Sâu bệnh hại và biện pháp phòng trừ trên hoa ly
SÂU BỆNH HẠI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ
Lưu ý: Hiện nay, các thuốc BVTV đăng ký trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam để phòng trừ sâu bệnh hại trên cây hoa lily còn rất ít, một số đối tượng sâu bệnh hại không có loại thuốc nào được đăng kí phòng trừ. Chính vì vậy bà con nông dân có thể tham khảo một số loại thuốc bảo vệ phòng trừ đối tượng sâu bệnh hại tương tự trên cây trồng khác để sử dụng trên cây hoa lily. Tuy nhiên trước khi sử dụng đại trà, cần phun thử trên diện tích hẹp để tránh những rủi ro đáng tiếc xảy ra.
1. Bệnh hại lily
– Bệnh thối gốc (Phytophthora spp.)
+ Triệu chứng: Hoa, chồi non, rễ, rễ thứ cấp xuất hiện những đốm màu xanh đậm, trong điều kiện ẩm ướt đốm lan to và biến màu đen xám, cây bị héo, lá vàng, bộ rễ bị mất màu. Cây bị nhiễm bệnh vẫn còn gốc, cuống lá dính vào thân bị thối làm cho lá bị héo. Cây bị nhiễm bệnh không cho thu hoạch nhưng vẫn có thể hồi phục vào vụ sau.
+ Phát sinh: Phát triển mạnh ở nhiệt độ 20-250C, ẩm độ 90-95%. Thường xuất hiện sau khi mưa liên tục 2-3 ngày.
+ Phòng trừ: Phòng bệnh là chính, hạn chế lượng nước quá cao trong đất, không để đất ngập úng, và không để độ ẩm không khí >90%; không trồng trên vùng đất đã nhiễm bệnh; xử lý củ giống trước khi trồng.
– Biên pháp phòng trừ: Bổ sung thêm một số biện pháp
+ Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ
+ Tiêu hủy tàn dư cây bệnh tránh lây lan
Có thể tham khảo sử dụng các loại thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ: Matalaxyl + Mancozeb; Fosetyl –Aluminium, Metalaxyl
– Bệnh khô lá (Botrytis ulipica):
Đây là bệnh thường gặp khi trồng Lily, đặc biệt bệnh xuất hiện nhiều khi trồng lily ở ngoài trời. Bệnh này do nấm Botrytis ulipitica gây nên.
Triệu chứng: Đầu tiên là những đốm trắng trên lá, ngoài viền có màu nhạt, ở giữa vết bệnh có màu sẫm. Nếu bị nhiễm nặng trong điều kiện thời tiết nóng ẩm thì những vết đốm này có thể liên kết lại làm cho toàn bộ lá bị gãy và thối. Nguồn bệnh lây lan qua sự tiếp xúc nước, không khí, gió.
Phòng trừ bệnh
+ Thu gom toàn bộ tàn dư cây bệnh và tiêu hủy vào cuối vụ thu hoạch.
+ Những vườn bị bệnh nặng, nên loại bỏ sớm các cây nhiễm bệnh tránh lây lan.
+ Không sử dụng cây bệnh làm phân xanh, có thể dùng màng phủ nông nghiệp để hạn chế sự lây lan của nấm bệnh.
+ Trồng lily ở những vườn cao ráo, thông thoáng, thoát nước tốt, không nên trồng ở các khu vực thoát nước kém và độ che bóng quá cao.
– Bệnh mốc xám (Botrytis cinerea Pers).
Bệnh này cũng khá phổ biến ở lily. Bệnh do nấm Botrytis cinerea gây nên, chủ yếu là hại lá, cũng có khi hại cả thân và hoa.
Triệu chứng của bệnh: Là trên lá xuất hiện những đốm hình tròn hoặc hình trứng, to nhỏ khác nhau, chỗ bị hại mọc ra những sợi màu tro.
Phòng trừ bệnh: Có thể sử dụng một trong các loại thuốc Eugenol (Lilacter 0.3 SL) để phòng trừ bệnh mốc xám.
Ngoài ra có thể tham khảo sử dụng các loại thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ:
Carbendazim, Benomyl, Flusilazole, Propineb, Thiophanate-Methyl
– Bệnh thối củ:
Nguyên nhân: Do nấm Fusarium oxysporum.
Điều kiện phát sinh, phát triển: Nấm xâm nhập vào củ thông qua bộ rễ của phần củ và phần bẹ lá. Nấm có thể tồn tại trong đất và tàn dư cây trồng ít nhất 3 năm mà không cần sự có mặt của cây ký chủ. Bệnh phát sinh mạnh trong điều kiện nhiệt độ và ẩm độ của đất cao.
Triệu chứng: Vết bệnh có màu nâu nhạt hoặc nâu sẫm, có khả năng lan rộng lên các bẹ lá làm cho các bẹ lá bị tách rời ở phần gốc, sau đó củ bị thối. Cây bị bệnh làm cho bộ lá chuyển sang màu vàng, cây bị lùn và biến màu, phát sinh nhiều chồi nhỏ làm cho củ dần dần bị phân hủy.
Biện pháp phòng trừ: Nên ghi rõ các biện pháp phòng trừ để nông dân có thể áp dụng trong thực tế:
+ Không sử dụng củ giống có biểu hiện nhiễm bệnh, nên chọn củ sạch bệnh để làm giống. Khi phát hiện cây nhiễm bệnh cần nhổ bỏ và tiêu hủy. Ở những vườn bị bệnh nặng cần thay lớp đất mặt khoảng 45cm. Vệ sinh và khử trùng đất trước khi trồng.
+ Không nên bón nhiều đạm vì dư đạm củ sẽ bị mềm, phát triển nhanh và dễ bị nhiễm bệnh.
+ Sử dụng phân hữu cơ đã ủ hoai và tránh không để phân tiếp xúc trực tiếp với bộ rễ.
+ Trồng cây ở những nơi thoát nước tốt, tránh tưới nước lên cây trong những tháng mùa khô.
+ Bệnh phát triển mạnh ở những chân đất chua vì vậy có thể bón thêm vôi để tăng độ pH cho đất.
+ Trong quá trình chăm sóc tránh làm tổn thương cây.
+ Có thể sử dụng đất sạchvà trồng lyly vào chậu.
+ Sử dụng thuốc Trichoderma spp 106 cfu/ml (1%) + K-Humate 3.5%) + Fulvate 1% +Chitosan 0.05% + Vitamin B1 0.1% (Fulhumaxin 5.65SC) để phòng trừ bệnh.
*Bệnh thối rễ
Nguyên nhân: Do nấm Rhizoctinia solani, Pythium splendens, Cylindrocarpo destructans gây ra.
Điều kiện phát sinh, phát triển: Bệnh gây hại mạnh trong điều kiện thoát nước kém, kết cấu đất quá chặt và không thông thoáng.
Biện pháp phòng trừ:
+ Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ.
+ Tiêu hủy tàn dư cây bệnh.
+ Xử lý đất trước khi trồng.
+ Đảm bảo vườn thoát nước tốt.
Có thể tham khảo sử dung các loại thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ: Validamycin, Iprodione, Thiophanate -Methyl, Pencycuron.
2. Sâu hại lily
Rệp bông (Aphis gossypii Glover)
Chủ yếu gây hại thân, cành, lá. Rệp hút dịch lá làm cho cây khô héo, hoa biến dạng, đồng thời rệp bông là môi giới truyền bệnh virus hoa lá dưa (CMV) gây hại cho lily.
Phòng trừ: Làm sạch cỏ, vì cỏ là ký chủ chủ yếu của rệp, cắt bỏ lá, thân bị hại đem tiêu hủy
Có thể tham khảo sử dụng các thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ: Emamectin benzoate, Abamectin, Cypermethrin, Dinotefuran…
Bọ trĩ (Frankliniella intonsa)
Bọ trĩ là loại sâu nhỏ bò hoặc nhảy tập trung ở hoa hoặc lá. Sâu non thích núp ở trong nụ hoa gây hại. Sâu trưởng thành thích hút dịch ở bề mặt hoa tạo thành vân khác màu hoặc giảm màu sắc hoa.
+ Phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng, treo bẫy dính màu xanh trên đất trồng để bắt bọ trĩ.
Có thể tham khảo sử dụng các loại thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ: Imdacloprid, Abamectin, Cypermethrin, Dinotefuran, Emamectin benzoate…
Nhện (Rhizoglyphus robini)
Ở đất cát pha, đất bazan phát sinh nhiều nhện, nhện gây hại chủ yếu ở hoa, lá, rễ, củ Lily… làm nụ hoa rụng, hoa nở không đều.
– Phòng trừ: Xử lý củ giống trước khi trồng bằng cách ngâm nước nóng 400C trong 2 giờ.
– Có thể tham khảo sử dụng các loại thuốc có hoạt chất sau để phòng trừ: Diafenthiuron, Hexythiazox, Propargite, Abamectin, Fenpyroximate, Emamectin benzoate…
Nguồn: sưu tầm
Th224
Long An: Hàng ngàn ha thanh long xông đèn lo thất thu vì hạn mặn
Hàng ngàn ha thanh long ở Long An đang vào vụ xông đèn, nhưng tình hình khô hạn đang diễn ra khốc liệt khiến nhà nông như ngồi trên lửa.
Ông Nguyễn Vạn Thành – Giám đốc HTX Thanh long Vạn Thành (xã Hiệp Thành, Châu Thành) vừa cho biết, tình hình thiếu nước tưới cho thanh long đang diễn ra khá gay gắt do sông Tầm Vu đã dần cạn nước. Thậm chí, mương rạch nội đồng đã trơ đáy.
Hiện, để hạn hạn chế nước tưới, nông dân trồng thanh long chỉ tưới 7 – 10 ngày/lần.
“Hơn 30ha thanh long của HTX đang thiếu nước tưới. Bà con thành viên HTX đang hạn chế nước tối đa. Để có nước tưới bà con phải canh lấy nước ngọt chảy về từ phía Tiền Giang”, ông Thành cho biết.
Tuy nhiên, theo ông Thành, thời điểm này nông dân đang đồng loạt xông đèn để thanh long ra trái chuẩn bị vụ tới. Nếu thiếu nước tưới, chất lượng trái thanh long sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
“Bà con trồng thanh long đều biết thời điểm này hạn mặn đang diễn ra rất nghiêm trọng. Nhưng không thể vì thế mà không xông đèn cho thanh long ra trái”, ông bộc bạch.
Theo ông Trương Quang An – Giám đốc HTX Thanh Long Tầm Vu (thị trấn Tầm Vu) cũng thông tin, khu vực này cũng đang diễn ra tình trạng thiếu nước tưới cục bộ cho thanh long.
Theo Phòng NN&PTNT huyện Châu Thành, do khu vực trồng thanh long nằm gần biển nên trước khi tình hình hạn mặn diễn ra địa phương đã cho đóng khoảng chục cống ngăn mặn để trữ nước ngọt cho bà con trồng thanh long.
Ông Nguyễn Minh Mẫn nhận định, sắp tới nếu không có mưa, tình hình nước tưới cho thanh long ở Châu Thành thật sự nghiêm trọng, lúc đó các cánh đồng thanh long đang xông đèn sẽ đồng loạt ra trái.
“Chính quyền đang khuyến cáo bà con trồng thanh long phải dùng rơm ủ gốc, bón phân để giữ nước cho cây. Tưới nước tiết kiệm khoảng tuần/lần, mỗi lần 5 – 7 lít nước/gốc”, ông Mẫn thông tin.
Toàn tỉnh Long An hiện có 12.000ha thanh long. Riêng huyện Châu Thành – “thủ phủ” trồng thanh long của tỉnh, có 9.700ha.
Theo đánh giá của Sở NN&PTNT tỉnh Long An, toàn bộ diện tích trồng thanh long của huyện Châu Thành đều nằm trong diện bị ảnh hưởng của hạn mặn kỷ lục năm nay.
Theo Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Long An Nguyễn Chí Thiện, trước tình hình hạn, mặn đang diễn biến phức tạp, Sở đã cùng với các địa phương kiểm tra, rà soát, khoanh vùng các khu vực thường xuyên xảy ra khô hạn, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Qua đó, thực hiện các giải pháp công trình như nạo vét, đắp đập tạm. Tiến hành đặt các trạm bơm dã chiến tại các cống đầu mối để bơm nước vào đồng khi kiểm tra độ mặn đảm bảo phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh.Kiểm tra các tuyến đê bao xung yếu, cống đầu mối để kịp thời phát hiện sự cố và sửa chữa, khắc phục ngay không để nước mặn rò rỉ vào nội đồng ảnh hưởng chất lượng nguồn nước ngọt. Đóng cống nhiều tuyến kênh ngăn không cho nước nhiễm mặn ngoài sông xâm nhập sâu vào nội đồng.
Ngoài ra, phối hợp Công ty TNHH MTV Khai thác thủy lợi Dầu Tiếng – Phước Hòa để cung cấp, bổ sung, tăng lượng nước ngọt xả về sông Vàm Cỏ Đông khi độ mặn lên cao để kịp thời đẩy mặn, tranh thủ lấy nước ngọt phục vụ sản xuất.
Nguồn: báo dân việt
Th210
Thủ phủ điều Bình Phước bồn chồn ‘ được mùa, mất giá’
Sau Tết Nguyên đán Canh Tý 2020, nông dân “thủ phủ” điều Bình Phước bắt đầu thu hoạch những hạt điều tươi đầu mùa. Tuy nhiên, giá hạt điều tươi bán ra thấp hơn đầu mùa năm trước từ 10.000 đồng/kg đến 12.000 đồng/kg khiến người dân kém vui.
Người dân xã Phú Văn, huyện Bù Gia Mập dọn vườn để chuẩn bị nhặt trái điều rụng.
Năm nay, hầu hết vườn trồng cây điều đều ra hoa đồng loạt và đậu trái với tỷ lệ cao trên 50%. Tại các địa phương có diện tích trồng điều lớn, như huyện Bù Đăng, Bù Gia Mập, Bù Đốp…, hiện đã có nhiều vườn bắt đầu vào vụ thu hoạch hạt điều tươi.
Tuy nhiên, theo ghi nhận của phóng viên tại thời điểm này, giá hạt điều tươi được các đại lý, thương lái thu mua với giá dao động trên dưới 28.000 đồng/kg tùy địa phương. Với giá thu mua đầu mùa như hiện nay, theo nông dân trồng điều là thấp hơn 10.000 đồng/kg đến 12.000 đồng/kg so với đầu mùa năm ngoái.
Giá mua thấp đang khiến nông dân “thủ phủ” điều Bình Phước lo được mùa mất giá, khó khăn trong đời sống. Người dân trồng điều hy vọng thời gian tới vào vụ thu hoạch chín rộ giá thu mua sẽ cao hơn.
Năm ngoái, nhiều vườn điều tuy bị sâu bệnh nặng, năng suất thấp nhưng được sự vào cuộc quyết liệt của ngành chức năng cùng người dân nỗ lực chăm sóc, nên cây điều phục hồi, phát triển nhanh và tỷ lệ ra hoa đậu trái nhiều.
Anh Điểu Hùng có vườn hơn 4 ha ở thôn Thác Dài, xã Phú Văn, huyện Bù Gia Mập không khỏi buồn vì đầu vụ hai vợ chồng vào rẫy mới nhặt trái đầu mùa mà bán chỉ với giá 28.000 đồng/kg.
Anh Hùng chia sẻ: “Mùa điều năm nay đến muộn sau dịp Tết Nguyên đán mấy ngày, nên rất thuận lợi cho người dân dọn vườn và nhặt hạt tươi. Năm nay, cây điều đợt đầu đậu trái nhiều hơn năm trước, nhưng với mức giá thu mua từ vườn hiện nay thấp, người dân kém vui”.
