NPK Hà Lan 17-7-17, NPK Hà Lan 16-9-21, NPK Hà Lan 12-12-18,… cho cây mướp đắng.
- Kỹ thuật bón thúc: Tạo các lỗ nằm cách xa gốc cây một chút sau đó bón trực tiếp phân NPK xuống, phủ đất lên trên. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể pha loãng phân bón để tưới vào gốc liều lượng vừa phải.
Như vậy, việc trồng mướp đắng có thể tiến hành một cách đơn giản và hiệu quả cho từng hộ gia đình. Dù là trồng với mục đích gì, diện tích cụ thể bao nhiêu thì áp dụng theo đúng kỹ thuật kể trên cũng tạo ra những cây trồng chất lượng, xanh tốt và cho thu hoạch năng suất cao.
Nguồn : phân bón Hà Lan
Th1027
Hậu Giang: 99 vùng trồng đã được cấp mã số để phục vụ xuất khẩu
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Ông Võ Xuân Tân, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp tỉnh Hậu Giang cho biết, trong sản xuất nông nghiệp việc ứng dụng khoa học, công nghệ rất là cần thiết, cũng như vấn đề truy xuất nguồn gốc, sản xuất làm sao nông sản có mã số vùng trồng. Quy trình sản xuất gắn với truy xuất nguồn gốc là rất quan trọng.
Cây sương sáo của Phụng Hiệp đã được cấp mã số vùng trồng.
Thời gian qua, ngành nông nghiệp tỉnh đã thực hiện và cấp mã số vùng trồng để phục vụ xuất khẩu. Tính đến thời điểm hiện tại có 99 vùng trồng đã được cấp mã số, trong đó 40 mã số vùng trồng trên cây mít, 19 mã số vùng trồng trên cây xoài, 18 mã số vùng trồng trên cây nhãn, 10 mã số vùng trồng trên cây dưa hấu, 4 mã số vùng trồng trên cây chanh, 4 mã số vùng trồng trên cây chôm chôm, 2 mã số vùng trồng trên cây sương sáo, 1 mã số vùng trồng trên cây bưởi, 1 mã số vùng trồng trên cây lúa.
Ngoài ra, trong 9 tháng đầu năm, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã tiến hành giám sát 61 vùng trồng, gồm: 2 vùng trồng xoài xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ, Hàn Quốc, Australia, Newzealand và 1 vùng trồng chanh xuất khẩu sang thị trường châu Âu, 39 vùng trồng mít, 14 vùng trồng xoài, 4 vùng trồng chôm chôm và 1 vùng trồng nhãn xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Tin, ảnh: MỘNG TOÀN
Th1021
Người đưa cách làm nông nghiệp hữu cơ ở ‘trời Âu’ về xứ Thanh
Được chứng kiến cách làm nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn, tiết kiệm chi phí khi còn ở Cộng hòa Séc, chị Hoan đã quyết về quê lập nghiệp bằng chính mô hình này.
Ấp ủ cách làm ở xứ người
Sau hơn 20 năm bôn ba xứ người, chị Nguyễn Thị Hoan ở thôn Én Giang, xã Quảng Hợp (Quảng Xương, Thanh Hóa) mang theo dự định xây dựng trang trại sản xuất nông nghiệp theo hướng an toàn cho riêng mình và về nước lập nghiệp.
Chị Nguyễn Thị Hoan, thôn Én Giang, xã Quảng Hợp (Quảng Xương, Thanh Hóa), người tiên phong phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ, tuần hoàn ở địa phương. Ảnh: Trung Quân.
Chị Hoan chia sẻ: Trong thời gian sinh sống tại Cộng hòa Séc, được tận mắt chứng kiến cách làm, thụ hưởng những sản phẩm nông nghiệp chất lượng, an toàn, đã dấy lên trong chị suy nghĩ “tại sao mình không học hỏi, đưa cách làm nông nghiệp của họ về quê hương, vừa tạo được sản phẩm khác biệt trong bối cảnh vấn đề an toàn thực phẩm lúc bấy giờ đang rất nhức nhối, vừa tạo điều kiện cho những người thân của mình được sử dụng những sản phẩm chất lượng, an toàn”.
