Phổ biến quy định về mã số vùng trồng trái cây xuất khẩu
Nguồn tin: Báo Nông Nghiệp
Sau khi Trung Quốc công bố nhập khẩu chính ngạch sầu riêng Việt Nam, Cục Bảo vệ thực vật đã phối hợp với các địa phương phổ biến các quy định của Nghị định thư.
Triển khai ngay sau khi có Nghị định thư
Cuối tháng 7, Tổng cục Hải quan Trung Quốc thông báo các quy định, yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với sầu riêng tươi Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Sau khi có những quy định từ phía Trung Quốc đưa ra, Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT) đã phối hợp với Sở NN-PTNT các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên tổ chức tập huấn, phổ biến các văn phảm quy phạm pháp luật liên quan đến yêu cầu xuất khẩu.
Cụ thể, Cục Bảo vệ thực vật phối hợp với Sở NN-PTNT Đắk Lắk tổ chức “Hội nghị tập huấn hướng dẫn thiết lập mã số vùng trồng sầu riêng và cơ sở đóng gói xuất khẩu chính ngạch sầu riêng”. Tham dự hội nghị có 150 đại biểu là cán bộ các đơn vị trực thuộc, đại diện HTX, tổ hợp tác, doanh nghiệp đóng gói, chế biến sầu riêng xuất khẩu các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên.
Tại hội nghị, Cục Bảo vệ thực vật đã phổ biến quá trình đàm phán mở cửa thị trường đối với quả sầu riêng và Nghị định thư yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với quả sầu riêng xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc. Các quy định chung và yêu cầu cụ thể về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói sầu riêng.
Yêu cầu đối với cán bộ kỹ thuật tại cơ sở đóng gói sầu riêng, hướng dẫn giám định sinh vật gây hại tại cơ sở đóng gói và quy trình cấp mã số và ghi chép tại vùng trồng, cơ sở đóng gói, hướng dẫn sử dụng nhật ký điện tử My Dairy Farm.
Ngoài ra, các doanh nghiệp, HTX, nông dân cũng được tập huấn, hướng dẫn sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật tại vùng trồng, thu gom và xử lý vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật đã sử dụng, xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tại vùng trồng xuất khẩu.
Thời điểm Tổng cục Hải quan Trung Quốc thông báo các quy định xuất khẩu trúng vào thời điểm sầu riêng tại Đắk Lắk chuẩn bị vào vụ thu hoạch. Để kịp đưa những lô hàng sầu riêng đầu tiên vào Trung Quốc, UBND tỉnh Đắk Lắk đã có quyết định giao Sở NN-PTNT làm đầu mối phối hợp với các đơn vị trực thuộc Bộ NN-PTNT, các tổ chức, các nhân liên quan rà soát, đối chiếu các điều kiện của vùng trồng, cơ sở đóng gói sầu riêng để đáp ứng đầy đủ điều kiện, tiêu chuẩn phục vụ xuất khẩu.
Quyết định cũng yêu cầu, Sở NN-PTNT Đắk Lắk phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật hướng dẫn doanh nghiệp, người dân về quy định của mã vùng trồng, cơ sở đóng gói và hoàn thiện hồ sơ liên quan, sẵn sàng cung cấp khi Tổng cục Hải quan Trung Quốc đề nghị.
UBND tỉnh Đắk Lắk cũng yêu cầu Sở NN-PTNT chủ động phối hợp với các đơn vị của Bộ NN-PTNT thiết lập và đảm bảo các điều kiện kỹ thuật cần thiết với vùng trồng, cơ sở đóng gói tại địa phương để phục vụ công tác mở cửa thị trường, giải quyết các rào cản kỹ thuật và yêu cầu quy định khác của nước nhập khẩu.
Sở NN-PTNT tăng cường áp dụng công nghệ thông tin để quản lý vùng trồng, cơ sở đóng gói trên nền tảng cơ sở dữ liệu quốc gia do Cục Bảo vệ thực vật xây dựng. Đồng thời, phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật ban hành quy trình phòng trừ dịch hại đối với cây sầu riêng trồng xen trong vườn cà phê, hồ tiêu,… đặc biệt là các loại sinh vật gây hại mà Trung Quốc quan tâm, hướng dẫn sử dụng phầm mềm quản lý từ khâu sản xuất đến xuất khẩu sản phẩm.
Nâng cao nhận thức về các quy định xuất khẩu
Còn tại Đắk Nông, Cục Bảo vệ thực vật sẽ phối hợp với Sở NN-PTNT tổ chức chương trình tập huấn thiết lập và cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói cho các tỉnh Tây Nguyên vào ngày 7-8/12.
Chương trình sẽ tập huấn cho các doanh nghiệp, HTX, người dân về quy định mã vùng trồng, cơ sở đóng gói, các yêu cầu về vùng trồng xuất khẩu và cơ sở đóng gói. Tại đây, chuyên gia của Phòng thuốc BVTV Cục Bảo vệ thực vật sẽ phổ biến các quy định về việc sử dụng thuốc BVTV tại vùng trồng, thu gom và xử lý vỏ bao bì thuốc BVTV đã sử dụng.
Các học viên cũng sẽ được hướng dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình giám sát dư lượng thuốc BVTV tại vùng trồng xuất khẩu; Quy trình cấp mã số vùng trồng cũng như cơ sở đóng gói, hồ sơ của cơ quan quản lý, hồ sơ của vùng trồng và cơ sở đóng gói. Phổ viến các quy định về đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nông sản nguồn gốc thực vật xuất khẩu vào Trung Quốc theo Lệnh 248; An toàn thực phẩm trong nông sản vào Trung Quốc theo Lệnh 249.
Đặc biệt, hội nghị sẽ giới thiệu và hướng dẫn các học viên sử dụng, trải nghiệp sử dụng nhật ký điện tử My Farm diary cùng phần mềm quản lý nhà đóng gói.
Cục Bảo vệ thực vật đặt mục tiêu sau chương trình tập huấn, các doanh nghiệp, HTX, người dân tại Tây Nguyên sẽ nắm rõ được quy định về mã vùng trồng, cơ sở đóng gói để phục vụ cho việc xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc.
Trước đó, để phổ biến về các quy định xuất khẩu theo Nghị định thư đã ký kết giũa Bộ NN-PTNT Việt Nam và Tổng cục Hải quan Trung Quốc, Cục Bảo vệ thực vật đã đề nghị Sở NN-PTNT các tỉnh, thành phố tuyên truyền video clip hướng dẫn xây dựng mã vùng trồng và cơ sở đóng gói.
Theo Cục Bảo vệ thực vật, hiện công tác cấp và giám sát mã vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói đáp ứng theo quy định của nhiều nước nhập khẩu phục vụ truy xuất nguồn gốc đang được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ trên toàn quốc, nhằm cung cấp, hướng dẫn thông tin một các trực quan và dễn tiếp cận tới các đối tượng khác nhau tham gia chuỗi xuất khẩu, Cục Bảo vệ thực vật đã xây dựng 5 video clip gồm: Quy định cấp, thu hồi mã số vùng trồng/cơ sở đóng gói và hướng dẫn xuất khẩu chanh leo, sầu riêng sang thị trường Trung Quốc.
Tại Đắk Nông, để hướng dẫn, thiết lập, giám sát và quản lý mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói nông sản phục vụ xuất khẩu triên địa bàn, UBND tỉnh này đã yêu cầu các sở ngành tăng cường công tác phổ biến các quy định của Nghị định thư.
UBND tỉnh Đắk Nông yêu cầu Sở NN-PTNT chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác hỗ trợ, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá phát triển mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, công tác quản lý, giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói đã được cấp mã số theo đúng hướng dẫn của Bộ NN-PTNT. Chú trọng tổ chức thực hiện các chương trình quản lý sinh vật gây gại tại các vùng trồng, cơ sở đóng gói được cấp mã số để đảm bảo duy trì đáp ứng các quy định kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm.
Tỉnh Đắk Nông yêu cầu các đơn vị chuyên môn chủ động phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật thiết lập và đảm bảo các điều kiện kỹ thuật cần thiết đối với các vùng trồng, cơ sở đóng gói tại các địa phương trên địa bàn tỉnh để phục vụ công tác mở cửa thị trường, giải quyết các rào cản kỹ thuật và xử lý các thông báo không tuân thủ quy định kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm. Ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý vùng trồng và cơ sở đóng gói trên nền tảng Cơ sở dữ liệu Quốc gia do Bộ NN-PTNT xây dựng.