Cũng tại huyện Bù Gia Mập, không khí tại gia đình ông Điểu Thanh ở thôn 3, xã Đắk Ơ cũng ảm đạm, không vui do giá thấp vào đầu mùa. Ông Thanh cho biết: “Năm nay, thời tiết thuận lợi hơn nhiều so với năm ngoái. Năm trước, thời tiết thất thường nên đã sinh ra nhiều dịch bệnh khiến năng suất giảm nhiều. Gia đình tôi đã phải đầu tư hàng chục triệu đồng tiền phân bón cũng như công chăm sóc để phục hồi cây điều. Vụ mùa này hầu hết cây cho ra hoa có tỷ lệ đậu trái cao và bắt đầu có thu. Điều được trái hơn nên người dân cũng vui, nhưng giá lại thấp nhiều so với đầu năm ngoái. Tôi sẽ dành một phần phơi khô chờ giá lên sẽ bán để có thêm tiền chi tiêu trong gia đình cũng như tái đầu tư vụ mùa năm tới”.
Còn tại huyện biên giới Bù Đốp, không khí thu hoạch hạt điều tươi cũng kém vui vì giá thu mua thấp hơn nhiều so với mùa trước. Gia đình hộ anh Trần Hiếu ở xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp cho biết: “Vụ mùa năm trước mất mùa, năm nay nông dân dồn sức khôi phục vườn điều do sâu bệnh gây hại với hy vọng vụ điều năm nay có nhiều khả quan. Diệt được sâu bệnh, thời tiết thuận lợi rồi người trồng điều lại như “ngồi trên đống lửa” vì giá giảm mạnh so với đầu mùa năm trước. Nếu giá thấp đến cuối mùa thì người dân trồng điều sẽ gặp khó khăn trong cuộc sống”.
Theo đánh giá của ngành nông nghiệp tỉnh Bình Phước đến thời điểm hiện tại, cây điều ít bị ảnh hưởng của thời tiết, sâu bệnh nên năng suất sẽ cao hơn năm trước. Tiến sĩ Nguyễn Văn Bắc, quyền Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bù Đốp cũng cho biết: “Với vai trò của trung tâm, chúng tôi đã khuyến cáo người dân thường xuyên theo dõi thăm vườn phát hiện bệnh hoặc sâu gây hại sớm để có biện pháp phòng trừ kịp thời. Hiện nay, hiện tượng gây hại trên cây điều chủ yếu là bệnh thán thư gây khô trái, khô hoa. Sâu hại chủ yếu là bọ xít muỗi gây thối trái non. Một số đối tượng khác như rệp xanh, rệp sáp cũng gây bệnh hại có thể làm mất mùa điều. Ngoài ra, cây điều phụ thuộc vào thời tiết rất nhiều, sự tác động của nhân dân chỉ là một phần hạn chế rủi ro do thời tiết. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, cây điều đang tương đối ổn và bắt đầu thu hoạch”.
Theo thống kê, hiện trên địa bàn tỉnh Bình Phước diện tích trồng điều có hơn 134.000 ha. Trong nhiều năm qua, cây điều được coi là cây xóa đói giảm nghèo của người dân ở tỉnh vùng đất đỏ Đồng Nam bộ này. Với giá thu mua hạt điều tươi đầu mùa giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái đang khiến người dân “thủ phủ” điều Bình Phước lo lắng về một mùa vụ kém hiệu quả.
Bài và ảnh: K GỬIH (TTXVN)
Th204
Thời virus corona, dừng đàm phán xuất khẩu chính ngạch sầu riêng
Theo Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường, bệnh viêm phổi cấp do biến chủng virus corona đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc, việc đàm phán ký nghị định thư xuất khẩu chính ngạch sầu riêng, khoai lang, thạch đen, yến cũng phải tạm dừng.
Tại Hội nghị thúc đẩy thương mại, phát triển sản xuất nông sản trước tác động của dịch bệnh corona do Bộ NNPTNT tổ chức chiều ngày 3/2, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết, bệnh viêm phổi cấp do biến chủng virus corona là loại dịch bệnh mới cực kỳ nguy hiểm, đe dọa tính mạng người dân và nền kinh tế toàn cầu.
Nguy hiểm hơn là yếu tố thời tiết khiến dịch này càng nguy hiểm. Mưa phùn, lạnh giá ở miền Bắc cực kỳ phù hợp với loại bệnh này, điều đó dự báo một tương lai ảm đạm cho phát triển kinh tế toàn cầu.
Việt Nam hiện có 8 người bị, 3 tỉnh, thành phố đã công bố dịch. Trước tình hình này Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị, yêu cầu các cấp ngành vào cuộc một cách quyết liệt.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, Trung Quốc là thị trường lớn, do đó, nông nghiệp sẽ chịu tổn thương nhất, ví dụ như nhiều mặt hàng thanh long, dưa hấu; tổn thương đến đầu tư.
“Hiện, tất cả các nội dung thương thảo giữa hai bên tạm dừng lại, ví dụ, sản phẩm sầu riêng, khoai lang, yến, thạch chuẩn bị ký nghị định thư để được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc nhưng hiện tại giờ chưa biết thế nào” – Bộ trưởng nêu một thực tế.
Trong khi đó, ông Nguyễn Đình Tùng (Hiệp hội Rau quả Việt Nam) cũng cho biết, doanh nghiệp xuất khẩu trái cây đi Trung Quốc đã bị tê liệt do ảnh hưởng của dịch cúm Vũ Hán, các thương lái đặt mua ở vựa để xuất khẩu sang Trung Quốc phục vụ Rằm tháng Giêng đã đặt cọc thì cũng bỏ luôn do giá xuống quá thấp.
“Đơn cử như sầu riêng, trước Tết, giá đạt 70.000 đồng/kg, nay chỉ còn 40.000 đồng/kg; thanh long chỉ còn 3.000 – 4.000 đồng/kg, cá biệt có nơi giá dưa hấu chỉ còn 1.000 đồng/kg. Những nông dân không có liên kết với doanh nghiệp cũng thiệt hại nặng nề, các nông dân có liên kết vẫn được thu mua” – ông Tùng thông tin.
Trước thực tế này và dịch cúm do virus corona không biết bao giờ mới chấm dứt, Hiệp hội Rau quả Việt Nam kiến nghị Bộ NNPTNT, Bộ Công Thương tiếp tục hỗ trợ, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào các thị trường khác; quy hoạch vùng trồng, làm tốt công tác bảo quản, riêng Bộ Công Thương hỗ trợ tiền điện cho những đơn vị tham gia bảo quản trái cây để vượt qua khó khăn trong giai đoạn này.
Ông Phạm Văn Cảnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An cũng cho biết, hiện nay, diện tích thanh long của Long An cho ra trái khoảng 9.587ha (trên tổng số 11.826ha) với sản lượng 320.000 tấn. Từ tháng 1 đến cuối tháng 2/2020, còn khoảng 30.000 tấn, trong đó 2.0000 đang tồn kho và cuối tháng 2/2020 thu hoạch 28.000 tấn.
Về cơ sở chế biến, thu mua, tỉnh Long An có 154 cơ sở và 100 cơ sở có kho lạnh, trung bình 50 tấn/kho, tương đương sức chứa là 7.000-8.000 tấn. Toàn tỉnh có 15 cơ sở có bán trực tiếp thanh long sang Trung Quốc; còn lại gia công, chế biến cho các kho của người Trung Quốc.
Việc tiêu thụ thanh long của Long An chủ yếu phụ thuộc vào khách Trung Quốc. Giá chủ yếu do các thương lái của Trung Quốc quyết định. Tuy nhiên, hợp đồng với nông dân không chắc chắn nên thường xảy ra rủi ro, do bán qua thương lái.