Năm 2015, vợ chồng chị về nước, kết hợp cùng một số người bạn đầu tư xây dựng trang trại sản xuất nông nghiệp tổng hợp trên cánh đồng trũng, người dân để hoang hóa tại xã Quảng Hợp (Quảng Xương). Tuy nhiên, sau một thời gian đi vào hoạt động, sự khác nhau về tư duy, định hướng không làm cho chị thỏa được ước mơ ấp ủ bấy lâu nay.
Đến năm 2019, chị quyết định tách ra làm riêng, tự xây dựng cho mình một trang trại sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ. Với kinh nghiệm, kiến thức tích lũy được, chị đấu thầu diện tích gần 2ha, đầu tư gần 3 tỷ đồng cải tạo đường giao thông; xây mới chuồng trại nuôi lợn, gà, vịt, ốc, cá, giun quế; lắp đặt 8.000m2 hệ thống nhà màng, nhà lưới để sản xuất dưa lưới và các loại rau ăn lá, rau gia vị.
Chị Hoan đầu tư xây dựng 500m2 chuồng nuôi giun quế để làm phân bón cho cây trồng, thức ăn cho chăn nuôi. Ảnh: Trung Quân.
Chị Hoan bộc bạch: Quyết định phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ thực sự là một quyết định khó khăn đối với vợ chồng chị. Bởi lẽ, qua tìm hiểu thị trường, chị nhận thấy người tiêu dùng trong nước đã nghe, biết đến nông nghiệp hữu cơ, nhưng để hiểu rõ, phân biệt được đâu là sản phẩm hữu cơ, không là hữu cơ và “chịu chi” để sử dụng sản phẩm đó còn rất hạn chế.
Trong khi đó, chi phí đầu tư cho sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ không hề nhỏ, quá trình canh tác phải tuân thủ nghiêm ngặt những yêu cầu về kỹ thuật… Tuy nhiên, được sự ủng hộ của gia đình, gạt đi những do dự, trang trại của chị vẫn kiên định đi theo con đường sản xuất nông nghiệp hữu cơ, an toàn.
Tiết kiệm 60% chi phí phân bón
Theo chị Hoan, việc lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hóa học về lâu dài không những làm tăng chi phí sản xuất mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe con người, gây nên hiện tượng chai đất, ô nhiễm môi trường… Do đó, để tạo ra sản phẩm chất lượng, tất cả các yếu tố trong quá trình canh tác đều phải được kiểm soát chặt chẽ.
Về đất trồng, đối với dưa lưới, trước khi đóng giá thể, đất được bổ sung phân giun quế, mùn cưa, men vi sinh, phơi kỹ lưỡng… Đối với vườn rau, đất được cày, phơi ải, diệt khuẩn, bón bổ sung phân đã ủ hoai mục, phân giun quế cho tơi xốp rồi mới tiến hành xuống giống.
Về nước tưới, chị khoan giếng với độ sâu hơn 100m, bơm qua hệ thống lọc để loại bỏ các tạp chất rồi mới đưa vào hệ thống tưới tự động cho cây.
Về phân bón, trang trại sử dụng toàn bộ bằng phân giun quế và phân bón hữu cơ. Ngoài ra, chị tận dụng, thu mua chuối, đu đủ chín ngâm ủ với men vi sinh thành dịch để tạo kali tự nhiên bón cho cây trồng.
“Phương pháp nuôi giun quế làm phân bón chị phải lên tận Phú Thọ để học. Cái hay của giun quế là sức ăn càng nhiều thì lượng phân tạo ra càng lớn. Chỉ với 500m2 nhà nuôi giun quế, trung bình mỗi năm trang trại của chị thu được tới khoảng 30 tấn phân, nhờ đó tiết kiệm được khoảng 60% chi phí so với việc sử dụng toàn bộ bằng phân bón hóa học”, chị Hoan chia sẻ.
Để phòng chống sâu bệnh gây hại, chị sử dụng các loại bẫy, thuốc BVTV sinh học để phun cho cây.
Vòng tuần hoàn khép kín
Chị Hoan cho biết: Để tạo ra sản phẩm chất lượng, bảo vệ môi trường xung quanh và tiết kiệm chi phí sản xuất, chị đã xây dựng trang trại theo hướng tuần hoàn khép kín. Các chất thải, phế phụ phẩm của trồng trọt sẽ được tận dụng triệt để để làm nguyên liệu cho chăn nuôi và ngược lại.