Th1205
Nông dân chật vật trong “cơn bão” vật tư nông nghiệp
Nguồn tin: báo Sài gòn Giải Phóng
Giá vật tư nông nghiệp tăng “phi mã”, thậm chí có nông dân chua xót nói: “Chưa bao giờ thấy vật tư nông nghiệp giảm giá trong suốt năm 2022”. Vụ lúa thu đông vừa qua, trong nhiều lý do nông dân để đất trống có lý do sợ thua lỗ vì giá vật tư tăng quá cao. Nông dân trồng lúa, cây ăn trái, nuôi tôm không thể “bỏ đất trống mãi”.
Mô hình lúa hữu cơ kết hợp nuôi tôm càng xanh của HTX Long Hiệp (huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh) đạt hiệu quả cao. Ảnh: TÍN DI
Chỉ tăng và tăng
Ông Phạm Công Danh (xã Mong Thọ, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) nói như mếu: “Hơn 10 năm trồng 8ha lúa, chưa bao giờ thấy giá phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giảm, chỉ có tăng ít hay nhiều mà thôi. Trước đây, phân urê khoảng 400.000-500.000 đồng/bao (loại 47kg/bao), giờ vọt hơn 1 triệu đồng/bao. Với chi phí sản xuất tăng, vụ lúa thu đông này dù được mùa, nhưng lợi nhuận vẫn không thể nào cao như những vụ trước”.
Theo ông Danh, gần đây giá vật tư nông nghiệp tăng gấp đôi, ảnh hưởng đến sản xuất và lợi nhuận của nông dân. Đặc biệt, tháng trước giá xăng dầu tăng cao, nông dân tăng thêm khoản chi phí trong sản xuất và khâu vận chuyển. Còn bà Nguyễn Thúy Nga (xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp) lo lắng khi giá vật tư nông nghiệp, nhất là phân bón tăng chưa có điểm dừng. “Mỗi hécta lúa phải bón từ 600-700kg phân các loại. Vụ lúa rồi, lợi nhuận đã giảm 40% vì giá phân bón tăng. Hiện nay tất cả các loại phân bón tiếp tục tăng cao, nguy cơ vụ đông xuân 2022-2023 sắp tới sẽ bị lỗ vốn nếu giá lúa không tăng”, bà Nga chia sẻ.
Ngăn chặn tình trạng trục lợi, tăng giá vật tư nông nghiệpTheo Sở NN-PTNT tỉnh Tiền Giang, ngành đang tăng cường tổ chức các cuộc thanh tra chuyên ngành, thanh tra việc chấp hành quy định pháp luật về sản xuất, kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, không để tình trạng trục lợi, tăng giá hoặc vận chuyển, sản xuất, kinh doanh, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ. Cụ thể là tăng cường lấy mẫu kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm phân bón. Thông báo kế hoạch sản xuất, lịch thời vụ, quy mô sản xuất các loại cây trồng đến doanh nghiệp, đại lý, cửa hàng vật tư nông nghiệp để chủ động cân đối, cung ứng giống, phân bón… đáp ứng kịp thời cho sản xuất. |
Trong 6 tháng gần đây, giá phân bón tăng rất cao, có những loại tăng giá trên 100%. Chẳng hạn, giá phân urê là 16.000 đồng/kg, trong khi cùng kỳ các năm chỉ khoảng 6.700 đồng/kg. Nhiều chủ đại lý phân bón cũng than khó vì các loại phân bón tăng gần gấp đôi, khiến việc kinh doanh rất khó khăn. Ông Nguyễn Phước Hưng, chủ đại lý phân bón Hưng Lợi (xã Mỹ Lâm, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang) cho hay, hiện tại giá phân urê khoảng 960.000 đồng/bao, giá kali sản xuất trong nước cũng đã gần 800.000 đồng/bao… So với cùng kỳ năm trước, giá các loại phân bón tăng ít nhất 80% trở lên, trong đó tăng cao nhất là urê trên 125%, phân DAP tăng 150%.
Ông Trần Văn Việt, Giám đốc HTX Nuôi tôm công nghiệp Thành Công (xã Tân Dân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) cho biết: “Nông dân nuôi tôm đối diện với nhiều khó khăn như thời tiết, dịch bệnh và đặc biệt là giá thức ăn tăng cao. Từ khi xảy ra đại dịch Covid-19 đến giờ, giá thức ăn cho tôm đã nhiều lần điều chỉnh tăng. Vì vậy, nông dân thu hoạch rơi vào thời điểm giá tôm thấp thì sẽ thua lỗ”.
Tìm giải pháp thích ứng
ĐBSCL có gần 3 triệu hécta trồng lúa, cây ăn trái và nuôi thủy sản, nhu cầu sử dụng hàng triệu tấn vật tư nông nghiệp trong năm. Riêng vụ lúa đông xuân 2022-2023, ĐBSCL xuống giống hơn 1,5 triệu ha lúa. Tính toán sơ bộ của các sở NN-PTNT trong vùng, cần khoảng 1 triệu tấn phân và khoảng 10.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật. Cùng với giá vật tư tăng vọt, diễn biến giá xăng dầu càng làm nông dân thêm lo lắng. Trong bối cảnh đó, ngành nông nghiệp và các địa phương trong vùng đang nỗ lực giúp nông dân áp dụng đồng bộ các giải pháp sản xuất tiến bộ để giảm lượng giống và lượng phân bón.
Ngay khi giá vật tư nông nghiệp tăng vọt, Bộ NN-PTNT và các tỉnh, thành vùng ĐBSCL đã khẩn trương tăng cường tập huấn, hướng dẫn nông dân sử dụng phân bón cân đối, tiết kiệm; tăng cường sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ nhằm giảm dần hoặc thay thế phân bón vô cơ…
Theo Bộ NN-PTNT, có 40.000-60.000ha lúa/vụ ở ĐBSCL đã áp dụng các mô hình sản xuất theo hướng tiết kiệm vật tư nông nghiệp, thân thiện với môi trường như: sản xuất lúa hữu cơ, sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP, canh tác lúa thông minh, sản xuất lúa an toàn sử dụng khoáng tự nhiên không phun thuốc thuốc bảo vệ thực vật… Hầu hết các mô hình sản xuất lúa đều giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Sản phẩm từ các mô hình này có đầu ra ổn định, tăng thu nhập, tạo được vùng nguyên liệu, đảm bảo sức khỏe người sản xuất, giảm ô nhiễm môi trường, hướng đến sản xuất bền vững. So với ruộng không áp dụng theo quy trình, các mô hình này đã giúp nông dân đạt lợi nhuận cao hơn ruộng không áp dụng mô hình từ 3-8 triệu đồng/ha. Đây được xem là giải pháp thiết thực giúp nông dân thích nghi và duy trì lợi nhuận tối thiểu từ sản xuất lúa. Tuy nhiên, diện tích áp dụng các mô hình này vẫn còn ở mức khiêm tốn, cần nhanh chóng nhân rộng các mô hình này là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Theo ý kiến của các nhà khoa học và nhiều nông dân, các địa phương cần tăng cường kiểm soát giá phân bón bán buôn ở các đại lý vật tư, nhất là kiểm soát chặt mức “hoa hồng” ở mức vừa phải, không để tăng quá cao. Ngoài ra, hiện hàng ngàn nông dân trồng lúa, trồng cây ăn trái có hợp tác với doanh nghiệp (bao tiêu sản phẩm), thì giá vật tư do doanh nghiệp cung cấp thường thấp hơn mua ở các đại lý 5%-15%. Đây là cách làm hay cần nhân rộng để giảm trung gian ở các đại lý, giúp giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận cho nông dân.