Diễn biến từ tháng 1 đến nay, có 2 công ty có sức mua lớn là: công ty Hồng Thái Dương mua 30-40% sản lượng, đặt cọc 300 container với giá mua 40.000-50.000 đồng/kg. Tuy nhiên, đến nay công ty này ngưng không mua, hứa hỗ trợ cho nông dân 4.000 đồng/kg. Công ty thứ hai là Công ty Phú Quý hủy 200 container, nhưng phát giá mua 5.000 đồng/kg. Một số công ty cũng đặt cọc giống như hai công ty trả nông dân 5.000 đồng/kg.
Trước tình hình tiêu thụ khó khăn, bà con nông dân khi thanh long ra trái, gần chín thì bà con chặt bỏ, thiệt hại rất lớn. Tỉnh Long An đã đi qua Trung Quốc tìm hiểu, xúc tiến thanh long, tuy nhiên thấy tình hình khó khăn.
Ông Cảnh đề xuất Cục Chế biến và PTTTNS (Bộ NN-PTNT), Bộ Công thương hỗ trợ xuất khẩu thanh long ở các cửa khẩu, kịp thời đàm phán, tháo gỡ khó khăn cho trái thanh long. Đồng thời, hỗ trợ xuất khẩu trái thanh long xuất khẩu, các trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối lớn trong nội địa.
Long An cũng đề nghị Bộ NNPTNT hỗ trợ kho lưu trữ ngủ đông, kéo dài thời gian lưu trữ, bảo quản thanh long, đồng thời mở rộng thị trường để tiêu thụ mặt hàng này.
Nguồn: báo dân việt
Th203
NÓNG: Họp khẩn về XK nông sản sang Trung Quốc thời virus corona
Chiều nay 3/2, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường sẽ chủ trì họp bàn khẩn về tình hình thương mại nông sản Việt – Trung với đại diện các Bộ, ngành trước ảnh hưởng của dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (nCoV) gây ra.
Tham dự cuộc họp có lãnh đạo Bộ NN-PTNT và các đơn vị thuộc Bộ; Văn phòng Chính phủ (Vụ Kinh tế Tổng hợp, Vụ Nông nghiệp); Đại diện Lãnh đạo Bộ Ngoại giao và các đơn vị trực thuộc (Vụ Đông Bắc Á, Vụ Tổng hợp kinh tế); Lãnh đạo Bộ Công thương và các đơn vị trực thuộc (Cục Xuất nhập khẩu, Vụ Thị trường Châu Á – Châu Phi, Vụ Thị trường trong nước); Lãnh đạo Bộ Y tế.
Về phía địa phương, sẽ có đại diện lãnh đạo UBND 6 tỉnh biên giới phía Bắc: Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu tham dự cùng lãnh đạo các Hiệp hội ngành hàng, tập đoàn, doanh nghiệp xuất nhập khẩu nông sản.
Theo thông tin cập nhật đến sáng ngày 3/2, dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (nCoV) gây ra đã xuất hiện tại 27 quốc gia và vùng lãnh thổ, làm 362 người chết, trong đó đã có người đầu tiên chết ngoài Trung Quốc (tại Philipinese), hơn 17.000 người nhiễm. Tại Việt Nam đã có 8 người mắc, trong đó có 5 người Việt Nam.
Do ảnh hưởng của dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona gây ra, hàng trăm contener chở các mặt hàng nông sản của Việt Nam như: thanh long, dưa hấu… đang chịu cảnh ùn ứ, ách tắc tại các cửa khẩu. Tại các vùng trồng, giá mua các loại nông sản đang sụt giảm thê thảm mà vẫn vắng khách đến thu mua.
Trước đó, chiều 31/1, ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và PTTTNS (Bộ NN-PTNT) cho biết, trước lo ngại dịch viêm phổi Vũ Hán do virus corona mới gây ra, doanh nghiệp cung cấp nông sản Hồng Thái Dương (Trung Quốc) hủy 300 container thanh long ruột đỏ, tương đương 6.000 tấn.
“Phía công ty đã có thiện chí hỗ trợ 50 triệu/container, nhưng so với giá trị chưa tương xứng”. Tuy nhiên, ông Nguyễn Quốc Toản nhấn mạnh: “Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường chỉ đạo vào cuộc chủ động, không chủ quan vì dịch bệnh là bất khả kháng. Bộ trưởng mong muốn bà con bình tĩnh, phối hợp với các sở, ngành địa phương, doanh nghiệp, tránh tư thương ép giá, lợi dụng tình hình”.
Theo ông Toản, mặc dù cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị Quan sẽ mở cửa trở lại ngày 3/2, nhưng Trung tâm giao dịch nông sản Giang Nam, Quảng Tây (Trung Quốc) – địa bàn trung chuyển- lại thông báo nghỉ giao dịch đến hết 8/2. Cùng với đó, các chợ dọc biên giới các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc) cũng hạn chế giao dịch đến 8/2.
“Các cửa khẩu quốc tế sẽ quay trở lại làm việc từ 3/2. Hàng hóa vẫn chạy sang, nhưng chợ đầu mối vẫn chưa mở, người chưa đến; đến rằm tháng Giêng (8/2) mới mở thì sẽ gặp chênh lệch thời gian. Dự báo, tình hình cung cục bộ của thanh long sẽ gặp khó khăn” – Cục trưởng Nguyễn Quốc Toản nhấn mạnh.
Hiện nay, Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới, với dân số hơn 1,4 tỷ người. Đây là thị trường nhập khẩu lớn nhất trên thế giới về nông sản để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa cũng như sản xuất chế biến hàng xuất khẩu. Theo Tổ chức Thương mại thế giới, hàng năm Trung Quốc nhập khẩu khoảng 160 tỷ USD/năm các mặt hàng nông, lâm, thủy sản (rau quả 9-10 tỷ; thủy sản 8-10 tỷ; thịt và sữa 9-10 tỷ; gạo 2-2,5 tỷ…).
Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, bình quân chiếm 27% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của cả nước và chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại sang thị trường này. Trong đó, có nhiều mặt hàng đạt kim ngạch lớn như rau quả, hạt điều, cà phê, gạo, sắn và các sản phẩm từ sắn, cao su, thủy sản.
Trong giai đoạn 2016-2018, tăng trưởng xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc tăng trưởng bình quân khoảng 12,5%. Tuy nhiên, từ năm 2018 đến nay, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc bị chững lại và giảm sâu sau nhiều năm tăng trưởng khá (năm 2018 giảm 5,5%, 11 tháng năm 2019 tiếp tục giảm 5,85% so với cùng kỳ, chỉ đạt 6,31 tỷ USD).
Nguyên nhân do phía Trung Quốc đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp để bảo đảm thực thi nghiêm túc và đầy đủ các quy định mà Trung Quốc đã ban hành từ lâu về kiểm nghiệm – kiểm dịch, truy xuất nguồn gốc, bao bì, nhãn mác…, đồng thời tăng cường quản lý hoạt động thương mại biên giới. Trong khi đó, nông, lâm, thủy sản của Việt Nam chưa đáp ứng tốt các yêu cầu như truy xuất nguồn gốc, quy cách đóng gói, bao bì nhãn mác.
Trong các cuộc họp bàn để thúc đẩy xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc, các nhà quản lý luôn khuyến cáo các doanh nghiệp, các nhà sản xuất cần sớm thay đổi quan điểm ứng xử với thị trường Trung Quốc theo hướng tôn trọng tối đa các quyền cơ bản của người tiêu dùng và kiên quyết chuyển nhanh, chuyển mạnh từ xuất khẩu theo hình thức “trao đổi cư dân” sang xuất khẩu chính ngạch theo thông lệ quốc tế qua các cửa khẩu chính thức.
9 loại quả tươi của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
Tính đến nay, chỉ có 9 loại trái cây tươi của Việt Nam được phép xuất khẩu chính ngạch vào thị trường Trung Quốc gồm: thanh long, dưa hấu, vải, nhãn, chuối, xoài, mít, chôm chôm, măng cụt.