“Phân thải từ chăn nuôi lợn, gà, được đẩy xuống bể, ủ hoai mục cùng với men vi sinh dùng làm thức ăn cho giun quế và bón cho cây ăn quả, ngô… Phân của giun quế; thân giun (ngâm làm dịch giun) sử dụng bón cho dưa lưới, rau, làm thức ăn cho gà; rau, củ, quả loại, ngô, lúa được tận dụng làm thức ăn cho chăn nuôi…, cứ như vậy tạo thành một vòng tròn khép kín, không có chất thải ra ngoài môi trường”, chị Hoan cho hay.
Cũng theo chị Hoan, nhờ cách làm này mà các sản phẩm của trang trại từ chỗ ít người biết đến, hiện tại luôn trong tình trạng “cháy hàng” vì lượng đặt mua không ngừng tăng lên. Theo thống kê, trung bình 1 năm trang trại của chị xuất bán ra thị trường khoảng 5 tấn rau, củ các loại; hơn 20 tấn dưa vàng; 20 tấn lợn thịt; 6 tấn gia cầm, ốc giống hàng vạn con… Doanh thu trung bình của trang trại đạt gần 3 tỷ đồng/năm (chưa trừ chi phí); tạo công ăn việc làm cho 3 lao động thường xuyên và 6 lao động thời vụ.
Đặc biệt, năm 2020, trang trại của chị được cấp chứng nhận VietGAP. Năm 2021, sản phẩm dưa kim hoàng hậu của trang trại được công nhận sản phẩm OCOP 3 sao.
Chia sẻ về dự định trong thời gian tới, chị Hoan bộc bạch: Trang trại sẽ tiếp tục phát triển sản xuất theo hướng hữu cơ, tuần hoàn để tiến tới được cấp chứng nhận hữu cơ. Bên cạnh đó, mở rộng liên kết với các hộ dân có nhu cầu để tăng quy mô sản xuất, cung cấp ra thị trường những sản phẩm chất lượng, an toàn.
Nguồn tin: nongsanviet.nongnghiep.vn của Báo nông nghiệp
Th1019
Kỹ thuật bón lót là gì? Các loại phân dùng để bón lót
Trước khi cây gieo trồng, nếu môi trường đất ở khu vực gieo trồng không được tốt thì người nông dân cần phải tiến hành bón lót trước khi trồng. Bên cạnh bón thúc thì bón lót cũng là một kĩ thuật cơ bản mà mọi nông dân trong lĩnh vực trồng trọt phải biết và sử dụng các loại phân bón thích hợp sẽ đem lại một mùa vụ bội thu, có chất lượng nông sản tốt.
I. Bón lót có tác dụng gì? Tại sao phải bón phân lót?
Tại sao phải bón phân lót?
Bón lót là quá trình cung cấp nguồn thức ăn cho cây trước khi gieo trồng giúp cho những hợp chất khó phân hủy có đủ thời gian để tan rã, tạo điều kiện cho rễ cây trong quá trình sinh trưởng có thể hấp thu chất dinh dưỡng tốt nhất tạo nền móng vững chắc cho cây phát triển.
Với từng giống cây trồng sẽ có tần suất bón khác nhau, cụ thể:
- Cây hàng năm: Chỉ cần thực hiện một lần đầu tiên trước thời điểm gieo giống.
- Cây lâu năm: Chia ra thành nhiều thời điểm gồm giai đoạn trước khi gieo trồng, giai đoạn cây đã ngừng sinh trưởng trong năm và vào thời điểm sau khi thu hoạch.
II. Các loại phân bón lót và liều lượng bón phân lót
Các loại phân bón và liều lượng bón phân lót
1. Các loại phân bón lót được sử dụng
Phân có hàm lượng hữu cơ cao: Chủ yếu là phân gia súc (phân chuồng) đã ủ hoai mục và phân trùn quế, phân hữu cơ chế biến. Phân hữu cơ thường dùng để bón lót vì có thể cung cấp chất dinh dưỡng, làm cho đất tơi xốp, tăng cường hoạt động cho hệ vi sinh vật có ích trong đất. Cần bón sớm hoặc trước kkhi chuẩn bị gieo trồng để phát huy tác dụng.
