Kỹ thuật trồng và chăm sóc xoài cát Hòa Lộc
Kỹ thuật trồng và chăm sóc xoài cát Hòa Lộc là kiến thức nông nghiệp được nhiều người đặc biệt quan tâm. Khi nắm bắt thông tin vững vàng quá trình áp dụng trong sản xuất nông nghiệp sẽ mang lại kết quả tích cực, là nguồn thu đáng kể cho mỗi gia đình. Bà con hãy theo dõi bài viết dưới đây để có thêm những hiểu biết hữu ích để trồng xoài cát suôn sẻ, thành công tốt đẹp.
THỜI VỤ THÍCH HỢP TRỒNG CÂY XOÀI CÁT
Giống xoài cát hiện nay đưa vào canh tác có thời vụ tốt nhất là thời điểm bắt đầu mùa mưa. Thông thường, việc trồng vào khoảng tháng 5 – 7 dương lịch là hợp lý nhất. Điều kiện thời tiết mát mẻ, dễ chịu, đồng thời chủ động được nguồn nước giúp cây trồng sinh trưởng tốt hơn.
Đất trồng thích hợp trồng xoài cát
Xoài cát là giống cây ưa đất phù sa giàu dinh dưỡng, độ tơi xốp cao. Trong đó, đất phù sa tại Hòa Lộc là lý tưởng nhất, mang tới thành phẩm đạt chuẩn khi thu hoạch. Ngoài ra, một số khu vực tại Đồng bằng song Cửu Long cũng được quy hoạch canh tác giống cây này hiệu quả.
Cụ thể, đất trồng tiêu chuẩn cho xoài cát là đất phù sa, đất thịt pha cát với tầng đất dày, khả năng thoát nước tốt. Yêu cầu với đất trồng có thủy cấp không sâu vượt quá 2.5m, độ pH tiêu chuẩn từ 5.5 – 7, có thiết kế đe bao chống lũ đầy đủ.
CÁC BƯỚC CHUẨN BỊ TRỒNG XOÀI CÁT
Làm đất
Trên diện tích đất đã quy hoạch để trồng xoài cát bà con cần làm cỏ, dọn sạch rác bẩn từ các lần canh tác trước đó. Sau đó, tiến hành cày bữa, xới xáo kỹ lưỡng một lượt toàn bộ vườn trồng.
Tiến hành lên liếp là bước theo cần làm khi trồng xoài cát Hòa Lộc. Liếp yêu cầu chiều cao 50 – 80cm, chiều rộng khoảng 70cm đảm bảo không có tình trạng ngập ứng có khả năng xuất hiện mỗi khi trời mưa. Đối với khu vực đất quá thấp thì chiều cao mô khoảng 30 – 60cm, đồng thời đường kính mô khoảng 60 – 80cm.
Làm mô trồng
Bà con sử dụng đất bãi bồi ven sông, đất vườn, hoặc đất ở mặt rộng để làm mô trồng xoài cát. Đất làm mô nên được bón lót đầy đủ nhằm cải thiện được độ tơi xốp, làm giàu dưỡng chất hiệu quả.
Mật độ trồng xoài cát là 8 x 8m, hoặc 10 x 10m là hợp lý giúp cây có đủ không gian để sinh trưởng. Tuy nhiên, hiện nay ở một số vùng có xu hướng thay đổi trồng xoài có mật độ cao hơn với kích thước 5x6m, hoặc 6x6m. Khoảng cách này tương đương với mật độ từ 277 – 333 cây/ha. Sau thời gian nhất định canh tác sẽ đốn dần những cây nhỏ, kém phát triển.
Chọn giống
Một số phương pháp nhân giống xoài cát phổ biến hiện nay như tháp mắt, tháp đọt giúp giữ lại toàn bộ đặc tính tốt từ cây mẹ. Việc lựa chọn giống tốt giúp cây sinh trưởng khỏe mạnh, năng suất cao khi thu hoạch.
Yêu cầu khi chọn giống không sâu bệnh, không có tình trạng trầu xướng, lá tưới tốt, nên có khoảng 2 – 3 cơi đọt.
CÁC PHƯƠNG PHÁP TRỒNG CÂY XOÀI CÁT
Với từng cách nhân giống thì kỹ thuật trồng xoài cát có những yêu cầu riêng bà con cần tìm hiểu và áp dụng chuẩn xác:
Trồng xoài cát bằng hạt
Lựa chọn hạt giống đạt tiêu chuẩn sau đó đem trồng lên liếp với khoảng cách giữa các hạt khoảng 10cm. Trồng đơn giản trực tiếp xuống liếp cho tới khi hạt nảy mầm, cây phát triển có 4 lá xanh thì chuyển sang vườn giâm trồng khoảng cách là 30 x 60cm.
Cho vào gốc ghép, hoặc trồng vào bầu dưỡng lúc này sẽ được thực hiện. Trồng khoảng 1 – 2 tháng bà con đem ra trồng trên vườn sản xuất.
Trồng bằng cây tháp
Chọn nhánh chất lượng, cắt loại bỏ toàn bọ lá, yêu cầu phải mang mắt 1 tuần trước khi lấy phần mềm. Ưu tiên lấy tháp ở cành mọc mạnh, đồng thời phần gỗ vẫn còn xanh giúp việc tách vỏ dễ dàng hơn.
Thông thường, với phương pháp trồng bằng tháp cần dưỡng trong khoảng 4 tháng trước khi đưa ra trồng ở vườn sản xuất. Đây là cách trồng mang tới năng suất cao, giữ lại toàn bộ đặc tính tốt của cây mẹ, cho thu hoạch trong thời gian ngắn.
Trồng bằng cách chiết cành
Khả năng giữ lại được đặc tính của cây mẹ, chất lượng quả tốt, dễ dàng trồng theo hình thức tập trung,.. nên chiết cành được áp dụng phổ biến. Bà con tìm hiểu, liên hệ đơn vị cung cấp cây giống uy tín để mua được xoài cát giống chất lượng cao.
CÁCH CHĂM SÓC CÂY XOÀI CÁT HOÀ LỘC
Làm cỏ
Cỏ dại là nguyên nhân ảnh hưởng tới quá trình phát triển của cây xoài cát. Việc làm cỏ bằng phương pháp thủ công cần được tiến hành thường xuyên. Khi cây cỏ cao tối đa 20cm thì việc làm cỏ cần thực hiện.
Làm cỏ kết hợp xới xáo, đồng thời sử dụng chính phần cỏ đó để tủ lại xung quanh gốc cây. Nó giúp việc hạn chế mầm bệnh, sâu bọ, duy trì độ ẩm cho cây xoài tốt hơn.
Tưới nước
Trong khoảng thời gian đầu khi mới trồng bà con chú ý tưới nước đều đặn hàng ngày từ 3 – 4 lần. Xoài là giống cây ưa nước nên cần cung cấp nước thường xuyên và đầy đủ. Khoảng thời gian sau tần suất tưới cần giảm xuống song cần kiểm tra độ ẩm của đất thường xuyên. Đặc biệt, giai đoạn cây ra hoa, nuôi trái thì cung cấp đủ nước là yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên, tưới nhiều nước cần cẩn trọng tình trạng ngập úng có thể xảy ra.
Xử lý ra hoa sớm
Cây ra hoa quá sớm ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình thu hoạch, đối diện với tình trạng giá thành trái không đạt yêu cầu. Vì vậy, bà con khi trồng xoài cát cần biết cách xử lý ra hoa sớm theo đúng kỹ thuật là:
Khi cây non phát triển được 2 – 3 cơi đọt, hay cây già có từ 1 – 2 cơi đọt, mỗi đọt phát triển được 10cm, hoặc khi có lá lụa cần tưới thuốc nhanh chóng. Tham khảo lựa chọn loại thuốc hỗ trợ xử lý ra hoa phù hợp, đúng liều lượng.
Giai đoạn xoài ra quả
Khi cây xoài cát Hòa Lộc bắt đầu cho trái bà con dùng thuốc vi sinh xử lý, đồng thời kết hợp bọc quả lại. Việc xử lý khi xoài ra trái đảm bảo được chất lượng thành phầm của trái xoài khi thu hoạch.
Ngoài ra, bà con cần chú ý xử lý giúp xoài cát dễ đậu quả bằng cách tưới nước cho hoa xoài khi trời nắng. Ưu tiên tưới trước và sau khi trời mưa cũng vô cùng hiệu quả.
Tỉa cây tạo tán
Xoài cát sau khi trồng được 1 năm chúng ta tiến hành quá trình bấm ngọn. Bấm phần ngọn ở vị trí cao 0.6 – 1m tính từ mặt đất. Việc bấm ngọn khi thực hiện yêu cầu cần giữ lại khoảng 3 – 4 chồi.
Sau đó, khi các cành ngang ra được 2 – 3 lần đọt tiếp theo sẽ bấm ngọn lần kế tiếp. Bấm ngọn và tỉa cành thường xuyên, loại bỏ các cánh là bị bệnh giúp cây thông thoáng, sinh trưởng khỏe mạnh hơn.