GS-TS VÕ TÒNG XUÂN:Sử dụng phân bón thân thiện với môi trườngCần phân định rõ ĐBSCL có 3 vùng nông nghiệp chính: Vùng thượng nguồn – nước ngọt quanh năm; vùng giữa – ngập sâu trong mùa mưa, khô hạn trong mùa nắng, nước mặn có thể xâm nhập; vùng ven biển – nước ngọt trong mùa mưa, nước mặn-lợ trong mùa nắng. Theo đó, sản xuất lúa ở vùng thượng nguồn có hệ thống thủy lợi cần áp dụng kỹ thuật canh tác an toàn thực phẩm chất lượng cao, bón lót phân hữu cơ vi sinh có pha ít phân khoáng NPK, bón thúc và nuôi đòng với lượng phân khoáng vừa phải. Vùng giữa đồng bằng gồm lúa, thủy sản, mương liếp trồng cây ăn trái, cần tăng cường áp dụng phân bón hữu cơ vi sinh kết hợp ít phân khoáng và thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Vùng ven biển, là vùng sản xuất bền vững nhất: lúa chất lượng cao xen nuôi tôm càng xanh trong mùa mưa và nuôi thủy sản nước lợ/mặn trong mùa nắng. Vùng này cần sản xuất giống lúa chất lượng cao và ngon cơm được sản xuất theo phương pháp an toàn thực phẩm gắn với sử dụng phân hữu cơ vi sinh kèm một ít phân khoáng. |
PGS-TS DƯƠNG VĂN CHÍN, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL:Sản xuất hữu cơ nên tính đến yếu tố thị trườngCác bộ, ngành cần có các giải pháp phù hợp để thích ứng với vật tư nông nghiệp tăng giá trên thế giới. Vùng ĐBSCL cần tập hợp các HTX trong vùng và thuyết phục các nông dân xã viên áp dụng mô hình: Giảm 50% lượng phân bón sử dụng bằng cách chôn vùi phân bón xuống sình nhưng năng suất lúa vẫn không giảm theo nhiều kết quả nghiên cứu khoa học trên thế giới và trong nước. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là một phong trào rộng khắp thế giới. Nhiều nước trên thế giới cũng ưu tiên phát triển nông nghiệp hữu cơ. Việt Nam đã có những thành tựu bước đầu. Diện tích nuôi trồng hữu cơ gia tăng qua từng năm, các ngành hữu quan đã xây dựng tiêu chuẩn để đạt sản phẩm hữu cơ, nhiều công ty dịch vụ trong nước cũng như quốc tế đang làm dịch vụ chứng nhận hữu cơ tại Việt Nam. Nông nghiệp hữu cơ là một chân trời rộng mở. Tuy nhiên nên lưu ý, muốn phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững nên tính đến yếu tố thị trường. |
Ông NGUYỄN THANH TRUYỀN, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnhLong An: Hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vậtĐiều cần thiết hiện nay là tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng phân bón tiết kiệm, tận dụng phân chuồng, phân hữu cơ vi sinh…, bón phân phù hợp theo nguyên tắc 4 đúng: Đúng loại, đúng lúc, đúng liều lượng và đúng cách sử dụng. Theo đó, ngành nông nghiệp địa phương đã tăng cường hướng dẫn nông dân quy trình quản lý dịch hại tổng hợp ngay trên đồng ruộng theo vòng đời phát triển của cây lúa. Nông dân được thấy, hiểu và áp dụng, từ đó hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, bảo vệ được số lượng thiên địch cần thiết, bảo vệ môi trường, sức khỏe con người và giảm chi phí sản xuất. Ngoài ra, ngành tiếp tục tuyên truyền cho người dân nguyên tắc 4 đúng khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật: đúng chủng loại, đúng liều lượng và nồng độ, đúng thời điểm, đúng kỹ thuật. |
Th1205
Thu nhập tốt nhờ xử lý khóm trái vụ trên đất mặn phèn
Nguồn tin: báo Nông Nghiệp
HẬU GIANG Dù trên đất mặn phèn, cây khóm (dứa) vẫn thích nghi tốt, cho năng suất, chất lượng cao. Nếu xử lý khóm cho trái nghịch mùa, nông dân bán giá cao, thu nhập rất tốt.
Vùng đất Hỏa Tiến (TP Vị Thanh, Hậu Giang) xưa nay vốn nhiễm phèn, nhiễm mặn, kén cây trồng. Nông dân chủ yếu sống bằng cây khóm, cây mía và tràm. Nhưng cây mía giá cả bấp bênh, còn tràm thì trồng gần chục năm mới thu hoạch. Chỉ còn cây khóm là “cứu cánh” cho nông dân trên vùng đất khó.
Điển hình như gia đình ông Lê Thanh Nghiệp ở ấp Vị Thắng trước đây không ít lần thua lỗ vì trồng mía, nên chuyển sang cây khóm. Đến nay, với kinh nghiệm hơn 10 năm trồng khóm, ông Nghiệp là người thành công với cách xử lý cho trái ra mùa nghịch, bán được giá cao.
Ông Nghiệp cho biết, giống khóm gia đình chọn trồng là giống Queen, với đặc điểm cho trái to, cuống ngắn, hốc mắt hơi sâu, lõi nhỏ, thịt màu vàng đậm, ít xơ, ít nước, ăn giòn và ngọt thanh. Vườn khóm nhà ông Nghiệp từ lúc trồng đến 12 tháng cây bắt đầu cho trái, trung bình trọng lượng trái từ 1,5 – 2kg, cho năng suất trung bình 20 tấn/ha.
Cũng theo ông Nghiệp, lúc đầu kinh tế gia đình còn eo hẹp nên ông vay ngân hàng 60 triệu đồng về làm vốn. Với phương châm lấy ngắn nuôi dài, ai thuê gì hai vợ chồng ông Nghiệp làm đó để lấy tiền tu bổ vào ruộng khóm. Khi ruộng khóm phát triển tốt, ông Nghiệp bắt đầu canh mùa vụ.
“Theo kinh nghiệm tôi đúc kết được, vào những tháng 6, 7, 9 và tháng 11 giá khóm cao tột đỉnh nên bà con canh thu hoạch vào những tháng đó là hốt bạc”, ông Nghiệp chia sẻ.
Ông Nghiệp cho biết thêm, khâu quan trọng nhất là làm đất, nếu để cỏ dại mọc nhiều trên đất khóm thì tiền thuê nhân công làm cỏ còn cao gấp đôi số tiền làm đất ban đầu. Kế đó, ông Nghiệp chọn giống khóm cho trái to, dài, sạch bệnh, ít bị chết cây.
“Người trồng khóm nên thường xuyên thăm ruộng, nếu phát hiện cây bị bệnh, thay vì cố gắng phun thuốc cứu cây, bà con nên nhổ bỏ, trồng mới bằng cây khác. Bởi vì, tiền nông dân mua thuốc phun cây còn đắt hơn một cây khóm giống nhiều lần”, ông Nghiệp nói.
Ông Nghiệp tiết lộ thêm, để giảm chi phí đầu vào, ông sử dụng phân hữu cơ kết hợp với vô cơ theo tỷ lệ 7/3. Sử dụng phân hữu, ngoài giảm được chi phí, vườn khóm của ông Nghiệp còn xanh tốt, tỷ lệ trái to, đạt năng suất. Nhờ vậy, ruộng khóm rộng 2 ha nhà ông Nghiệp sau khi trừ hết chi phí vẫn còn lãi gần 200 triệu đồng.
Không những sản xuất giỏi, ông Nghiệp còn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm cho bà con trong xóm làm theo và đã thành công.
Bà Đoàn Thị Sương, ngụ cùng địa phương phấn khởi cho biết: “Gia đình tôi vừa thu hoạch 15 công khóm (1 công = 1.000m2), được khoảng 30 tấn trái, thương lái đến mua tại ruộng với giá 10 nghìn đồng/trái (khóm loại nhất). Sau khi trừ hết chi phí, tôi bỏ túi khoảng 150 triệu đồng”.
Bà Sương chia sẻ thêm, cây khóm dễ trồng, phát triển tốt trên đất phèn, chi phí lại thấp. Bình quân 1 công đất bà Sương trồng khoảng 2 nghìn cây giống, mỗi cây cách nhau từ 6 – 7cm. Sau khi trồng cây được 1 tháng tuổi, bà Sương bắt đầu tưới phân kích thích ra rễ. Tiếp đó, đều đặn mỗi tháng bà Sương tưới phân hữu cơ dưỡng cây một lần. Sau 12 lần tưới phân, ruộng khóm bà Sương bắt đầu cho cho trái.
Theo tính toán của bà Sương, vốn đầu tư vào một công đất khóm, từ lúc trồng đến khi thu hoạch chỉ tốn khoảng 5 – 8 triệu đồng, trong khi bán được giá, lợi nhuận đến 15 triệu đồng. Vì vậy, năm tới bà Sương dự định sẽ mở rộng diện tích trồng khóm thêm khoảng 1ha và tiếp tục xử lý cho ruộng khóm ra trái nghịch mùa.
“Tháng mùa nghịch, khóm bán có giá từ 10 nghìn đồng/trái trở lên, thương lái mua cũng ít dạt hàng, nhờ vậy nông dân chúng tôi mới có lãi”, bà Sương thổ lộ.