Vôi hoặc chất cải tạo, điều hòa pH đất: Là loại tốt nhất là đối với các vùng đất bị chua phèn hoặc các loại rau ăn quả lâu năm.
Phân hóa học có chứa hàm lượng đạm thấp, lân cao:
– Với những loại cây màu ngắn ngày, cây ăn quả và rau công nghiệp lâu năm thường dùng cả phân kali và phân lân.
– Các loại phân hỗn hợp NPK có hàm lượng đạm cao, lân và kali thấp.
VD: Supe lân, lân nung chảy; DAP 18-46, NPK 5-10-3; NPK 16-16-8; NPK 12-15-5…
2. Liều lượng sử dụng phân bón
Tùy thuộc vào loại phân bón, tính chất đất đai, mùa vụ trong năm và loại cây trồng mà bổ sung lượng phân bón phù hợp. Có thể bón với lượng lớn hơn đối với đất có thành phần cơ giới nặng, giàu mùi. Còn đối với đất có thành phần cơ giới nhẹ nghèo mùn thì khi dùng phân đạm kali bón lót phải bón lượng nhỏ nếu bón lượng lớn thì sẽ xảy ra hiện tượng mất dinh dưỡng do quá trình rửa trôi,
Các loại phân bón khuyên dùng là phân trùn quế, phân chuồng, phân lân và cần sử dụng thêm một phần phân dễ tan như phân đạm, phân kali.
III. Các cách bón lót phổ biến hiện nay
Phương pháp 1:
- Rải đều phân bón trên khu vực đất chuẩn bị gieo giống
- Để tạo điều kiện cho phân bón vùi xuống đất bạn nên cày bừa đất đã được rải phân.
Phương pháp 2:
- Rải đều phân bón trên bề mặt đất cần gieo trồng
- Dùng một lớp đất mới phủ lên trên toàn bộ khu vực đã phân bón và cuối cùng là gieo giống cây.
Đặc biệt, với những loại cây lâu năm thì bạn nên đào hố sâu rồi cho phân bón vào hố trước khi gieo trồng.
Kỹ thuật bón lót không quá phức tạp nhưng vẫn cần phải nắm vững kiến thức cơ bản và hiểu biết về các loại phân bón để sử dụng phù hợp cho từng loại đất trồng, giống cây trồng khác nhau để đạt được hiệu quả tối đa giúp người nông dân có mùa vụ bội thu, chất lượng quả tốt.
Nguồn: phân bón Hà Lan
Th1019
Kỹ thuật trồng và chăm sóc ớt sừng trâu
Ớt nhưng không có vị cay, thậm chí đa số còn mang vị thanh ngọt nhẹ chính là đặc điểm gợi nhớ đến ớt sừng trâu. Giống ớt này cho năng suất kinh tế cao, giá bán ổn định, hình thức đẹp và giàu chất dinh dưỡng. Cùng tham khảo bài viết dưới đây để tìm hiểu kỹ thuật trồng và chăm sóc ớt sừng trâu được chia sẻ bởi chủ nông trại trồng loại ớt này lâu năm và chuyên gia khuyến nông.
Giá trị kinh tế của ớt sừng trâu
Ớt sừng trâu còn được gọi với tên khoa học là Capsicum annuum L. Đây là giống ớt mới xuất hiện vài năm trở lại đây nhưng đã được gieo trồng trên nhiều tỉnh thành. Người dân Việt vô cùng chào đón thực phẩm này. Biểu hiện là ớt sừng trâu được chế biến thành nhiều món ngon trên mâm cơm Việt.
Ớt sừng trâu được nghiên cứu là mang lại lợi ích dinh dưỡng tốt. Trong ớt chứa nhiều vitamin C, A, B6. Những vi chất có lợi như magie, natri, sắt, canxi, kali. Đặc biệt, khi ớt sừng có màu xanh sẽ chứa nhiều hợp chất capsaicin tự nhiên. Hợp chất này có tác dụng giảm cơn đau do chấn thương khớp, đau lưng ha bong gân.
Ớt sừng trâu mang lại giá trị kinh tế cao cho người nuôi trồng. Giá của quả ổn định trong khoảng 15,000 – 30,000 VND/kg. Năng suất của cây trung bình khoảng 3kg cây. Với những chi phí bỏ ra so với giá bán hiện tại, anh Vĩnh Phúc – chủ của nông trại ớt sừng trồng khoảng 30,000 cây đánh giá là mang đến hiệu quả kinh tế cao.