KỸ THUẬT BÓN PHÂN CÂY XOÀI CÁT
Bón lót
Sau khi làm đất, làm mô yêu cầu cần bón lót giúp đất trồng giàu dinh dưỡng hơn. Bà con sử dụng phân bón hữu cơ (nên mua phân từ những công ty phân bón uy tín) hoặc kén trùn quế với liều lượng tiêu chuẩn sử dụng là 1 – 3kg/ gốc trồng. Bón trực tiếp vào đất trồng, sau đó để ủ hoai mục trong khoảng 15 – 20 ngày trước khi đưa cây giống vào canh tác.
Bón thúc
Bón thúc sau khi trồng cây xoài cát, trong quá trình cây sinh trường chia làm 2 giai đoạn chính sẽ là:
- Bón thúc trong hai năm đầu tiên: Duy trì việc bón thúc đều đặn 1 tháng/ lần cho cây xoài cát Hòa Lộc bằng một số loại phân bón như NPK 20-20-15 hay NPK 12-12-18,… Liều lượng sử dụng cho mỗi đợt bóng thúc sẽ là 0.5 – 1kg/ gốc trồng. Khi bón thúc bà con nên kết hợp với làm sạch cỏ, kết hợp bón kèm kén trùn quếvới số lượng từ 1 – 2 kg/ gốc , đồng thời xới xáo gốc tăng độ tơi xốp.
- Bón thúc khi cây 6 – 8 năm tuổi: Mỗi năm bà con bón thúc thành 3 đợt là sau khi thu hoạch vụ trước, lần hai trước khi xử lý ra hoa và lần cuối cùng khi cây xoài đã đậu quả. Sử dụng 0.5 – 1kg/ gốc trồng bằng NPK 17-7-17 hoặc NPK 16-9-21,… kết hợp bổ sung thêm kén trùn quế từ 3 – 5kg / gốc nhằm cung cấp thêm dinh dưỡng cần thiết để cây sinh trưởng.
Như vậy, với những chia sẻ trên đây chắc hẳn bà con đã có thêm thông tin về kỹ thuật trồng và chăm sóc cây xoài cát Hòa Lộc chi tiết nhất. Tham khảo thông tin, cân nhắc áp dụng trên diện tích canh tác của mình hợp lý để có vườn xoài cát tươi tốt, mỗi cây trồng sinh trưởng tốt và cho thu hoạch năng suất cao, thành phẩm chất lượng để bán ra thị trường được giá nhất.
Trùn Quế Phước Hiệp kính chúc Quý bà con bội thu, được mùa được giá
Nguồn: sưu tầm từ phân bón Hà Lan
Th1122
Mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím xuất khẩu
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Trái vú sữa tím của tỉnh Sóc Trăng không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn ở cả một số thị trường trên thế giới. Loại trái cây đặc sản này đầu tiên được xuất khẩu sang thị trường Mỹ vào năm 2018. Phát huy những thành quả đạt được, người dân một số địa phương trên địa bàn huyện Kế Sách (Sóc Trăng) đang mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím, đặc biệt là giống vú sữa tím tứ quý (cho trái quanh năm) nhằm đảm bảo sản lượng cung cấp cho thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu.
Ông Nguyễn Văn Thắng (bìa trái), xã Trinh Phú, huyện Kế Sách (Sóc Trăng) bên vườn vú sữa tím của gia đình đang vào giai đoạn bao trái. Ảnh: THÚY LIỄU
Để tìm hiểu thực tế việc nhà vườn mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím, chúng tôi đến tham quan vườn vú sữa của ông Nguyễn Văn Thắng, xã Trinh Phú, huyện Kế Sách, đúng lúc ông Thắng đang ngoài vườn bao trái vú sữa, nhằm bảo vệ trái không bị sinh vật gây hại tấn công. Ông Nguyễn Văn Thắng bộc bạch: “Tôi trồng 1ha vú sữa tím, tính đến nay vú sữa đã 8 năm tuổi, sản lượng trái thu về ước 20 tấn/năm, trừ hết các khoản chi phí cho lợi nhuận trên 200 triệu đồng/năm. Nếu so với các loại cây trồng khác thì trong những năm gần đây, trái vú sữa tím đem lại giá trị kinh tế tốt hơn, bởi nhà vườn áp dụng sản xuất trái theo quy trình VietGAP, giảm chi phí sản xuất và trái vú sữa “sạch” được doanh nghiệp thu mua xuất khẩu, nâng cao giá trị trái vú sữa, tăng thu nhập cho nhà vườn”.
Cũng là hộ dân canh tác vú sữa tím nhưng ông Trần Hữu Thắng, xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách chọn trồng cây vú sữa tím tứ quý. Hiện tại, diện tích vườn vú sữa tím 0,5ha của ông Thắng đã có 0,2ha đang giai đoạn cho trái, sản lượng trái thu về khoảng 14 tấn/năm, trừ chi phí lợi nhuận hơn 200 triệu đồng/năm. Ông Hữu Thắng chia sẻ: “Tôi trồng cây vú sữa tím tứ quý, bởi đây là loại cây cho trái quanh năm, đảm bảo nguồn thu nhập thường xuyên tại gia đình. Cùng với đó, trái vú sữa tím có nhiều đặc tính tốt như: trái không còn mủ khi chín, trái vú sữa có kích cỡ lớn, màu sắc đẹp và cây chống chịu độ mặn trong ngưỡng 3‰. Dự kiến hơn 1 năm nữa, vườn vú sữa 0,5ha của gia đình tôi sẽ cho trái đồng loạt, khi đó thu nhập từ vườn cây sẽ tăng lên gấp nhiều lần so với thời điểm hiện tại”.
Cách vườn vú sữa tím tứ quý của ông Hữu Thắng không xa là vườn vú sữa tím tứ quý của anh Trần Anh Văn, xã Nhơn Mỹ. Ông Anh Văn có vườn vú sữa tím tứ quý 1,6ha, đã cho trái hơn 2 năm qua. Ông Anh Văn chia sẻ: “Tôi chọn trồng vú sữa tím tứ quý, bởi đây là loại cây dễ trồng, nhẹ công chăm sóc, trái có giá trị kinh tế cao, cây cho trái quanh năm. Toàn bộ diện tích vườn trồng vú sữa tím trước đây là vườn nhãn tiêu da bò kém hiệu quả, tôi mạnh dạn cải tạo lại trồng vú sữa tím. Hiện tại, vườn cây vú sữa tím cho sản lượng trái ước 40 tấn/năm, được doanh nghiệp bao tiêu đầu ra, với giá 30.000 – 40.000 đồng/kg (tùy vào thời điểm thuận mùa và nghịch mùa). Sản lượng trái vú sữa như trên đem về thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Tôi dự định sẽ tiếp tục đầu tư mua thêm 2ha đất mở rộng diện tích trồng vú sữa tím tứ quý trong thời gian tới, nhằm cung ứng trái vú sữa tím phục vụ thị trường xuất khẩu”.
Thông tin cùng chúng tôi, ông Trần Anh Nhân – Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và Du lịch cộng đồng Mỹ Phước, xã Nhơn Mỹ cho biết: “Hợp tác xã có diện tích trồng vú sữa tím tứ quý hơn 30ha, trong đó có hơn 10ha đang cho trái và đã được cấp mã vùng trồng. Theo đó, trái vú sữa tím của hợp tác xã được doanh nghiệp ký kết hợp đồng thu mua quanh năm, với số lượng cung cấp từ 5 tấn – 10 tấn/tuần. Hiện tại, hợp tác xã đang tiếp tục mở rộng thêm thành viên tham gia vào hợp tác xã, nhằm tăng diện tích vú sữa trong hợp tác xã cũng như tăng sản lượng trái vú sữa cung ứng trên thị trường. Bên cạnh đó, thành viên trong hợp tác xã đang tiếp tục mở rộng diện tích trồng vú sữa tím, hứa hẹn thời gian tới sẽ hình thành vùng trồng vú sữa tím tứ quý lớn, cùng phương thức canh tác đáp ứng tốt thị trường xuất khẩu”.
Đồng chí Nguyễn Thành Phước – Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Sóc Trăng cho biết: “Diện tích vú sữa trên địa bàn tỉnh hơn 1.900ha, tập trung chủ yếu trên địa bàn huyện Kế Sách, với nhiều giống vú sữa, như: vú sữa lò rèn, vú sữa bơ hồng, vú sữa tím tứ quý… Với tiềm năng, lợi thế trong việc sản xuất trái vú sữa, đặc biệt là trái vú sữa tím xuất khẩu, bà con cần áp dụng kỹ thuật canh tác rải vụ cho trái vú sữa theo sự hướng dẫn của ngành chuyên môn. Vú sữa tím tứ quý là cây trồng quý vì cho trái quanh năm (một số giống vú sữa khác chỉ cho trái trong một khoảng thời gian), đáp ứng tốt thị trường trong nước và xuất khẩu. Vì vậy, bà con nông dân cần phát triển trồng vú sữa tím tứ quý, bởi đây là sản phẩm trái cây tiềm năng, phục vụ tốt cho thị trường xuất khẩu”.
THÚY LIỄU
Th1118
Tiền Giang: Nâng sức cạnh tranh cho trái sầu riêng xuất khẩu
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Hiện nay, tỉnh Tiền Giang đã mở rộng diện tích vùng chuyên canh sầu riêng xuất khẩu lên 16.890 ha, tập trung tại các huyện, thị vùng kiểm soát lũ phía Tây: Huyện Cai Lậy, huyện Cái Bè, huyện Tân Phước và thị xã Cai Lậy. Trong đó, có trên 11.000 ha cho thu hoạch với năng suất bình quân trên 28 tấn/ha và sản lượng trên 312.000 tấn trái cung ứng thị trường trong và ngoài nước.