Cũng theo bà Sương, ngoài dùng để ăn tươi, ngày nay khóm được chế biến thành nhiều mặt hàng khác như nước khóm ép, khóm sấy khô, kẹo, mứt, nước giải khát… Ngoài ra, khóm là nguyên liệu nấu ăn quen thuộc của nhiều người với những món ăn từ khóm như canh chua cá rô, thịt ba rọi xào khóm, khóm kho cá…
Ông Trương Hữu Vịnh, Chủ tịch Hội Nông dân xã Hỏa Tiến cho biết, khoảng 3 năm lại đây, do tác động của biến đổi khí hậu, mặt nước dâng cao ảnh hưởng đến năng suất của một số loại hoa màu tại địa phương. Riêng cây khóm vẫn phát triển tốt, giá bán ổn định nên Hội Nông dân xã đã hướng dẫn kỹ thuật cho bà con chuyển đổi sang trồng khóm để cải thiện kinh tế hộ gia đình. Bên cạnh đó, địa phương cũng đã thành lập 2 HTX để thông qua đó xây dựng thương hiệu khóm Cầu Đúc, xã Hỏa Tiến tiến xa hơn nữa trên thị trường.
Theo Sở NN-PTNT Hậu Giang, cây khóm được xác định là một trong 4 loại cây trồng chủ lực của tỉnh. Trong năm 2022, diện tích khóm xuống giống toàn tỉnh hơn 3 nghìn ha, sản lượng ước tính đạt hơn 37 nghìn tấn; kế hoạch đến năm 2023, sản lượng toàn tỉnh nâng lên trên 48 nghìn tấn.
Theo đề án quy hoạch của tỉnh Hậu Giang, xã Hỏa Tiến quy hoạch trở thành vùng trồng khóm với 100% diện tích. Đến nay, có khoảng 80% diện tích toàn xã chuyển đổi từ cây khác sang khóm. Hướng tới, tỉnh tiếp tục xây dựng thương hiệu khóm Cầu Đúc để nâng cao khả năng cạnh tranh, mang lại giá trị kinh tế, xã hội và có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc địa phương.
Th1202
Nơm nớp vụ rau Tết
Nguồn tin : báo Nông Nghiệp
BÌNH ĐỊNH Nông dân Bình Định hiện đã xuống giống vụ rau Tết Nguyên đán Quý Mão 2023, đứng trước dự báo đầu tháng 12 này sẽ có mưa lớn, người trồng rau không khỏi lo lắng.
Rau Tết dự báo tăng giá
Để kịp cung ứng cho người tiêu dùng vào dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023, hiện nay nông dân các vùng rau lớn ở Bình Định đã xuống giống các loại rau ăn quả như khổ qua, đậu bắp, đậu cô ve, đậu Hòa Lan, súp lơ, riêng dưa leo có thời gian sinh trưởng chỉ 40 ngày nên bà con chưa xuống giống. Những diện tích trồng rau ăn lá nông dân luân canh quanh năm, nhưng vụ rau chuẩn bị cung ứng cho người tiêu dùng trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023 sắp tới mang đến cho người trồng rau sự hồ hởi, bởi dự báo Tết này rau xanh sẽ lên giá.
Những vùng rau ở Bình Định đang hồ hởi vào vụ rau Tết. Ảnh: V.Đ.T.
Trong những ngày này, vùng rau an toàn Thuận Nghĩa thuộc Thị trấn Phú Phong (huyện Tây Sơn, Bình Định) trở nên sôi động hẳn, bởi bà con đang hối hả xuống các loại rau ăn quả để kịp bán Tết. Theo ông Quách Văn Cầu, Giám đốc HTX Nông nghiệp Thuận Nghĩa, trong 10 ngày nay, hôm nào thời tiết thuận lợi là bà con ra đồng xuống giống rau, vùng rau trở nên náo nhiệt hơn những ngày bình thường. Bởi, vụ rau này có ý nghĩa sẽ mang lại những khoản tiền để bà con sắm sanh rượu thịt, mua rim mứt cho gia đình ăn Tết và quần áo mới cho con cái.
Hiện vùng rau Thuận Nghĩa có 19,5ha được công nhận là rau an toàn, có 9 nhóm cùng sở thích sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP với 244 thành viên. Bà Lê Thị Phu, người có thâm niên sản xuất rau ở Thuận Nghĩa hiện đã xuống giống hơn 2 sào hành (500m2/sào) và 3 sào rau ăn lá.
Bà Phu chia sẻ: “Tôi luôn ý thức chấp hành quy trình sản xuất để cho ra sản phẩm rau theo tiêu chuẩn VietGAP. Trước khi sản xuất, tôi chuẩn bị kỹ từ khâu làm đất, trong quá trình rau sinh trưởng, tôi chăm sóc rau theo đúng quy trình để rau cho năng suất, chất lượng cao kịp bán Tết. Làm ăn cả năm, cuối năm có dư giả hay không người trồng rau ở đây đều kỳ vọng vào vụ rau Tết nên vụ rau này bà con tập trung đầu tư cho những vồng rau của mình ghê lắm!”.
Nỗi lo mưa lũ uy hiếp
Theo ông Quách Văn Cầu, Giám đốc HTX Nông nghiệp Thuận Nghĩa, mấy ngày nay trời hửng nắng, người trồng rau ở Thuận Nghĩa rủ nhau ra đồng làm đất, vun luống chuẩn bị sản xuất vụ rau Tết. Thế nhưng khi nghe dự báo thời tiết về đợt mưa lớn sẽ xảy ra vào đầu tháng 12/2022, người trồng rau ở Thuận Nghĩa vô cùng lo lắng, nhiều người đã dừng xuống giống các loại rau ăn quả. Những diện tích đã làm đất, lên vồng, bà con lấy bạt nilon phủ những vồng đất lại để tránh bị mưa làm trôi đất, đợi hết mưa lấy bạt ra bắt đầu xuống giống, những vồng rau ăn quả đã xuống giống cũng được bà con tủ lại để tránh bị trôi giống.
“Những diện tích rau ăn quả đã xuống giống được 10 ngày nay không còn lo trôi mất giống, chỉ sợ những diện tích vừa xuống giống trong những ngày cuối tháng 11. Tuy những diện tích trồng rau ăn quả không sợ mất giống nhưng nếu gặp mưa lớn quá sẽ bị ảnh hưởng đến sinh trưởng, mất năng suất”, ông Cầu lo lắng.
Người trồng rau ở huyện An Lão cũng không ngoại lệ, hiện đang rất lo lắng khi các loại rau trồng bán Tết như bắp cải, dưa leo, khổ qua, củ cải trắng, ớt, hành, xà lách… đã xuống giống từ đầu tháng 10 âm lịch (25/10 dương lịch).
Bà Võ Thị Hương, người có thâm niên 20 năm trồng rau ở thôn Tân Lập, xã An Tân (huyện An Lão) hiện đang trồng hơn 5 sào dưa leo, khổ qua, đến nay, khổ qua đã bắt đầu ra trái lứa đầu. Hiện khổ qua đang được thương lái mua tại vườn với giá từ 16.000 – 18.000đ/kg. Theo bà Hương, nếu giá này ổn định kéo dài đến Tết, mỗi sào khổ qua bà sẽ có thu nhập 10 triệu đồng, cầm chắc có cái Tết ấm áp.
Ở vùng rau an toàn của HTX Nông nghiệp Phước Hiệp (huyện Tuy Phước), nơi có 13ha chuyên canh cây rau theo hướng VietGAP hiện cũng đã xuống giống 6ha các loại rau ăn quả như khổ qua, đậu bắp, đậu Hòa Lan, những diện tích còn lại bà con trồng rau ăn lá được sản xuất thường xuyên hết vụ này đến vụ khác, luân canh quanh năm. Riêng cây dưa leo ở vùng rau Phước Hiệp bà con chưa trồng, bởi thời gian sinh trưởng của dưa leo chỉ 40 ngày là cho quả, nên người trồng rau ở đây đợi qua đợt mưa đầu tháng 12 dương lịch tới đây mới bắt đầu xuống giống.
“Hầu hết rau ở đây đều được trồng trên vồng, nếu mưa nhỏ thì không sợ bị ngập, nhưng mưa lớn chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, còn nếu xảy ra lũ lớn thì cầm chắc các vùng rau sẽ tan tác, bởi huyện Tuy Phước được mệnh danh là “rốn lũ” của tỉnh Bình Định”, ông Phạm Long Thăng, Giám đốc HTX Nông nghiệp Phước Hiệp chia sẻ.
“Trên địa bàn Bình Định hiện có 50 nhóm cùng sở thích về sản xuất rau an toàn với diện tích trên 100ha. Trong đó, có 20 nhóm cùng sở thích được thành lập từ các HTX Nông nghiệp Phước Hiệp (huyện Tuy Phước), Thuận Nghĩa (huyện Tây Sơn) và Nhơn Thọ (thị xã An Nhơn). Các nhóm cùng sở thích lấy thương hiệu “Lá Lành” để cung cấp sản phẩm ra thị trường. Các nhóm sản xuất rau an toàn được đào tạo, thực hành sản xuất theo hướng VietGAP, cải thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của thị trường”, ông Trần Văn Phúc, Giám đốc Sở NNPTNT Bình Định cho hay.