Chuẩn bị trước khi trồng ớt sừng trâu
Chuẩn bị đất
Chọn đất và khu vực trồng ớt sừng trâu cần đảm bảo những yêu cầu sau:
- Đất có khả năng thoát nước tốt, tơi xốp. Một vài loại đất phù hợp để trồng là đất cát pha, đất phù sa ven sông, đất màu canh tác lúa, đất thịt pha sét.
- Đất trung tính hoặc ít nhiễm phèn mặn, pH trong khoảng 5.5 – 7. Đất có hàm lượng dinh dưỡng sẵn có.
- Ớt sừng trâu là loài thực vật háo nước. Do vậy, nguồn nước tưới cho cây cần dồi dào và ổn định.
- Đất trồng nên được luân canh giữa các loài thực vật khác nhau như lúa, bắp, khoai tây, khoai lang… Nếu ruộng trồng các giống cây thuộc họ cà như cà tím, cà chua, ớt… thì cần xử lý đất như cày ải, rắc vôi sống khô để tiêu diệt các loại nấm bệnh trong đất.
Kỹ thuật làm đất trồng cây:
Đất trồng ớt sừng trâu cầu được cày sâu và phơi khô ải thật kỹ. Bạn nên rắc vôi để khử nấm bệnh. Ớt dễ dàng bị nhiễm bệnh khiến mất năng suất thu hoạch. Do đó, xử lý đất càng kỹ thì khả năng cây sinh trưởng, phát triển tốt càng cao.
Để trồng được cây chuẩn, bạn cần chuẩn bị mặt luống. Luống ớt đầu trâu có đặt điểm là cao và rộng. Mặt luống được thiết kế rộng 1m, chiều cao 20 – 30cm, trồng ở thành hai hàng theo chiều dọc. Rãnh thoát nước và để di chuyển rộng 40cm.
Ươm hạt
Ngâm ủ hạt giống ớt sừng trâu, thông thường thùi lượng hạt giống cho 1ha đất trồng ớt sừng trâu sẽ rơi vào khoảng 150 – 200g/ha. Với khối lượng này, cây giống sẽ rơi vào khoảng 33,000 – 35,000 cây con.
Ngâm hạt giống trong nước sạch, ấm, trung tính trong 6 – 8 giờ. Sau đó vớt hạt rồi ngâm trong dung dịch nước trừ nấm Funomyl. Pha dung dịch theo liều lượng 1g Funomyl với 1 lít nước sạch trong 30 phút. Sau đó vớt sạch và ủ trong khăn ẩm. Chọn vị trí ủ hạt râm mát, nhiệt độ 25 – 18 độ C. Thường xuyên tưới nước hoặc bọc trong bọc nilon để tránh thoát hơi nước.
Sau khoảng 48 giờ, hạt giống sẽ nảy mầm gần như hoàn toàn. Tỷ lệ nảy mầm của ớt sừng trâu cao >95%. Đem hạt đã nứt vỏ, thoát một chút rễ đi gieo.
Gieo cây giống ớt sừng trâu: Đất để gieo hạt cần có đặc điểm là mặt tơi xốp và đã được trộn đều với phân chuồng hoai mục. Sau khi trải hạt giống đều lên mặt đất, người gieo tiến hành lấp mặt luống lớp phân chuồng mỏng, đã hoai và sàng kỹ.
Tiếp tục trải lên mặt lớp đất tơi mỏng. Bỏ những cục đất to vì có thể làm cây giống bị cong hoặc lấp không cho mầm đâm lệch. Kiến thích ăn hạt cây giống nên người gieo cần rắc một chút thuốc diệt kiến như Basudin để xua đuổi.
Kỹ thuật trồng ớt sừng trâu
Trồng cây con
Sau 25 – 35 ngày gieo, cây mọc được 4 – 5 lá thật thì có thể xúc mang đi trồng. Nên lựa chọn những cây tươi tốt, đứng thẳng, lá xanh, chồi khỏe, không có dấu hiệu bị bệnh.