*Vùng chuyên canh sầu riêng mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội to lớn
Sầu riêng mang lại hiệu quả kinh tế cao, là nguồn nông sản hàng hóa giá trị xuất khẩu lớn, có lợi thế cạnh tranh của tỉnh. Qua khảo sát, 70% – 80% sản lượng sầu riêng được xuất khẩu, chủ yếu là thị trường Trung Quốc. Trong đó, có khoảng 20% sản phẩm được chế biến trước khi xuất khẩu. Với giá bán từ 60.000 đồng/kg trở lên, mỗi ha sầu riêng hiện cho lợi nhuận hàng tỷ đồng, cao nhất trong các loại cây ăn trái đặc sản của tỉnh.
Toàn vùng hình thành được 15 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp kiểu mới, thu hút gần 16.000 thành viên đang tích cực phát huy vai trò tập hợp nông dân, liên kết sản xuất, giải quyết đầu vào và đầu ra cho nông sản hàng hóa. Qua đó, tạo việc làm cho khoảng 02 vạn lao động nông nghiệp địa bàn vùng kiểm soát lũ.
Hợp tác xã chuyên canh sầu riêng Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy) đi đầu trong liên kết chuỗi giá trị. Theo ông Huỳnh Tấn Lộc, Giám đốc Hợp tác xã, trong nước, Hợp tác xã xây dựng chuỗi cung ứng sầu riêng cho các siêu thị Co.opmart, các chợ đầu mối, cửa hàng thực phẩm sạch. Ngoài nước thì liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản có uy tín như: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phạm Gia (Tiền Giang), Công ty Cổ phần AMEII Việt Nam – Hà Nội chuyên xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,… Nhờ vậy, hợp tác xã luôn tiêu thụ sầu riêng cho nông dân với giá cao hơn thị trường bên ngoài từ 10% – 15%.
Xã Tam Bình (huyện Cai Lậy) nhờ tiên phong xây dựng vùng chuyên canh sầu riêng hiệu quả cao được công nhận xã đầu tiên của tỉnh đạt chuẩn và ra mắt xã nông thôn mới vào năm 2015. Thị xã Cai Lậy có gần 6.500 ha vườn cây ăn trái, chủ yếu chuyên canh sầu riêng được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới vào năm 2020. Huyện Cai Lậy với hàng chục ngàn ha sầu riêng chuyên canh đang phấn đấu đến cuối năm 2022 đạt chuẩn và ra mắt huyện nông thôn mới… là minh chứng hiệu quả kinh tế – xã hội mà vùng chuyên canh sầu riêng mang lại cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân những địa bàn khó khăn trước đây phía đầu nguồn sông Tiền của tỉnh Tiền Giang.
*Nhiều giải pháp nâng sức cạnh tranh cho cây trồng đặc sản
Giai đoạn 2022 – 2025, địa phương giữ ổn định diện tích hiện có cùng với tập trung ứng dụng khoa học – công nghệ, khuyến khích nông dân thâm canh theo hướng VietGAP, GlobalGAP; tổ chức lại sản xuất… gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, thích ứng biến đổi khí hậu, nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của trái sầu riêng đặc sản trên thị trường cũng như an toàn, truy xuất nguồn gốc, bảo vệ môi trường sinh thái. Qua đó, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội và phát triển bền vững cho vùng chuyên canh sầu riêng.
Đến năm 2025, sản lượng khoảng 360.000 tấn trái, có 25% diện tích được công nhận an toàn (VietGAP, GlobalGAP), 50% diện tích được cấp mã số vùng trồng và tỷ lệ sầu riêng xuất khẩu chiếm 70% – 80% sản lượng.
Tỉnh đưa ra các nhóm giải pháp về hỗ trợ phát triển sản xuất; chú trọng chuyển giao khoa học – kỹ thuật giúp giảm chi phí đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu; xây dựng và phát triển hệ thống dịch vụ sản xuất và tiêu thụ sầu riêng gắn với xúc tiến thương mại và phát triển thị trường…
Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang hướng dẫn nông dân về kỹ thuật trồng sầu riêng an toàn VietGAP hoặc GlobalGAP, kỹ thuật ủ phân hữu cơ bón cho cây trồng, kỹ thuật tỉa cành, tạo tán, xử lý ra hoa rải vụ, tưới phun sương tự động tiết kiệm nước,…
Hiện nay, ước tính có 96,3% diện tích sầu riêng được cơ giới hóa khâu tưới nước, tăng gần 26% so thời điểm cách đây 05 năm (2017); diện tích sử dụng phân hữu cơ đạt trên 91%, sử dụng nấm Trichoderma.sp trong quá trình chăm sóc đạt gần 66%, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật gốc sinh học chiếm 67,5% diện tích… Hàng năm, có gần 6.800 ha sầu riêng áp dụng kỹ thuật xử lý rải vụ theo ý muốn (sản xuất vụ nghịch) cho năng suất cao hơn và bán được giá, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn vườn cây chính vụ từ 1,7 – 2,3 lần.
Toàn vùng cũng có gần 200 ha và sản lượng mỗi năm gần 6.000 tấn trái đạt tiêu chí VietGAP. Bộ Khoa học và Công nghệ đã cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Cai Lậy” cho Hội Làm vườn huyện Cai Lậy – địa phương có vùng chuyên canh sầu riêng lớn nhất tỉnh, mở ra một tương lai mới cho sự phát triển bền vững của cây ăn trái đặc sản đang giúp nông thôn vùng lũ Tiền Giang giàu đẹp hẳn lên.
Xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, mở rộng thị trường xuất khẩu được đẩy mạnh, tháo gỡ điểm nghẽn về đầu ra cho vùng chuyên canh sầu riêng. Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang… tích cực kết nối cung cầu, tìm kiếm và mở rộng thị trường cho trái sầu riêng thông qua các kênh phân phối lớn như: Các siêu thị, trung tâm thương mại (BigC, Co.opmart, Bách Hóa Xanh…), Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines). Tỉnh quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã chuyên canh sầu riêng dự, tìm kiếm cơ hội làm ăn tại các Hội chợ kết nối cung – cầu hàng hóa; phối hợp Cục Xúc tiến thương mại, Hiệp hội Rau quả Việt Nam hỗ trợ các doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia các Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia và quốc tế nhằm quảng bá, giới thiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ trái sầu riêng.
Đồng thời, nắm bắt thời cơ khi trái sầu riêng được chấp nhận xuất chính ngạch sang thị trường Trung Quốc và các thị trường khó tính khác trên thế giới. Để được xuất chính ngạch, toàn vùng đã được cấp 02 mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích gần 100 ha. Tỉnh đang tiếp tục nộp hồ sơ, chờ thẩm định trong những ngày tới 21 hồ sơ với khoảng 1.100 ha, ước sản khoảng 30.000 tấn trái.
Đáng mừng là tín hiệu vui từ việc xuất khẩu chính ngạch giúp giá sầu riêng niên vụ 2022 – 2023 tăng mạnh. Hiện thương lái thu mua tận vườn sầu riêng đầu vụ từ 75.000 – 80.000 đồng/kg, với giá này mỗi ha nông dân thu lãi ròng trên 01 tỷ đồng.
Tỉnh triển khai dự án “Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sầu riêng tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030”, nhằm nâng cao giá trị trái sầu riêng thông qua hình thành chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ, áp dụng khoa học – công nghệ, gắn kết sản xuất và kinh doanh, ứng dụng công nghệ xử lý sau thu hoạch, chế biến sâu và giảm tổn thất sau thu hoạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Mặt khác, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kỹ năng thương mại cho các hợp tác xã; hình thành phương thức sản xuất – tiêu thụ mới thông qua hợp đồng, nhân rộng mô hình Hợp tác xã sầu riêng Ngũ Hiệp… Từ đó, nâng cao thu nhập cho nông dân vùng chuyên canh và các đối tượng tham gia chuỗi liên kết; thực hiện thắng lợi mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp địa bàn kiểm soát lũ phía Tây theo hướng định hình nền nông nghiệp phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai và nông dân làm giàu.
Mộng Tuyết
Th1116
Sầu riêng nghịch vụ hiệu quả gấp đôi
nguồn tin Báo nông nghiệp
TIỀN GIANG Sầu riêng nghịch vụ có giá bán cao hơn từ 20 – 40 nghìn đồng so với chính vụ, cho hiệu quả kinh tế tăng gấp đôi so với chính vụ.
Sầu riêng nghịch vụ hiệu quả cao hơn từ 1,7 lần
Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, tỉnh hiện có khoảng 17.000ha cây sầu riêng. Trong đó khoảng 10.000ha cây đang trong thời kỳ kinh doanh, năng suất bình quân 28 tấn/ha. Thời gian qua, nông dân đã vận dụng kỹ thuật canh tác sầu riêng nghịch vụ nhằm rải vụ, mang lại hiệu quả rất cao.