Th1129
Sản xuất an toàn, hữu cơ và kết nối tiêu thụ cho 300 hợp tác xã
Nguồn tin: báo Nông Nghiệp
SƠN LA 300 HTX với khoảng 800 sản phẩm nông sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc sản xuất theo quy trình an toàn, hữu cơ và được liên kết, kết nối tiêu thụ bền vững.
Ngày 22/11 tại Vân Hồ (tỉnh Sơn La), Trung tâm Kiểm nghiệm – Kiểm chứng và Tư vấn chất lượng Nông lâm thủy sản (RETAQ, thuộc Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và Thủy sản (Bộ NN-PTNT) đã ký kết chương trình phối hợp với Trung tâm hỗ trợ Khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo Quốc gia (Cục Quản lý doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ, Bộ KH-CN) và Làng Nông nghiệp khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo quốc gia Techfest.
Mô hình Trạm xanh xử lý phụ phẩm nông nghiệp tại Vân Hồ, Sơn La. Ảnh: Anh Cường.
Mục tiêu của chương trình phối hợp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX và các hộ sản xuất nông sản trong mạng lưới Techfest nâng cao chất lượng sản phẩm, tập huấn và tư vấn cho các chủ thể thực hiện quy trình trồng trọt và chế biến tiên tiến (VietGAP, hữu cơ, sản phẩm thiên nhiên, OCOP…) nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp, hướng đến sản xuất nông nghiệp “thuận thiên”, bền vững.
Tại mô hình Trạm xanh xử lý phụ phẩm nông nghiệp tại Vân Hồ, Sơn La, nông dân mang phụ phẩm đến Trạm để đổi lấy phân hữu cơ, bón lại chính vườn cam của họ. Đây là giải pháp hợp tác hiệu quả để xử lý gần 160 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp của Việt Nam.
Sau gần 2 năm triển khai, đến nay, Hệ sinh thái Làng nông nghiệp Techfest quốc gia đã kết nối 300 HTX sản xuất nông sản với nhiều nguồn lực khác nhau. Qua đó, khoảng 800 sản phẩm nông sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã được sản xuất theo quy trình an toàn, hữu cơ và được kết nối, liên kết tiêu thụ bền vững.
Đối với riêng tỉnh Sơn La, hiện có hơn 3.000 doanh nghiệp và 700 HTX với 84 nghìn ha cây ăn quả, đứng thứ 2 toàn quốc về diện tích; tổng sản lượng trái cây hàng năm của tỉnh hơn 400 nghìn tấn. Với mục tiêu đẩy mạnh phát triển, liên kết chuỗi và mở rộng thị trường, tỉnh rất cần sự hợp tác, hỗ trợ để phát triển, chế biến sâu và tiêu thụ nông sản địa phương, hướng đến xuất khẩu.
Bà Nguyễn Thị Thu, Trưởng Làng Nông nghiệp Techfest quốc gia cho hay: “Kết nối đầu ra thành chuỗi phân phối nông sản an toàn bền vững là một nhiệm vụ trọng tâm của chúng tôi. Đến nay, 300 HTX, doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng, Quảng Ninh… đã được kết nối với 30 cửa hàng và 400 đại lý tiêu thụ nông sản tại các thành phố lớn. Qua đó, hơn 800 sản phẩm nông sản ở nhiều tỉnh, thành phố đã tạo được đầu ra”.
Tuy nhiên, vấn đề được cả cơ quan quản lý và các chủ thể quan tâm là tính thực chất của các chứng nhận chất lượng nông sản để hướng tới nông nghiệp “thuận thiên”, an toàn.
TS Đặng Văn Cường, Trung tâm RETAG cho rằng: Chúng ta đang đẩy mạnh nhiều giải pháp giúp các chủ thể thực hiện sản xuất, trồng trọt, chế biến theo quy trình chất lượng tiên tiến như VietGAP, HACCP, hữu cơ, thiên nhiên, OCOP… Tuy nhiên, việc cấp được chứng nhận này mới chỉ đi được phân nửa chuỗi. Sau đó là phải kiểm tra, giám sát các chủ thể có tiếp tục làm đúng quy trình hay không, có tiếp tục đào tạo nâng cao năng lực cho họ để họ tự biết cách quản trị tốt, biết mở rộng thị trường, biết bảo vệ nhau để giữ uy tín sản phẩm hay không thì hầu như chưa làm được nhiều.
Bản thân việc cấp chứng nhận cho các chủ thể cũng cần đánh giá lại toàn diện và quản lý chặt. Ví dụ huyện Hàm Yên (Tuyên Quang) vừa rồi, gần 6.800ha cam, bưởi, trong đó đặc biệt là dòng cam sành đặc sản đang có nguy cơ chết hàng loạt do việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu không đúng quy trình. Do đó, bản thân các đơn vị đánh giá, cấp chứng nhận sản xuất tiên tiến cần làm chặt chẽ, giám sát định kỳ.
Với sản phẩm OCOP, Bộ NN-PTNT quản lý 16/26 nhóm ngành hàng, do đó cần có hoạt động cụ thể về công tác kiểm nghiệm, đánh giá chất lượng các sản phẩm đã được gắn sao OCOP, đặc biệt là các sản phẩm 4 – 5 sao để giữ uy tín các chứng nhận, giúp các chủ thể yên tâm, tiếp tục đầu tư vào sản xuất an toàn, “thuận thiên”.
Th1129
Xuất bưởi sang Hoa Kỳ cần đáp ứng tiêu chuẩn nào?
Nguồn tin: Báo Nông Nghiệp
Cả nước có 36 vùng trồng bưởi được cấp mã số vùng trồng bưởi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Tổng diện tích được cấp đạt 752 ha. Sản lượng dự kiến đạt trên 13.100 tấn.
Hoa Kỳ là thị trường lớn đầy tiềm năng đối với các loại hoa qua tươi xuất khẩu của Việt Nam. Mỗi năm, nhu cầu tiêu thụ trái cây tại Hoa Kỳ lên tới 12 triệu tấn. Sản xuất trái cây tươi nội địa của nước này hiện chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu, 30% còn lại (tương đương với khoảng 3,6 triệu tấn) phải nhập khẩu.
Theo Cục Bảo vệ thực vật, cả nước hiện có 105.400 sản lượng trên 175.000 tấn, Trung du miền núi phía Bắc có hơn 30.000 ha với sản lượng 253.000 tấn. Riêng ĐBSCL có khoảng 32.000ha với sản lượng khoảng 369.000 tấn… Đây là dư địa và cơ hội rất lớn cho trái cây Việt Nam nói chung và quả bưởi tươi nói riêng để tiếp cận thị trường Hoa Kỳ.
Theo quy định của Hoa Kỳ, vùng trồng và cơ sở xử lý trái bưởi tươi của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ phải được đăng ký với Cục Bảo vệ thực vật và Cơ quan kiểm dịch động thực vật Hoa Kỳ (APHIS) và phải được kiểm tra giám sát định kỳ trong suốt vụ bưởi.
Theo đó, các vùng trồng, cơ sở đóng gói bưởi phải có biện pháp quản lý phù hợp để loại bỏ các đối tượng dịch hại mà phía bạn quan tâm. Các loại ruồi đục quả như: Bactrocera dorsalis, Zeugodacus cucurbitae; sâu đục quả Prays endocarpa và các loại nấm Cylindrocarpon lichenicola, Phyllosticta citriasiana.
Đặc biệt, cần lưu ý áp dụng các biện pháp quản lý đối với nấm Cylindrocarpon lichenicola và Phyllosticta citriasiana như: loại bỏ tất cả quả rụng trước khi đưa vào nhà đóng gói; làm sạch, xử lý nấm và phủ sáp toàn bộ quả; loại bỏ hết lá, cuống và các bộ phận khác của cây (trừ cuống ngắn hơn 2,5cm và vẫn còn gắn vào quả).
Bên cạnh đó, các lô hàng bưởi tươi xuất khẩu sang Hoa Kỳ phải được xử lý chiếu xạ với với liều tối thiểu là 150 Gy, kèm theo Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật, trong đó phần khai báo bổ sung phải ghi rõ lô hàng không nhiễm đối tượng kiểm dịch thực vật và được sản xuất theo phương pháp tiếp cận hệ thống.