Ớt sừng trâu được trồng theo 2 hàng/luống. Trên 1 luống, ở mùa khô, theo chiều dọc cây cách cây 0.6m, hàng cách hàng 0.6m. Trong mùa mưa, cây cách cây và hàng cách hàng trên cùng 1 luống là 0.7m.
Chăm sóc ớt sừng trâu
Bón phân
Việc bón lót cần tiến hành vào thời điểm làm đất để làm giàu dưỡng chất, giúp đất trồng trở nên màu mỡ hơn. Bà con sử dụng phân bò, phân chuồng hoai mục, phân trùn quế, hoặc các dòng phân hữu cơ như: Organic 1, Organic Gold bón khoảng 100 – 120 kg/ 1000m2/ lần.
Sau khi trồng ớt được 10 ngày, rễ đã quen đất và cây phát triển thêm được khoảng 3 – 5 lá tiến hành bón thúc lần 1 và xới đất. Trong lần bón thúc đầu tiên sử dụng phân NPK Hà Lan 20 – 20 -15. Khi bón, bạn nên cho lên bề mặt đất, xa gốc cây sau đó xới đất phủ lên phân bón.
Bón thúc giai đoạn 2, 3, 4 thì lượng bón phân của từng giai đoạn sẽ chia đều phần phân bón NPK còn lại sau khi bón thúc lần 1. Trong 3 giai đoạn nuôi quả phát triển, nếu quả bị thối đuôi thì chủ trang trạng cần bổ sung thêm canxi bằng muối CaCl2 cho cây. Pha muối CaCl2 với nước và phun định kỳ 8 – 10 ngày/lần.
Tưới nước
Khi trồng mùa mưa, bạn cần đảm bảo ruộng có khả năng thoát nước tốt. Mùa nắng cây cần được tưới nước đầy đủ. Khi cây bước vào giai đoạn ra hoa, kết quả, nước đóng vai trò vô cùng quan trọng để tránh rụng bông, rụng trái.
Tỉa nhánh
Nếu ớt sừng phát triển cành con quá nhiều, bạn cần tỉa bớt lá và nhánh con để cây bớt phân tán rộng, tạo khoảng trống cho cây. Nếu lá quá xum xuê sẽ là nơi trú ẩn lý tưởng cho sâu bệnh.
Làm giàn
Ớt sừng có thể đạt được độ cao từ 70 – 100cm. Do đó, bạn cần làm giàn để cố định cây. Giúp cây đứng thẳng và vững chắc khi gặp gió bão. Giàn được làm bằng cây tre, gỗ, nứa kết hợp với dây nilon. Mỗi hàng cắm hai trụ cây lớn ở mỗi đầu. Chăng dây từng đầu này đến đầu kia của luống. Mỗi cây sẽ cắm 1 cây trụ nhỏ xuyên qua tâm của tán lá để làm cột chống đỡ.
Phòng trừ các tác động của môi trường
Khi trồng ớt, bạn có thể sử dụng màng phủ luống nông nghiệp để ngăn chặn cỏ đồng thời giúp ẩm đất tốt. Màng nên có chiều ngang 1.2m để bao phủ rộng toàn luống. Để tránh được các tác động của môi trường như mưa, gió, ánh nắng, sương giá, bạn nên sử dụng lưới chống nắng cho cây.
Phòng trừ sâu bệnh cho ớt sừng trâu
Giống ớt sừng trâu thường thường bị ảnh hưởng đến quá trình phát triển nếu đất trồng không được xử lý tốt. Đó là lý do công tác chuẩn bị đất như cày ải, phơi khô, rắc vôi cần được thực hiện tốt từ đầu.
Ớt sừng trâu hay có muội trắng tập trung dưới tán lá. Để phòng trừ, bạn có thể dùng lưới chống côn trùng hoặc phun thuốc muội.
Nội dung bài viết đã hướng dẫn bạn kỹ thuật trồng và chăm sóc ớt sừng trâu trong thực tế. Giai đoạn chuẩn bị đất và chăm sóc cây khi ra hoa, đậu quả vô cùng quan trọng để chất lượng quả đồng đều, to, đẹp. Hãy tiếp tục theo dõi chúng tôi để có thêm nhiều kinh nghiệm nuôi trồng các loại cây trái.
Nguồn: phân bón Hà Lan
Th1107