Từ năm 2018 đến nay, trung bình diện tích rải vụ khoảng 6.787ha/năm, năng suất đạt từ 18 – 20 tấn/ha. Chênh lệch năng suất giữa xử lý rải vụ so với vụ thuận từ 0,5 – 2 tấn/ha; giá bán dao động từ 60.000 – 95.000 đồng/kg, chênh lệch giá bán tăng từ 20.000 – 40.000 đồng/kg. Sản xuất rải vụ thu hoạch nghịch vụ cho hiệu quả kinh tế cao hơn chính vụ trung bình từ 1,7 – 2,3 lần.
Hơn một tháng qua, giá trái sầu riêng nghịch vụ tại Tiền Giang ổn định từ 70.000 đồng/kg trở lên. Ảnh: Trọng Linh.
Hơn một tháng nay, trái sầu riêng nghịch vụ được các thương lái thu mua xô tại vườn với giá cao và ổn định, từ 70.000 đồng đến hơn 80.000 đồng/kg. Với mức giá ổn định như hiện nay, mỗi ha cây sầu riêng, nhà vườn có thu nhập khoảng 1 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, sản lượng thấp, nhất là sầu riêng đạt chuẩn để xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc vẫn không đủ số lượng để cung ứng cho đối tác. Bởi để trái sầu riêng được chấp nhận xuất chính ngạch sang thị trường Trung Quốc cần có mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói. Thời điểm này, tỉnh Tiền Giang mới có 2 mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích gần 100ha. Cơ quan chức năng cho biết đang tiếp tục nộp hồ sơ, chờ thẩm định trong những ngày tới 21 hồ sơ với diện tích khoảng 1.100ha, ước sản khoảng 30.000 tấn trái.
Ông Dương Trần Trọng Quang, Chủ tịch UBND xã Hội Xuân, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, địa phương có 600ha cây sầu riêng chuyên canh chia sẻ: Thời điểm này, đầu ra của trái sầu riêng rất ổn định, cung không đủ cầu. Ông Quang cũng cho biết hiện chỉ mới có khoảng ¼ diện tích sầu riêng nông dân xử lý bắt đầu có trái. Đến cuối tháng 11 (âm lịch), sầu riêng mới chín rộ, bà con rất phấn khởi.
Áp dụng đồng bộ kỹ thuật theo hướng hữu cơ
Theo Sở NN-PTNT Tiền Giang, công tác chuyển giao khoa học, kỹ thuật cho nông dân ứng dụng vào sản xuất là một trong những giải pháp làm giảm chi phí đầu tư, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm sầu riêng. Ngành NN-PTNT đã tổ chức nhiều lớp hướng dẫn cho nông dân về kỹ thuật trồng sầu riêng theo hướng an toàn, với các kỹ thuật phổ biến như ủ phân hữu cơ để bón sầu riêng, tạo tán, tỉa cành, xử lý ra hoa trái vụ, phủ bạt trong sản xuất, tưới phun sương.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các chế phẩm sinh học để xử lý phân chuồng, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, nấm Trichoderma sp. và các phế phụ phẩm trong sản xuất sầu riêng là những tiến bộ giúp bà con kiểm soát các loại nấm hại rễ, góp phần tạo nên cây sầu riêng khỏe, đạt năng suất cao và tiết kiệm chi phí. Đến nay, diện tích sử dụng phân bón hữu cơ đạt trên 90% diện tích; sử dụng nấm Trichoderma sp. chiếm gần 66%; sử dụng thuốc BVTV sinh học chiếm trên 68% diện tích sầu riêng trong vùng Đề án phát triển cây sầu riêng của tỉnh.
Ngoài ra, cơ giới hóa trong tưới nước được ứng dụng vào sản xuất sầu riêng ngày càng tăng, giúp tiết kiệm chi phí, gia tăng lợi nhuận cho nông dân. Đến cuối năm 2021, ước tính có trên 96% diện tích áp dụng cơ giới hóa trong tưới nước, tăng gần 26% so với năm 2017.
Thời gian tới, nhằm nâng cao giá trị trái sầu riêng, Sở NN-PTNT Tiền Giang cho biết: Tỉnh đã và đang triển khai dự án “Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sầu riêng tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030”. Qua đó hình thành chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ, áp dụng khoa học công nghệ, gắn kết sản xuất và kinh doanh, ứng dụng công nghệ xử lý sau thu hoạch, chế biến sâu và giảm tổn thất sau thu hoạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Th1114
Hành trình ‘cam Sài Gòn’ bén duyên đất Nam Đông
nguồn tin: Báo nông nghiệp
THỪA THIÊN – HUẾ Bây giờ, ‘cam Sài Gòn’ đã trở thành giống cây trồng chủ lực ở huyện miền núi Nam Đông. Nhưng ít ai biết, để có thành quả hôm nay là cả một chặng đường dài…
Cách đây hơn 40 năm, vùng núi rừng Nam Đông (Thừa Thiên – Huế) là điểm dừng chân của những hộ dân thuộc diện khó khăn sinh sống ở vùng ven đầm phá Cầu Hai (huyện Phú Lộc) và TP Huế di dân đến lập vùng kinh tế mới.
Tại huyện miền núi Nam Đông, vào thời điểm đó, những người đi xây dựng kinh tế mới không chỉ vượt qua khó khăn, phát triển kinh tế gia đình mà còn cùng với địa phương góp phần thay đổi diện mạo vùng đất này, trong số đó có gia đình ông Phan Văn Lâm trú ở xã Hương Xuân, huyện Nam Đông.
Năm nay, người trồng “cam Sài Gòn” ở huyện Nam Đông có một vụ mùa bội thu. Ảnh: Võ Dũng.
Đứng bên vườn “cam Sài Gòn” tiền tỷ rộng 4ha đang vào mùa thu hoạch, ông Lâm tự hào khoe đó là thành quả tích lũy suốt hơn 30 năm quyết tâm làm kinh tế mới của gia đình. Nhiều năm tích góp, đến nay, ông Lâm đã giải quyết được hầu hết các vấn đề kinh tế của gia đình, con cái được học hành, có công việc ổn định và đều có nhà, đất sản xuất. Điều mà theo nhiều người nếu không quyết tâm bám trụ làm kinh tế thì không thể có được.
Ông Lâm chia sẻ, lúc mới cùng gia đình lên định cư làm kinh tế mới ở Nam Đông muỗi nhiều vô kể. Nước cũng không có uống, gia đình ông phải đi tìm suối rất xa để lấy nước về sử dụng và phải dùng tiết kiệm. Đời sống khó khăn và sốt rét rừng khiến nhiều người chịu không nổi phải bỏ về quê. Tuy nhiên, cả nhà ông Lâm động viên nhau, cố gắng vượt khó, bám trụ lại để xây dựng đời sống mới.
Ông Lâm kể, nhiều người đã thắc mắc với ông tại sao cam trồng trên vùng đất Nam Đông lại có tên riêng “cam Sài Gòn” mà không phải tên khác. Đó là vào năm 1980, khi mới lên vùng đất Nam Đông lập nghiệp, bà con lúc đầu chỉ biết trồng mít, dứa, cây cau… Những năm sau, nhà nào có người vào Nam làm ăn cứ đến mỗi dịp lễ Tết về thăm quê đều đem một vài cây cam về tặng.
Vào vụ thu hoạch, người đi hái cam thuê cho các chủ vườn ở huyện Nam Đông có thu nhập từ 250.000 đến 300.000 nghìn đồng/ngày công. Ảnh: Võ Dũng.
Nhận thấy cây cam dễ trồng, thích hợp thổ dưỡng, lại cho quả ngọt và có mùi thơm rất đặc biệt nên người dân ở địa phương thay nhau trồng trên rẫy, vườn, rồi chiết cành, nhân giống, sau đó cam được trồng khắp tất cả các xã trong huyện miền núi Nam Đông. Cũng từ đó, bà con gọi giống cam đó là “cam Sài Gòn” cho đến tận hôm nay.
“Lúc đầu nhiều người chưa quen, bây giờ nhà vườn nào trồng cam ở huyện Nam Đông điều gọi giống cam địa phương là “cam Sài Gòn” để phân biệt với các loại cam khác có nguồn gốc từ xã Đoài (cam Vinh) hay cam Cao Phong”, ông Phan Văn Lâm giải thích cặn kẽ.
Còn với ông Phan Thế Xê, 61 tuổi, trú thôn 9 xã Hương Hòa (huyện Nam Đông), chính nhờ giữ giống “cam Sài Gòn” mà đến nay ông được các chủ vườn đặt cho biệt danh “tỷ phú cam”. Hơn 30 năm, ký ức của những ngày đầu theo gia đình lên vùng đất mới lập nghiệp vẫn còn vẹn nguyên.
5 năm đầu khi bắt tay vào khai hoang là quãng thời gian khó khăn bộn bề đối với gia đình ông Xê. Giải quyết xong vấn đề sốt rét thì việc trồng cây lương thực ngắn ngày không còn cho năng suất. Cái đói, nghèo luôn hiện hữu, bệnh tật rình rập, nhiều lúc ông muốn buông xuôi để trở về quê cũ. Tuy nhiên, sự động viên, chia sẻ của những người cùng chí hướng và với quyết tâm chiến thắng đói nghèo, đến nay, gia đình ông Xê đã có hơn 7ha cam, trong đó chủ yếu vẫn là giống “cam Sài Gòn” đặc trưng.
“Cam Sài Gòn” đã giúp nhiều người dân Thừa Thiên – Huế đổi đời trên quê hương mới. Ảnh: Võ Dũng.