Đến nay, Cục Bảo vệ thực vật đã và đang phối hợp với các bên liên quan triển khai đồng bộ các giải pháp, đặc biệt là tập trung tập huấn cho người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu bưởi về yêu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Cả nước đã có 36 vùng trồng bưởi của 10 tỉnh gồm: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Phú Thọ, Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương và Đăk Nông được cấp mã số vùng trồng bưởi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Tổng diện tích được cấp đạt 752 ha (chiếm 0,71% diện tích trồng bưởi của cả nước. Sản lượng dự kiến đạt trên 13.100 tấn (chiếm 1,4 % tổng sản lượng bưởi của cả nước).
Tại buổi lễ công bố lô bưởi đầu tiên của Việt Nam được chính thức xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, bà Sarah Gilleski, Tuỳ viên nông nghiệp của Đại sứ quán Hoa Kỳ, lưu ý Cục Kiểm dịch động thực vật Hoa Kỳ sẽ kiểm tra, giám sát tất cả các lô hàng trái cây của Việt Nam vào Hoa Kỳ để đảm bảo rằng không có bất kỳ dịch hại nào đi kèm với cây.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đánh giá thị trường Hoa Kỳ là một thị trường khó tính vào bậc nhất, tuy nhiên nhu cầu về nhập khẩu các loại trái cây tươi vẫn rất lớn. Thời gian tới, Thứ trưởng cũng kêu gọi mọi thành phần tham gia trong chuỗi giá trị nông sản cần phải chung sức, hợp tác để xây dựng thương hiệu bưởi Việt Nam trở nên nổi bật trên thị trường quốc tế.
Ngoài thị trường Hoa Kỳ, thời gian tới Bộ NN-PTNT tiếp tục đàm phán với nhiều nước trên thế giới để đưa các mặt hàng nông sản của nước ta, trong đó có trái cây mở rộng thị trường xuất khẩu.
Bộ NN-PTNT đang giao cho Cục Bảo vệ thực vật tiến hành mở cửa thị trường bưởi sang các thị trường New zealand, Trung Quốc, Hàn Quốc… Do đó, Thứ trưởng đề nghị người dân các tỉnh thành tiếp tục, tập trung đầu tư nâng cao chất lượng, quy trình sản xuất bưởi để đảm bảo xuất khẩu. Bên cạnh đó, ông đề nghị Cục Bảo vệ thực vật triển khai chương trình cấp mã số vùng trồng cho các loại cây ăn quả đảm bảo yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Trong 10 tháng đầu năm 2022 tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả cả nước đạt 2,76 tỷ USD. Riêng trái bưởi tươi xuất khẩu đạt 3.250 tấn, với thị trường xuất khẩu chủ yếu là Hà Lan, Đức, Trung Quốc, Canada…
Th1125
Nhà vườn tất bật chuẩn bị hoa, kiểng Tết
Nguồn tin: báo Vĩnh Long
Thời điểm nắng nóng, người trồng hoa phải phủ thêm rơm để làm mát. |
(VLO) Như lời hẹn với mùa xuân, từ khoảng rằm tháng 10 âl hàng năm thì nhà vườn ở miền Tây sẽ bắt đầu vào vụ hoa Tết. Khác với sự dè dặt trong năm qua, năm nay nhiều nhà vườn dự kiến sẽ tăng số lượng hoa, kiểng với niềm hy vọng có một vụ hoa “được mùa, được giá”.
Tại xã Tân Mỹ (Trà Ôn) nhiều nhà vườn đã bắt đầu xuống giống các loại hoa cây (nhổ cả cây) như cúc tiger, cúc lan, cúc mai, cúc vạn thọ… Năm nay, gia đình anh Lê Văn Sang ở ấp Sóc Ruộng (xã Tân Mỹ) quyết định trồng 4.000 cây cúc tiger trên 2 công đất, anh cho biết: “Năm nay tôi trồng nhiều hơn 1.000 cây so với năm ngoái, đợt rằm vừa rồi tôi bán được hơn 1.000 cây cúc tiger và cúc lan, giá 15.000 – 20.000 đ/cây”.
Có hơn 10 năm kinh nghiệm trồng hoa cây, anh Sang cho biết mưa lớn và giá vật tư nông nghiệp tăng cao sẽ gây áp lực cho người trồng hoa: “Mấy bữa trước rằm thì trời mưa nhiều, ruộng bông đang chuẩn bị thu hoạch lại bị ngập nước nhưng nhờ bón thêm phân thì mới giữ được, mà giá cây giống bán sỉ 700 đ/cây, giá phân bón DAP 30.000 đ/kg… giá tăng gấp đôi thì thành thử ra lợi nhuận cũng giảm”.
Bên cạnh ruộng hoa của anh Sang là hơn 1 công đất trồng hoa của anh Nguyễn Văn Liêm. Anh Liêm chia sẻ, cũng trong đợt rằm tháng 10 âl vừa qua, anh bán được hơn 1.500 cây và thu nhập hơn 20 triệu đồng: “Tôi trồng bông quanh năm, mỗi vụ kéo dài khoảng 3 tháng, chủ yếu bán tại các chợ xung quanh vào ngày rằm và ngày lễ. Tết năm nay tôi trồng hơn 3.500 cây cúc tiger và thu hoạch vào lối 20 tháng Chạp, hy vọng là bán được giá tốt” – anh Liêm nói.
Sau đợt mưa lớn vào rằm tháng 10 âl, những cây cúc lan “trễ hẹn” được nhà vườn giữ lại để bán lẻ với mức giá thấp hơn. |
Trong vài năm trở lại đây thì loại hoa giấy kiểng trở thành xu hướng chơi hoa Tết rất được yêu thích. Đang chăm sóc cho 600 chậu hoa giấy kiểng, anh Nguyễn Văn Phương ở xã Tân Mỹ (Trà Ôn) chia sẻ: “Hiện tại là thời điểm cắt giảm lượng nước để bông giấy không bị rụng lá, từ lối rằm tháng 11 âl thì mới bắt đầu làm bông, dự kiến giá bán thấp nhất là 150.000 đ/chậu. Hy vọng loại cây kiểng này sẽ tiếp tục hút hàng trong dịp Tết năm nay”.
Bông giấy kiểng dự kiến có giá khoảng 150.000 đ/chậu. |
Theo ông Phạm Văn Sơn – công chức nông nghiệp, thủy lợi và môi trường xã Tân Mỹ (Trà Ôn), nghề trồng hoa ở đây đã có từ nhiều năm qua và mang lại thu nhập ổn định, nhưng do giá nguyên liệu đầu vào có xu hướng tăng cao làm giảm lợi nhuận nên mô hình này vẫn chưa phổ biến rộng rãi.
Cũng trong thời điểm này, nhà vườn ở làng hoa Cái Mơn (Bến Tre) đã bắt đầu ươm các loại hoa chậu như cúc mâm xôi, cúc vạn thọ, mào gà… dự kiến số lượng hoa, kiểng cung ứng cho thị trường Tết năm nay sẽ tăng gấp đôi so với năm trước.
Nhìn từ xa, những cánh đồng hoa như được khoác lên chiếc áo mang sắc xanh mơn mởn, những mầm xuân đang lặng lẽ vươn mình dưới đôi bàn tay cần mẫn của người trồng hoa, hứa hẹn sẽ mang đến cho bà con một vụ hoa Tết đong đầy sắc hương và chan chứa nguồn vui.
Bài, ảnh: THẢO TIÊN
Th1125
Huyện Châu Thành nâng cao chất lượng trái thanh long để xuất khẩu
Nguồn tin: báo SGGP
Thời gian qua, cây thanh long đã mang lại giá trị kinh tế, góp phần nâng cao cuộc sống của người dân huyện Châu Thành (tỉnh Long An).
Theo người dân, giá thanh long 8.000-10.000 đồng/kg hiện nay, người trồng vẫn có lời
Tuy nhiên, trên thực tế, việc sản xuất thanh long (hơn 9.000ha) của người dân trong huyện chủ yếu theo truyền thống, chưa đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, chưa đáp ứng tiêu chuẩn về mã số kho đóng gói… Trước thực tế này, huyện Châu Thành quyết tâm xây dựng mô hình điểm về nâng cao chất lượng trái thanh long để đẩy mạnh xuất khẩu.