Yêu cầu chung về quả tươi nhập khẩu chính ngạch của Trung Quốc là: Hàng hóa phải từ các vườn trồng và cơ sở đóng gói đã được cấp mã số; Lô hàng xuất khẩu phải có Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật; Không nhiễm đối tượng kiểm dịch thực vật của Trung Quốc; Phải ghi mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói trên Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật xuất khẩu.
Chính vì thế, trong năm 2019, Bộ NN&PTNT đã dành sự quan tâm đặc biệt để khai mở thị trường đầy tiềm năng này với việc xuất khẩu lô sữa tươi đầu tiên sang Trung Quốc, rồi tiếp tục đàm phán mở cửa nhiều mặt hàng khác như sầu riêng, khoai lang tím, thạch đen (sương sáo)… để tăng cường giao thương chính ngạch giữa hai nước.
Số liệu cập nhật mới nhất từ Cục BVTV cho thấy, đối với thị trường Trung Quốc, đến nay Bộ NN&PTNT đã cấp 1.567 mã số vùng trồng mới đối với 8 loại quả tươi (thanh long, xoài, nhãn, vải, chôm chôm, dưa hấu, chuối, mít) và hơn 1.500 mã số cơ sở đóng gói mới.
Riêng măng cụt, đã cấp 1 mã số vùng trồng và 3 mã số cơ sở đóng gói măng cụt xuất khẩu sang Trung Quốc. Cục BVTV hiện vẫn đang tiếp tục cập nhật theo yêu cầu của các địa phương/doanh nghiệp.
Nguồn: báo dân việt
Th110
Kĩ thuật ghép và chăm sóc hoa lan Đai Châu sau ghép
Lan Đai châu (Rynchostylis gigantea) là một trong những loại lan đẹp được nhiều người yêu thích bởi thân mập, lá xanh đạm, dày và lớn, rễ mập khỏe và ra hoa vào tết Nguyên đán nên có giá trị kinh tế cao. Vì vậy, đối với người yêu lan thì trong nhà luôn có giò hay chậu lan Đai châu để chào đón xuân về.
Để có những chậu hay giò lan đẹp thì ngoài việc chọn cây giống khỏe, đẹp thì cách ghép lan Đai châu cũng giúp nâng cao giá trị của chậu lan lên rất nhiều. Tùy vào điều kiện nuôi dưỡng, không gian trồng lan chúng ta có thể ghép trồng trên các giá thể như chậu, đoạn gỗ hay trụ …
Trong bài viết này chúng tôi xin được gửi đến người yêu lan về kỹ thuật ghép lan đai châu trên một số vật liệu chính như trên.
1. Chuẩn bị dụng cụ
– Chậu, gỗ ghép, trụ …
– Máy khoan, máy bắn ghim…
– Đinh, dây rút, dây nhựa, que gỗ, kéo, búa…
2. Thời điểm ghép
Tốt nhất là ghép lan Đai châu vào cuối mùa xuân (tháng 3-tháng 4) sau khi hoa tàn. Lúc này nhiệt độ đã ấm dần lên và độ ẩm không khí cao giúp cây nhanh chóng ra rễ và lá mới. Ngoài ra cũng có thể ghép vào mùa hè tuy nhiên cần che giảm 50-70% ánh sáng và thường xuyên tưới nước giữ ẩm cho cây.
3. Chọn cây giống
Chọn cây giống khỏe mạnh, không bị sâu bệnh hại, cây 3 năm tuổi trở lên (có thể cho hoa luôn vào tết) có 5-6 lá, rễ to, khỏe.
4. Xử lý cây giống trước khi ghép
– Cây giống: cắt tỉa lá già, lá hỏng, rễ khô. Dùng thuốc sát trùng (Daconil) bôi trực tiếp vào vết cắt hoặc phun hay nhúng ướt toàn bộ cây, treo 2- 3 ngày cho liền sẹo. Sau đó ngâm phần gốc bằng Antonik 1/500 + B1 1/1000 trong 15-20 phút. Buộc thành túm (5 ngọn) treo ngược. Định kỳ 7 ngày phun dung dịch B1 1/1000 + 5 ml/l Rootplex. Sau khoảng 1 tháng, khi thấy nhú rễ thì có thể bắt đầu ghép lên giá thể. Với cây nhân từ nuôi cấy mô có thể ghép luôn.
– Xử lý chất trồng: Ngâm chất trồng bằng nước vôi trong hoặc thuốc trừ nấm sau đó phơi khô.
5. Kỹ thuật ghép lan
a, Ghép lan Đai châu lên chậu
– Chậu và giá thể trồng: Chọn chậu đất nung hoặc chậu thang gỗ có nhiều lỗ lớn, kích thước chậu tùy thuộc số lượng cây trồng. Thành phần giá thể dùng phải đảm bảo sự thông thoáng bao gồm: rêu khô, than củi, củi vụn…
– Tạo điểm tựa cho cây: cố định que gỗ ở gần miệng chậu. Chú ý tùy kích thước chậu, kích thước cây để xác định số cây ghép trên chậu để cố định nhiều hay ít que gỗ.
– Dùng dây rút buộc chặt cây vào điểm tựa.
Yêu cầu: cây đứng vững, không bị dịch chuyển, các cây phân bố đều trên chậu và không được trồng sâu lá dưới cùng của cây phải nằm ngang mặt chậu.
b, Ghép lan Đai châu trên gỗ ghép
– Gỗ ghép là đoạn cây thân gỗ đã bỏ vỏ, có kích thước dài 30-40 cm, đường kính 20-30cm, chọn gỗ lũa, nhãn, vải hoặc vú sữa là tốt nhất, các khúc gỗ vừa phải có thể treo trên giàn lan.
– Các bước tiến hành ghép:
+ Khoan lỗ hoặc đóng đinh để chọn điểm để buộc dây treo
+ Tạo điểm tựa cho cây trên khúc gỗ: Có thể dùng đinh được bọc nhựa hoặc dùng que tre đóng vào các lỗ đã khoan sẵn tạo điểm tựa cho cây như hình.
+ Cố định cây vào điểm đã xác định: dùng dây rút để buộc chặt cây vào điểm tựa đã tạo sẵn.
+ Mỗi khúc gỗ có thể ghép từ 5-9 cây, với khúc gỗ to có thể ghép nhiều hơn.
– Yêu cầu: cây lan phải chắc chắn, không bị dịch chuyển. Các cây được phân bố đều trên khúc gỗ ghép đảm bảo tính thẩm mỹ của giò lan.
c, Ghép lan Đai châu trên trụ gỗ
– Chất liệu gỗ: gỗ nhãn, gỗ lữa…
– Hình dáng: có nhiều hình dáng trụ khác nhau phụ thuộc vào chất liệu. Tuy nhiên cũng có thể ghép nhiều cục để tạo những có hình thù mong muốn.
– Các bước tiến hành ghép: tương tự như ghép trên giò gỗ. Tuy nhiên cần chú ý cố định chân trụ để giữ trụ chắc chắn.
– Yêu cầu: chân trụ phải thật chắc chắn. Hình dáng trụ gỗ phải có tính thẩm cao.
6. Chăm sóc sau ghép
– Để cây ở nơi ẩm mát, tránh ánh nắng trực tiếp. Tưới nước dạng phun sương mù cho ẩm đều mặt lá và giá thể định kỳ ngày 1 -2 lần vào sáng và chiều mát.
– Dùng Rootplex hoặc B1 pha với lượng 10ml/bình 10 lít nước, phun 2 tuần/lần. Phun ướt đều lá và giá thể. Lượng phun 6 – 8 bình 10 lít/1.000m2
Sau khi cây xuất hiện rễ mới (khoảng 1 tháng sau trồng):
– Tưới nước: Tưới nước ngày 1 lần với cây ghép gỗ và 2 ngày 1 lần với cây trồng chậu. Tưới vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Không tưới khi trời mưa hoặc độ ẩm không khí cao (trên 80%)
– Bón phân: Tưới phun phân có tỷ lệ NPK (21:21:21), 5 ngày 1 lần, nồng độ 1%. Phun ướt đều trên lá và giá thể. Ngoài ra, có thể bổ sung thuốc kích thích sinh trưởng Atonik 1.8 DD hoặc Vitamin B1 dùng 10ml/10 lít nước, 10 ngày 1 lần.