Ông Phan Thế Xê nhớ lại: Hồi đó bà con trồng theo phong trào. Ông cũng vậy, cho nên năm 2005, ông bắt đầu trồng giống cam địa phương mà người dân ở đây vẫn quen gọi là cam Sài Gòn. Vụ đầu, ông trồng 300 gốc, vụ bói thu được 25 triệu đồng. Thời điểm đó, với vợ chồng ông 25 triệu đồng là rất lớn, có ngủ mơ cũng không thấy được.
Thắng lợi, ông mạnh dạn đầu tư thêm. Đến mùa “cam Sài Gòn” đơm hoa, cả gia đình mừng, hoa cam trắng cây, tưởng sẽ được mùa lớn, nhưng chẳng may năm đó thời tiết không thuận, trời mưa to, cam hỏng hết, nhà ông chặt bỏ cây, ôm một món nợ. Nhiều anh em kỹ sư thấy ông buồn, mới dành thời gian để chia sẻ. Nghe chuyện của ông, anh em đã tìm hiểu, chỉ nguyên nhân của sự thất bại. Không ngại khó, ông chuyển sang trồng cam trái vụ. Dành hết vốn liếng, cộng thêm số tiền vay mượn từ người thân, vợ chồng ông mua 4ha đất đồi để trồng thử. Chưa yên tâm, ông mua hẳn một dàn máy vi tính, nối mạng, mày mò học thêm kỹ thuật chăm sóc… Sau 3 năm “ăn cam, ngủ cam”, ông đã bán được lứa cam bói đầu tiên. Năm tiếp theo, thương lái đã bắt đầu tìm đến vườn.
Số tiền bán cam được ông quay vòng, tái đầu tư nên đến nay, gia đình ông đã có hơn 1.000 gốc cam. Vụ cam đầu tiên năm 2015, ông thu hoạch được 48 tấn, trung bình 1,2 tạ/cây, giá bán từ 18 đến 25 nghìn đồng/kg, doanh thu đạt khoảng một tỷ đồng.
Th1109
‘Điểm danh’ 7 loại cây ăn trái chủ lực trong kế hoạch phát triển ngắn hạn
Nguồn tin : Báo nông nghiệp
Tỉnh Vĩnh Long “điểm danh” 7 loại cây ăn trái chủ lực sẽ được chú trọng phát triển, xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc trong thời gian tới.
Mới đây, Bộ NN-PTNT đã ban hành Quyết định 4085/QĐ-BNN-TT về việc phê duyệt Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030. Theo đề án này, tỉnh Vĩnh Long được xác định là một trong những địa phương phát triển 7 loại cây ăn trái chủ lực, gồm: Xoài, nhãn, cam, bưởi, chôm chôm, sầu riêng, mít, để cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tỉnh Vĩnh Long đã xây dựng thành công thương hiệu riêng “Bưởi năm roi Mỹ Hòa”. Ảnh: Kim Anh.
Theo Sở NN-PTNT tỉnh Vĩnh Long, toàn tỉnh hiện có trên 62.000 ha diện tích trồng cây ăn trái, so với cách đây 5 năm diện tích này tăng lên đáng kể. Trong đó, mặt hàng bưởi năm roi, sầu riêng đang tạo nên thế mạnh xuất khẩu tương đối tốt cho tỉnh. Để triển khai có hiệu quả Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030, UBND tỉnh Vĩnh Long đã giao Sở NN-PTNT tỉnh phối hợp với các địa phương triển khai thực hiện.
Đối với bưởi năm roi của tỉnh Vĩnh Long đã quá nổi tiếng, được trồng nhiều tại các vùng ven sông Hậu như: TX Bình Minh, huyện Tam Bình, Trà Ôn và Bình Tân. Hiện nay, mặt hàng này đã xây dựng được mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói và có thương hiệu riêng “Bưởi năm roi Mỹ Hòa”. Bên cạnh đó, địa phương có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh làm cầu nối để trực tiếp đưa mặt hàng bưởi năm roi tỉnh Vĩnh Long xuất khẩu đến nhiều quốc gia.
Tuy nhiên, do thời gian canh tác lâu năm, các giống bưởi có phần suy yếu, gây ảnh hưởng đến chất lượng trái bưởi. Chi Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Long hiện đang thực hiện công tác cải tạo, phục tráng lại giống bưởi. Đồng thời, đơn vị cũng tập trung cải tạo, nâng cao độ phì nhiêu, khử các mầm bệnh trong đất. Cũng như thực hiện một số mô hình cải thiện chất lượng đất trồng thông qua việc sử dụng phân hữu cơ, nấm đối kháng để sử dụng trong đất.
Với cây sầu riêng, ngành nông nghiệp tỉnh xác định, công tác xây dựng mã số vùng trồng đáp ứng điều kiện xuất khẩu chính ngạch là việc cần thiết. Ông Nguyễn Vĩnh Phúc, Chi Cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Long cho hay, kể từ thời điểm sầu riêng trở thành mặt hàng xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc, đã có nhiều doanh nghiệp tìm đến tỉnh Vĩnh Long để đặt vấn đề liên kết tiêu thụ, hỗ trợ xây dựng mã số vùng trồng.
Ông Phúc thông tin thêm, trong giữa tháng 11, sẽ có một cuộc hội thảo triển khai quy trình xây dựng mã số vùng trồng sầu riêng. Thông qua đó, các doanh nghiệp sẽ trực tiếp trao đổi với nông dân về việc tạo vùng nguyên liệu chính trong mã số vùng trồng, tập trung chủ yếu ở các huyện: Vũng Liêm, Mang Thít, Trà Ôn, Tam Bình và Bình Tân.
Cây cam cũng vươn lên trở thành mặt hàng cây ăn trái thế mạnh của tỉnh Vĩnh Long, với tổng diện tích canh tác trên 10.000 ha. Ảnh: Kim Anh.
Thời gian gần đây, cây cam cũng vươn lên trở thành mặt hàng cây ăn trái thế mạnh của tỉnh Vĩnh Long, với tổng diện tích canh tác trên 10.000 ha. Ông Phúc đánh giá, đây là cây trồng có tốc độ tăng cao nhất so với các loại cây trồng khác của tỉnh. Cùng với đó thì năng suất và sản lượng cũng tăng mạnh, phát triển nhiều nhất ở các huyện Trà Ôn, Tam Bình và Vũng Liêm. Để cây cam mang lại lợi nhuận bền cho bà con nông dân, ông Phúc cho hay, ngành nông nghiệp tỉnh hiện đang triển khai thí điểm một số mô hình chuyển giao sản xuất theo hướng GAP, hữu cơ, với sự đồng hành của doanh nghiệp, nông dân đã có khuynh hướng trồng cam thưa, đảm bảo tăng thời gian khai thác của cây cam.
Sau thời gian cây khoai lang gặp khó khăn về tiêu thụ, một số nông dân trên địa bàn huyện Bình Tân đã chuyển sang phát triển cây mít. Để mặt hàng này thoát ra khỏi tình trạng mất giá, khó khăn đầu ra, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh đang xây dựng kế hoạch tạo vùng nguyên liệu chính thống, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng, cũng như nghiên cứu một số giải pháp phòng trị bệnh xơ đen của cây mít để triển khai cho bà con nông dân.
Ngành nông nghiệp tỉnh sẽ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ và doanh nghiệp triển khai quản lý truy xuất nguồn gốc và tiêu thụ cây ăn trái chủ lực của tỉnh. Ảnh: Kim Anh.
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, hiện đang có doanh nghiệp Đông Phát Food hoạt động trong lĩnh vực chế biến mít sấy. Do đó, ngoài việc xuất khẩu tươi phục vụ cho thị trường Trung Quốc, trái mít cũng như các sản phẩm phụ của cây mít có thể tận dụng cung cấp cho nhà máy chế biến. Đặc biệt, khoảng 50% sản lượng mít trên địa bàn tỉnh đều được doanh nghiệp này thu mua.
“Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp tỉnh sẽ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ triển khai quản lý truy xuất nguồn gốc cũng như phối hợp với các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ có mã số vùng trồng. Chủ trương của ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long là mã số vùng trồng là tài sản của người dân. Vì vậy, bà con phải sử dụng và bảo vệ tài sản của mình. Qua đó, người dân sẽ ý thức hơn trong việc xây dựng mã số vùng trồng để đáp ứng thị trường, tránh đi những rủi ro trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm”, ông Nguyễn Vĩnh Phúc chia sẻ.
Tuy chưa phải là cây trồng chủ lực, thế nhưng cây dứa hiện đang manh nha phát triển ở vùng đất phèn huyện Trà Ôn với diện tích khoảng 5ha, làm nguyên liệu cho nhà máy chế biến xuất khẩu. Ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long đang xem xét đưa cây dứa vào định hướng phát triển vùng cây cây ăn trái, đăng ký nhãn hiệu và xây dựng thương hiệu cho cây dứa Bưng Sẩm ở xã Hòa Bình, huyện Trà Ôn.
Th1108
Các biện pháp cải tạo đất trồng cây ăn quả hiệu quả nhất
Đối với bà con nông dân, các biện pháp cải tạo đất trồng cây ăn quả sao cho đơn giản và đạt hiệu quả, năng suất cao nhất luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Vậy lý do vì sao cần cải tạo đất? Các biện pháp cũng như quy trình cải tạo đất trồng cây ăn quả thực hiện có dễ không? Tất cả các câu hỏi trên sẽ được chúng tôi chia sẻ, giải đáp ngay trong nội dung bài viết dưới đây, mời bà con cùng theo dõi!