Xây dựng mô hình điểm
Ông Lê Quốc Dũng, Bí thư Huyện ủy Châu Thành, cho biết: Huyện đã có chủ trương và quyết tâm xây dựng mô hình điểm về nâng cao chất lượng trái thanh long đáp ứng điều kiện xuất khẩu. Do đó, phải thực hiện đạt hai tiêu chí vùng trồng và cơ sở đóng gói được cấp mã số, mục đích là nhằm nâng cao chất lượng trái thanh long tại nhà vườn và điều kiện của cơ sở đóng gói để xuất khẩu bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân. Vì vậy, cần phải tăng cường quản lý đăng ký các doanh nghiệp sản xuất đóng gói trái thanh long trên địa bàn huyện Châu Thành có xuất khẩu sang thị trường các nước phù hợp với Luật An toàn thực phẩm, Luật Kiểm tra hàng hóa nhập khẩu, Tiêu chuẩn cơ sở 775:2020/BVTV (quy trình thiết lập và giám sát cơ sở đóng gói)…
Nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm khi xuất khẩu và bảo vệ sức khỏe người sử dụng, yêu cầu nhà vườn trồng thanh long, các cơ sở đóng gói thanh long thực hiện nghiêm quy trình sản xuất thanh long theo hướng sạch (GAP); đóng gói theo quy định của nước nhập khẩu, đáp ứng Tiêu chuẩn cơ sở 774:2020/BVTV và Tiêu chuẩn cơ sở 775:2020/BVTV; đồng thời đảm bảo thực hiện công tác phòng chống dịch Covid-19 với sự hướng dẫn chuyên môn của cán bộ kỹ thuật tỉnh, huyện, xã.
Ông Nguyễn Văn Khải, Chủ tịch UBND huyện Châu Thành, cho biết, trước mắt, huyện kết hợp với Sở NN-PTNT tỉnh Long An xây dựng 2 mô hình điểm, dự kiến chọn HTX thanh long Long Hội ở xã An Lục Long và HTX nông nghiệp Thanh Phú Long ở xã Thanh Phú Long để thực hiện mô hình điểm.
Theo đó, xây dựng hoàn thiện mô hình thiết lập giám sát vùng trồng và giám sát cơ sở đóng gói để làm điểm. Nếu đạt các tiêu chí thì sẽ nhân rộng các mô hình này. Cụ thể, thiết lập giám sát vùng trồng thanh long theo tiêu chuẩn 774:2020/BVTV; hướng dẫn nhà vườn trồng thanh long (xã viên HTX) sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn GAP, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; thiết lập mã số giám sát vùng trồng theo tiêu chuẩn cơ sở 774:2020/BVTV của Cục Bảo vệ thực vật. Đồng thời, hoàn thiện cấp chỉ dẫn địa lý quả thanh long “Châu Thành – Long An” cho diện tích của xã viên HTX tham gia thực hiện mô hình; thiết lập giám sát cở sở đóng gói theo tiêu chuẩn 775:2020/BVTV…
Đối với trái thanh long sạch nhưng không đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu thì chuyển sang làm nguyên liệu để chế biến thành các sản phẩm như: rượu thanh long, thanh long sấy dẻo, nước ép… Đồng thời, kết nối các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ trái thanh long theo hướng bền vững.
“Qua mô hình làm điểm, ai làm tốt thì phát huy nhân rộng, ai làm không đạt thì yêu cầu ngưng cấp mã số, không cho trồng thanh long nữa. Mục đích là để giữ thương hiệu thanh long Châu Thành nói riêng, cho Long An nói chung”, ông Nguyễn Văn Khải nhấn mạnh.
“Sống chết” với cây thanh long
Thời gian gần đây, giá thanh long luôn ở mức thấp, thậm chí có lúc bán không ai mua. Nhiều người ngậm ngùi bỏ vườn hoang không quan tâm chăm sóc, hoặc phá bỏ vườn để trồng các loại cây khác… Tuy vậy, phần đông người trồng thanh long ở huyện Châu Thành vẫn quyết tâm “sống chết” với cây thanh long. Điển hình như gia đình ông Đặng Văn Nhanh ở xã Phước Tân Hưng.
Với vườn thanh long già cỗi (gần 2ha), giá cả cũng xuống thấp, gia đình ông Nhanh nhiều lần định phá bỏ để trồng các loại cây khác (mai, dừa…) như nhiều nhà trong xóm đã làm, nhưng cuối cùng vẫn quyết định giữ lại.
“Cây gì cũng vậy, giá cả có lúc cao lúc thấp, nên đã trồng thanh long rồi thì quyết theo nó luôn. Ai phá bỏ thì cứ phá bỏ, còn gia đình tôi thì vẫn duy trì trồng thanh long”, ông Đặng Văn Nhanh nói. Có điều, theo ông Nhanh, muốn cây thanh long sống được là phải thay đổi cách trồng theo hướng VietGAP, GlobalGAP, chứ làm theo cách cũ là khó tồn tại được.
Không chỉ ông Nhanh, nhiều gia đình trồng thanh long ở huyện Châu Thành cũng có cách nghĩ trồng thanh long sạch như thế. Cho nên khi nghe huyện Châu Thành triển khai mô hình điểm nâng cao chất lượng trái thanh long để xuất khẩu, người dân ai nấy cũng phấn khởi. Họ hy vọng mô hình sẽ thành công, sẽ được nhân rộng ra toàn huyện, thì cây thanh long sẽ tiếp tục giúp người dân làm giàu như thời gian trước đây.
“Mô hình này sẽ được triển khai thực hiện chặt chẽ. Đây là hướng đi lâu dài, bền vững cho sự phát triển của cây thanh long. Tất cả cùng đồng lòng làm thì tôi tin là sẽ thành công. Cái khó nhất là làm sao để cho dân mình thấy được chất lượng trái thanh long là hàng đầu, rồi liên kết lại cùng làm thì mới được, chứ sản xuất với cách cũ như lâu nay thì rất khó thành công”, Bí thư Huyện ủy Châu Thành Lê Quốc Dũng, nhấn mạnh.
Hiện nay, diện tích trồng thanh long của Long An có hơn 10.000ha, riêng huyện Châu Thành chiếm hơn 9.000ha, trong số này có hơn 800ha được cấp giấy chứng nhận VietGAP. Tuy nhiên, theo lãnh đạo huyện Châu Thành, dù đã triển khai ứng dụng công nghệ cao, làm chuẩn quy trình VietGAP, GlobalGAP cho vùng trồng thanh long, nhưng việc vận động nông dân nâng cao chất lượng trái thanh long còn gặp nhiều khó khăn. |
Th1125
Trái cây miền Tây sẽ “ngọt hơn”
Nguồn tin: báo Sài Gòn Giải Phóng
Nhà vườn ĐBSCL đang tranh thủ cơ hội để cải thiện chất lượng trái cây, tạo sự cạnh tranh với trái cây ngoại tại thị trường nội địa. Đồng thời, từng bước áp dụng các quy trình sản xuất nghiêm ngặt để nắm bắt cơ hội xuất khẩu.
Bưởi da xanh Bến Tre lần đầu tiên được xuất sang thị trường Mỹ. Ảnh: TÍN HUY
Những tuần qua, nhiều nhà vườn tại thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang trúng đậm mùa xoài cát Hòa Lộc, xoài keo. Với 3,2ha xoài, ông Chín Tươi (xã Vĩnh Xương, thị xã Tân Châu) đang thu hoạch xoài keo bán cho thương lái tại vườn với giá từ 8.000-14.000 đồng/kg, lợi nhuận cầm chắc vài trăm triệu đồng. Hàng chục nhà vườn ở xã Vĩnh Xương cũng thu hoạch xoài cát Hòa Lộc bán cho thương lái với giá 30.000 đồng/kg. Năng suất xoài cát Hòa Lộc từ 5-6 tấn/ha, nếu mức giá duy trì như hiện nay, nhiều nhà vườn có lãi đáng kể… Hiện, thị xã Tân Châu có gần 700ha trồng xoài, tập trung ở hai xã biên giới Vĩnh Xương, Phú Lộc…
Không chỉ ở An Giang, nhiều nhà vườn ở Đồng Tháp cũng đang có những bước tiến trong tiếp cận sản xuất xoài gắn với mã số vùng trổng để cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Hiện Đồng Tháp có gần 42.000ha trồng trái cây thì xoài chiếm 1/3 diện tích với khoảng 14.000ha, trong đó có hơn 300 mã số vùng trồng gắn với gần 6.000ha xoài. Đây cũng là vùng trồng chuyên xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, châu Âu, Trung Quốc… Theo ông Lê Quốc Điền, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Tháp, mục tiêu phát triển ngành hàng xoài Đồng Tháp vừa tháo gỡ các điểm nghẽn kỹ thuật, vừa thực hiện phát triển theo chuỗi giá trị ngành hàng, gia tăng chế biến sâu, chế biến công nghệ cao nhằm tăng giá trị sản phẩm.