ThS. Chu Thị Ngọc Mỹ
(Trung tâm NC&PT Hoa, Cây cảnh)
Th107
Kinh nghiệm cho hoa mai nở đúng tết
Làm thế nào để hoa nở đúng vào dịp Tết? Đó là câu hỏi thường trực của các nhà vườn, bởi hoa nở đúng Tết đồng nghĩa với sẽ được giá bán.
Mai vàng được xem là một trong những loại hoa biểu tượng của ngày Tết. Nếu miền Bắc chuộng hoa đào hồng đẹp nhẹ nhàng với ý nghĩa riêng thì miền Nam lại cực kỳ chuộng mai vàng và hầu như nhà nào cũng chưng ít nhất 1 chậu đón Tết trong năm.
Cứ đầu tháng 12 hàng năm là người ta đã bắt đầu thấy hoa mai vàng được vận chuyển rải rác đến các trung tâm lớn đông dân bày bán. Đến từ giữa tháng 12 âm đến những ngày giáp Tết thì hoa mai vàng đã phủ kín nơi nơi khiến không gian tết với sắc vàng ngập khắp muôn nơi.
Mai vàng là biểu biểu cho ngày Tết bởi người dân quan niệm rằng mai vàng mang lại sự may mắn, hạnh phúc và sung túc cho gia đình trong năm mới. Ngoài ra chúng còn xua đuổi những sự run rủi hoặc điềm xui có thể xảy ra với gia đình trong năm tới.
Mưa, nắng và gió là những điều mà người trồng hoa mai quan tâm hơn cả. Chỉ một sự thay đổi của thời tiết, rất có thể khiến cho cả vườn mai, nguồn thu nhập chính vào dịp Tết của nông dân cũng sẽ thay đổi
Để cây mai ra hoa đúng vào dịp Tết Nguyên đán cần áp dụng một số biện pháp kỹ thuật sau:
1. Lưu ý về nhiệt độ và đất trồng
Đầu tiên khi trồng bất cứ loại cây gì thì đây cũng là hai yếu tố hàng đầu bạn cần lưu ý và không thể bỏ qua. Cách chăm sóc mai vàng ra hoa đúng tết rất quan trọng ở nhiệt độ và đất trồng vì đây là hai yếu tố quan trọng.
Về nhiệt độ: Bạn phải đảm bảo rằng mai đang được chưng ở nơi có nhiệt độ thích hợp cho sự kích thích phát triển và ra hoa đúng độ. Nhiệt độ phù hợp và tốt nhất cho mai nằm trong khoảng 25-30 độ C. Vì vậy bạn cần lưu ý để không nóng quá kích mai ra hoa sớm hoặc lạnh quá sẽ khiến hoa nở muộn.
Về chuẩn bị đất để trồng: Cần chuẩn bị đất nằm ở vùng thấp tơi xốp, dồi dào chất dinh dưỡng và đảm bảo đất không bị ngập úng (tạo rãnh).
2. Biện pháp tuốt lá
Cây mai và một số loại cây khác sẽ trổ hoa khi được tuốt bỏ hết lá già. Trong điều kiện tự nhiên, cây mai sẽ rụng lá vào cuối mùa đông, khi bắt đầu lập xuân. Sau khi lá rụng, các mầm hoa sẽ bung lớp vỏ trấu. Nụ xanh sẽ nở rộ sau 6 hoặc 7 ngày từ lúc bung vỏ trấu.
Để mai ra hoa đúng dịp Tết, biện pháp tuốt lá mai được sử dụng. Biện pháp tuốt lá cho cây mai ra hoa được thực hiện hằng năm trong khoảng thời gian giữa tháng 12 âm lịch.
Để mai ra hoa đúng dịp Tết, biện pháp tuốt lá mai được sử dụng. Biện pháp tuốt lá cho cây mai ra hoa được thực hiện hằng năm trong khoảng thời gian giữa tháng 12 âm lịch.
Một vấn đề đặt ra là làm sao xác định được thời điểm tuốt lá để vỏ trấu bung ra đúng ngày 23 tháng 12 âm lịch.
Thứ nhất: Căn cứ vào hình dạng mầm hoa. Mầm hoa hay còn gọi là “nút”, phát sinh từ nách lá vào khoảng tháng 5 – 6, kích thước lớn dần đến tháng 12 âm lịch. Mầm hoa đủ thời gian sinh trưởng sẽ có hình dạng như quả trứng, với 2 – 3 vỏ trấu bao bên ngoài thì tuốt lá cách Tết từ 13 – 14 ngày.
Mầm hoa chưa phát triển đầy đủ có dạng hình thoi nhọn, với 3 – 4 vỏ trấu bao bên ngoài, tuốt lá trước ngày 15 tháng 12 âm lịch để mầm có thời gian phân hóa.
Thứ hai: Căn cứ vào diễn biến của thời tiết. Điều kiện nắng tốt, nhiệt độ không khí cao làm quá trình ra hoa diễn ra nhanh hơn. Ngược lại, điều kiện lạnh khiến quá trình này chậm lại.
Thứ ba: Căn cứ vào sự sinh trưởng và phát triển của cây. Cây sinh trưởng mạnh, nhiều cành lá xanh tốt thường có quá trình ra hoa chậm. Do đó, cần tiến hành tuốt lá sớm hơn. Mỗi giống mai có đặc điểm sinh trưởng khác nhau nên thời điểm tuốt lá cũng khác nhau: Mai cam, mai 100 cánh nở hoa sớm hơn mai giảo 2 – 3 ngày. Mai huỳnh tỷ nở sớm hơn mai giảo 2 – 3 ngày. Mai trắng nở trễ hơn mai giảo 1 – 2 ngày.
Vì vậy, đối với những cây mai ghép nhiều giống, khi tuốt lá phải chọn những giống trổ muộn tuốt lá trước, giống trổ sớm tuốt lá sau.
3. Xử lý cho mai ra hoa sớm
Thấy lá mai đã già, nhưng nụ mai còn hơi nhỏ, có thể sẽ nở trễ hơn Tết, nên tuốt lá sớm cỡ từ ngày 10 – 12 tháng Chạp, nghỉ tưới nước một ngày cho khô nhựa, rồi tưới thúc thêm phân NPK (10-55-10): pha 10 g cho 8 lít nước, khoảng 5 ngày tưới 1 lần, rồi tiếp tục tưới nước lại bình thường. Đến cỡ ngày 23 tháng Chạp thấy nụ hoa bung vỏ trấu là hoa sẽ nở đúng Tết, nên đổi qua tưới loại phân NPK (6-30-30) để giữ cho hoa to đẹp và lâu tàn.
Trong trường hợp tuốt lá trễ, cây ra hoa không đúng dịp Tết, có thể áp dụng một số biện pháp sau đây để thúc hoa trổ sớm: Phun ướt những mầm hoa lúc trời nắng cho những cây mai không chịu bung vỏ trấu. Tưới nước ấm vào gốc khi trời quá lạnh. Đặt nước đá lên mặt đất gần gốc. Tưới rửa nụ, búp hoa vào sáng sớm. Ngắt đọt non thúc ra hoa sớm. Dùng đèn cao áp thắp sáng vào lúc 7 – 8 giờ tối hằng đêm có thể thúc mai nở sớm 2 – 3 ngày. Sử dụng hóa chất, thời điểm sử dụng sau khi tuốt lá 2 – 3 ngày.
Một số chế phẩm thường dùng là Methyl Parathion, hay Monitor, Miracle-gro, Yogen, HVP, Aron, Decamon… liều lượng 10 – 20 ml/bình 8 lít nước, phun 1 lần là hoa mai, sẽ nở ngay.