Lý do tại sao cần cải tạo đất trồng cây ăn quả?
Việc áp dụng các biện pháp để cải tạo đất trồng cây ăn quả là rất quan trọng và cần thiết. Sau đây là một số lí do mà chúng ta cần phải tiến hành cải tạo đất trồng cây ăn quả để đem tới hiệu suất cây trồng là cao nhất:
- Trước khi trồng cây ăn quả thì việc cải tạo đất trồng là điều hết sức cần thiết và quan trọng mà chúng ta cần phải làm. Bởi sau thời gian dài canh tác, đất trồng sẽ có xu hướng yếu đi, cằn cỗi, bạc màu và không còn chất dinh dưỡng để nuôi các loại cây phát triển.
- Bên cạnh đó, đất canh tác cũ đã bị ngấm quá nhiều các chất kích thích, thuốc trừ sâu, thuốc hóa học làm đất yếu đi. Nếu không thực hiện các biện pháp cải tạo đất thì không chỉ có hại cho cây trồng mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của chúng ta.
- Thực hiện việc cải tạo đất đúng biện pháp, quy trình sẽ giúp đất trở nên tơi xốp, màu mỡ, giàu mùn và chất dinh dưỡng hơn. Điều này sẽ giúp các loại cây trồng, trong đó có cây ăn quả phát triển khỏe mạnh mẽ và đem lại hiệu quả năng suất cao.
- Việc cải tạo đất trồng là điều kiện tiên quyết trước khi chúng ta trồng cây ăn quả cũng như các loại cây khác. Bởi nếu đất không được cải tạo sẽ bị bạc màu, không còn dưỡng chất và trở nên khó canh tác hơn trong các vụ mùa sau.
- Cải tạo, nâng cao chất lượng đất cũng chính là cách để gia tăng hàm lượng dưỡng chất hữu cơ thiết yếu và giúp tăng năng suất cây trồng. Đồng thời, việc làm này cũng sẽ giúp loại bỏ đi các loại nấm mốc, vi khuẩn gây hại cho cây ăn quả nói riêng và các loại cây trồng khác nói chung.
Các biện pháp cải tạo đất trồng cây ăn quả hiệu quả
Để đảm bảo nguồn đất chất lượng và đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng cho cây ăn quả trong thời gian sinh trưởng, phát triển, đơm hoa và kết trái. Ngay sau đây, chúng tôi sẽ chia sẻ tới các bạn một số biện pháp cải tạo đất trồng cây ăn quả hiệu quả từ các loại phân.
Sử dụng phân bón hữu cơ
Trong nông nghiệp, phân hữu cơ luôn là lựa chọn lý tưởng, ưu tiên hàng đầu để cải thiện, nâng cao chất lượng đất trồng. Đặc biệt, loại phân bón hữu cơ như: Organic 1, Organic Gold, phân hữu cơ OM Basic không có mùi và mang lại hiệu quả cao trong việc giúp đất được tơi xốp và tăng chất dinh dưỡng trong đất.
Bên cạnh đó, đối với những mảnh đất bị bạc màu nếu muốn cải tạo để trồng cây ăn quả thì lựa chọn phân bón hữu cơ, đặc biệt là phân bò đã qua xử lý sẽ là tối ưu và đạt hiệu quả cao nhất.
Sử dụng phân trùn quế
Để cải tạo đất trồng cây ăn quả thì việc lựa chọn phân trùn quế cũng vô cùng hiệu quả. Loại phân này sẽ giúp hỗ trợ phá hủy các chất hữu cơ còn tồn đọng trong quá trình các bạn trồng cây và thu hoạch vụ trước. Không chỉ vậy, phân trùn quế có giá trị dinh dưỡng cao, rất có ích cho việc cải tạo đất trồng cây ăn quả. Vì vậy, khi các bạn đã sử dụng phân trùn quế thì không cần phải bón thêm bất kỳ loại phân nào khác trong quá trình cải tạo đất.
Bên cạnh những lợi ích mà phân trùn quế đem lại thì chúng cũng có điểm hạn chế đó là thường có giá thành cao hơn các loại phân bón thông thường. Mức giá có cao hơn là bởi lẽ các công đoạn để sản xuất ra loại phân này là khá khó khăn và phức tạp. Dù vậy thì các bạn cũng yên tâm mức giá của nó vẫn thuộc phân khúc mà hầu hết mọi người đều có khả năng mua dễ dàng và sử dụng.
Sử dụng phân bón vi sinh
Bên cạnh phân bón hữu cơ, phân bón trùn quế thì việc sử dụng phân bón vi sinh cũng được nhiều người làm nông nghiệp lựa chọn. Loại phân này không gây tính nóng cho đất trồng, vì vậy nó rất phù hợp và đem lại hiệu quả cao khi được sử dụng để cải tạo đất trồng cây ăn quả. Để giúp bạn hiểu rõ hơn, sau đây chúng tôi sẽ liệt kê chi tiết một số lợi ích khi sử dụng phân bón vi sinh:
- Sử dụng loại phân bón vi sinh là một trong những cách cải tạo đất trồng cây ăn quả đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời giúp cho đất được tơi xốp hơn.
- Giúp giải phóng các chất dinh dưỡng cho cây ăn quả hấp thụ tốt hơn.
- Muốn cây ăn quả phát triển khỏe mạnh, không bị sâu bệnh thì bạn nên bón phân theo tỷ lệ phù hợp để kích thích bộ rễ của cây phát triển toàn diện nhất.
- Hạn chế tối đa các mầm bệnh phát triển bằng sinh trưởng cộng sinh.
- Tăng cấu trúc và độ màu mỡ cho đất.
- Tăng cường khả năng giữ nước cho đất.
- Tăng cường phân hủy phụ phẩm nông nghiệp còn tồn tại trong đất.
- Giúp cây ăn quả tăng cường khả năng hấp thụ phân bón và chất dinh dưỡng có trong đất
Quy trình các bước cải tạo đất trồng cây ăn quả đúng kỹ thuật
Sau nhiều năm sử dụng thì đất trồng sẽ bị yếu đi, bạc màu và không còn độ tơi xốp, màu mỡ như trước. Chính vì vậy, qua mỗi mùa vụ thì các bạn nên tiến hành cải tạo đất để giúp cây ăn quả đạt năng suất cao và tránh các mầm bệnh là tốt nhất. Sau đây, mời các bạn cùng tham khảo quy trình các bước cải tạo đất trồng cây ăn quả cơ bản đúng kỹ thuật và mang lại hiệu quả tối ưu nhất
Bước 1: Bón vôi cho đất trồng cây ăn quả
Bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất trong việc cải tạo đất trồng cây ăn quả đó là tiến hành bón vôi cho đất trồng. Việc bón vôi này đóng vai trò thiết yếu để cung cấp nguồn canxi, nâng cao độ pH trong đất cũng như tăng khả năng sát khuẩn cho đất được hiệu quả.
Bước 2: Chuẩn bị các chân mô (hố) trồng cây ăn quả
Sau khi thực hiện xong bước bón vôi, các bạn tiến hành xới đều đất để vôi và đất được trộn lẫn vào nhau. Sau đó, các bạn xới đất và tạo phần chân mô có độ sâu khoảng 30cm là lý tưởng nhất để giúp rễ cây có thể phát triển mạnh hơn. Tuy nhiên, tùy vào loại cây ăn quả mà bạn xới chân mô (hố) to hay nhỏ.
Bước 3: Phơi đất trồng
Khi đã xới đất, tạo chân mô xong thì bạn để phơi đất từ 6 – 10 ngày để giúp giảm thiểu các nguồn sâu, bệnh có sẵn trong đất. Đồng thời việc phơi đất còn giúp làm giảm các tác nhân bất lợi khi trồng cây ăn quả.
Bước 4: Bổ sung chất hữu cơ cho mô đất trồng cây ăn quả
Sau khi phơi đất xong, bạn nhận thấy đất đã được khô ráo thì tiến hành bổ sung chất hữu cơ cho các mô đất trồng cây ăn quả. Bạn hoàn toàn có thể sử dụng phân hữu cơ có sẵn, được ủ hoai mục như phân bò, rơm mục, phân gà… là cực kỳ tốt. Loại phân này không chỉ rẻ mà còn đem lại hiệu quả rất cao.
Bước 5: Các mô đã hoàn tất
Các mô đất hoàn tất, đảm bảo đã được làm đúng kỹ thuật thì sẽ đảm bảo các yếu tố sau:
- Mô đất có độ tơi xốp, thông thoáng và có khả năng thoát nước, giữ ẩm tốt.
- Độ pH của mô đất là từ 5,5 đến 6,5.
- Các mô đất phải đảm bảo đầy đủ các dưỡng chất để cung cấp cho cây con sinh trưởng và phát triển tốt
Như vậy, nội dung bài viết trên chúng tôi đã chia sẻ tới các bạn những biện pháp cải tạo đất trồng cây ăn quả đạt hiệu quả tối ưu nhất. Hy vọng những thông tin trên sẽ giúp bạn nắm được các kỹ thuật cải tạo đất và có những vụ mùa chất lượng nhất.
sưu tầm và chỉnh sửa bởi Trùn quế Phước Hiệp
Kính chúc Quý bà con có vụ mùa bội thu
Th1108
Bỏ tiêu trồng cam theo hướng hữu cơ, thắng lớn
nguồn tin Báo nông nghiệp
QUẢNG TRỊ Chuyển đất trồng tiêu bị dịch bệnh sang trồng cam, có sự hỗ trợ kỹ thuật của khuyến nông theo quy trình hữu cơ, tưới nhỏ giọt, vườn cam đã cho quả sai trĩu.