Bên cạnh đó, nhiều nhà vườn ĐBSCL đang tập trung sản xuất theo hướng đạt các chuẩn VietGAP, GlobalGAP để xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc và các thị trường khó tính khác. Mới đây, thông tin bưởi da xanh chuẩn bị xuất khẩu theo đường chính ngạch sang thị trường Mỹ đã mở ra một cơ hội mới cho nhà vườn miền Tây. Bưởi da xanh là loại trái cây có diện tích tăng nhanh trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, hiện có gần 5.000ha. Ngành nông nghiệp Tiền Giang đã hình thành vùng chuyên canh cây ăn trái tập trung với sản lượng lớn, cung cấp cho thị trường. Tại xã Tân Mỹ Chánh, TP Mỹ Tho, đã có hơn 120ha bưởi trồng theo tiêu chuẩn VietGAP và doanh nghiệp bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Hiện ngành chức năng địa phương đang khuyến khích người dân chuyển đổi sang trồng bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP, công nghệ cao hướng tới xuất khẩu…
Tại Bến Tre, dự kiến cuối tháng 11-2022 sẽ xuất khẩu lô bưởi da xanh đầu tiên sang thị trường Mỹ. Theo bà Nguyễn Thị Hồng Thu, Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu (huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre), công ty phải mất 5 năm liên kết, phối hợp với 5 HTX sản xuất bưởi trên địa bàn tỉnh sản xuất theo chuẩn VietGAP. Dự kiến, công ty sẽ xuất khoảng 40 tấn bưởi sang thị trường Mỹ. Như vậy, bưởi da xanh Bến Tre là trái cây đầu tiên của ĐBSCL được xuất sang thị trường Mỹ. Trước đó, các loại trái cây của vùng ĐBSCL như xoài, nhãn, vải, thanh long, chôm chôm và vú sữa cũng được xuất sang những thị trường khó tính ở châu Âu. Theo ông Lâm Văn Lĩnh, Chi Cục phó Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Bến Tre, sự liên kết với nông dân, HTX xây dựng mã vùng trồng là câu chuyện sống còn của doanh nghiệp trong thời gian tới để đáp ứng các hàng rào kỹ thuật qua các tiêu chuẩn chất lượng. Trong đó tiêu chuẩn đầu tiên là thực hành nông nghiệp tốt và có mã vùng trồng rõ ràng để tăng thêm cơ hội xuất khẩu trái cây sang nhiều nước.
Theo Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), không ít diện tích trái cây ở ĐBSCL tăng thêm là chuyển từ đất lúa kém hiệu quả. Từ đầu năm đến nay, ĐBSCL có 73.530ha đất lúa chuyển đổi sang cây trồng khác, chủ yếu là cây ăn trái. Hiện nay cả nước có khoảng 1,13 triệu ha cây ăn trái, riêng ĐBSCL có 377.700ha, chiếm 1/3 diện tích. Cây ăn trái ở ĐBSCL đa dạng, mùa nào cũng có thu hoạch; trong đó, các đối tượng cây trồng chủ lực như sầu riêng, thanh long, xoài, chôm chôm, nhãn, bưởi, cam, mít, chuối, chanh… được nông dân đẩy mạnh đầu tư sản xuất và đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn.
Theo Bộ NN-PTNT, trong 10 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông sản chính đạt trên 18,8 tỷ USD, tăng 7,2%. Có 8 sản phẩm/nhóm sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD, trong đó riêng nhóm hàng trái cây đạt gần 2,8 tỷ USD. |
Th1123
Ứng dụng công nghệ cao trồng măng tây xanh
Nguồn tin: báo nông nghiệp
NINH THUẬN Do hội tụ nhiều thành phần dinh dưỡng, nên cây măng tây xanh được giới ẩm thực gọi là “rau vua”. Măng tây còn là cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Để cây măng tây xanh phát triển trên vùng đất Nam Trung bộ theo hướng bền vững, Viện nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố (Viện Nha Hố) đã xây dựng mô hình trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao tại 2 tỉnh Ninh Thuận và Khánh Hòa với diện tích 5ha.
Mô hình trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao của Viện Nha Hố đem lại hiệu quả kinh tế vượt trội. Ảnh: Minh Hậu.
Từ tháng 8/2018 đến tháng 12/2020, các mô hình trồng thử nghiệm để hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao tại khu vực Nam Trung bộ đã được triển khai. Theo đó, đã xác định bộ giống măng tây xanh năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện sản xuất trong khu vực. Bên cạnh đó, xác định loại phân hữu cơ sản xuất trong nước phù hợp cho trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao, xác định liều lượng bón và thời kỳ bón phân phù hợp, kết hợp kỹ thuật tưới nước nhỏ giọt tự động trên ruộng măng tây xanh.
Song song đó, xác định các biện pháp kỹ thuật giữ ẩm đất cho trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao trên vùng đất thành phần cơ giới nhẹ; kỹ thuật cắt ngọn và tỉa chồi thay thế cây mẹ phù hợp cho trồng măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao giai đoạn kinh doanh, kỹ thuật quản lý dịch hại trên đồng măng tây.
Ngoài ra, Viện Nha Hố cũng đã hoàn thiện quy trình kỹ thuật thu hái và bảo quản măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao cho vùng Nam Trung bộ. Qua đó, xác định thời gian thu hoạch măng tây xanh thương phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm, năng suất và chất lượng măng cao nhất; các loại màng để bảo quản măng tây xanh thương phẩm thích hợp.
Sau khi hoàn thiện quy trình, trong năm 2019 và 2020, Viện Nha Hố đã mở 6 lớp tập huấn kỹ thuật tại huyện Ninh Sơn, huyện Ninh Phước, TP Phan Rang – Tháp Chàm (Ninh Thuận) và HTX Măng tây Ninh Hoà (Khánh Hoà). Thông qua các lớp đào tạo, tập huấn, nông dân được chuyển giao quy trình trồng và chăm sóc cây măng tây ứng dụng công nghệ cao, đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Trong năm 2020, Viện còn mở thêm 2 lớp đào tạo tại xã Nhơn Sơn (huyện Ninh Sơn) và phường Mỹ Hải (TP Phan Rang – Tháp Chàm) về áp dụng VietGAP cho cây măng tây. Qua đó, nông dân được đào tạo sản xuất cây măng tây theo VietGAP, các biểu mẫu và cách ghi chép, lưu giữ các thông tin trong quá trình sản xuất măng tây.
Theo TS Mai văn Hào, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố, áp dụng quy trình sản xuất cây giống măng tây xanh nhân bằng hạt mới giúp giảm chi phí đầu tư cho giống khoảng 50%, từ đó góp phần phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, thu nhập cho người dân địa phương.
Áp dụng quy trình canh tác, thu hái và bảo quản măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao giúp tiết kiệm phân bón, tiết kiệm nước tưới, phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu tại khu vực Nam Trung bộ. Đồng thời, hạn chế dùng thuốc BVTV có độ độc cao, góp phần bảo vệ nguồn thiên địch, giảm độc hại đối với người sản xuất và người tiêu dùng, giảm ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, quy trình thu hái và bảo quản măng tây thích hợp giúp tăng thời gian bảo quản, góp phần tăng tính chủ động về sản phẩm măng tây xanh phục vụ thị trường, tạo điều kiện phát triển sản xuất măng tây xanh ngày càng ổn định, có hiệu quả.
“Kết quả triển khai dự án sẽ là tiền đề định hướng phát triển vùng trồng măng tây xanh trong những năm tới trên địa bàn các tỉnh khu vực Nam Trung bộ. Đồng thời, giúp người dân tiếp thu và ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển vùng chuyên canh trồng măng tây xanh, giải quyết lao động, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người dân”, TS Mai Văn Hào chia sẻ.
Trong hơn 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã sản xuất trên 330.000 cây giống măng tây xanh cung cấp cho trồng thử nghiệm và sản xuất. Từ đó, người trồng măng tây đã sản xuất và cung ứng cho thị trường trên 120 tấn măng tây thương phẩm.
Từ kết quả nghiên cứu, hiện nay, để giảm giá thành sản xuất trong bối cảnh thiếu nhân công lao động, Viện Nha Hố đang tiếp tục triển khai mô hình nghiên cứu sản xuất măng tây xanh bón phân qua hệ thống tưới nước tiết kiệm, đồng thời dùng nguồn điện mặt trời để vận hành máy bơm. Bên cạnh đó, để giải quyết cỏ dại và giữ ẩm cho đất trồng măng tây xanh, Viện đã dùng nilon phủ hai bên luống…
Th1206