4. Xử lý cho mai ra hoa muộn
Thấy lá mai vàng úa sắp rơi rụng, nụ mai đã khá to, có thể hoa mai sẽ nở sớm hơn Tết. Trường hợp này nên tuốt lá trễ, đợi đến khoảng ngày 20 tháng Chạp hãy tuốt lá, cũng ngưng tưới nước một ngày, rồi tưới thêm phân NPK (5-0-2), hoặc phân lạnh như phân urê pha loãng, để hãm cho hoa mai nở trễ. Pha 1 muỗng cà phê phân urê cho 8 lít nước, 5 ngày tưới một lần, cũng có thể lấy vải đen bao trùm cây mai lại. Nếu thấy cây mai có lá non nhiều quá thì nên lấy kéo nhỏ cắt tỉa bỏ bớt.
Trường hợp chưa đến ngày 23 tháng Chạp, cây mai đã bung vỏ trấu, cần đặt cây nơi râm mát. Tưới đẫm nước, tránh làm úng rễ. Đào nhẹ quanh gốc làm đứt một số rễ cám (rễ nhỏ).
Nguồn: sưu tầm
Th1211
Hoa Đà Lạt tìm đường xuất khẩu
Là thủ phủ hoa của cả nước nhưng Đà Lạt chỉ xuất khẩu được khoảng 10% sản lượng. Tham gia lĩnh vực này chủ yếu là các công ty lớn, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nông dân Đà Lạt hầu như chưa thể trực tiếp xuất khẩu hoa.
Ngành chức năng tỉnh Lâm Đồng ước tính, năm 2019 diện tích đất trồng hoa đạt khoảng 8.890 ha với sản lượng hơn 3.350 triệu cành, trong đó xuất khẩu gần 325 triệu cành, chỉ chiếm không quá 10% sản lượng, kim ngạch hơn 48 triệu USD. 90% sản lượng hoa còn lại phải tiêu thụ trong nước. Việc phụ thuộc quá nhiều vào thị trường trong nước dẫn đến mất cân đối giữa cung và cầu, khiến giá cả thất thường; tư thương chi phối, ép giá hoa của nông dân. Hoa Đà Lạt nhiều lúc bị thừa ế, phải đổ bỏ cho bò ăn hoặc để thối rữa tại vườn.
Hoa Đà Lạt chủ yếu xuất sang Nhật Bản (hơn 60%), còn lại là Australia, Đan Mạch, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc… Về chủng loại hoa xuất khẩu, đứng đầu bảng là hoa cúc (52%), cây giống invitro (30%), hoa cẩm chướng (10%), còn lại là lily, hồng môn, hướng dương, lan hồ điệp, lan vũ nữ…
Thị phần xuất khẩu hoa tập trung vào các công ty lớn, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó công ty Dalat Hasfarm chiếm trên 60% tổng sản lượng hoa. Dalat Hasfarm hiện là công ty hoa tươi lớn của Đông Nam Á chuyên sản xuất, phân phối ngọn giống, hoa cắt cành và hoa chậu ở thị trường trong nước và xuất khẩu; mỗi năm trồng tới 200 triệu cành hoa và 250 triệu ngọn giống cung ứng cho thị trường. Công ty này xuất khẩu hoa tới hơn 10 quốc gia và vùng lãnh thổ ở châu Á, đặc biệt là thị trường khó tính Nhật Bản.
Diện tích manh mún
Theo ông Aad Gordijn, Tổng giám đốc Công ty TNHH Dalat Hasfarm, nông dân Đà Lạt cần cù, sáng tạo, làm hoa lâu năm nhưng nghề trồng hoa vẫn chưa trở nên chuyên nghiệp vì quy mô trang trại còn quá nhỏ, diện tích trung bình chỉ khoảng 2.000 – 5.000 m²/hộ. Vì quy mô trang trại nhỏ nên người trồng hoa thiếu thốn về tài chính và không có đủ nguồn lực để đầu tư vào công nghệ cao, nhà kính hiện đại, không có nhiều sự đổi mới và rất khó khăn để đáp ứng đủ sản lượng.
Ông Aad Gordijn nhấn mạnh để xuất khẩu hoa, điều quan trọng nhất là có diện tích đất sản xuất đủ lớn; mặt khác phải có quy trình sản xuất hiện đại, quản lý chất lượng sản phẩm trước và sau thu hoạch bài bản. “Mặc dù có tới 190ha nhà kính, Dalat Hasfarm vẫn liên kết với hàng trăm hộ dân ở Đà Lạt để mở rộng diện tích, nâng cao sản lượng. Doanh nghiệp phải đáp ứng được sản lượng lớn để vận chuyển bằng đường hàng không hoặc đường thủy thì mới thực sự có ý nghĩa cạnh tranh trên thị trường”, ông Aad Gordijn nói.
Theo Hiệp hội hoa Đà Lạt, ngành trồng hoa của mỗi địa phương nói riêng và quốc gia nói chung, muốn phát triển chuyên nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu, trước hết phải xây dựng được những doanh nghiệp đủ tầm cỡ hoặc nông dân phải liên kết với nhau để tạo nên vùng sản xuất, hệ sinh thái trồng hoa quy mô lớn.
Tắc ở khâu giống
Các chuyên gia ở Đà Lạt nhận định trồng hoa phục vụ xuất khẩu cho thu nhập cao hơn rất nhiều nhưng việc xuất khẩu hoa của nông dân Đà Lạt bị “tắc” ở khâu giống. Nông dân muốn mua giống có bản quyền nhưng thiếu thông tin, còn những công ty sản xuất giống uy tín hàng đầu thế giới lo ngại bị sao chép giống nên không quan tâm đến thị trường Việt Nam. Hiệp hội hoa Đà Lạt cũng cho rằng thị trường nước ngoài luôn yêu cầu về bản quyền giống hoa và đòi hỏi cao về chất lượng nên đa số nông dân vẫn còn e dè trong việc đầu tư, liên kết để trồng hoa xuất khẩu
Bản thân Dalat Hasfarm đã nhiều lần làm việc với cơ quan chức năng phản ánh về việc giống hoa nhập có bản quyền bị sao chép. Tại hội thảo “Bảo hộ giống cây trồng khu vực Tây Nguyên” vừa qua, ông Trần Xuân Định, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết: Những năm qua, Cục Trồng trọt, Văn phòng Bảo hộ giống cây trồng và Hiệp hội Thương mại giống cây trồng đã nhận rất nhiều đơn phản ánh từ tác giả, các cơ quan tác giả về việc xâm phạm tác quyền và việc không đảm bảo hiệu lực của tác quyền về giống cây trồng. Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Lâm Đồng cũng nhận định vấn đề vi phạm bản quyền giống đang là một thực tại, đặt ra nhiều thách thức cho ngành nông nghiệp tìm hướng giải quyết, đặc biệt trên cây hoa, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và xuất khẩu.
Để rộng đường xuất khẩu hoa Đà Lạt, các chuyên gia cho rằng phải có biện pháp làm chủ về công nghệ sản xuất giống, khép kín khâu trồng trọt từ giống đến thành phẩm. Người trồng hoa phải tuân thủ “cuộc chơi”, đặc biệt là bản quyền về giống hoa. Không thể lấy giống sao chép hoặc nhập tiểu ngạch để trồng hoa xuất khẩu.
Theo ông Nguyễn Văn Bảo, Phó Tổng Giám đốc Dalat Hasfarm, từ năm 2010 công ty đã bắt đầu nhập giống cúc Calimero về trồng thử nghiệm để sản xuất hoa thương phẩm. Đơn vị đã được cơ quan chức năng công nhận độc quyền kinh doanh và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản giống hoa này. Thế nhưng chỉ vài năm sau, giống cúc Calimero đã bị sao chép và bán tràn lan tại Việt Nam.