Cam là một trong những cây ăn quả có múi mang lại giá trị kinh tế cao và đang dần khẳng định vị thế trong sản xuất nông nghiệp ở Quảng Trị. Sau gần 4 năm triển khai, mô hình trồng thâm canh cam đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm do Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị triển khai được đánh giá là hướng đi mới, đầy triển vọng.
Ấn tượng đầu tiên khi ghé thăm vườn cam của gia đình chị Hoàng Thị Mỹ Châu ở thôn Cam Phú, xã Cam Thành, huyện Cam Lộ là một màu xanh tươi mát, với những cây cam trĩu quả, mọng nước đang vào vụ thu hoạch đầu tiên.
Vườn cam của gia đình chị Châu cho quả đồng đều, sai trĩu ngay vụ đầu thu hoạch. Ảnh: Việt Toàn.
Dẫn chúng tôi tham quan vườn, chị Châu cho biết, đây là mô hình cam trồng mới áp dụng tưới nhỏ giọt. Các giống cam đưa vào mô hình là cam Xã Đoài lòng vàng và cam V2 chín muộn với quy mô 1,2ha. Đây là mô hình gia đình chị được Trung tâm Khuyến nông tỉnh hỗ trợ cách đây 4 năm trước.
Vùng đất này trước đây gia đình chị trồng tiêu nhưng do lâu năm, giống nhiễm bệnh, thoái hóa. Muốn chuyển hướng để cải tạo vườn tạp, chọn cây trồng thích hợp hơn, năm 2018, gia đình chị là một trong các hộ dân được Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị cho đi tham quan học tập kinh nghiệm trồng cam tại tỉnh Nghệ An.
Sau khi tham quan tìm hiểu, thấy cam là cây triển vọng và có khả năng phù hợp với vùng đất của gia đình, được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông tỉnh, anh chị đã tham gia vào mô hình trồng cam thuộc chương trình Khuyến nông Trung ương, nằm trong chuỗi dự án “Xây dựng mô hình và chuyển giao quy trình sản xuất cam, bưởi an toàn gắn với chuỗi giá trị tại các tỉnh miền Trung”.
Theo đó, Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị đã triển khai nhiều lớp tập huấn cho hộ tham gia thực hiện mô hình và các hộ dân trong vùng về kỹ thuật trồng, thâm canh cam đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Hướng dẫn cho bà con về kỹ thuật trồng mới, chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh an toàn sinh học trên cây cam; hỗ trợ hộ tham gia mô hình 100% giống, 50% vật tư gồm phân bón và thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học. Cử cán bộ chỉ đạo kỹ thuật hướng dẫn các hộ tham gia mô hình thực hiện từng khâu trong quá trình triển khai mô hình.
Với sự hỗ trợ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị, vườn cam rất sạch bệnh. Ảnh: Việt Toàn.
Chị Châu vui mừng chia sẻ: Tôi tham gia mô hình của Trung tâm Khuyến nông tỉnh từ năm 2018, gia đình được hỗ trợ cây giống, phân bón hữu cơ và được cán bộ hướng dẫn về quy trình kỹ thuật chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh cho cây cam. Để phòng ngừa sâu bệnh và đảm bào chất lượng sản phẩm, gia đình chị không sử dụng thuốc BVTV hóa học, không sử dụng phân bón hóa học mà thay vào đó là phân bón hữu cơ và thuốc BVTV sinh học. Mặc dù có tốn kém hơn nhưng lại rất an toàn cho người chăm sóc, cho cây cam và sản phẩm cam.
Trong quá trình triển khai mô hình, gia đình anh chị đã áp dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học vào vườn cam, áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt để xây dựng vườn cam sạch bệnh, nâng cao năng suất, chất lượng, góp phần phát triển cây cam theo hướng an toàn, bền vững.
Bên cạnh việc chọn giống, phân bón, nước tưới đặc biệt quan trọng, trong khi đó với địa hình đồi dốc, diện tích rộng thì cung cấp lượng nước đủ cho cây cam sinh trưởng và phát triển là bài toán khó, đặc biệt là trong những giai đoạn quan trọng như ra hoa, đậu quả, nuôi quả tình trạng thiếu nước sẽ ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng quả.
Được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông tỉnh, gia đình chị đã lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt quanh gốc cho toàn bộ diện tích cây trồng của trang trại. Với hệ thống nước tưới tự động, không những giúp vườn cam đủ lượng nước cần thiết mà chi phí nhân lực cũng giảm đi đáng kể.
Theo ông Trần Cẩn, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị, việc triển khai mô hình trồng cam theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm sẽ nâng cao nhận thức cho người dân trong việc trồng thâm canh cây cam nói riêng và cây có múi nói chung, giúp người dân nắm được các quy trình trồng, chăm sóc cam theo hướng hữu cơ, an toàn sinh học.
Hiện nay, sau 4 năm triển khai, vườn cam của gia đình chị Hoàng Thị Mỹ Châu đã cho thu hoạch lứa đầu, quả to ngọt, mọng nước. Vụ cam đầu tiên này, chị ước tính sản lượng cam đạt trên 5 tấn, với giá bán tại vườn 20.000đ/kg, thu về khoảng 100 triệu đồng. Nhận thấy cây cam phát triển tốt, cho chất lượng quả cao và giá trị kinh tế vượt trội so với các loại cây trồng khác, nhiều hộ dân trong vùng đã tìm đến mô hình của chị để học tập kinh nghiệm, chị Châu đều tận tình chia sẻ.
Th1108
Nở rộ phong trào trồng lúa lưu gốc
nguồn tin Báo nông nghiệp
Sau hơn 9.000 năm, cây lúa nước hàng năm giờ đây đã trở thành một loại cây lưu niên, sống lâu năm như là một tiến bộ mới nhằm tiết giảm chi phí sản xuất…
Trồng lúa lưu gốc (lúa chét) giảm tần suất làm đất có thể cho phép phục hồi cấu trúc đất, đồng thời cải thiện khả năng giữ nước, cộng đồng vi sinh vật và bảo vệ môi trường. Ảnh: The Land Institute
Điều này có nghĩa là nông dân có thể chỉ trồng một lần và thu hoạch đến tám vụ mà vẫn đảm bảo năng suất, một bước thay đổi quan trọng trong hệ thống nông nghiệp. Theo đó, từ khóa “ratooning”- hay còn gọi là sản xuất lúa chét, tức “công nghệ” trồng lúa nước bằng cách cắt phần lớn phần trên mặt đất của cây lúa nhưng vẫn để lại bộ gốc và rễ cho các vụ sau đang trở thành xu thế khá “hot” ở Trung Quốc và Uganda.
Một báo cáo mới trên tạp chí Nature Sustainability đã chia sẻ các kết quả nông học, kinh tế và môi trường của việc trồng lúa lưu gốc (lưu niên) trên khắp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hiện xu thế trồng lúa này đang làm thay đổi cuộc sống của hơn 55.752 hộ nông dân sản xuất nhỏ ở miền nam Trung Quốc và Uganda.
“Nông dân đang hè nhau áp dụng sản xuất giống lúa lưu gốc vì làm như vậy sẽ có lợi về mặt kinh tế, nhất là trong bối cảnh nông dân ở Trung Quốc (giống như nhiều nước) đang bị già hóa. Nhiều người dân nông thôn đều thích di cư đến các thành phố do trồng lúa rất tốn công chăm sóc và chi phí đầu vào cao”, giáo sư Erik Sacks, tại khoa Khoa học Cây trồng (Đại học Illinois) và là đồng tác giả của báo cáo, cho biết.
Ông Sacks, cùng với các cộng sự Fengyi Hu và Dayun Tao, bắt đầu bắt tay phát triển giống lúa lưu gốc mới vào năm 1999 với sự hợp tác giữa Học viện Khoa học Nông nghiệp Vân Nam và Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI). Trong những năm tiếp theo, dự án đã liên kết tiếp với Đại học Illinois, Đại học Vân Nam và Đại học Queensland (Australia) nhằm nghiên cứu sâu hơn dự án này.
Hình ảnh một ruộng lúa lưu gốc giống PR23 ở mùa thứ ba. Ảnh: The Land Institute
Các nhà nghiên cứu đã phát triển cây lúa lưu niên thông qua việc lai tạo, lai giống lúa hàng năm thuần hóa của châu Á với một loại lúa lâu năm hoang dã từ châu Phi. Tận dụng các công cụ di truyền hiện đại, nhóm nghiên cứu đã xác định một giống lai có triển vọng vào năm 2007, rồi trồng thử nghiệm trên diện rộng vào năm 2016 và cho ra đời giống lúa lưu niên thương mại đầu tiên có tên PR23 vào năm 2018.