Kim Anh (Báo Tiền Phong)
Th1204
3 năm liên tiếp khủng hoảng giá, người trồng cà phê đuối sức
Trong lúc cà phê rớt giá thê thảm, viễn cảnh đối nghịch đặt ra khi người tiêu dùng được dùng cà phê nhiều hơn để bảo vệ sức khỏe nhưng người trồng cà phê thì đuối sức.
Ông Lương Văn Tự – Chủ tịch Hiệp hội Cà phê, Ca cao Việt Nam cho biết như thế tại Diễn đàn Phát triển cà phê Việt Nam bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu và khủng hoảng giá diễn ra ngày 3/12 tại TP.HCM.
Ông Tự kể, tại một cuộc họp ở London mới đây, các chuyên gia thế giới đã bàn rất nhiều đến giải pháp làm sao trợ giá cho nông dân. Một quan điểm được nêu ra là khuyến khích tiêu dùng cà phê nhiều hơn.
Nhiều bằng chứng khoa học cho thấy cà phê có tác dụng trong việc chống ung thư. “Tuy nhiên, trong lúc cà phê rớt giá thê thảm, viễn cảnh đối nghịch đặt ra khi người tiêu dùng được dùng cà phê nhiều hơn, góp phần bảo vệ sức khỏe nhưng người trồng cà phê thì ngắc ngoải. Mức sống của người trồng cà phê hiện nay rất đáng quan tâm” – ông Tự nói.
Theo ông Tự, cần phải mất nhiều thời gian để giải quyết cuộc khủng hoảng hiện nay. Hiện Việt Nam đã trải qua năm thứ 3 của khủng hoảng giá, và vẫn chưa biết chắc năm sau tình hình có cải thiện hơn hay không.
Hiện, giá cà phê thế giới đã có dấu hiệu nhích lên nhưng mặt bằng chung vẫn còn rất thấp. Các biện pháp sắp tới phải giúp người trồng tiếp tục gắn bó với cây cà phê thay vì bỏ cây trồng đã gắn bó lâu năm hoặc chuyển đổi sang loại cây trồng khác.
Khuyến khích tiêu dùng cà phê nội địa là một trong những giải pháp nhằm tăng sức tiêu thụ.
Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ tài chính vì nông dân đang đối diện với rất nhiều khó khăn trong việc thanh toán lãi suất ngân hàng. Hoặc các biện pháp giãn nợ từ phía ngân hàng cũng cần đặt ra. Nếu không, mùa trồng sau, nông dân lại tiếp tục đối diện những khó khăn cũ.
Trao đổi với các diễn giả quốc tế, ông Tự cho biết Chính phủ Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do. Đây là cơ hội tốt mở cửa thị trường; nhất là sản phẩm chế biến như cà phê hòa tan, rang xay.
Giá cà phê thế giới gần đây đã nhích lên nhưng việc phục hồi sản xuất còn hạn chế.
Hiện Việt Nam và các nhà xuất nhập khẩu đang cải thiện chuỗi giá trị, các doanh nghiệp cũng đang nỗ lực nâng cao năng lực chế biến. “Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao giá trị gia tăng và thúc đẩy tiêu thụ cà phê trong nước. Thông qua đó, các doanh nghiệp có thể hỗ trợ nông dân tiêu thụ tốt hơn và giúp họ sớm vượt qua khủng hoảng” – ông Tự chia sẻ.
Ông Thái Như Hiệp – Giám đốc Công ty TNHH Vĩnh Hiệp (Gia Lai), cho rằng trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, nước và giống đang là những vấn đề nan giải đặt ra với nông dân trồng cà phê.
Thực tế hiện nay, người trồng loay hoay đối diện với nhiều khó khăn. Các yếu tố này khiến giá thành sản xuất trong tăng cao so với thế giới. Chỉ khi giải quyết tốt nguồn giống thích ứng và vấn đề nước tưới mới giúp việc kháng cự biến đổi khí hậu có hiệu quả.
Các diễn giả quốc tế bàn giải pháp giúp phát triển cà phê bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu và biến động giá
Ông Lê Văn Đức – Phó Cục trưởng Cục Trồng Trọt lại nhìn nhận cuộc khủng hoảng giá hiện nay là cơ hội để thay thế nguồn giống cà phê mới, cho năng suất cao hơn.
Chương trình tái canh cà phê và hàng loạt biện pháp như xen canh, tưới nước tiết kiệm… mà ngành nông nghiệp thực hiện nhiều năm qua đang cho những kết quả tích cực.
“Việt Nam xác định khi đã ký hàng loạt hiệp định thương mại tự do thì chuyện giá lên xuống là tất yếu theo quy luật thị trường. Việc cần thiết là tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp hỗ trợ từ kỹ thuật, tài chính đến thống tin để người trồng điều chỉnh việc sản xuất”, ông Đức chia sẻ.
Nguyên Vỹ (Dân Việt)
Th1126
Chuyển giao kỹ thuật, trợ giúp nông dân làm thương hiệu nông sản
Hiện, Hội ND huyện Đan Phượng (Hà Nội) có 16 cơ sở hội, với gần 22.000 hội viên hiện đang sinh hoạt tại 127 chi hội hoạt động theo địa bàn thôn, phố, cụm dân cư.
Bên cạnh việc vận động các hộ nông dân đăng ký thực hiện các tiêu chí hộ sản xuất giỏi nhằm đẩy mạnh phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi”, Hội ND Đan Phượng cũng đã có nhiều biện pháp thiết thực khác nhằm giúp đỡ bà con sản xuất như: Giúp bà con vay vốn ngân hàng, tổ chức tập huấn học tập ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu sản phẩm…
Chủ tịch Hội ND huyện Đan Phượng Thiều Văn Son cho biết: Xác định ứng dụng khoa học công nghệ góp phần tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, Hội đã chủ động phối hợp với các nhà khoa học, các cơ quan, vụ, viện, doanh nghiệp tổ chức hơn 400 buổi chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho 41.229 lượt hội viên hội nông dân.
Cùng với đó, huyện Đan Phượng cũng hình thành nhiều vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao. Bước đầu tiếp cận và làm chủ quy trình kỹ thuật canh tác hoa cao cấp bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào. “Nhờ ứng dụng công nghệ cao trong việc nuôi trồng các giống lan, mỗi năm hợp tác xã cho ra thị trường 250.000 cây hoa các loại, đạt doanh thu 5 tỷ đồng/năm” – bà Bùi Hường Bích – Giám đốc HTX hoa lan Đan Hoài chia sẻ.
Bên cạnh đó, để nâng cao giá trị sản phẩm, hỗ trợ xúc tiến thương mại, Hội ND huyện Đan Phượng đã thúc đẩy xây dựng được 24 mô hình kinh tế tập thể và xây dựng được thương hiệu “Bưởi tôm vàng Đan Phượng xã Thượng Mỗ”; nhãn hiệu “Rượu Long Trường Tửu xã Hồng Hà” và xây dựng thương hiệu “Rau hữu cơ quê hương người gái đảm”…
Chủ nhiệm Câu lạc bộ Bưởi tôm vàng xã Thượng Mỗ Đỗ Văn Mạnh cho biết: Trên cơ sở đã xây dựng thương hiệu bưởi tôm vàng, với mục đích thống nhất quản lý chất lượng cho vùng bưởi, Hội ND huyện đã hỗ trợ địa phương thành lập câu lạc bộ bưởi tôm vàng với sự tham gia của 35 hộ sản xuất. Việc xây dựng thành công nhãn hiệu bưởi tôm vàng đã giúp sản phẩm vào được các hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện ích, nâng cao giá trị và thu nhập cho người dân.
Chủ tịch Hội ND Đan Phượng – ông Thiều Văn Son cho biết: “Thời gian tới, các cấp Hội sẽ tiếp tục tăng cường khai thác tiềm năng thế mạnh về vốn, lao động, đất đai để đầu tư phát triển sản xuất, chuyển giao khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Đồng thời xây dựng, nhân rộng những mô hình điển hình, xuất sắc, phù hợp với từng vùng”.
Nguồn: Theo Hà Thu (Dân Việt)
Th304