Nhóm chuyên gia quốc tế tiếp đó đã dành 5 năm để nghiên cứu năng suất giống lúa lưu niên này và đối chứng với các giống lúa hàng năm tại các cánh đồng trên khắp tỉnh Vân Nam. Với một vài trường hợp ngoại lệ, năng suất lưu niên đạt 6,8 tấn/ ha, tương đương với lúa hàng năm là 6,7 tấn/ ha trong bốn năm đầu tiên. Sau đó năng suất bắt đầu giảm vào năm thứ 5 do nhiều yếu tố khác nhau.
Các nhà nghiên cứu khuyến nghị nông dân nên gieo sạ lại giống lúa lưu niên này sau chu kỳ 4 năm.
Ưu điểm vượt trội của việc trồng lúa lưu niên là nông dân không phải xuống giống theo mùa vụ hàng năm, nên có thể tiết kiệm được gần 60% công lao động và cắt giảm chi gần một nửa trong các khâu giống, phân bón và các chi phí vật tư đầu vào khác.
Ông Sacks nói: “Điều quan trọng nữa của vấn đề này là khi cả thế giới đang hướng tới mục tiêu cải thiện sinh kế nông dân trồng lúa nước, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Trong mùa vụ đầu tiên, về cơ bản mọi thứ đều giống nhau như năng suất, chi phí, coi như không có lợi thế nhưng từ vụ thứ hai và các vụ tiếp theo đã giảm giá thành sản xuất lúa rất lớn, bởi vì chúng ta không phải mua hạt giống, phân bón, không cần nhiều nước, cũng như ngày công. Đó chính là một lợi thế lớn”.
Theo các chuyên gia, lợi ích kinh tế của việc trồng lúa lâu năm có sự khác nhau giữa các địa điểm nghiên cứu, nhưng lợi nhuận dao động từ 17% đến 161% so với trồng lúa hàng năm. Ngay cả ở những địa điểm và những năm lúa lâu năm bị giảm năng suất tạm thời do sâu bệnh, nông dân vẫn đạt được lợi nhuận kinh tế lớn hơn so với trồng cây hàng năm.
Tiếp đến việc không phải làm đất hai lần một năm, trồng lúa lâu năm cũng mang lại những lợi ích đáng kể về môi trường khi nhóm nghiên cứu đã ghi nhận lượng cacbon và nitơ hữu cơ trong đất cao hơn được lưu trữ trong đất trồng lúa lâu năm. Ngoài ra, các thông số chất lượng đất khác cũng được cải thiện.
“Các loại cây hàng năm năng suất cao hiện nay thường yêu cầu loại bỏ hoàn toàn thảm thực vật trên bề mặt đất để bắt đầu vụ mùa mới và thường yêu cầu các loại đầu vào chính là lượng lớn thuốc trừ sâu và phân bón. Trong khi lúa lưu niên không chỉ mang lại lợi ích cho nông dân bằng cách cải thiện hiệu quả lao động và chất lượng đất, mà nó còn giúp bổ sung các hệ thống sinh thái cần thiết để duy trì năng suất trong thời gian dài”, giáo sư Hu, Trưởng khoa Nông nghiệp tại Đại học Vân Nam, cho biết.
Hiện các hợp phần khác của nghiên cứu vẫn đang tiến hành, bao gồm đánh giá khả năng chống chịu nhiệt độ của giống lúa lưu niên, với mục tiêu dự đoán ra vùng phát triển tối ưu của nó trên khắp thế giới. Theo đó, các thử nghiệm đã và đang được tiến hành tinh chỉnh đối với ba giống lúa lưu niên ở Trung Quốc và Uganda, nhằm nhanh chóng có được các tính trạng mong muốn như mùi thơm, khả năng kháng bệnh và chống chịu hạn để mở rộng phạm vi sản xuất trên quy mô toàn cầu.
Tim Crews, nhà khoa học trưởng tại The Land Institute, đồng tác giả nghiên cứu, cho biết: “Mặc dù những phát hiện ban đầu về lợi ích môi trường của lúa lưu niên là rất ấn tượng và đầy hứa hẹn, nhưng vẫn cần nhiều nghiên cứu và tài trợ hơn để hiểu được toàn bộ tiềm năng của nó.
“Các câu hỏi về khả năng hấp thụ carbon và cân bằng khí nhà kính trong các hệ thống trồng lúa lâu năm vẫn còn. Các nhà nghiên cứu cần phải đạt được tiến bộ trong việc trồng giống lúa nương lâu năm, điều này có thể hạn chế nạn xói mòn đất trên khắp Đông Nam Á. Thành tựu về giống lúa lưu niên được coi là bước tiến của nền nông nghiệp bền vững, thân thiện môi trường và có thể sửa chữa được “những sai sót của lịch sử”, theo ông Sacks.
(Phys.org)
Th1107
Xử lý cơi ngọn sầu riêng
- Vai trò của bộ lá
Từ thời điểm “ xổ nhuỵ” đến trái thành thục, nông dân thường áp dụng biện pháp hãm ngọn (chặn ngọn) để hạn chế rụng trái non, lệch trái. Do đó, thời điểm sau thu hoạch cần chăm sóc bộ lá khoẻ mạnh tối đa để đảm bảo nuôi cây trong thời gian dài
Lá cây có vai trò quan trọng trong đời sống sinh lý cây sầu riêng. Đây là cơ quan biến năng lượng mặt trời thành năng lượng hoá học (quang hợp). Tuỳ vào tuổi, độ sung của cây và điều kiện thời tiết mà sầu sẽ ra 2 – 3 cơi ngọn trước khi ra hoa
Chức năng quan trọng nhất của lá là thoát hơi nước và quang hợp, tạo lực hút dòng nước, ion khoáng từ rễ lên lá và đến các bộ phận khác ở trên mặt đất của cây. Giúp tổng hợp chất hữu cơ, cung cấp năng lượng và duy trì sự sống
Cần chăm sóc bộ lá sầu riêng phát triển khoẻ mạnh, tránh các dịch hại: nhện đỏ, rầy chảy, đốm lá, tảo đỏ,,,
Bộ lá là yếu tố quan trọng cần quan tâm sau thu hoạch, tiền đề để xử lý ra hoa, đậu trái, chống rụng trái non và tăng năng suất vụ tiếp theo
- Biện pháp xử lý cơi ngọn sầu riêng
a. tỉa cành tạo tán
Tiến hành tỉa cành tăm cạnh tranh dinh dưỡng, cành mọc ngược trong thân tạo điều kiện để ra ngọn/hoa đồng loạt. việc tỉa cành giúp cho ánh sáng có thể xuyên qua tán cây thông thoáng, giúp cho sự thụ phấn được dễ dàng và trái phát triển tốt
b. Xử lý giải độc
Đối với những vườn trước đó dùng biện pháp hãm ngọn (chặn ngọn) cần tiến hành giải độc cho cây trước khi bắt đầu vụ tiếp theo
Tuỳ theo quy trình hãm ngọn từng vườn mà áp dụng các sản phẩm giải độc khác nhau
3. Chăm sóc sầu riêng ra cơi ngọn
Giai đoạn 1: rửa vườn, phục hồi bộ rễ
- Dưới gốc: hỗ trợ ra rễ bằng các sản phẩm có chứa humic kết hợp bón phân chuồng ủ hoai, phân trùn quế, các dòng hữu cơ,…số lượng bón tuỳ vào tuổi của cây và năng suất vụ trước
- Trên lá: xịt rửa vườn tiêu diệt tồn dư dịch hại. Tuỳ tình trạng từng vườn mà xịt kết hợp thuốc để giảm chi phí nhân công nhân xịt. Lưu ý: không kết hợp phân bón lá và thuốc trừ bệnh trong giai đoạn này
Giai đoạn 2: sau 10 ngày hoặc sau khi ngọn sầu riêng nhú mũi giáo
- Dưới gốc: tưới nước đều, sau đó bổ sung NPK với hàm lượng đạm cao (có thể kết hợp thêm humic để tăng hiệu quả phân bón)
- Trên lá: hỗ ra cây ra ngọn nhanh mạnh bằng phân bón lá giàu đạm, amino để cây hấp thụ nhanh, mạnh. Kết hợp thuốc sâu để bảo vệ bộ lá non đang ra
Giai đoạn 3: sau 35 – 45 ngày (khi cơi ngọn đợt 1 già hoàn toàn), tiến hành làm cơi 2
- Dưới gốc: tưới đều nước, sau đó bổ sung NPK hàm lượng đạm cao hoặc phân bón Canxi Nitrat
- Trên lá: hỗ trợ cây ra ngọn bằng phân bón phân bón lá giàu đạm, amino để câp hấp thụ nhanh mạnh. Kết hợp thuốc sâu rầy để bảo vệ bộ lá (nên thay đổi thuốc so với lần 1 để hạn chế hiện tượng kháng thuốc)
Giai đoạn 4: khi cơi ngọn đợt 2 già hoàn toàn
Tiến hành ổn định tán để chuẩn bị xử lý làm bông. Phun các sản phẩm phân bón lá có hàm lượng 3 số bằng nhau như 20 – 20 – 20 kết hợp hữu cơ như phân trùn quế, phân bò, phân gà….
Lưu ý: tuỳ vào tình hình thực tế từng vườn, khu vực để điều chỉnh quy trình phù hợp hơn
Sưu tầm và chỉnh sửa bởi Trùn Quế Phước Hiệp
Kính chúc Quý bà con được mùa bội thu
Th1122